Đề tài Hội nhập về kinh tế quốc tế ở Việt Nam

Tuy nhiên, hội nhập kinh tế quốc tế, đối với Việt Nam không chỉ có cơ hội thuận lợi, mà lớn hơn nữa chính là những khó khăn, thách thức. Chúng ta cần phải đề ra những quyết sách mở cửa, hợp tác, hội nhập với khu vực nhằm đạt hiệu quả cao, đẩy nhanh thời gian cần thiết để có thể hội nhập. Và Việt Nam hoàn toàn có thể tin tưởng ở vị trí ngày càng cao trên trường quốc tế và khu vực do phát huy tốt nội lực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Trong quá trình viết đề án về đề tài này, do hạn chế về trình độ chuyên môn, nhận thức của bản thân và tài liệu tham khảo không nhiều nên bài viết không tránh khỏi những hạn chế nhất định. Em mong nhận được sự giúp đỡ và chỉ dẫn của thầy giáo về những sai sót trong quá trình viết bài của em để bài viết được hoàn chỉnh hơn.

doc48 trang | Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1632 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hội nhập về kinh tế quốc tế ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c cung cấp sản phẩm và dịch vụ có chất lượng cao,nên làm thế nào để sản phẩm và dịch vụ Việt Nam có thể đứng vững trên thị trường ở thị trường các nước trong khu vực cũng như trên thế giới khi hàng rào thuế quan được bãi bỏ và thay vào đó là hàng rào kỹ thuật .Đó là một thách thức lớn đối với các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay. Hơn lúc nào hết,các doanh nghiệp Việt Nam đã cảm nhận được áp lực ngày càng tăng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.Lúc này ,các chiến lược cạnh tranh về giá sẽ dần không còn phù hợp nữa,đặc biệt là khi Trung Quốc gia nhập WTO thì ưu thế cạnh tranh về giá nhân công rẻ ở Việt Nam sẽ không còn,và như vậy,giải pháp khả thi cho các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay chính là cạnh tanh bằng chất lượng .Có thể nói,chỉ có cạnh tranh về chất lượng mới có thể đảm bảo sự tồn tại và phát triển lâu dài của cácdoanh nhiệp. Nói cách khác, trong bối cảnh hiện nay, để có thể hội nhập về kinh tế với các nước trong khu vực và trên thế giới, đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam phải định hướng vào việc giải quyết vấn đề về chất lượng. 12 Thương mại Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế. Quá trình “đổi mới” kinh tế ở Việt Nam được khởi đầu từ năm 1986 đến nay đã đạt được những thành tựu quan trọng. Trong đó đa dạng hoá và đa phương hoá các mối quan hệ với nước ngoài là một trong những thành tưụ nổi bật của chính sách đổi mới. Song song với việc không ngừng mở rộng thị trường và thúc đẩy các hoạt động hoạt động xuât nhập khẩu, tronh nhiều năm qua Việt Nam đã có nhiều những đổi mới rất cơ bản trong chính sách và ccơ chế thương mại. Từ 1988 cho đến nay, Việt Nam đã thực hiện nhiều cải cách tự do hoá tronh nội thương và ngoại thương. Cơ chế điều hành xuất nhập khẩu cũng đã có nhiều thay theo chiều hướng tích cực như mở rộng các điều kiện ưu đãi về xuất khẩu, việc điều chỉnh tỷ giá đồng Việt Nam với các ngoại tệ mạnh cá linh hoạt hơn. Tuy nhiên Việt Nam vẫn cần tiếp tục cải cách các chính sách và các quy định liên quan đến thương mại quốc tế nhất là về thuế, thuế quan và hàng rào phi thuế quan... Cùng với những thủ tục hành chính rườm rà tronhnhiều khâu đặc biệt là hải quan .. theo hướng đơn giản thuận lợi cho các hoạt động thương mại quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế mạnh mẽ chắc chắn sẽ đem lại cho Việt Nam nhiều lợi ích, mở ra nhiều hợp tác song phương, đa phương trong lĩnh vực phát triển thương mại, thu hút đầu tư chuyển giao công nghệ kinh nghiệm quản lý ... Giúp cho Việt Nam tham gia tích cực hơn vào sự tham gia quốc tế và cơ chế hợp tác trong quá trình toàn cầu hoá. Bên cạnh những thuận lợi,Việt Nam cũng đang đứng trước những thách thức lớn trước hết là hoạch định chính sách kinh tế thương mại ở tầm vĩ mô làm sao để nền kinh tế phát triển bền vững trong một môi trường kinh doanh ổn định. Bộ máy hành chính và quản lý kinh tế thương mại phải được cơ cấu lại cho gọn nhẹ, phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu mới về kỹ năng công nghệ và kinh nghiệm quản lý. Những ưu tiên hàng đầu có tầm quan trọng đặc biệt là phải nhanh chóng xây dựng chiến lược, điều chỉnh cơ cấu và nâng cao năng lực cạnh tranh. Thách thức và khó khăn rõ ràng là rất lớn, song Việt đã đang và sẽ nỗ lực để thực hiện những cam kết song phương và đa phương, đưa thương mại Việt Nam sang một giai đoạn phát triển mới trong thế kỷ XXI. II. Thực trạng của sự hội nhập của kinh tế Việt Nam. Những thách thức của quá trình hội nhập. Mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ đem lại lợi ích mà còn đặt nước ta trước nhiều thách thức, nếu chúng ta không có biện pháp tốt để vượt qua thì sự thua thiệt cả về kinh tế và xã hội có thể rất lớn. Nền kinh tế nước ta có điểm xuất phát thấp. Trải qua những cuộc chiến tranh lâu dài, khốc liệt và cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, Việt Nam tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với xuất phát điểm thấp về trình độ phát triển kinh tế. Điều đó không chỉ thể hiện ở GDP bình quân đầu người thấp, tiết kiệm thấp tích luỹ và thu nhập bình quân đầu người chưa cao, mà còn ở cả cơ cấu nghành của nền kinh tế, cả ở trình độ phát triển cơ cấu ngành của nền kinh tế, cả ở trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và công nghệ sản xuất còn rất thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, tỷ lệ tích luỹ và đầu tư cao cơ sở hạ tầng khá phát triển và một khu vực kinh tế năng động...lại tham gia vào quá trình hội nhập trước chúng ta vài thập kỷ , các nước trong khu vực đã phát triển mạnh mẽ liên tục tuy có gặp khủng hoảng tronh thời gian vừa qua nhưng đã trở lại phát triển nhanh đang làm tăng nguy cơ tụt hậu của nền kinh tế Việt Nam so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Năng lực kỹ thuật công nghệ của nền kinh tế Việt Nam rất lạc hậu so vớ i thế giới, vì vậy hàng hóa sản xuất ra không có năng lực canh tranh trên thị trường thế giới và thậm chí ngay trên thị trường nội địa. Nếu Việt Nam không nhanh chóng đổi mới thiết bị công nghệ, đổi mới cơ chế quản lý, nâng cao chất lượng hàng hoá hạ giá thành sản phẩm nâng cao khả năng cạnh tranh hàng hoá thì sẽ có hàng loạt doanh nghiệp phá sản gây nên hậu quả nguy hại về kinh tế xã hội. 1.2. Giữ vững độc lập tự chủ . Do tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực nước ta phải giảm thuế quan và dỡ bỏ hàng rào phi thuế quan, thì hngf hoá nước ngoài sẽ ào ạt đổ vào nước ta, chèn ép nhiều đơn vị sản xuất kinh doanh, trong nước kéo theo hệ quả xấu về việc làm và đời sống của lao động. Do đó nên chúng mở rộng quan hệ với các nước đang phát triển hơn hẳn về nhiều mặt, thì nước ta sẽ khó tránh khỏi bị lệ thuộc về kinh tế, và tè chỗ không giữ vững được kinh tế mà có thể đi đến chỗ không giữ vững được quyền độc lập, tự chủ nữa. Để hoá giải vấn đề này cần có cách nhìn theo quan điểm mới: cần nhận rõ độc lập tự chủ về thực chất là mỗi nước tự lựa chọn con đường và mô hình phát triển của mình, tự quyết định các chủ trương và các chính sách kinh tế- xã hội, tự đề ra mục tiêu chiến lược và kế hoạch trong thời kỳ và các biện pháp thực hiện các mục tiêu đó. Nhưng độc lập tự chủ hoàn toàn không có nghĩa là đóng cửa với thế giới. Việc mở rộng hợp tác kinh tế hai bên cùng có lợi giữa nước ta với các nước, các tổ chức quốc tế, sẽ tạo nên một hình thái đan xen lợi ích với nhau, do đó mà chúng ta có thêm thế lực để giữ vững độc lập tự chủ của đất nước. Đặc biệt khi thực hiện phương châm “đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại”, chúng ta sẽ thúc đẩy việc hình thnàh nên một hệ thống chằng chịt các mối quan hệ quốc tế để hạn chế và đẩy lùi âm mưu hành động của một số thế lực nào đó buộc chúng ta phải phụ thuộc thái quá vào họ. 1.3 Giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc. Một thách nữa không kếm phần quan trọng được đặt đối với chúng ta trong tiến trình mở cửa và hội nhập quốc tế là làm sao giữ gìn được bản sắc văn hoá dân tộc đảm bảo cho sự phát triển hài hoà và lành mạnh của đất nước. Đứng trước tình hình đó chúng ta không thể lui về chính sách đóng cửa, khước từ trao đổi, giao lưu với nước ngoài. Trái lại với bản lĩnh của dân tộc trong quá trình giao lưu văn hoá với thế giới suốt mấy ngàn năm, chúng ta có thể vững tin vàchủ động lựa chọn, tiếp thu các yếu tố nhân bản hợp lý, khoa học tiến bộ của văn hoá các nước cả ở phương Đông va phương Tây để làm giàu thêm bản sắc văn hoá dân tộc cực kỳ quan trọng khơi dậy các tiềm năng sáng tạo làm nên những giá trị vật chất và tinh thần mới trong công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Đồng thời, chúng ta kiên quyết phản đối sự tiếp nhận xô bồ mọi thứ gọi là “tân kỳ” của văn hoá ngoại lai mà không phân biệt hay dở tốt xấu để đi đến chỗ mất gốc và lai căng về văn hoá, gây hậu quả xấu về tư tưởng, đạo đức, lối sống của các tầng lớp dân cư. Tóm lại, chỉ có trên cơ sởgiữ gìn phát huy những giá trị ưu tú của văn hoá dân tộc, đi đôi với tiếp thu tinh hoa văn hoá của nhân loại thì văn hoá Việt Nam ngày nay mới có thể đóng được vai trò vừa là mục tiêu vừa là động lực và hệ điều tiết của sự phát triển kinh tế xã hội. Một số vấn đề đặt ra trong quan hệ hợp tác kinh tế – Việt Nam và khu vực. 2.1. Trong hoạt động xuất nhập khẩu và thu hút FDI, mức độ lệ thuộc của Việt Nam vào một khu vực thị trường là quá cao. Trên quan điểm thị trường, sự lệ thuộc này bao hàm một mức độ rủi ro tiềm năng cao của chiến lược phát triển hướng ngoại. Vấn đề đặt ra là Việt Nam cần mau chóng mở rộng thị trường với các quốc gia với các khu vực khác. Việt Nam đã có thị trường truyền thống thuộc các nước Đông Âu và thị trường Tây Âu và đặc biệt với Mỹ là một đối tác mạnh, cần phải tạo mức tăng trưởng xuất khẩu cao hơn so với những năm qua. Trong bối cảnh toàn cầu và khu vực không ổn định và nền kinh tế Việt Nam cũng đang gặp những khó khăn đáng kể trong việc mở rộng thị trường xuất khẩu, sự gia tăng xuất khẩu quả thực sẽ có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc tạo ra một sức thúc đẩy phát triển mới cho nền kinh tế Việt Nam. Về vấn đề này, kinh nghiệm quốc tế cũng đã chỉ ra những bài học bổ ích. Trong lịch sử không ai bác bỏ được rằng thành tích tăng trưởng cao lâu bền đến mức thần kỳ của các nền kinh tế Đông á, từ Nhật Bản cho đến Hàn Quốc, Đài Loan hay gần đây hơn là Thái Lan đều có sự đóng góp to lớn của sự hỗ trợ của thị trường Mỹ đối việc thực thi chiến lược tăng trưởng vào xuất khẩu mà các nền kinh tế này theo đuổi. Ngay cả sự tăng trưởng kỳ diệu cuả nền kinh tế Trung Quốc trong khoảng hai thập niên gần đây cũng có phần quan trọng bắt nguồn từ yếu tố khai thông với thị trường Mỹ. Đây là một gợi ý thực tiễn rất đáng lưu tâm khi hoạch định và thực thi các chiến lược về thị trường và đối tác thương mại, trong khuôn khổ chiến lược tổng thể tăng trưởng hướng về xuất khẩu của Việt Nam trong giai đoạn tới. 2.2 Với sức cạnh tranh sản phẩm còn quá thấp so với yêu cầu của việc mở cửa và hội nhập. Việt Nam hiện đã là thành viên của khu vưc thương mại tự do ASEAN(AFTA). Năm 2006 là thời điểm Việt Nam cam kết thực hiện đầy đủ các quy định của AFTA( bãi bỏ hàng rào phi thuế quan và hạ thấp mức thuế quan xuống còn 0- 5% cho đa số các hàng hoá trao đổi trong khu vực). Điều đó có nghĩa là Việt Nam chấp nhận cuộc chơi cạnh tranh thị trường bằng các luật lệ ngang bằngvới các nền kinh tế phát triển hơn và có sức cạnh tranh mạnh hơn trong khu vực. Xuất phát từ tương quan cạnh tranh giữa các nền kinh tế thành viên AFTA trong giai đoạn tớ, có thể nói vượt qua tình huống trên là một thách thức rất lớn đối với nền kinh tế Việt Nam nói chung và đối với các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng. Trong khi đó vì hàng loạt lý do, quá trình nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế của các sản phẩm Việt Nam nhìn chung diễn ra rất chậm. Với xu hướng cơ cấu nghiêng về các dự án sử dụng nhiều vốn hơn là nhiều lao động, tức là lãng phí lợi thế cạnh tranh lớn nhất cảu nước ta hiện nay là nguồn lao động rồi rào và rẻ, năng suất lao động và hiệu quả sử dụng vốn thấp, cơ chế thị trường lại chưa có điều kiện để phát huy đầy dủ tác dụng thúc đẩy... Phải thừa nhận rằng sức cạnh tranh của các sản phẩm Việt Nam được cải thiện với tốc độ còn xa mới đáp ứng được yêu cầu của việc mở cửa và hội nhập đặt ra. Khó khăn này không chỉ đặt ra đối việc cạnh tranh xuất khẩu trên thị trường quốc tế, mà ngay cả trên thị trường nội địa, nó cũng không thể được khắc phục nhanh chóng trong một sớm một chiều. Sức cạnh tranh là một điểm sinh tử sủa toàn bộ quá trình mở cửa hội nhập quốc tế của Việt Nam. Để vượt qua thách thức này vấn đề đặt ra đối với cả cấp vĩ mô và vi mô cả ở phương diện cơ cấu tổng thể lẫn từng nghành từng đơn vị là phải nâng cao năng suất, chất lượng, trình độ hoạt động, nâng cao trình độ kỹ thuật. 2.3. Việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt hiệu quả chưa cao. Theo một định nghĩa xác định, có sự tương đồng nhiều mặt về cơ cấu kinh tế giữa Việt Nam và đa số các nước trong khu vực, đồng thời sự chênh lệch không quá lớn về trình độ phát triển, nhất là với các nước thuộc nhóm ASEAN-4, làm cho trong quan hệ đối khu vực, Việt Nam không chỉ là đối tác hợp tác mà còn là đối thủ cạnh tranh tiềm năng của họ. Điều này có ảnh hưởng đến tính chất và đặc điểm của hoạt động đầu tư vào Việt Nam của các nước trong khu vực. Vì lý do đó, sau hơn một năm thu út FDI. Có thể nhận thấy rõ sự bất tương xứng khối lượng vốn đầu tư với năng lực cải biến kỹ thuật cho nền kinh tế của nó. Để làm rõ thực chất của vấn đề, không thể không tháy rằng nguyên nhân của tình hình không chỉ là từ phía các nhà đầu tư nước ngoài. Trong không ít trường hợp nó liên quan mật thiết đến môi trường đầu tư và môii trường kinh doanh của Việt Nam. Sự rườm rà về thủ tục nhưng không đủ nghiêm ngặt trong các hợp đồng về phương diện kỹ thuật, khung pháp lý chưa hoàn thiện và bị lỏng trong khâu giám sát thực hiện, môi trường kinh doanh chưa thuận lợi, còn mang tính phân biệt đối xử giữa các thành phần và phẩm chất yếu kém của cán bộ Việt Nam trong hoạt động quản lý và điều hành các liên doanh, trình độ lao động còn thấp ... Làm cho quá trình thu hút đầu tư và tiếp nhận nhuyển giao công nghệ không thể đạt được mục tiêu như dự định. 3.Những vấn đề đặt ra về an ninh kinh tế khi Việt Nam tham gia hội nhập kinh tế quốc tế. 3.1. Cơ cấu ngoại thương không hợp lý gây khó khăn cho việc chống đỡ các tác động tiêu cực từ bên ngoài. Trong thời kỳ đổi mới kinh tế vừa qua, cùng với sự điều chỉnh nền kinh tế và chiến lược ngoại thương, cơ cấu hàng xuất khẩu cũng có sự thay đổi. Tuy nhiên đến nay hàng xuất khẩu chủ yếu là sản phẩm thô chưa được chế biến hoặc chỉ được sơ chế. VD: dầu thô vẫn chiếm 17,5% gạo chiếm 9%, cà phê chiếm 5%, hỉa sản chiếm 8,5% trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Các sản phẩm công nghiệp vẫn là các sản phẩm có hàm lượng lao động cao như dệt may(14.6 %) giầy dép (12,2%) trong kim ngạch xuất khẩu. Các mặt hàng có kỹ thuật công nghệ cao đã bước đàu được chú ý tuy nhiên tỷ trọng vẫn thấp. Sức cạnh tranh vẫn dựa vào số lượng chứ chưa dựa vào chất lượng của sản phẩm. Vì vậy giá cả hàng xuất khẩu của hàng Việt Nam thường bị chèn ép trên thị trường và thường rẻ hơn từ 10-20% với giá thành bình quân trên thế giới. Ngoài ra, do được hưởng ưu đãi về thuế và lợi tức, về các chi phí sản xuất và xác định thu nhập chịu thuế, về thuế nhập khẩu ... Khi các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang dần chiếm phần lớn thị trường trong nước, tạo sức ép lớn đối sản phẩm nội địa. Một mặt nó buộc các doanh nghiệp trong nước phải tích cực đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng, hạ giá thnàh sản phẩm để tăng cường sức cạnh tranh; mặt khác do môi trường cạnh tranh không bình đẳng đã hạn chế sự phát triển của doanh nghiệp trong nước, đẩy nó tới nguy cơ mất an toàn thực sự. 3.2. Các cơ chế của nền kinh tế thị trường vẫn còn ở mức sơ khai. Trong thời gian qua nền kinh tế Việt Nam đã chuyển biến mạnh mẽ theo hướng nền kinh tế thị trường, tuy nhiên các cơ chế còn ở mức sơ khai( dặc biệt các cơ chế trong thị trường tài chính, thị trường chứng khoán, thị trường vốn thị trường bất động sản...) Hệ thống luật pháp quản lý xã hội, quản lý xã hội chưa được điều chỉnh tương ứng với sự phát triên của nền kinh tế đang chuyển sang cơ chế thị trường, chưa phù hợp với thông lệ và tập quán quốc tế. Chính điều này đã tạo ra tình trạng đầu cơ buôn lậu, phá rối thị trường trong nước, ép các doanh nghiệp nội địa; một số lợi dụng kẽ hở của pháp luật để thự hiện tham nhũng, tuỳ tiện lạm dụng vốn, thực hiện giao dịch về tiền tệ gây thất thoát vốn của các ngân hàng. Ngoài ra còn nhiều công cụ tài chính của nền kinh tế thị trường chưa được áp dụng tại Việt Nam do thị trường tài chính Việt Nam chưa phát triển đầy đủ, thị trường chứng khoán đang hình thành, các loại trái phiếu cổ phiếu và các loại giấy tờ có giá trị khác của Việt Nam đang được thí điểm phát hành trên thị trường thế giới. Hệ thống tài chính ngân hàng Việt Nam tuy đã được cải cách, nhưng vẫn rất yếu kém, chưa xoá bỏ dược thói quen của thời kỳ bao cấp, không thích ứng kịp thời vói những thay đổi của nền kinh tế. Hơn nữa, nhận thức về hội nhập và các công việc chuẩn bị cho hội nhập quốc tế ở các doanh nghiệp và giưoí doanh nhân còn rất hạn chế chưa sẵn sàng trong việc tận dụng cơ hội của việc hội nhập kinh tế quốc tế và đứng vững trong cạnh tranh khốc liệt trên thị trường trong nước và quốc tế. 4.Những nguy cơ tiềm ẩn đe doạ nền độc lập tự chủ kinh tế quốc gia. Cơ bản nền kinh tế Việt Nam hiện nay lạc hậu về khoa học kỹ thuật nhiều chục năm với các nước công nghiệp phát triển sản xuất xuất khẩu của ta chủ yếu gồm các khoáng sản thô và các mặt hàng công nghiệp thứ cấp, khi sản xuất phải nhập khẩu máy và vật tư phụ tùng. Trong nhiều năm hàng hoá của Việt Nam như gạo, cà phê, cao su hàng may mặc không xuất khẩu được hết trên thị trường thế giới, khiến cho gía sụt và làm giảm thu nhập của công nhân nông dân trong các ngành liên quan. Trong khi đó nhập khẩu lại hướng về máy các vật tư, linh kiện rồi các hàng tiêu dùng cao cấp với giá rất đắt. Tình hình này làm vị thế của ta trên thị trường quốc tế yếu đi và dẫn đến nhiều nguy cơ lớn về kinh tế tài chính. Nguy cơ bán rẻ và có phải trả giá cao, tỷ giao hoán bất lợi, xuất phát từ việc xuất khẩu nông khoáng sản thuêgiá rẻ và nhập khẩu hàng cao cấp giá cao. Sẹ thiệt thòi triền miên năm này qua năm khác, mỗi năm tiêu tốn nhiều tỷ USD khiến cho nước ta nghèo càng nghèo thêm. Nợ quốc tế gia tăng vớitốc độ nhanh hàng năm và đến một mức nào đó, có thể dẫn đến tình khủng hoảng tài chính- tiền tệ như đã xảy ra tại Thái Lan ít hơn nhiều, nhưng bài học Thái Lan cho thấy là nợ quốc tế tăng có thể đưa đến việc ngân hàng trung ương không còn khả năng thanh toán quốc tế, đặc biệt là trang trải nhập khẩu thông thường và lúc bấy giờ sẽ xảy ra khủng hoảng tài chính tiền tệ. Hội nhập quốc té giúp Việt Nam tranh thủ kỹ thuật, khoa học, vốn quốc tế. Tuy nhiên các công ty nước ngoài chỉ đầu tư ở Việt Nam nếu họ có lợi.Như vậy,chúng ta ở trong thế yếu,chỉ có khả năng hạn chế họ ất lợ mà thôi,nhưng nếu đàu tư mầ chỉ thu được lợi ít,họ sẽ ngừng hay giới hạn lượng đầu tư. Kinh nhgiệm cho thấy,trong thập niên 90 những thiét bị được đầu tư ở Việt Nam thưường là nhưũng thiết bị cũ,thị phần các doanh nghiệp Việt Nam giảm nhanh trong khi thị phần các công ty có cốn nước ngoài tăng nhanh,nhiều công ty phía Việt Nam có phần hùn khoản 30% nhờ phần đóng góp mặt bằng,nhà đất đã chuyển thành công ty có vốn nước ngoài 100% do nhiều lý do,trong đó lý do phía nước ngoài đề nghị tăng vốn nhưng bên Việt Nam không có khả năng đáp ứng . Nếu tình hình này tiếp tục,người nước ngoài sẽ làm chủ dần hầu hết các doanh nghiệp lớn ở Việt Nam .Khi ấy,sẽ khó giữ được độc lập tự chủ,kinh tế quốc gia gây ra tình cảnh lệ thuộc vào nước ngoài. 5.Thực trạng các doanh nghiệp vừa và nhỏ Theo ước tính của viện quản lý kinh tế trung ương,xét theo tiêu chí về vốn(dưới 5 tỷ đồng)thì có 88,2% trong tổng số doanh nghiệp là doanh nghiệp vừa và nhỏ.Trong đó,đối với khu vực thuần tuý Việt Nam thì tỷ lệ này là 89,5% và khu vực doanh nghiệp có vốn đàu tư nước ngoài là 33,6%.Thách thức lớn nhất của các doanh nghiệp vừa và nhỏ và các nhà quản lý kinh tế Việt Nam ,đặc biệt trong điều kiện nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi theo lộ trình AFTA và WTO là làm thế nào để các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể cạnh tranh được với các công ty ,tập đoàn xuyên quốc gia khi chúng ta thực hiện các cam kết của các tổ chức này.Trong khi đó,các doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp phải những khó khăn ,một phần xuất phát từ chính bản thân các doanh nghiệp và một phần từ cơ chế chính sách của Nhà nước. 5.1 Về tình hình sản xuất kinh doanh. Theo đánh giá của phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam thì tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong một vài năm trở lại đay đều cho thấy sự giảm sút .Điều này cho thấy,nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ đang trong tình trạng khó khăn.Bên cạnh yếu tố trượt giá và tăng tỷ giá ngoại tệ,và việc phát triển chậm của nền kinh tế ,các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn thiếu chủ động trong hoạt động sản xuất kinh doanh ,tìm kiếm thị trường tiêu thụ,cũng như nguồn lực đầu vào.Trong khi đó,vốn cũng là vấn đề nhức nhốicủa các doanh nghiệp vừa và nhỏ nước ta,có đến 55% doanh nghiệp thiếu vốn.Bởi lẽ,do nguồn vốn của các doanh nghiệp bị hạn chế,lại chủ yếu vay mượn từ kênh tài chính phi chính thức.Mặt khác điều kiện tham gia thị trường chứng khoán của nước ta đã loại các doanh nghiệp vừa và nhỏ ra khỏi cuộc chơi.Đa số các doanh nghiệp vừa và nhỏ khi tiếp cận với khu vực tài chính đêv gặp khó khăn và hạn chế lớn như :không đủ tài sản thế chấp,không có sự bào hộ của các tổ chức đại diện,lãi suất cao,khối lượng ít,thời hạn ngắn...ngoài ra,xem xét những yếu tố ảnh hưởng lớn đến hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ thì đa số các doanh nghiệp này đều không có thị trường tiêu thụ ổn định,đặc biệt là thị trường xuất khầu hạn chế.Điều này lý giải là do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính trong khu vực vừa qua,tuy nhiên rõ ràng nó đã thể hiện sự yếu kém và khả năng cạnh tranh không caocủa các doanh nghiệp vừa và nhỏ nước ta. 5.2 Về công nghệ, thiết bị và kiến thức, tay gnhề của lực lượng lao động và đội gũ quản lý. Nhìn chung, tronh những năm qua các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta đã đổi mới công nghệ ở mức độ nhất định, điều này hoàn toàn hợp lý. Công nghệ là yếu tố quyết định tưói năng suất, chất lượng của sản phẩm, giú các doanh nghiệp có thể cậnh tranh được trên thị trường. Tuy nhiên nguồn vốn tài chính bị giới hạn không cho phép các doanh nghiệp có thể tự mình đổi mới cũng như áp dụng mạnh mẽ công nghệ, kỹ thuật tiên tiến. Vì vậy tỷ lệ đổi mưói trang thiết bị cũng rất thấp, khoảng 10%/ năm tính theo vốn đầu tư. Điều này cho thấy trình độ về thiết bị coong nghệ kỹ thuật của các doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn thấp và còn lạc hậu khá xa so với mức trung bình của thế giới. Trình độ và tay nghề của ngời lao động và đội ngũ quản lý của các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng là một trong những vấn đề bức xúc hiện nay. Theo ước tính thì đa số các chủ doanh nghiệp và lực lượng lao động trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay có trình độ tay nghề giản đơn, chưa được đào tạo chiếm khoảng 60-70%. Trong khi đó, chỉ có một số lượng nhỏ các chủ doanh nghiệp có trình độ đại học. Điều kiện về mặt bằng cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhìn chung rất chật hẹp. Đa số các doanh nghiệp phải thuê mượn lại mặt bằng hoặc thậm chí dùng cả nhà ở để làm nới sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó, đông vốn có hạn cho nên đa sô scác doanh nghiệp vừa và nhỏ không htể trang bị hệ thống xủ lý chất thải nhằm đảm bảo môi trường sống xung quanh. 6. Những hạn chế xuất nhập khẩu hiện hành. Về thuế suất: thuế xuất khẩu thuế nhập khẩu, hiện nay với chức năng bảo vệ sản xuất trong nước nên thuế suất thường xuyên được thay đổi cho phù hợp với những mặt hàng trong nước đã sản xuất được, do đó đã góp phần tích cực cho sản xuất trong nước trong thời kỳ đầu phát triển. Nhưng chính điều này cũng tạo ra những lệch lạc rtrong định hướng đầu tư trong nước, đặc biệ là đầu tư nước ngoài. Trong những năm qua, đầu tư nứoc ngoài đã thu hút vào những ngành sản xuất ra các sản phẩm có mức thuế bảo hộ cao, phục vụ cho nhu ccầu của thị trường trong nước chứ không nhằm chủ yếu vào xuât khẩu. Do tính chất quản lý, điều hành xuất nhạp khẩu còn nhiều yếu kém nên có tình trạng khoảng 50% sản phẩm của các doanh nghiệp có voón đầu tư nước ngoài không xuất khẩu mà cung ững vào thị trường nội địa và đây là việc làm đã gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp trong nước trong việc tiêu thụ sản phẩm. Điều này đã dẫn đến vốn đầu tư này chưa thực sự góp phần tăng tiềm lực xâut khẩu, tăng khả năng cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam và đẩy nhanh được khả năng thâm nhập thj trường của hàng Việt Nam, gây lãng phí trong sử dụng nguồn vốn này. Việc áp dụng giá tính thuế tối thiểu như hiện nay chưa phù hợp với quyết định quốc tế mà Việt Nam đã và sẽ phải cam kết thực hiện khi gia nhập ASEAN và WTO cũng như trong hiệp định thương mại. Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu cho hàng chuyên dùng phục vụ trực tiếp cho an ninh quốc phòng, nghiên cứu khoa học, giáo dục. Tuy nhiên, thực tế cho thấy rát khó xác định, trừ một số mặt hàng đặc biệt như vũ khí khí tài quân sự, còn phầnlớn các mặt hàng khác có thể dùng cho đối tượng khác nhau làm cho thủ tục xét miễn thuế phức tạp nhưng vẫn không đảm bảo được sự chính xác, chặt chẽ, dẫn đến lợi dụng trốn thuế. Trong tổ chức thực hiện luật thuế xuất nhập khẩu còn bất cập như việc tính thuế đôi lúc còn tuỳ tiện ở các cửa khẩu biên giới, công tác quản ký nhiều khi còn buông lỏng cộng với tình trạng jđánh thuế quá cao đối với một số mặt hàng nhập khẩu dẫn đến tình trạng nhập lậu gia tăng, hàng ngoại lấn át hàng nội làm cho hàng hóa sản xuất trong nước không thể cạnh tranh với hàng hoá nứoc ngoàivà gây thiệt hại cho các doanh nghiệp . Những năm đổi mới vừa qua,nước ta đã có nhiều ccó gắng trong hoàn thiện chính sách thuế xuất nhập khẩu.Điều đó đã góp phàn tích cực thúc đẩy xuát nhập khẩu ,điều tiết tiêu dùng.Tuy vậy thuế xuất nhập khẩu hiện hành còn nhiều điều chưa phù hợp vói thông lệ quốc tế trong điều kiện hội nhập ,tự do hoá thương mại :mức thu còn cao,biểu thuế còn nhiều thuế suất làm phức tạp quá trình thực hiện . Thêm và đó,những bất cập trong tổ chức thực hiên đang làm giảm hiệu quả hoạt động xuất nhạp khẩu.Tất cả những hạn chế đó của chính sách thuế suất nhập khẩu hiện hành đang gây trỏ ngại cho hoạt động xuất nhập khẩu. Vì vậy cần thiết phải bổ sung ,hoàn thiện chính sách thuế xuất khẩu,thuế nhập khẩu ở nước ta. III. Những giải pháp hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả. 1.Giải pháp hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam . Xây dựng một chính sách hội nhập gắn liền với cải cách nền kinh tế nội địa. Trong quá trình chuẩn bị về thời gian,vật chất để đàm phán có hiệu quả,Việt Nam có thể và cần phải dành ưu tiên thời gian và nội lực cho việc đẩy nhanh tốc độ xây dựng thể chế thương mại nội đại. Thị trường nội địa mạnh là động lực đẩy nhanh sự hội nhập của Việt Nam và tăng cường hiệu quả kinh tế nhờ đẩy mạnh tự do hoá, nhờ tăng cường sức cạnh tranh nội sinh. Trong hoàn cảnh hiện nay,để đảm bảo lợi ích quốc gia và hiệu quả thực tế chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế thì về mặt hoạch định chính sách trong giai đoạn tới cần tập trung xây dựng chế độ thương mại nội địa, trên cơ sở tự do hoá và thuận tiện hoá các hoạt động thương mại theo tiêu chuẩn quốc tế. Mặt khác về phương diện tô chức, sự bất cập của bộ máy hoạch định chính sách đang đặt ra nhu cầu bức bách cần dược sắp xếp lại để khắc phục được tình trạng thiếu sự phối hợp kinh niên giữa các bộ, ngành, đảm bảo sự thống nhất của toàn bộ nền kinh tế như một tổng thể, đồng thời tập trung được sức mạnh nội lực quốc gia, có như vậy mới thực hiện được chức năng, của Nhà nước trong việc lãnh đạo nền kinh tế bằng các chính sách và thể chế. Bên cạnh thương mại hoá quốc tế thì đầu tư nước ngoài cũng là mục tiêu hàng đầu của quá trình hộp nhập. Việt Nam có trở thành địa điểm đón nhận các luồng đầu tư mới thay vì chảy vào các nước ASEAN hay không trước hết là phụ thuộc vào sự phát triển của thị trường nội địa được xây dựng theo tiêu chuẩn quốc tế. Nếu gia nhập APEC tạo ra tín hiệu tốt cho việc chuyển sang kinh tế thị trường của Việt Nam thì đầu tư nước ngoài laị càng là một chỉ số mang tính cụ thể và thiết thực về độ tin cậy của quốc tế vào chính sách quốc gia. Cạnh tranh mở cửa thị trường nội địa và tính hiệu quả của thị trường (đặc biệt là giảm chi phí giao dịch) không những là nhân tố nội lực của sự phát triển, mà còn là tiêu điểm cho việc tạo lập chính sách và điều hành của Chính phủ. 1.2. Tạo các điều kiện cơ sở hạ tầng cho việc mở rộng các hoạt động thương mại. Dịch vụ là một trong những lĩnh vực quan trọng nhất để thúc đẩy các hoạt động thương mại và đầu tư. Để thuận tiện hoá thương mại và đầu tư, Việt Nam cần giảm dần những hạn chế về mở cửa thị trường cho thương mại dịch vụ. Đây là lĩnh vực hết sức quan trọng, không phải đó là những ưu tiên hàng đầu trong chương trình nghị sự của WTO hiện nay, mà chủ yếu là do sư thiếu hụt của dòng vốn bên ngoài làm cho việc xây dựng môi trường đầu tư nội địa càng trở nên quan trọng và cấp bách hơn với tư cách là huy động các yếu tố nội lựccho phát triển kinh tế. Do đó, sự xem xét về ban hành và thực hiện các chính sách của Chính phủ cần đặc biệt lưu ý đến chi phí chuyển đổi trong hoạch định chỉ tiêu cho tiến trình hội nhập và cải cách, có lẽ đây là điều quan trọng nhất cần bổ sung để Chính phủ xem xét trong điều hành kinh tế vi mô. 2- Một số giải pháp tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội 2.1. Hội nhập kinh tế dựa trên nguyên tắc giữ vững độc lập, tự chủ và theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là yêu cầu chính trị cao nhất, đồng thời là nhân tố cơ bản đảm bảo cho sự kết hợp hài hoà giữa thúc đẩy tăng trưởng với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong phát triển. Chúng ta chấp nhận hội nhập theo quan điểm của chủ nghĩa tự do mới, nghĩa là hội nhập kinh tế theo mục tiêu tăng kinh tế đơn thuần, những phải hy sinh tiến bộ và công bằng xã hội. Sự hy sinh này tất sẽ dẫn đến triệt tiêu động lực của tăng trưởng kinh tế - xã hội bền vững và như thế, rốt cuộc đất nước sẽ không tránh khỏi lại rơi vào vòng phụ thuộc của một thứ chủ nghĩa thực dân mới "Kiểu mới". Đồng thời, cũng phát huy tối đa mọi nguồn lực nội sinh, mà trung tâm là nguồn lực con người với trí tuệ và bản lĩnh văn hoá dân tộc; ra sức tranh thủ các nguồn lực ngoại sinh, tạo thành một hợp lực mạnh để thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Trong thế giới cạnh tranh quyết liệu như hiện nay, không thể có ảo tưởng chỉ dựa một chiều vào các nguồn lực ngoại sinh để phát triển. 2.2. Chủ động trong hội nhập kinh tế quốc tế với hình thức và bướcđi phù hợp. Vừa không chần chừ, do dự để lỡ thời cơ vừa hông chủ quan, nóng vội đẻ mở cửa và hội nhập tràn lan mà thiếu sự chuận bị chu đáo cần thiết. Trong quá trình hội nhập phải kiên trì giữ vững phương châm bình đẳng cùng có lợi, bảo vệ lợi ích chính đáng của quốc gia. Theo phương châm này, một mặt, cần thông minh và nhạy bén xử lý trong tình huống, kiên quyết không để nước ta bị thiệt thòi về lợi ích kinh tế - xã hội mà lẽ ra phải được hưởng mặt khác, ơhải chấp nhận chia sẻ lợi ích hợp lý với các đối tác vừa đấu tranh. Thành công của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế phụ thuộc vào hiệu quả hoạt động của tất cả các ngành, các cấp có liên quan, trong đó hoạt động của doanh nghiệp và Nhà nước có vai trò quan trọng đặc biệt. 3- Các giải pháp tổng thể trong việc phát triển lĩnh vực kinh tế đối ngoại của Việt Nam 3.1. Thực hiện cải cách hành chính theo hướng gọn nhẹ, hiệu lực. Giải pháp này đã được nhận thức rất rõ ràng ở Việt Nam. Hiện nay, những cải cách kiểu này đang được thí nghiệm ở thành phố Hồ Chí Minh theo cơ chế quản lý "một cửa" đối với hoạt động đầu tư nước ngoài. Kết quả thực hiện thể hiện rất triển vọng thành công, được đông đảo quần chúng nhân dân ủng hộ, đặc biệt là giới doanh nghiệp; tiết kiệm đáng kể những chi phí, thời gian không cần thiết; giảm rõ rệt nạn rtiêu cực, quan liêu... Tuy nhiên, đây mới là bước đầu, trong thời gian tới việc vận dụng mở rộng trong cả nước có tành công được hay không phụ thuộc rất nhiều vào sự chỉ đạo thống nhất, có định hướng rõ ràng của các cấp lãnh đạo từ Trung ương tới địa phương, trong đó cũng phải kể tới sự hưởng ứng nhiệt tình của quần chúng. 3.2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật một cách đồng bộ, phù hợp với hệ thống luật pháp và thông lệ quốc tế. Yêu cầu đặt ra đối với hệ thống pháp luật phát hiện nay là việc thông qua và ban hành luật phải kèm theo các văn bản dưới luật - các văn bản hướng dẫn thực hiện với mức độ cụ thể, chi tiết đẻ có thể thi hành được. Đồng thời, phương pháp giáo dục tuyên truyền cần có những thay đổi phù hợp nhằm nâng cao trình độ dân trí, trình độ hiểu biết và thi hành luật pháp (như tăng cường hơn nữa môn học giáo dục pháp luật ở các cấp nhà trường, mở các lớp đào tạo ngắn hạn đủ để nắm bắt những thông tin quan trọng nhất của những luật mới ban hành đến từng cấp cơ sở của ngành, các địa phương...). Việc thi hành pháp luật cần có sự trợ giúp của các cơ quan chức năng của các trung tâm tư vấn có sự kiểm soát chặt chẽ từ trên xuống, giảm thiểu tình trạng hiểu sai, áp dụng sai hoặc theo kiểu "phép vua thua lệ làng". Việc ban hành luật đã khó nhưng việc áp dụng nó một cách nhất quán, đồng bộ, công minh còn khó hơn. Bởi vậy, vấn đề quan trọng là cần tăng cường pháp chế đi đôi với việc soạn thảo và ban hành hệ thống văn bản pháp luật, từ các cơ quan luật pháp đến hành pháp và tư pháp. 3.3. Xây dựng và nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội Điều kiện này đã được đề cập đến từ lâu nay ở Việt Nam, nhưng kết quả đạt được hoàn toàn chưa phải như chúng ta mong muốn. Hệ thống cơ sở hạ tầng đã có cải thiện nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu kinh tế, đặc biệt là kinh tế đối ngoại của đất nước. Đó là do thiếu quy hoạch tổng thể, đồng thời những quy hoạch chi tiết cụ thể cho từng bộ phận, từng vùng không được tuân thủ thực hiện nghiêm ngặt nên vốn đầu tư nhiều khi không sử dụng hoàn toàn theo mục đích ban đầu, chất lượng công trình không đảm bảo, những vùng hoặc lĩnh vực cần được ưu tiên có khi lại không được thực hiện trước. Chính vì vậy các ước lập quy hoạch, kế hoạch, xây dựng, nâng cấp cơ sở hạ tầng hiện cần phải qua sự kiểm soát, chỉ đạo trực tiếp của Chính phủ từ cấp trung ương đến địa phương và đến cơ sở thực hiện. Ngoài ra, để chính sách kinh tế đối ngoại của Việt Nam được thực hiện có hiệu quả cần phải thực hiện đồng thời các giải pháp như: cải cách các chính sách kinh tế cho phù hợp với yêu cầu đổi mới nền kinh tế cũng như xu thế phát triển của khu vực và thế giới, cải cách và phát triển hệthống tổ chức ngân hàng - tài chính hiện đại hơn nhằm tạo điều kiện thuận lợi về vốn cũng như những giao dịch cho các nàh kinh doanh cải tổ hệ thống doanh nghiệp, trước hết là các doanh nghiệp quốc doanh nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh và hiệu quả hoạt động của chính. 4- Một số định hướng và giải pháp cấp bách bảo đảm an ninh kinh tế khi tham gia hội nhập kinh tế. 4.1. Thường xuyên tổng kết và phát hiện những tiềm ẩn mất cân đối trong nền kinh tế. Với những thành quả đã đạt được và những trì trệ của kinh tế, phải tiến hành tổng kết và phát hiện thường xuyên các vấn đề mất cân đối trong các chính sách đang thực hiện để có những giải pháp kịp thời, đảm bảo nền kinh tế luôn luôn hoạt động trong trạng thái năng động và ổn định tương đối. Cần giải quyết tót mối quan hệ giữa mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế và chấn hưng nền kinh tế dân tộc, trong đó chấn hưng nền kinh tế quốc gia là mục tiêu cơ bản còn mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế là phương tiện đẩy nhanh sự phát triển của nền kinh tế. Các chính sách kinh tế vĩ mô cần phải được tiến hành một cách linh hoạt, đồng bộ, phối hợp chặt chẽ, hỗ trợ và bổ sung lẫn nhau, tạo ra một thế cân bằng tương đối giữa các mục tiêu kinh tế vĩ mô theo hướng: Giải quyết được nhiều công ăn việc làm, lạm phát ở mức thấp nhận được, tăng trưởng cao, tỷ giá hối đoái linh hoạt theo cơ chế thị trường, lãi suất thực dương và dần theo cơ chế thị trường, giảm thâm hụt ngân sách, giảm thâm hụt cán cân thương mại và cán cân thanh toán. Thế kỷ XXI là thời đại của nền kinh tế tri thức, là xã hội thông tin,vì vậy cần phải tích cực đổi mới cơ cấu ngành nghề của nền kinh tế, phát triển các ngành nghề có liên quan chặt chẽ nền kinh tế tri thức, kỹ thuật thông tin, điện tử; thực hiện CNH - HĐH nền kinh tế; đổi mới hoạt động của hệ thống tài chính ngân hàng; phát triển mạnh mẽ công nghiệp chế biến nông sản và các ngành công nghiệp xuất khẩu. 4.2. Thực hiện chiến lược khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp đổi mới công nghệ. Tiến hành đổi mới công nghệ, đổi mới cơ chế quản lý và phát triển các ngành nghề truyền thống hoặc những ngành có lợi thế cạnh tranh để nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam. Nhằm tạo mọi điều kiện cho các doanh nghiệp phát huy mọi khả năng, mở rộng thị trường xuất khẩu và đầu tư ra nước ngoài, cần thực hiện việc cập nhật, phổ biến các thông tin kinh tế - xã hội của từng ngành hàng, mặt hàng, của các thị trường khu vực và thế giới; phát triển thị trường vốn, thị trường chứng khoán... tạo điều kiện để các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế có thể tiếp cận, dễ dàng sử dụng các luồng vốn khác nhau trong nền kinh tế. Thực hiện đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp, đặc biệt đối với các doanh nghiệp Nhà nước cần thực hiện phưong thức cổ phần hoá, giao khoán, bán và cho thuê đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ và những doanh nghiệp. Nhà nước không cần thiết phải nắm giữ, chi phối. Phát triển các tập đoàn xí nghiệp lớn làm nòng cốt cho đổi mới công nghệ kinh doanh quốc tế, đủ sức cạnh tranh với các Công ty xuyên quốc gia trên thị trường quốc tế. 4.3. Quốc tế hoá các hoạt động tài chính Đây là vấn đề có vai trò rất quan trọng,vì sự có mặt cảu các tổ chức tài chính nước ngoài sẽ góp phần tăng cường tính cạnh tranh và tính hiệu quả của hệ thống tài chính nhờ việc áp dụng các tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế. tuy nhiên, đồng thời với việc phát triển thị trường vốn, thị trường trái phiếu, cổ phiếu, mở rộng thị trường bảo hiểm, xác lập cơ chế chính thức đối với hệ thống bảo hiểm xã hội, cải cách hệ thống quỹ hưu trí... cần nỗ lực trong việc củng cố các khuôn khổ thể chế và giám sát đối với hệ thống tài chính bao gồm các quy chế và hoạt động giám sát tính lành mạnh của các tổ chức tài chính, cũng như những có chế hiệu quả để giải quyết sự thua lỗ hay phá sản của các tổ chức này. Cần duy trì một tỷ lệ hợp lý giữa vốn trong nước và vốn vay nước ngoài; tích cực đàm phán với các tổ chức quốc tế và nước chủ nợ để tiến hành đáo nợ, giảm tiến độ trả nợ vay trung và dài hạn. Việc sử dụng có hiệu quả "vốn" vay nước ngoài là một đòi hỏi nghiêm khắc của nền kinh tế thiếu vốn như Việt Nam. Để nâng cao an toàn về trả nợ nước ngoài, cần tăng cường việc quản lý thống nhất cho Bộ Tài chính để đảm bảo khả năng chi trả. Một số vấn đề rất quan trọng đảm bảo an ninh kinh tế trong quá trình hội nhập kinh tế quóc tế là nhanh chóng đào tạo một đội ngũ cán bộ giầu tri thức quản lý kinh tế với trình độ chuyên môn cao, am hiểu kinh tế thị trường, giỏi ngoại ngữ... đáp ứng được các yêu cầu trong hoạt động kinh tế quốc tế. Các cán bộ này không chỉ cần thiết co ccá cơ quan tổng hợp của các bộ, các ngành, mà trước hết là cần thiết cho các doanh nghiệp - đối tượng chủ yếu và là động lực của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế - người trực tiếp thực hiện hiện các hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ; người thu hút trục tiếp vốn đầu tư nước ngoài và thực hiện đầu tư ra nước ngoài. 5- Giải pháp chủ yếu hoàn thiện cơ chế quản lý nhằm khuyến khích, hỗ trợ và thúc đảy phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta. ở hầu hết các nước trên thế giới, chúng ta đều thếy mỗi nước đều có mmột bộ luật riêng cho các doanh nghiệp Việt Nam. ở điều kiện nước ta hiện nay, việc xây dựng hệ thống các văn bản, bộ luật dành riêng cho các DNVVN là hết sức cần thiết. Trước mắc cần hoàn thiện hơn nữa hệ thống các văn bản pháp luật hiện hành có liên quan tới loại hình doanh nghiệp này. Và giám sát thật kỹ quá trình áp dụng của các cơ quan chức năng. Về lâu dài, một bộ luật DNVVN trong đó quy định rõ: loại hình DNVVN cho từng ngành nghề cụ thể, về tư cách pháp nhân, về tổ chức và hoạt động, về các chính sách bảo hộ, khuyến khích.... là điều mà chúng ta cần làm trong những năm tới. Khi tiến hành xây dựng bộ luật riêng cho các DNVVN cần tham khảo các bộ luật về DNVVN của các nước đặt biệt là các nước ASEAN trong tính đặc thù của Việt Nam. Trong quá trình xây dựng luật phải tiến hành song song việc xây dựng các văn bản hướng dãn thi hành để sau khi văn bản có hiệu lực thì lập tức được áp dụng ngay vào cuộc sống mà không cần phải đợi các văn vản hướng dẫn thi hành. Các văn bản phải được bảo đảm tính ổn định lâu dài và tính đồng bộ, thống nhất để các doanh nghiệp yên tâm đều tư vào sản xuất kinh doanh. Mặt khác, thủ tục hành chính luôn là vấn đề nhức nhối đối với các doanh nghiệp, vì vậy Chính phủ cần phải cón những biện pháp triệt để và liên tục nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho các DNVVN hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong đó cần đặc biệt chú ý đến thủ tục có ảnh hưởng lớn đến hoạt động của các DNVVN là: thủ tục thành lập và đăng ký kinh doanh, thủ tục thuế đất, thủ tục vay vốn tín dụng, thủ tục xuất nhập khẩu. Tóm lại, trong khi Việt Nam đã đạt được một số thành tựu trong chính sách cải cách kinh tế, chúng ta cần có một biện pháp toàn diện hơn, cải cách kinh tế, chúng ta cần có một biện pháp toàn diện hơn, cả trước mắt và lâu dài đối với loại hình DNVVN. Hoàn thiện cơ chế quản lý và thiết lập các biện pháp hỗ trợ DNVVN là cần thiết và đã được thực hiện ở nhiều nước khác nhau. Vì vậy, trước mắt, cần có những cơ sở pháp lý riêng cho các DNVVN và những chính sách phù hợp liên quan đến môi trường đầu tư, cải tạo cơ sở hạ tầng... đáp ứng đòi hỏi của môi trường kinh doanh thay đổi nhanh chóng hiên nay theo lộ trình AFTA và WTO, tiếp tục con đường cải cách và hoàn thiện cách chính sách kinh tế vĩ mô. Về lâu dài, một chiến lược phát triển tổng thể đối với các DNVVN có sự phối hợp triển khai đồng bộ giữa các bộ, ngành là trọng yếu trong quá trình cải cách mà Việt Nam cần tập trung để tạo một nền tảng cho sự phát triển bền vững đối với các DNVVN. Điều quan trọng là ngoài những nỗ lực của Chính phủ ra các DNVVN cũng cần phải tích cực chủ động và sáng tạo trong sản xuất kinh doanh và tìm kiếm thị trường. Tuy nhiên, đổi mới cơ chế quản lý và thết lập hệ thống các biện pháp hỗ trợ cơ chế quản lý và thiết lập hệ thống các biện pháp hỗ trợ không phải là giải pháp thực hiện một sớm một hiều, mà cần cân khắc và thực hiện dần tuỳ theo hoàn cành vụ thể của nền kinh tế ở từng thời kỳ nhất định như một số nước ASEAN đã làm. 6- Hội nhập kinh tế thế giới và đào tạo nhân lực Việt Nam Một trong những thành tựu to lớn Đảng, Chính phủ và nhân dân Việt Nam đạt được trong công cuộc xây dựng CNXH đó là lĩnh vực giáo dục và đào tạo. Nếu thời pháp thuộc cả nước chỉ mới có 2322 trường cơ học, tỷ lệ dân số đi học là 2%, tiểu học là 0,4%, số người học đại học không quá 1000 sinh viên, 95% dân số mù chữ, thì gần 50 năm sau; năm 1999 chúng ta có 23414 trường phổ thông với 16.508.452 học sinh; trong đó phổ thông cơ sở có 21.769 trường; trường trung học chuyên nghiệp là 247 và tổng số trường đại học là 123 vứi 401.666 sinh viên. Đặc biệt năm 2000 Việt Nam đã hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học. Nhưng so với nền giáo dục và đào tạo của thế giới thì Việt Nam vẫn chiếm tỷ lệ thấp. Trong bối cảnh thế giới đang có sự phân hoá trình độ giữa các dân tộc, các nước phát triển thực hiện chức năng trí não, các nước đang phát triển lại thực hiện chức năng chân tay; chính điềunày ngày càng tạo ra khoảng cách xa giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển. Do vậy, để tồn tại và phát triển thì chiến lược phát triển con người là một nghiệm vụ hàng đầu của các quốc gia; vì giáo dục xác lập mối quan hệ chặt chẽ giữa phát triển con người và kinh tế, giữa cá nhân và cộng đồng trong sự tiến bộ chung của xã hội. Phát triển là điều kiện cần và đủ cho sự phát triển của đất nước CNH - HĐH. Song chất lượng lao động của Việt Nam so với một số nước trên thế giới được đánh giá còn rất khiêm tốn. Do đó, để thực hiện chiến lược phát triển đất nước, phấn đấu đến năm 2020 về cơ bản Việt Nam là một nước công nghiệp mới thì hệ thống giáo dục và đào tạo trong nước phải có chuyển viến, sâu rộng cả về lượng và chất. Phát triển mạng với chất lượng cao hệ thống giáo dục kỹ thuật nghề nghiệp đủ sức đào tạo kỹ thuật viên, công nhân kỹ thuật trình độ cao đáp ứng nhu cầu CNH - HĐH trong nước và xuất khẩu lao động kỹ thuật ra nước ngoài. Nhà nước cần tiếp tục chính sách xã hội hoá giáo dục để đa dạng hoá các loại hình đào tạo nhằm thu hút nhiều nguồn lực cho giáo dục và đào tạo qua ngân sách Nhà nước. Chú trọng và tăng cường phần thực hành nhằm nâng cao trình độ lao động được đào tạo từ 15,52% năm 2000 lên 30% năm 2005 và 40% năm 2010 nhằm đáp ứng nhu cầu CNH - HĐH hướng về xuất khẩu; nhu cầu lao động có chất lượng cao tại các khu công nghiệp và khu chế xuất tại Việt Nam. Tiếp tục đổi mới nội dung chương trình, phương pháp dạy và học ở các cấp cho phù hợp với nhu cầu đổi mới. Hình thành ác trung tâm dự báo nhu cầu nguồn nhân lực từ trung ương đến địa phương nhằm xác định chính sách cơ cấu đào tạo thích hợp với nhu cầu thực tiễn của đất nước. Nếu thực hiện được những cải sách sâu rộng trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo thì Việt Nam hoàn toàn có cơ hội để giảm tụt hậu, tăng trưởng và phát triển, gia tăng thu nhập bình quân đầu người, tạo thêm những cơ hội mới cho quá trình hội nhập kinh tế khu vực và toàn cầu trong quá trình thực thi chiến lược mở của và hội nhập mà Đảng và Nhà nước đã vạch ra. 7. Vượt lên thách thức đón bắt cơ hội. Truyền thống kiên cường của dân tộc ta đã đánh thắng các thế lực xâm lược có tiềm lực quân sự hùng mạnh và thành tựu vượt bậc trong hơn mười năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước là hai tiền đề rất quan trọng để ta hoàn toàn hy vọng và quyết tâm vươn lên trong hội nhập kinh tế quốc tế. Để thực hiện thành công chủ trương và nhiệm vụ đổi mới đất nước, cần phải được phát huy cao độ và tích cực triển khai các giải pháp về yếu tố nội lực, đảm bảo khả năng cạnh tranh khi tham gia vào thị trường khu vực và thế giới. Tuyên truyền sâu rộng trong các cấp, các ngành, mọi doanh nghiệp và mọi người dân Việt Nam nhận thức đúng đắn về toàn cầu hoá kinh tế, tác động của nó đối với đời sống kinh tế của đất nước để chủ động hội nhập. Tránh sự hiểu biết không đúng, không đầy đủ hoặc lẫn lộn giữa toàn cầu hoá kinh tế với toàn cầu hoá nói chung. Phải khẳng định rõ ràng toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế nổi bật của thời đại hiện nay, song hội nhập vào xu thế này vẫn là không phân biệt chế độ chính trị, sắc tộc, tôn giáo. Phải biết lập và vận hành mạng lưới thông tin hiện đại để mọi người dân, mọi doanh nghiệp và các cấp lãnh đạo quản lý tiếp cận với những kiến thức cập nhật, xác thực về diễn biến toàn cầu hoá kinh tế, qua đó mà tích cực hội nhập. Xây dựng chiến lược hội nhập kinh tế quốc tế, xác định bước đi và kế hoạch triển khai cụ thể, rõ ràng. Trước mắt, đến năm 2006 thực hiện các cam kết của AFTA và đẩy mạnh hội nhập với các nước trong APEC. Chủ động tiếp cận và nghiên cứu thể chế của các tổ chức kinh tế quốc tế, xác định khả năng gia nhập của nước ta để rà soát và đổi mới thể chế kinh tế trong những cho thích hợp làm cơ sở để thúc đẩy hội nhập của chúng ta. Đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước nhằm đổi mới, nâng cao trình độ kỹ thuật công nghệ và chuyển dịch cơ câú nền kinh tế quốc dân đáp ứng yêu cầu khai thác, phát huy lợi thế của nền kinh tế trong phát triển và hội nhập quốc tế. Tiếp tục rà soát để kịp thời điều chỉnh cơ cấu đầu tư theo hướng phát huy các nguồn vốn trong nước để giảm sự lệ thuộc vào nợ và viện trợ của nước ngoài. Xây dựng và phát triển các cơ sở hạ tầng đặc biệt là giao thông, thông tin liên lạc để vừa tạo điều kiện phát triển thị trường trong nước vừa thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế. Trên c ơ sở quan điểm hội nhập kinh tế quốc tế là công việc của toàn dân và của tất cả các doanh nghiệp dưới sự lãnh đạo của Đảng, và sự quản lý của Nhà nước, phải đưa các doanh nghiệp thuộc tất cả các thành phần kinh tế vào cuộc. Hiện nay, vấn đề này đối với các doanh nghiệp còn có vẻ xa xôi, chưa thấy, hết tính cấp bách, nhiều doanh nghiệp kể cả các tổng Công ty vẫn còn hướng sản xuất vào thay thế hàng nhập khẩu và tồn tại dựa vào sự bảo hoọ của Nhà nước. Nếu các doanh nghiệp trong nền kinh tế không chuyển động theo hướng sẵn sàng, tham gia cạnh tranh quốc tế thì hội nhập kinh tế quốc tế của ta sẽ khó vượt qua thách thức để tận dụng cơ hội. Phải coi các doanh nghiệp kể cả các hộ gia đình là tác nhân chủ yếu và trực tiếp trong hội nhập kinh tế quốc tế. Tiếp tục đổi mới để nâng cao vai trò quản lý hướng dẫn của Nhà nước trong hội nhập kinh tế quốc tế. Đây là giải pháp đặc biệt quan trọng. Bài học từ cuộc khủng hoảng kinh tế ở các nước trong khu vực vừa qua càng nhắc nhỏ sự cần thiết phải có một Nhà nước thông minh, năng động và có hiệu lực trong quản lý nền kinh tế nói chung và quản lý, thúc đẩy tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng. Tất cả các giải pháp trên chung quy lại là phải có con người. Thế giới cũng như các kỳ thi Olimpic quốc tế đã thừa nhận con người Việt Nam thông minh, cần cù. Vấn đề còn lại là tiếp tục đổi mới để phát triển giáo dục đào tạo, hướng giáo dục - đào tạo nhằm vào yêu cầu thúc đẩy kinh tế quốc tế. Kết luận Hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế tất yếu, một yêu cầu khách quan đối với bất kỳ một quốc gia nào đang trên con đường phát triển, trên thế giới hiện nay. Việt Nam là một nước đang phát triển, ở vào thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá,nên hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới có vai trò quan trọng hơn bao giờ hết. Việc Việt Nam gia nhập ASEAN và cam kết hoàn thành AFTA vào năm 2006 cũng như tham gia vào APEC vào WTO có ý nghĩa quan trọng đối với việc giải quyết các vấn đề kinh tế trong tương lai. Tuy nhiên, hội nhập kinh tế quốc tế, đối với Việt Nam không chỉ có cơ hội thuận lợi, mà lớn hơn nữa chính là những khó khăn, thách thức. Chúng ta cần phải đề ra những quyết sách mở cửa, hợp tác, hội nhập với khu vực nhằm đạt hiệu quả cao, đẩy nhanh thời gian cần thiết để có thể hội nhập. Và Việt Nam hoàn toàn có thể tin tưởng ở vị trí ngày càng cao trên trường quốc tế và khu vực do phát huy tốt nội lực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Trong quá trình viết đề án về đề tài này, do hạn chế về trình độ chuyên môn, nhận thức của bản thân và tài liệu tham khảo không nhiều nên bài viết không tránh khỏi những hạn chế nhất định. Em mong nhận được sự giúp đỡ và chỉ dẫn của thầy giáo về những sai sót trong quá trình viết bài của em để bài viết được hoàn chỉnh hơn. Tài liệu tham khảo 1. Giáo trình Kinh tế Chính trị Mác - Lênin, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân 2. Nghiên cứu kinh tế số 249 - Tháng 2/1999 3. Thời báo kinh tế Việt Nam 27/3/2000 4. Nghiên cứu kinh tế số 267 - Tháng 8/2000 5. Nghiên cứu kinh tế số 268 - Tháng 9/2000 6. Thời báo kinh tế Sài Gòn - 16/11/2000 7. Nghiên cứu kinh tế số 270 - Tháng 11/2000 8. Kinh tế và dự báo số 4/2001 9. Nghiên cứu kinh tế số 278 - Tháng 7/2001 10. Kinh tế Châu á - Thái Bình Dương số 2 (27) 11. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docR0118.doc
Tài liệu liên quan