Đề tài Hướng đi nào cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam

Trong suốt quá trình phát triển , Bảo hiểm Việt Nam đã trải qua các thời kì từ khi ra đời ( vào năm 1965) rồi phát triển từ độc quyền , bao cấp của nhà nước đến cạnh tranh và hội nhập với thế giới. Các doanh nghiệp bảo hiểm không ngừng vươn lên những nấc thang mới , không ngừng thay đổi để kịp bước với thời đại. Cho đến nay Việt Nam đã có một ngành bảo hiểm khá vững với nhiều kinh nghiệm cả về quản lí lẫn công nghệ ; hàng hoá trên thị trường đa dạng và ngày càng xuất hiện thêm nhiều hàng hoá mới ; nhiều doanh nghiệp bảo hiểm mới xin gia nhập thị trường ; Nhà nước đã ý thức được tầm quan trọng của bảo hiểm và giành sự quan tâm đặc biệt cho việc cải thiện môi trường pháp lí.Như vậy cùng với những thành tựu đạt được, bảo hiểm Việt Nam còn được nhiều thuận lợi ( cả về mặt chủ quan lẫn khách quan , cả từ phía trong nước lẫn môi trường quốc tế mang lại ) ưu ái, hứa hẹn nhiều cơ hội, nhiều thành công mới.

doc37 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1579 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hướng đi nào cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tướng chính phủ Võ Văn Kiệt cho rằng : “ Tuy nhiên, ý kiến phân tích là một số doanh nghiệp có thể ( và nên khuyến khích) thực hiện một vài nghiệp vụ ngân hàng , cũng rất có lý. Vì vậy điều này có thể dung hoà. Ví dụ :Thống đốc NHNN cấp phép cho các doanh nghiệp có đủ điều kiện được thực hiện một số nghiệp vụ ngân hàng.” Để đa dạng hoá họat động ngân hàng ,tận dụng năng lực và điều kiện kĩ thuật của một số doanh nghiệp, tạo điều kiện cho sự giao dịch của dân cư được thuận tiện và nhà nước kiểm soát được các hoạt động này, luật các TCTD khẳng định : “các tổ chức không phải tài chính tín dụng có hoạt động ngân hàng phải tuân theo các qui định của luật này có liên quan đến các hoạt động ngân hàng được phép”.(điểm 2, điều3,luật các TCTD). Chương II: thực trạng của các doanh nghiệp bảo hiểm trước xu thế hội nhập và hợp tác quốc tế. I/Điểm qua tình hình hội nhập quốc tế trong lĩnh vực bảo hiểm trên thế giới hiện nay (Tổng kết 2000 - tạp chí tài chính ). 1.Thị trường bảo hiểm toàn cầu: Trong những năm qua, bảo hiểm đang ngày càng khẳng định vai trò to lớn trong nền kinh tế thế giới. Năm 1998 tổng số phí bảo hiểm thu được trên toàn thế giới theo ước tính đạt 2.155 tỷ USD , trong đó các nước công nghiệp phát triển chiếm 90,7%. Cũng năm 1998,tính trung bình trên toàn thế giới, mỗi người dân chi tiêu 271 USD để đáp ứng nhu cầu bảo hiểm. Mức chi tiêu của người dân ở các nước phát triển cho bảo hiểm ước đạt 1.805 USD/1 người, tức là gấp 6 lần mức trung bình của thế giới và tương đương 85% GDP. Trong khi đó,ở những thị trường mới nổi ,chi tiêu của người dân cho bảo hiểm thấp hơn rất nhiều và mới chỉ đạt ở mức 37 USD/1người. Sự chênh lệch về tỷ lệ chi tiêu phí bảo hiểm giữa nhóm nước giàu và nghèo cho thấy những tiềm năng to lớn cho sự phát triển của thị trường bảo hiểm ở những nước đang phát triển . 2. Thị trường bảo hiểm tại liên minh Châu Âu. Liên minh Châu Âu đựoc coi là khu vực có trình độ hội nhập rất cao về kinh tế nói chung và bảo hiểm nói riêng . Với mục tiêu xây dựng một thị trường bảo hiểm thống nhất, theo tinh thần hiệp ước Rome, các nước thành viên đã áp dụng 3 nguyên tắc tự do cơ bản là:tự do thành lập, tự do cung cấp dịch vụ và tự do lưu chuyển vốn. Từ năm 1973 tới nay,các nước thành viên EU đã từng bước áp dụng pháp luật thống nhất về điều kiện gia nhập thị trường bảo hiểm , cơ chế công nhận hiệu lức của một số giấy phép duy nhất...Nhờ những biện pháp có tính triệt để mà cho đến nay, có thể nói trên thị trường bảo hiểm EU hầu như không tồn tại những trở ngại pháp lý đáng kể về gia nhập thị trường và đãi ngộ quốc gia. Ngoài ra , thông qua các hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các tập đoàn tài chính - bảo hiểm đa quốc gia, các công ty bảo hiểm Châu Âu đã và đang chiếm lĩnh thị phần ngày càng tăng tại các Châu lục khác đặc biệt là tại các thị trường mới nổi như các nước Đông Âu, Châu á và Châu Mĩ LaTinh. 3. Hợp tác về bảo hiểm giữa các nước ASEAN: Xu thế mở cửa và hội nhập trong lĩnh vực bảo hiểm đang diễn ra mạnh mẽ tại khu vực Đông Nam á.Trong khuôn khổ hiệp định khung về dịch vụ của ASEAN được kí kết cuối tháng 12 năm 1998 và có hiệu lực kể từ ngày 13/10/1999, bảy nước thành viên ASEAN (trừ Lào,Myanma và Campuchia) đã đưa ra những cam kết cụ thể trong lĩnh vực bảo hiểm theo hướng huỷ bỏ về cơ bản những hạn chế về tiếp cận thị trường ,tăng cường chiều sâu và phạm vi tự do hoá trong lĩnh vực bảo hiểm. Hiện nay, các nước ASEAN đang trong quá trình hoàn tất việc thông qua nghị định thư số 5 về thiết lập chương trình chung của ASEAN về bảo hiểm vấn đề bắt buộc đối với bên thứ ba của chủ xe cơ giới. Bên cạnh đó, các cố gắng xây dựng thể chế cũng đang được đẩy mạnh với sáng kiến thành lập hiệp hội các nhà quản lí bảo hiểm ASEAN và hiệp hội bảo hiểm ASEAN ,để gắn kết và tăng cường sự hợp tác giữa các chính phủ và ngành bảo hiểm các nước trong khu vực. 4.Trung Quốc và việc mở cửa thị trường bảo hiểm. Từ năm 1992, Trung Quốc đã từng bước thực hiện chính sách mở cửa trong lĩnh vực bảo hiểm như là một phần của toàn bộ chiến lược hội nhập kinh tế của nước này nhằm tiến tới việc gia nhập WTO theo 4 nguyên tắc : Một là , ưu tiên cấp giấy phép cho công ty bảo hiểm nội địa. Việc cấp giấy phép cho các công ty bảo hiểm nước ngoài được tiến hành “từng bước “. Hai là, lĩnh vực ưu tiên cấp giấy phép là bảo hiểm nhân thọ- một loại hình kinh doanh mới có hiệu quả kinh tế cao. Ba là, khuyến khích thành lập công ty bảo hiểm dưới hình thức công ty cổ phần để phù hợp với thông lệ quốc tế, nâng cao khả năng huy động vốn. Bốn là, phát triển ngành bảo hiểm một cách tích cực và vững chắc . Cho đến nay thị trường Trung Quốc đã có 26 công ty bảo hiểm được thành lập, bao gồm 4 DNNN, 9 công ty cổ phần, 4 công ty liên doanh và 9 chi nhánh của công ty bảo hiểm nước ngoài, hơn 80 văn phòng đại diệncông ty bảo hiểm nước ngoài. Doanh thu phí bảo hiểm tăng vọt từ 2,5 tỷ USD (năm 1995) lên đến 12 tỷ USD trong chín tháng đầu năm 1999. Vậy Việt Nam thì như thế nào? II/Thực trạng bảo hiểm Việt Nam. ở Việt Nam hiện nay có khoảng gần 20 doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm.Trong đó có doanh nghiệp nhà nước như tổng công ty bảo hiểm Việt Nam; Các công ty liên doanh như:công ty Bảo Việt,công ty cổ phần Petrolimex, Bảo Minh, Bảo Hiểm Liên Hiệp, tái bảo hiểm quốc gia...Các công ty 100% vốn nước ngoài như Prudential,Chifon-Manulife, AIA, Gras Savoye, ALLianz-AGF ,công ty liên doanh Việt-úc và một công ty môi giới bảo hiểm. Trong số ấy có các công ty bảo hiểm nhân thọ lớn như Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam, Prudential, AIA, Chifon-Manu life... Kể từ khi ra đời cho đến nay hoạt động của các công ty này không ngừng phát triển, thay đổi cả về số lượng và chất lượng, nhưng do còn là một ngành công nghiệp khá non trẻ nên chúng cũng không tránh khỏi những bất cập nhất định. Điều đó được thể hiện rõ ở những thuận lợi và hạn chế sau: 1/Thuận lợi: * Thành tựu: Trước năm 1993, Việt Nam duy trì cơ chế độc quyền của nhà nước trong lĩnh vực bảo hiểm. Từ khi ban hành nghị định 100 CP ngày 18/12/1993 về kinh doanh bảo hiểm , một thị trường bảo hiểm với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế và đa dạng về loại hình doanh nghiệp đã được hình thành và đang trên đà phát triển mạnh mẽ. Thị trường bảo hiểm đã hình thành với sự cạnh tranh diễn ra hết sức mạnh mẽ, tạo ra sự phát triển rầm rộ của các doanh nghiệp. Mức độ tăng trưởng GDP là chỉ tiêu kinh tế ảnh hưởng trực tiếp đến nhu cầu bảo hiểm. Việt nam vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng trung bình 7% - một tốc độ tăng trưởng cao so với các nước trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế hiện nay. Đây là một điều kiện hết sức thuận lợi. Những tác động tích cực đó được thể hiện bằng kết quả doanh thu phí bảo hiểm đạt mức tăng trưởng cao trong cả lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân thọ. Cụ thể :Tổng doanh thu phí bảo hiểm toàn thị trường ước đạt 7.680 tỷ đồng (=1,39% GDP năm 2002) tăng trưởng 51,5% so với năm 2001, ước nộp ngân sách nhà nước trên 300 tỷ đồng, tăng khoảng 29% so với năm 2001,trong đó tổng doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ ước đạt 4.500 tỷ đồng (chiếm 58,6%),tổng doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ ước đạt 3.180 tỷ đồng (chíêm 41,4%). %năm trước/năm sau. Biểu đồ thể hiện tỷ lệ tổng doanh thu bảo hiểm giữa năm trước và năm sau (lấy năm 1994 là 100%) Trên đà tăng trưởng đó ,năm 2003 ngành bảo hiểm nhân thọ cũng sẽ tiếp tục cạnh tranh gay gắt ,và rất có thể sẽ đạt mức tăng trưởng khoảng 50% nếu các công ty bảo hiểm có hợp đồng đáo hạn khuyến khích được các chủ hợp đồng tái tục bảo hiểm. Thị trường bảo hiểm phi nhân thọ sẽ tiếp tục cạnh tranh sôi động đạt mức tăng trưởng khoảng 20% so với năm 2002 như vậy mức độ tăng trưởng chung của toàn thị trường bảo hiểm Việt Nam dự kiến ở mức 38% với tổng doanh thu phí bảo hiểm trên 10.590 tỷ đồng( bằng kkhoảng 1,8% GDP năm 2003). Tỷ lệ tái bảo hiểm bắt buộc có thể giảm dần theo lộ trình thức hiện cam kết hiệp định thương mại Việt -Mỹ. *Có những đường lối chính sách đúng đắn ,phù hợp với thực trạng nền kinh tế nước nhà, góp phần định hướng cho việc đa dạng hoá nhiều loại hình sở hữu trong đầu tư tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế xã hội nước ta,trong đó có hoạt động bảo hiểm. Môi trường pháp lý không ngừng được đổi mới ,hoàn thiện bằng sự ra đời của luật dân sự, luật đầu tư ,luật thương mại,luật doanh nghiệp luật hàng hải...và luật bảo hiểm, tạo ra hệ thống cơ sở pháp lý căn bản để các doanh nghiệp chủ động đầu tư lâu dài. *Bên cạnh đó,các doanh nghiệp bảo hiểm đã tăng cường đầu tư phát triển các loại hình dịch vụ như bảo hiểm nhân thọ dành cho phụ nữ, boả hiểm nông nghiệp ,bảo hiểm tai nạn sinh viên, đồng thời nâng cao chất lượng dịch vụ chăm sóc khách hàng thông qua các chương trình khuyến mại, tạo sự hấp dẫn đối với những người tham gia bảo hiểm. Cùng với các công ty bảo hiểm Việt nam, các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài cũng đang khẳng định vị trí của mình trên thị trường. Năm qua, Prudential-doanh nghiệp đầu tư nước ngoài lớn nhất trong lĩnh vực bảo hiểm tại Việt Nam ,đã tham gia giả quyết quyền lợi bảo hiểm cho 620 trường hợp với tổng số tiền 35 tỷ đồng thông qua 20 trung tâm phục vụ khách hàng trong cả nước. Công ty vừa thành lập quĩ tiến dụng 1,3 tỷ USD để hỗ trợ Việt Nam trong việc đào tạo nguồn nhân lực. *Mức độ mở cửa của thị trường bảo hiểm việt nam được đánh giá cao.Để đánh giá một cách khách quan về mức độ mở cửa của thị trường bảo hiểm Việt Nam, có thể so sánh thực trạng thị trường bảo hiểm và các qui định pháp luật về kinh doanh bảo hiểm tại Việt Nam với một số nước trong khu vực và trên thế giới,căn cứ trên những tiêu chí chủ yếu thể hiện trên bảng sau: So sánh mức độ mở cửa thị trường bảo hiểm tại các nước trong khu vực đông nam á (tính đến hết năm 1999) Tiêu chí Brunây Indonexia Malaixia Philipin Xingapo Thailan Việt Nam Tổng doanh thu phí bảo hiểm(triệu USD) 95 766 3.286 816 4.810 3.712 148 Doanh thu phí bảo hiểm tính trên đầu người(USD) 311 4 151 11 1.550 61 2 Tỷ lệ doanh thu phí bảo hiểm trên GDP(%) 1,74 1,67 3,34 0,99 4,99 2,41 0,58 Số lượng doanh nghiệp bảo hiểm 23 180 67 145 109 100 15 Tỷ lệ số doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài trong tổng số doanh nghiệp bảo hiểm(%) 52% (12/23) 25% (45/180) 20% (14/67) 16% (24/145) 81% (89/109) 5% (5/100) 53% (8/15) Hạn chế về việc tham gia góp vốn của nước ngoài Tuỳ từng trường hợp cụ thể Không quá 80% Không quá 30% có Không quá 49% Không quá 49% Không quá 50% Tái bảo hiểm bắt buộc Không Có(30%) có Có(10%) Có(5%) Có(20%) Nhìn vào bảng ,chúng ta có thể nhận thấy rằng Việt Nam luôn đứng cuối trong hầu hết các chỉ tiêu đánh giá trình độ phát triển của thị trường bảo hiểm, trong khi đó riêng về các chỉ tiêu xác định mức độ mở cửa thị trường ( Số lượng doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài và tỉ lệ cổ phần tối đa do doanh nghiệp nước ngoài nắm giữ),Việt Nam lại nằm trong số các nước đứng đầu. Ngoài ra xét dưới góc độ thời gian, chỉ sau 3 năm kể từ ngày chấm dứt tình trạng độc quyền trong lĩnh vực bảo hiểm(1993),doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài đầu tiên được cấp giấy phép hoạt động tại Việt Nam.Chỉ riêng trong năm 1999, đã có thêm 5 công ty bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài được cấp giấy phép. Như vậy so sánh với nhiều nước khác ,việc mở cửa thị trường bảo hiểm Việt Nam diễn ra với một tốc độ khá nhanh.Chẳng hạn như Thái Lan, từ năm 1982-1995,không một giấy phép bảo hiểm mới nào được cấp. Trong số 100 công ty bảo hiểm đang hoạt động trên thị trường , số lượng công ty bảo hiểm trong nước lên tới 95 công ty, trong khi số chi nhánh công ty bảo hiểm nước ngoài vẫn giữ nguyên không thay đổi là 5 chi nhánh suốt từ năm 1982 đến năm 2000. Tại Brunây từ năm 1984 đến năm 2000, trong khi chờ ban hành luật bảo hiểm , nước này đã không cấp giấy đăng kí kinh doanh cho các công ty bảo hiểm mới. Đến nay mặc dù các nước đã có những chuyển biến mới nhưng Việt Nam vẫn là một nước có mức độ mở cửa thị trường khá mạnh ,với phương châm muốn làm bạn với tất cả nước , hợp tác trên tất cả các mặt ,tranh thủ mọi cơ hội có thể có để đạt mục tiêu tăng trưởng. * Một sự kiện lớn diễn ra ở Việt Nam, có ảnh hưởng lớn lao đến tất cả các ngành kinh tế- trong đó có bảo hiểm đó là việc kí kết hiệp định thương mại Việt-Mỹ . Hiệp định này được kí kết vào ngày 13/7/200 đã đưa đến những tác động to lớn đến lĩnh vức bảo hiểm .Có thể khái quát trên những điểm chính sau : Thứ nhất ,Việt Nam cho phép các công ty Mỹ cung cấp qua biên giới các dịch vụ bảo hiểm cho những doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, người nước ngoài làm việc tại Việt Nam, các dịch vụ tái bảo hiểm ,các dịch vụ bảo hiểm trong vận tải quốc tế, các dịch vụ môi giới bảo hiểm và môi giới tái bảo hiểm, các dịch vụ tư vấn , giải quyết khiếu nại,đánh giá rủi ro mà không cần thiết lập sự kiện hiện diệ thương mại. Đây là cam kết rộng nhất mà Việt Nam đã đưa ra trong khuôn khổ đàm phán song phương và đa phương về thương mại. Thứ hai, hiệp định đã ấn định rõ thời gian mở cửa thị trường bảo hiểm việt Nam cho các công ty Mỹ là 3 năm với các liên doanh và 5 năm đối với công ty 1005 vốn đầu tư Hoa Kì sau khi hiệp định có hiệu lực. Thứ ba, phạm vi hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư Mỹ tại Việt Nam đã được mở rộng .Theo đó , chậm nhất là 6 năm kể từ khi hiệp định có hiệu lực, các công ty bảo hiểm có vốn đầu tư Mỹ được phép kinh doanh mọi loại nghiệp vụ bảo hiểm kể cả bảo hiểm bắt buộc mà hiện nay đang chỉ giới hạn trong các doanh nghiệp nhà nước. Thứ bốn,Hiệp định qui dịnh việc bãi bỏ chế độ tái bảo hiểm bắt buộc cho công ty tái bảo hiểm quốc gia trong vòng 5 năm kể từ ngày hiệp định có hiệu lực. Điều đáng lưu ý là theo nguyên tắc tối huệ quốc, những cam kết trong hiệp định thương mại Việt Mỹ cũng sẽ được áp dụng tương tự đối với các nước có thoả thuận thương mại song phương với Việt Nam. Do đó , tác động của các cam kết trong lĩnh vực bảo hiểm như trình bày ở ttrên sẽ không chỉ giới hạn trong quan hệ thương mại Việt Nam- Hoa Kì mà còn được mở rộng sang các đối tác thương mại chính như EU, Nhật, ASEAN... Như vậy việc kí kết hiệp địn này mang lại cho Việt nam những thuận lợi sau: -Việt Nam sẽ có cơ hội tranh thủ được vốn , khoa học ,công nghệ và kĩ năng quản lý của các nhà cung cấp dịch vụ bảo hiểm nước ngoài để phục vụ cho việc phát triển thị trường bảo hiểm nói riêng và cho sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung. -Sự có mặt của các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài sẽ thúc đẩy mội trường cạnh tranh trong các hoạt động kinh doanh bảo hiểm, buộc các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam phải tự đổi mới, tăng cường hiệu quả kinh doanh, nâng cao chất lượng dịch vụ, đa dạng hoá sản phẩm...để có thể đứng vững và phát triển trên thương trường. Điều này sẽ làm tăng quyền lợi cho người tham gia bảo hiểm, một mục tiêu mà các cơ quan quản lý nhà nước và bảo hiểm luôn hướng tới. -Sự có mặt nhiều hơn của các công ty bảo hiểm lớn của nước ngoài tại Việt Nam sẽ giúp cho các nhà đầu tư nước ngoài yên tâm hơn về việc đáp ứng những nhu cầu về bảo hiểm của họ, do đó sẽ gián tiếp cải thiện môi trường đầu tư tại Việt Nam.Đồng thời , giữ lại một lương đáng kể ngoại tệ trong nước ,chánh nạn “chảy máu” ngoại tệ ra nước ngoài. * Hiện tại trên thị trường bảo hiểm Việt Nam đã có hai công ty môi giới về bảo hiểm - cầu nối giữa doanh nghiẹp bảo hiểm và khách hàng; đã có hiệp hội bảo hiểm Việt Nam-cầu nối giữa các doanh nghiệp bảo hiểm với cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động kinh dianh bảo hiểm, thực hiện qui chế tự quản, duy trì môi trường cạnh tranh lành mạnh và thúc đẩy hợp tác trong kinh doanh giữa các doanh nghiệp bảo hiểm. Sự có mặt của hai tổ chức trên tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm. 1.1/ Thành tựu của các công ty bảo hiểm nhân thọ: Thị trường bảo hiểm nhân thọ tiếp tục phát triển sôi động thông qua hoạt động đua tranh của 5 công ty bảo hiểm :Bảo Việt, Manulife, Prudential, Bảo Minh-CMG và AIA. Doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ trên toàn thị trường năm 2002 đạt 4500 tỷ đồng( chiếm 58,6% tổng doanh thu bảo hiểm), dự tính đến năm 2005 đạt 2% GDP. Doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ qua các năm được biểu diễn qua biểu đồ sau . Doanh thu phí bảo hiểm Nhân thọ thị trường Việy Nam. Nhìn vào biểu đồ ta thấy,doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ tăng mạnh trong các năm đặc biệt tăng nhanh kể từ năm 2000,khoảng cách giữa các năm ngày càng lớn. Tính từ năm 1997 là năm Bảo Việt bán những hợp đồng bảo hiểm nhân thọ đầu tiên đến hết quí III năm 2002, con số hợp đồng trên toàn thị trường là2.853.000 hợp đồng. Với tốc độ khai thác mới khoảng 100.000 hợp đồng trong một tháng, dự kiến cả năm 2002,con số này sẽ đạt mức 3.150.000 hợp đồng. Như vậy ,năm 2002 bình quân người dân Việt Nam tiêu dùng 4USD cho bảo hiểm nhân thọ và bình quân 25 người thì có một hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. Qua nghiên cứu các biểu đồ, người ta thấy thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam đang ở vị trí phát triển tiềm năng với đặc điểm lệ phí bảo hiểm trên GDP thấp (dưới 1%) và có tốc độ tăng trưởng doanh thu phí khá cao(khoảng 100%) . Tuy nhiên hiện nay so với các nước khác như Malaixia,Hồng Kông, Singapore, Thái Lan thì vị trí của thị trường bảo hiểm nhân thọ trong nền kinh tế quốc dân ở nước ta còn khá nhỏ bé, bằng ẵ so với Thái Lan, 1/6 so với Singapore, 1/7,5 so với Đài Loan và Bằng 1/15 so với Hàn Quốc và Nhật Bản( lấy mốc so sánh năm 2001), nhưng tương lai dự đoán một tiềm năng lớn, đặc biệt là khi mức sống của người dân được cải thiện tốt hơn. Thị trường bảo hiểm nhân thọ đã phát triển trên toàn quốc, di vào từng Huyện -Xã của các Tỉnh,Thành Phố. Bảo Việt là doanh nghiệp đã thành lập hệ thống 61 công ty thành viên và khoảng 200 văn phòng phục vụ khách hàng, chuyên kinh doanh bảo hiểm nhân thọ theo từng Quận, Huyện. Bảo Minh CMG đã có mặt ở khoảng 30 Tỉnh.Prudential cũng đã mở rộng mạng lưới với hơn 20 trung tâm phục vụ khách hàng. Các doanh nghiệp khác như AIA,Manulife...cũng đã thành lập thêm các trung tâm dịch vụ khác hàng tại một số địa bàn mới. Vậy là chỉ sau 6 năm Bảo hiểm nhân thọ đã đạt được những thành tựu đáng nể. 1.2/ thành tựu của các công ty bảo hiểm phi nhân thọ: Thị trường bảo hiểm phi nhân thọ trong năm đã kết nạp thêm một thành viên mới được cấp phép hoạt động ngày 30/08 đó là SamSung Vina (một công ty liên doanh bảo hiểm trách nhiệm hữu hạn giữa công ty tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam với công ty bảo hiểm Sam Sung của Hàn Quốc,với tỷ lệ góp vốn 50/50, thời gian hoạt động 30 năm và số vốn đầu tư 5 triệu USD),nâng tổng số thành viên trên thị trường thành 12 công ty(Bảo Việt , Bảo Minh, PVIC,PJICO,PTI,ALLIANZ,UIC,VIA,Bảo Long, BIDV-QBE, Group Pama, Sam Sung Vina). Yình hình cạnh tranh vẫn diễn ra sôi động, đặc biệt đối với những dịch vụ bảo hiểm lớn.Một số công ty đã bằng mọi cách để giành được dịch vụ về mình không ngoại trừ khả năng chấp nhận lỗ để lấy được dịch vụ và nâng cao thị phần. Với tốc độ tăng trưởng khoảng 42% trong một năm , thị trường bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam được đnáh giá là có mức tăng trưởng cao nhất trong vài năm trở lại đây.Hai yếu tố giúp thúc đẩy sự phát triển của thị trường này theo dánh giá của Vinare chính là vì Việt Nam có mức tăng trưởng kinh tế tốt ,vốn đầu tư phát triển tăng 12,4% so với năm trước , kim ngạch xuất khẩu tăng 20%, lượng dự án đầu tư FDI tăng hơn 34%,và đồng thời do xu thế tăng phí bảo hiểm của thị trường thế giới cũng tác động đến thị trường Việt Nam. Hai yếu tố này đã tác động đến các nghiệp vụ bảo hiểm kĩ thuật, bảo hiểm hàng hoá, bảo hiểm dầu khí,bảo hiểm cháy, bảo hiểm hàng không, boả hiểm trách nhiệm dân sự chủ tàu...Ngay cả nghiệp vụ bảo hiểm cháy,bảo hiểm kĩ thuật cũng chịu ảnh hưởng một phần do sức ép từ phía những nhà nhận tái bảo hiểm. Các nghiệp vụ bảo hiểm trong nước đạt mức tăng trưởng khá như bảo hiểm ôtô,môtô có mức tăng gần 30% và bảo hiểm con người tăng gần 15%. Mặt khác năm 2002 vừa qua, bảo hiểm kĩ thuật có doanh thu tăng trưởng khá cao,với doanh thu phí bảo hiểm đạt 64%, bảo hiểm dầu khí đạt 78%, bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu tăng 22% và bảo hiểm cháy tăng 15%.Tổng doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ ước đạt3.180 tỷ đồng. 1.3 Thị trường bảo hiểm xuất hiện thêm nhiều nghiệp vụ và sản phẩm mới. 1.3.1/ Nghiệp vụ đầu tư tài chính đã được các công ty bảo hiểm chú ý: Trong những năm gần đây, các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam chú trọng cải thiện công tác đầu tư tài chính: Một loạt các biện pháp mang tính chất chiều sâu được thức hiện nhằm đảm bảo lựa chọn được các dự án đầu tư thích hợp, an toàn cho nguồn vốn và mang lại hiệu quả kinh tế cao như góp vốn liên doanh , tham gia thành lập công ty cổ phần, cho vay ,tham gia các dự án đầu tư,mua trái phiếu tín phiếu kho bạc nhà nước ,mua cổ phiếu, gửi tiết kiệm ngân hàng...Thông qua hoạt động đa dạng hoá đầu tư, các doanh nghiệp bảo hiểm đã thu được nhiều kết quả đáng ghi nhận từ lĩnh vực đầu tư tài chính.Hoạt động đầu tư tài chính đã tạo nên phần lơn lợi nhuận cho các doanh nghiệp bảo hiểm và trở thành xương sống nâng đỡ các doanh nghiệp bảo hiểm, nhất là các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ. Năm 1999 Bảo Việt đã thành lập công ty chứng khoán Bảo Việt- công ty chứng khoán đầu tiên ở Việt Nam; Năm 2002 Bảo Việt tham gia đầu tư vào dự án nhà máy xi măng Thăng Long tại Hoành Bồ- Quảng Ninh với tổng số vốn đầu tư xấp xỉ 350 triệu USD,với tư cách là cổ đông sáng lập góp 30% vốn chủ sở hữu và cùng các tổ chức tín dụng khác cam kết cung cấp tín dụng cho dự án. Ngoài ra, có thể kể tới một số hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm khác như: góp vốn vào quĩ hỗ trợ đầu tư quốc gia, ngân hàng thương mại chính phủ á Châu, khu vui chơi giải trí dưới nước Hồ Tây... * Về tăng trưởng vốn đầu tư(VĐT) trở lại nền kinh tế: cùng với sự phát triển của thị trường bảo hiểm Việt Nam, sự tăng mạnh trong doanh thu phí bảo hiểm, vốn đầu tư trở lại nền kinh tế của các doanh nghiệp bảo hiểm cũng đã tăng trong mấy năm qua. Tốc độ tăng trưởng đầu tư bình quân trong giai đoạn 1996-2002 là khoảng 125,30% trên một năm. Cũng như nhiều nước khác trên thế giới, hoạt động đầu tư của các công ty bảo hiểm Việt Nam được thực hiện theo nguyên tắc an toàn, hiệu quả và đáp ứng kịp thời các yêu cầu chi trả tiền bồi thường cho người tham gia bảo hiểm . Đồng thời đem lại lợi nhuận hợp lý để trang trải các chi phí hoạt động và mở rộng phạm vi kinh doanh cho BN. 1.3.2/ Nhiều sản phẩm mới đã xuất hiện. Trên thị trường BHVN hiện nay đã có khoảng 90 sản phẩm của các công ty bảo hiểm nhân thọ. Đó là những sản phẩm BHNT truyền thống theo tiêu chuẩn quốc tế như bảo hiểm hỗn hợp,bảo hiểm trọn đời, bảo hiểm nhóm, bảo hiểm hưu trí tự nguyện cùng với các điều khoản riêng và sản phẩm bảo hiểm bổ sung liên quan tới thương tật và sức khoẻ con người. Các sản phẩm đó được đưa cùng với các dịch vụ kết hợp đa dạng:Bảo Việt tăng khách hàng các thẻ ưu đãi giảm giá; tư vấn và giới thiệu sản phẩm qua Internet: đầu tiên là Website của Bảo Việt, sau đó AIA, Manulife và Prudential; Các đường dây nóng trả lời tư vấn đã được thiết lập; các kênh phục vụ qua ngân hàng được phát triển: Bảo Việt kết hợp với VietcomBank, IncomBank, ACB ; AIA kết hợp với HSBC. Trong năm 2002, một số doanh nghiệp đã tung ra các sản phẩm bảo hiểm mới : Bảo Việt có sản phẩm An gia thịnh vượng với số tiền bảo hiểm tăng 5%/năm nhằm hạn chế ảnh hưởng lạm phát , Bảo hiểm An bình hưu trí đảm bảo lương hưu cho mọi đối tượng cũng sắp được tung ra; Manulife có sản phẩm bảo hiểm bảo đảm thời giá, AIA có sản phẩm hỗ trợ viện phí ...Sự ra đời của bảo hiểm tiền gửi vào tháng 7/2000 cũng dẫn đến sự phát triển một bảo hiểm phi nhân thọ khác là bảo hiểm tiền gửi. Như vậy ngành bảo hiểm Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng mừng. Tuy nhiên, là một thị trường non trẻ, bảo hiểm Việt Nam trên đà phát triển vẫn không tránh khỏi những tồn tại và khó khăn nhất định. 2. Khó khăn: * Nguy cơ chiến tranh, khủng bố vẫn rất tiềm tàng. Điều này chắc chắn sẽ gây ảnh hưởng lớn tới thị trường bảo hiểm thế giới, nhất là dối với các loại hình bảo hiểm nhạy cảm liên quan tới hàng không ,hàng hoá xuất khẩu, năng lượng...và sự ảnh hưởng đó không loại trừ các công ty bảo hiểm trên thị trường Việt Nam. Vừa qua vụ khủng bố vào trung tâm thương mại thế giới và Lầu Năm Góc ngày 11/9/2002 đã làm tổn thất nghiêm trọng cho ngành bảo hiểm trên toàn cầu. Sau sự kiện này năng lực bảo hiểm của thị trường bảo hiểm hàng không quốc tế giảm mạnh và rơi vào giai đoạn khó khăn nhất trong lịch sử từ trước tới nay. Mặc dù phí bảo hiểm tăng lên 2-3 lần, nhưng vẫn có nhiều nhà tái bảo hiểm rút lui khỏi thị trường không nhận hợp đồng tái bảo hiểm hàng không. Những ảnh hưởng của thị trường bảo hiểm hàng không quốc tế đã ảnh hưởng trực tiếp tới thị trường bảo hiểm hàng không Việt Nam. Một phát ngôn viên của Munich Re ( công ty tái bảo hiểm số một thế giới) xác nhận rằng: “các hợp đồng tái tục lần này thật sự khó khăn và áp lực về thời gian có thể cao hơn nhiều so với các năm trước”. Theo ông Rolf Huppi- trưởng điều hành của Zurich Financial Services “...ngành bảo hiểm cần có một cuộc cải tổ để hoạt động hiệu quả, 50 tỷ đô la hay khoản như thế trong các khiếu lại phát sinh từ các cuộc tấn công khủng bố đã loại các công ty bảo hiểm yếu hơn trong một ngành bảo hiểm bị cản trở bởi mức cung quá mức và các mức phí quá thấp trong hơn một thập niên. Sự kiện ngày 11/9 đã xác định lại rủi ro, với sự gia tăng phí bảo hiểm...những công ty bảo hiểm mạnh , có trách nhiệm và năng nổ sẽ là người chiến thắng trong 15 năm tới...”. Trở lại thị trường bảo hiểm Việt Nam, chắc chắn không tránh khỏi những khó khăn chung của thị trường bảo hiểm quốc tế, bởi lẽ hầu hết các hợp đồng bảo hiểm về tài sản và trách mhiệm các công ty bảo hiểm Việt Nam đều phải thu xếp tái bảo hiểm. * Do tác động của tiến trình toàn cầu hoá, hội nhập về kinh tế, các doanh nhiệp bảo hiểm Việt Nam, các doanh nghiệp nhà nước , doanh nghiệp cổ phần nội địa phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt từ các công ty bảo hiểm nước ngoài có tiềm lực tài chính mạnh hơn rất nhiều lần, trình độ nghiệp vụ cao và giàu kinh nghiệm kinh doanh được tích luỹ lâu năm thông qua hoạt động trên thị trường quốc tế và khu vực. Trong khi đó trên tiến trình hội nhập, ngành bảo hiểm Việt Nam( đặc biệt khi hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ với nhiều khoản chi tiết về lộ trình mở cửa của thị trường bảo hiểm Việt Nam đã có hiệu lực) còn bộc lộ một số nhược điểm chủ yếu: - Trước tiên phải kể tới sự chưa hình thành được một chiến lược phát triển tổng thể đối với thị trường bảo hiểm. Việc mở cửa thị trường bảo hiểm cho đến nay hầu như vẫn căn cứ vào diễn biến, tình hình thực tế của thị trường và nhu cầu của các đối tác nước ngoài ( còn mang tính chất thụ động). - Môi trường pháp lý vẫn chưa được hoàn thiện đầy đủ mà điển hình là tính minh bạch và nhất quán ở các văn bản pháp qui(hướng xử lý sự khác nhau giữa luật kinh doanh bảo hiểm và hiệp định thương mại Việt-Mỹ...). - Công tác tổ chức hệ thống quản lý bảo hiểm cũng chưa được phân định rõ ràng và đủ mạnh để phục vụ tốt tiến trình hội nhập . Đó là sự phân chia rạch ròi ,hợp lí giữa các cơ quan quản lí Nhà nước về Bảo hiểm với hiệp hội Bảo hiểm ,đồng thời năng lực của bản thân cơ quan quản lí Nhà nước về bảo hiểm và hiệp hội bảo hiểm cũng chưa đủ mạnh để đáp ứng những nhu cầu quản lí. - Qui mô và phạm vi thị trường còn nhỏ và ít nghiệp vụ cho doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài lựa chọn. Tổng doanh thu phí bảo hiểm cho đến nay mới đạt khoảng 0,68% GDP trong khi tỷ lệ này là 1,5% ở Trung Quốc , 4,2% ở Malaixia , 6,9% ở Đài Loan, 2,25% ở Thái Lan và 5,52% ở Singapore...Các nghiệp vụ bảo hiểm được phát triển chủ yếu theo khă năng sinh lợi cho các doanh nghiệp bảo hiểm mà chưa theo nhu cầu phát triển kinh tế (Bảo hiểm Nông Nghiệp,thiên tai, y tế...). _ Chưa có cơ chế và định hướng rõ ràng để củng cố và phát triển hệ thống doanh nghiệp bảo hiểm. Nhiều doanh nghiệp bảo hiểm trong nước chưa đủ mạnh và chưa quan tâm đến chiến lược phát triển và cạnh tranh trong xu thế mở cửa; trong khi doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài có số lượng lớn ( thậm chí đa số) trong nhiều lĩnh vực nhưng doanh số phí bảo hiểm lại ở mức thấp và thiểu số. Như vậy nếu không được chuẩn bị kĩ, các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước có thể gặp nhiều khó khăn.Thậm chí có thể đi đến chỗ phá sản do sự yếu kém về năng lực tài chính, kinh nghiệm ,công nghệ đội ngũ chuyên gia và cán bộ quản lí. Ngoài ra, các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước bị “ chảy máu chất xám” do những cán bộ có năng lực bị thu hút vào các công ty bảo hiểm nước ngoài bởi chính sách đãi ngộ tốt hơn. Cuối cùng, thị trường bảo hiểm trong nước có thể bị chi phối bởi các công ty bảo hiểm nước ngoài. Điều này một mặt đi ngược lại chính sách của Đảng và Nhà nước đó là củng cố và phát triển mạnh các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước , giữ vững vai trò chủ đạo của các doanh nghiệp nhà nước trong môi trường cạnh tranh. * Hoạt động bảo hiểm, nhất là bảo hiểm nhân thọ còn phải chịu sự cạnh tranh từ các loại hình dịch vụ khác như ngân hàng, chứng khoán. Các hình thức tiết kiệm ngân hàng, đầu tư theo danh mục của công ty chứng khoán...đang tỏ ra chiếm ưu thế và hấp dân các nhà đầu tư hơn so với một số loại hình nghiệp vụ bảo hiểm tương tự, nhất là bảo hiểm nhân thọ. Qua nhìn nhận về thị trường bảo hiểm Việt Nam những năm qua, nhận thấy rằng bên cạnh những bước tiến nhanh còn có những mặt trái của thị trường. Sự cạnh tranh giữa các công ty bảo hiểm mà biểu hiện rõ thông qua sự cạnh tranh giữa các đại lí của họ ngày càng gay gắt hơn. Thực tế các đại lí tranh giành khách hàng của nhau bằng cách chê bai đối thủ cạnh tranh, thuyết phục khách hàng huỷ bỏ hợp đồng đang có hiệu lực của công ty bảo hiểm nào đó để mua hợp đồng bảo hiểm mới của công ty mình... diễn ra phổ biến hơn. Lòng tin của dân chúng vào các công ty bảo hiểm đã được nâng lên, song vẫn còn nhiều câu hỏi hoài nghi về kết cục lâu dài,về việc thực hiện các cam kết như : các công ty bảo hiểm nhân thọ đầu tư khoản phí bảo hiểm thu được như thế nào để có thể chia lãi cho khách hàng như đã cam kết? Một số công ty bảo hiểm lấy nguồn từ đâu để trang trải những khoản chi phí quá lớn cho các hoạt động từ thiện, quảng cáo, hỗ trợ, đào tạo và thù lao trả cho đại lí của họ...? Liệu chính phủ có kiểm soát được hoạt động chi tiêu của các công ty bảo hiểm nhân thọ hay không và khả năng thanh toán của mỗi công ty bảo hiểm nhân thọ như thế nào ?...Nếu tình hình cạnh tranh trên thị trường lành mạnh đúng như cam kết giữa các công ty bảo hiểm, đồng thời những hoài nghi trên của khách hàng được cắt nghĩa rõ ràng bằng báo cáo tài chính hàng năm đã đựoc kiểm toán , thì chắc chắn rằng hoạt động bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam sẽ có tốc độ tăng trưởng nhanh hơn và bền vững hơn. * Hiện tại thị trường bảo hiểm Việt Nam đã có hai công ty môi giới là AONINCHIBROK và VIETQUOC, song cả hai đều chưa thực hiện tốt chức năng tư vấn cho các cá nhân và những doanh nghiệp tham gia bảo hiểm lựa chọn doanh nghiệp bảo hiểm có mức phí bảo hiểm thích hợp cho những điều khoản bảo hiểm có lợi nhất với khả năng xảy ra rủi ro cho đối tượng bảo hiểm của người tham gia. Hoạt động của các công ty môi giới thiên về sử dụng mối quan hệ với khách hàng ở góc độ này hay góc độ khác đẻ giới thiệu cho doanh nghiệp bảo hiểm trả môi giới phí cao hơn. * Hoạt động tái bảo hiểm : Công ty tái bảo hiểm Vinare trong những năm qua đã thực hiện tốt mục tiêu nâng cao tỉ lệ ,giữ lại phí bảo hiểm gốc ở thị trường bảo hiểm trong nước, thông qua chế độ tái bảo hiểm bắt buộc. Tuy nhiên, hoạt động của Vinare nói riêng và hoạt động của thị trường tái bảo hiểm của toàn thị trường bảo hiểm Việt Nam nói chung mới chỉ chú trọng đến việc thu xếp các hợp đồng nhượng tái bảo hiểm mà không quan tâm nhiều đến hoạt động nhận tái bảo hiểm thị trường nước ngoài về Việt Nam. Thên nữa, công ty cũng chưa chú trọng nhiều đến việc khai thác và nhận tái bảo hiẻm theo hình thức tự nguyện, do đó tỉ trọng phí nhận tái bảo hiểm theo chế độ tái bảo hiểm bắt buộc trên tổng doanh thu nhận tái bảo hiểm còn cao. * Hoạt động của hiệp hội bảo hiểm Việt Nam và cơ qua quản lí nhà nước : Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam được thành lập ngày 09/07/1999 thực hiện chức năng là cầu nối giữa các doanh nghiệp bảo hiểm với các cơ quan quản lí nhà nước về hoạt động kinh doanh bảo hiểm, thực hiện qui chế tự quản , duy trì môi trường cạnh tranh lành mạnh và thúc đẩy hợp tác kinh doanh giữa các doanh nghiệp bảo hiểm. Tuy nhiên vai trò “trọng tài” của hiệp hội phụ thuộc rất lớn vào ý thức chấp hành của mỗi hội viên. Mặt khác, năng lực hiện tại của Hiệp hội còn quá bất cập so với nhiệm vụ đặt ra (chỉ có 3 cán bộ chuyên trách ). Do vậy, mặc dù rất cố gắng nhưng hiệu quả đạt được còn rất thấp so với yêu cầu của các công ty hội viên cũng như của thị trường. Về phía cơ quan quản lí nhà nước, mặc dù đã có các thông tư hướng dẫn thi hành luật kinh doanh bảo hiểm, song chưa tạo lập được môi truờng cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp về chế độ tiền lương, tiền thưởng , cũng như định mức các khoản mục chi phí giữa các loại hình doanh nghiệp, chưa có luật cạnh tranh, chưa có những văn bản pháp qui nhằm chế tài các hoạt động vi phạm hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Hoạt động của các cơ quan quản lí nhà nước còn tập trung nhiều vào các công việc hành chính như xem xét điều kiện cấp phép hoạt động, phê duyệt các điều khoản và các sản phẩm bảo hiểm khi các công ty bảo iểm đệ trình...chứ chưa quan tâm nhiều đén việc giám sát hoạt động của các công ty, chưa có hệ thống cảnh báo sớm cũng như đánh giá phân loại năng lực của các công ty bảo hiểm hiện đang hoạt động trên thị trường ,nhằm giúp khách hàng yên tâm khi đưa ra quyết định lựa chọn công ty để tham gia bảo hiểm. * Hoạt động đầu tư tài chính còn nhiều hạn chế: Về xu hướng đầu tư: Do thị trường tài chính chậm phát triển , đặc biệt là thị trường vốn vẫn còn ở giai đoạn sơ khai. Số lượng và chủng loại các chứng khoán và giấy tờ có giá còn đơn điệu, các trung gian thị trường còn mỏng và thiếu kinh nghiệm đã hạn chế việc mở rộng và đa dạng hóa hoạt động đầu tư, làm giảm hiệu quả đầu tư nguồn vốn nhàn rỗi trong dự phòng nghiệp vụ của các doanh nghiệp bảo hiểm. Do đó tốc độ tăng trưởng đầu tư hiện nay có giảm so với các năm trước. Các doanh nghiệp bảo hiểm chỉ tập trung chủ yếu vào những công cụ đầu tư gián tiếp có tính thanh khoản cao để đáp ứng nhu cầu chi trả thường xuyên. Cũng vì thế mà hiệu qủa đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm còn khá khiêm tốn và không đều. Trong đó , các doanh nghiệp lớn cũng chỉ đạt tỉ suất lợi nhuận đầu tư tài sản trong giai đoạn 1999-2001 khoảng từ 3% đến 5%, thấp hơn nhiều so với mức tỉ suất lợi nhuận đầu tư tài sản bình quân ở một số nước. Như vậy cùng với những thuận lợi và khó khăn đó, ngành bảo hiểm Việt Nam phải có những giải pháp gì ? Chương III : Hướng đi nào cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam. Dựa trên sự phân tích, nghiên cứu những thuận lợi và khó khăn; can cứ vào mục tiêu, nguyên tắc hội nhập quốc tế; trên cơ sở đánh giá những tác động hai mặt của quá trình hội nhập cũng như tham khoả của các nước, ngành boả hiểm phải có những giải pháp phù hợp. 1/ Hoàn thiện môi trường pháp lí. Cần phải khẩn trương hoàn thiện môi trường pháp lí đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm thông qua việc ban hành kuật kinh doanh bảo hiểm và các văn bản hướng dẫn thi hành nhằm tạo ra một hành lang pháp lí an toàn và vững chắc cho các doanh nghiệp bảo hiểm kinh doanh và cạnh tranh trong khuôn khổ pháp luật, đồng thời là công cụ hữu hiệu để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các doanh nghiệp và người tham gia bảo hiểm. * Tiếp tục hoàn thiện theo lộ trình hệ thống văn bản pháp qui theo nguyên tắc:xử lý một cách nhất quán và bìmh đẳng sự khác nhau đang tồn tại trong hệ thống pháp luật trong nước,đồng thời bổ sung các chính sách chế độ phù hợp với thông lệ quốc tế để đảm bảo có chế độ kiểm tra , giám sát, tiêu chuẩn an toàn , thận ttrọng cho thị trường bảo hiểm. * Hoàn thiện cơ chế quản lí nhà nước về bảo hiểm, trong đó cần phân định chức năng của cơ quan quản lí bảo hiểm với hiệp hội bao hiểm một cách rõ ràng, hợp lí và phù hợp với thông lệ quốc tế, theo hướng : cơ quan quản lí bảo hiểm chủ yếu tập chung vào việc xây dựng môi trường kinh doanh và công tác kiểm tra , giám sát . Còn hiệp hội bảo hiểm tập chung vào công tác bảo vệ, điều hoà lợi ích giữa các doanh nghiệp bảo hiểm thành viên, đồng thời củng cố tăng cường lực lượngcảu cơ quan quản lí bảo hiểm và hiệp hội bảo hiểm. 2/ Hoàn thiện về mặt tổ chức, mở rộng các loại hình doanh nghiệp bảo hiểm: * Nhanh chóng đánh giá, tổ chức, sắp xếp lại mang lưới doanh nghiệp bảo hiểm trong nước theo hướng: tập trung hình thành một số doanh nghiệp đủ mạnh để cạnh tranh trong lĩnh vực là chủ yếu, còn các doanh nghiệp khác được hình thành và hoạt động theo cơ chế thị trường (kèm theo các bộ phận giám sát và xử lý hậu quả trong trường hợp có rủi ro đối với doanh nghiệp này). * Bên cạnh đó cũng phải khẩn trương nghiên cứu và chú trọng mở rộng dần sự tham gia của các doanh nghiệp nước ngoài vào các nghiệp vụ bảo hiểm hiện có , mở rộng thêm các loại nghiệp vụ có tiềm năng và nhu cầu phát triển như bảo hiểm y tế, bảo hiểm hưu trí...Các công ty bảo hiểm cả trong nước và ngoài nước đã được thành lập thì cần phải: + Đáp ứng nhu cầu của khách hàng cung cấp cho người mua các dịch vụ bảo hiểm có chất lượng cao. + Đa dạng hoá các sản phẩm bảo hiểm, tạo cho khách hàng nhiều sự lưa chọn (đa dạng hoá về nội dung sản phẩm và minh bạch trong cung cấp thông tin). + Kinh doanh có hiệu quả , có lãi và đủ khả năng thanh toán chi phí trên đơn vị dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ bảo hiểm phải thấp giá bán về bảo hiểm phải ổn định (không có sự biến động về mức phí). + Cạnh tranh lành mạnh, cạnh tranh phải thúc đẩy phúc lợi xã hội, công bằng, phải giữ sự minh bach trong công việc kinh doanh. 3/ Các biện pháp hạn chế tình hình cạnh tranh không lành mạnh. Khi xảy ra cạnh tranh không lành mạnh, đặc biệt là sự tranh giành đại lí giữa các công ty bảo hiểm nhân thọ thì cả ba đối tượng: doanh nghiệp,khách hàng và thị trường nói chung đều chịu tổn thất. Do đó hạn chế tình hình cạnh tranh không lành mạnh là yêu cầu cấp thiết. Một số giải pháp đưa ra là: * Đối với đại lí, vấn đề đào tạo đạo đức nghề nghiệp đoáng vai trò rất quan trọng, các công ty cần hướng đại lí vào việc sáng tạo các hình thức nâng cao chất lượng phục vụ của mình thay cho các “thủ thuật” cạnh tranh kếm lành mạnh làm phương hại tới lợi ích của khách hàng. * Đối với khách hàng, khi xã hội phát triển cao thì nhận thức của khách hàng về bảo hiểm nhân thọ cũng càng cao. Nếu khách hàng quen thuộc và hiểu rõ đựoc các quyền lợi bảo hiểm, coi chất lượng dịch vụ từ các đại lí mang lại là tiêu chí trong quyết định mua của mình thì đại lí ít có cơ hội làm ảnh hưởng tới quyền lợi khách hàng. Mặt khác, việc phản đối của khách hàng về chất lượng dịch vụ được coi là một hình thức tôt giúp các công ty ngày càng nâng cao chất lượng dịch vụ. * Chính phủ, cơ quan quản lí nhà nước đóng vai trò quan trọng trong hạn chế cạnh tranh không lành mạnh. Chính phủ có thể có những chính sách như qui định mức hoa hồng để làm tăng thu nhập và nôi kéo các đại lí của nhau. Quản lí tỉ lệ và danh mục các khoản chi phí cho đại lí nhằm hạn chế việc các công ty có khẩ năng tài chính mạnh đầu tư quá lớn cho đại lí nhằm lôi kéo đại lí. Qui định hành vi hoạt động, qui định yêu cầu nghề nghiệp của đại lí nhằm hạn chế hoạt động không lành mạnh như: lôi kéo, lừa gạt khách hàng, trả hoa hồng cho khách hàng, lừa đảo tiền thu phí của khách hàng , lôi kéo đại lí bỏ việc...Các chính sách trên có vai trò quan trọng tạo ra môi trưòng pháp lí cho hoạt động đại lí còn rất mới mẻ này . * Đối với các công ty, vấn đề thoả thuận để có những hình thức cạnh tranh lành mạnh là rất cần thiết, hình thức này có thể diễn ra nội bộ công ty hoặc thông qua thoả thuận giữa các công ty. Thông thường các thoả thuận giữa các công ty thường được thực hiện thông qua hiệp hội bảo hiểm hoặc giữa các công ty trực tiếp kí các thoả thuận với nhau. Các công ty có thể thoả thuận không tuyển dụng đại lí cảu các công ty khác khi chưa được sự đồng ý của công ty đó. Không tuyển dụng các đại lí vi phạm đạo đức nghề nghiệp; hoặc chỉ tuyển dụng khi đại lí đã nghỉ việc ở công ty đó sau sáu tháng. Thống nhất thái độ xử lí đối với các đại lí khi gây ảnh hưởng xấu tới khách hàng, bất kể là khách hàng của công ty hay công ty khác. Nghiêm cấm các trưởng đại lí lôi kéo các đại lí khác bỏ việc. Trong nội bộ, công ty cũng có thể có những hình thức thưởng , phạt, không trả hoa hồng cho những trường hợp chuyển đổi hợp đồng không lành mạnh kể trên. 4/ Các giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư vốn của các doanh nghiệp bảo hiểm ở Việt Nam. * Trước hết đầu tư tài chính của các doanh nghiệp bảo hiểm phải tuân thủ các nguyên tắc sau: + Đảm bảo an toàn: nguyên tắc này đòi hỏi việc quản lí, sử dụng quĩ dự phòng phải luôn được đặt trong tình trạng an toàn nhất để bảo hiểm luôn trở thành một công cụ dự phòng, đảm bảo toàn diện hiệu quả của các hoạt động kinh tế - xã hội. Đây là nguyên tắc cơ bản hàng đầu của các doanh nghiệp bảo hiểm phải thực hiện, vì vậy khi tham gia đầu tư tài chính doang nghiệp bảo hiểm phải đầu tư vào công cụ an toàn nhất. + Sinh lợi: với phí thu được của người tham gia, doanh nghiệp bảo hiểm đã nắm giữ một nguồn tài chính dồi dào. Do còn phải thực hiện cam kết chia lãi cho người tham gia bảo hiểm, doanh nghiệp bao hiểm phải thực hiện các hoạt động đầu tư trên nhiều lĩnh vực nhằm tối đa hoá lợi nhuận để tăng khả năng đền bù, giảm phí đối với người tham gia, làm cho dịch vụ bảo hiểm ngày càng hấp dẫn hơn. Tuy nhiên trong đầu tư, việc thực hiện nguyên tắc này lại phần nào mâu thuẫn với việc thực hiện nguyên tắc trên. + Thanh khoản cao: các khoản đầu tư phải luôn trong khả năng có thể chuyển thành tiền nhanh, để giúp doanh nghiệp bảo hiểm chủ động thực hiện cam kết của mình kịp thời. Danh mục đầu tư tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm được xếp theo trình tự ưu tiên sau: 1_Chứng khoán và những giấy tờ có nguồn gốc chứng khoán. 2_ Đầu tư kinh doanh bất động sản. 3_ Cho vay . 4_Gửi không kì hạn tại ngân hàng để doanh nghiệp bảo hiểm thanh toán cho khách hàng. * Ngoài việc tạo cơ chế, môi trường pháp lí phù hợp, cạnh tranh bình đẳng nhà nước cần phải thực hiện ưu đãi thuế thu nhập từ hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm đối với một số lĩnh vực đang cần phải khuyến khích đầu tư như đầu tưe vào thị trường chứng khoán, mua trái phiếu chính phủ...Bên cạnh đó, nhà nước có thể phát hành thêm các trái phiếu chính phủ có kì hạn dài 15 năm, 20 năm, 25 năm để các doanh nghiệp bảo hểm có nhiều cơ hội đầu tư hơn. * Về phía doanh nghiệp bảo hiểm . - Xây dựng chiến lược đầu tư ,danh mục đầu tư phù hợp. Chiến lược đầu tư đóng một vai trò hết sức quan trọng đối với hoạt động đầu tư trong điều kiện các thị trường vốn, thị trường tài chính luôn vận động và thay đổi. Các doanh nghiệp cần phải xây dựng các chiến lược đầu tư tài chính trong mỗi giai đoạn, từng loại tài sản đầu tư như tài sản đầu tư trực tiếp, đầu tư gián tiếp , đồng thời thực hiên chuyển dịch đầu tư một cách linh hoạt giữa các tài sản đầu tư này cho phù hợp với hoạt động của doanh nghiệp, phù hợp với sự phát triển kinh tế và sự phát triển của thị trường vốn trong mỗi giai đoạn. - Nâng cao tính chuyên nghiệp trong đầu tư . Với sự phát triển mạnh mẽ trong thị trường vốn, thị trường tài chính trong và ngoài nước cũng như sự phát triển của các công cụ tài chính, tài sản tài chính...,thì việc có một đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp giỏi am hiểu về thị trường tài chính và đầu tư tài chính để thực hiện các hoạt động đầu tư là rất cần thiết. Nó góp phần đảm bảo thực hiện các hoạt động đầu tư an toàn, hiệu quả. Hiện tại mới chỉ có Bảo Việt được coi là đầu tư có tính chuyên nghiệp hơn cả với việc thành lập công ty chứng khoán riêng. - Ngoài ra các doanh nghiệp bảo hiểm cần hiện đại hoá công nghệ trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm; xác định rõ nguồn vốn đầu tư để biết được cơ cấu vốn nhàn rỗi và có chiến lược đầu tư phù hợp * Cần có những biện pháp phát triển thị trường tài chính, đa dạng hoá các công cụ, phương tiện lưu thông trên thị trường chứng khoán. Có như vậy thì khả năng và hiệu quả đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm mới được đảm bảo. 5/ Việc hội nhập quốc tế cần phải tuân thủ các nguên tắc cơ bản sau: - Bảo vệ và thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước thông qua các chính sách thích hợp, trong điều kiện chấp nhận cạnh tranh lành mạnh ngay trên thị trường Việt Nam . Đảm bảo vai trò chủ đạo của các doanh nghiệp bảo hiểm Nhà nước dựa trên các chỉ tiêu: thị phần, tỉ trọng phí bảo hiểm giữ lại, qui mô vốn, số lượng các chuyên gia... - Song song với việc bảo hộ cho ngành bảo hiểm trong nước , cần tạo ra một “sân chơi bình đẳng” cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đã , đang và sẽ hoạt động trên thị trường. Hạn chế và từng bước loại bỏ các chính sách phân biệt, đối xử không công bằng giữa các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài và giữa doanh nghiệp bảo hiểm các nước. - Việc hôpị nhập quốc tế phải dựa trên các chế độ, chính sách hiện hành là chính, đông thời từng bước điều chỉnh cho thích hợp , tránh xáo chộn dẫn đế mất ổn định về môi trường chính sách. - Đặt quá trình hội nhập quốc tế trong lĩnh vực bảo hiểm trong khuôn khổ hội nhập tài chính quốc tế Việt Nam, để có những bước đi hợp lí, nhất quán trong việc đề ra mục tiêu và lộ trình hội nhập. - Tích cực tham khảo và học hỏi kinh nghiệm của các nước cùng trình độ phát triển kinh tế - xã hội như Việt Nam; triệt để tận dụng những ưu đãi dành cho các nước đang phát triển trong việc đàm phán và gia nhập các tổ chức kinh tế quốc tế. Kết luận Ngành bảo hiểm toàn cầu vẫn luôn vận động và phát triển. Tuy nhiên, trên đường đua gay go ấy sẽ không có chỗ cho những quốc gia yếu kém và không chịu hội nhập đi lên. Ngành Bảo hiểm non trẻ của chúng ta vẫn tiến nhưng tiến chậm ; trong khi thế giới đã đạt trình độ rất cao. Vậy làm thế nào để rút ngắn khoảng cách? Làm thế nào để chủ động trong hội nhập ? Phải chăng đây vẫn là bài toán nan giải đối với Việt Nam. Trong suốt quá trình phát triển , Bảo hiểm Việt Nam đã trải qua các thời kì từ khi ra đời ( vào năm 1965) rồi phát triển từ độc quyền , bao cấp của nhà nước đến cạnh tranh và hội nhập với thế giới. Các doanh nghiệp bảo hiểm không ngừng vươn lên những nấc thang mới , không ngừng thay đổi để kịp bước với thời đại. Cho đến nay Việt Nam đã có một ngành bảo hiểm khá vững với nhiều kinh nghiệm cả về quản lí lẫn công nghệ ; hàng hoá trên thị trường đa dạng và ngày càng xuất hiện thêm nhiều hàng hoá mới ; nhiều doanh nghiệp bảo hiểm mới xin gia nhập thị trường ; Nhà nước đã ý thức được tầm quan trọng của bảo hiểm và giành sự quan tâm đặc biệt cho việc cải thiện môi trường pháp lí...Như vậy cùng với những thành tựu đạt được, bảo hiểm Việt Nam còn được nhiều thuận lợi ( cả về mặt chủ quan lẫn khách quan , cả từ phía trong nước lẫn môi trường quốc tế mang lại ) ưu ái, hứa hẹn nhiều cơ hội, nhiều thành công mới. Tuy vậy , song song với những thành tựu và thuận lợi đó , bảo hiểm Việt Nam luôn phải đối mặt với những thách thức khó khăn cả cũ cả mới , cả đã phát sinh và cả đang tiềm ẩn. Nhìn từ góc độ quốc gia thì bảo hiểm của chúng ta rõ ràng có sự phát triển lớn. Nhưng nếu xét nó trong mối tương quan với toàn thế giới thì bảo hiểm ở nước ta vẫn còn ở mức trung bình, non trẻ và nhiều yếu kém. Điều này thể hiện trên các mặt như : sức cạnh tranh yếu , công nghệ còn lạc hậu , năng lực quản lí kém và môi trường pháp lí cần có nhiều thay đổi để phù hợp hơn. Như vậy , đứng trước xu thế hội nhập và hợp tác quốc tế hiện nay,Bảo hiểm Việt Nam đã có những bước tiến tích cực theo hướng thúc đẩy tự do hóa và mở cửa. Quá trình này một mặt đem lại nhiều cơ hội phát triển , song cũng chứa đựng những thách thức lớn đòi hỏi các cơ quan quản lí nhà nước và các doanh nghiệp bảo hiểm trên thị trường phải có những chính sách và biện pháp thích hợp để đón lấy thời cơ này một cách chủ động. Có như vậy ta mới tìm được “ hướng đi cho bảo hiểm Việt Nam”. Tài liệu tham khảo 1. Tạp chí tài chính số 1, 2, 4, 5/2000 2. Tạp chí tài chính 5/2001 3. Tạp chí tài chính 1, 2, 3, 9, 10, 11/2002 4. Tạp chí tài chính 1, 2, 4, 6/2003 5. Báo cáo tổng kết của Tổng Công ty Bảo hiểm Việt Nam, các năm 1997, 1998, 1999, 2000, 2001, 2002 6. Báo cáo tài chính của Tổng Công ty Bảo hiểm Việt Nam các năm 1997, 1998, 1999, 2000, 2001, 2002 7. Nghiên cứu kinh tế số 278 - tháng 7/2001 8. Tạp chí ngân hàng tháng 9/2000. 9. Giáo trình Lý thuyết tiền tệ ngân hàng Mục lục Trang Lời mở đầu 1 CHƯƠNG 1: Khái luận chung về các công ty bảo hiểm 1.Khái niệm. 2 2 Vai trò của bảo hiểm đối với đời sống kinh tế xã hội. 3.Phân loại bảo hiểm. 3 3.1/ Bảo hiểm nhân thọ(life insurance): 3 3.2/Các công ty bảo hiểm tài sản và tai nạn. 5 4 Đặc trưng của các loại hình kinh doanh bảo hiểm theo luật kinh doanh bảo hiểm. 7 5 Sự cần thiết phải cho phép các tổ chức khác hoạt động ngân hàng (trong đó có bảo hiểm). 9 Chương II: thực trạng của các doanh nghiệp bảo hiểm trước xu thế hội nhập và hợp tác quốc tế. I/Điểm qua tình hình hội nhập quốc tế trong lĩnh vực bảo hiểm trên thế giới hiện nay (Tổng kết 2000 - tạp chí tài chính ). 10 1.Thị trường bảo hiểm toàn cầu: 10 2. Thị trường bảo hiểm tại liên minh Châu Âu. 10 3. Hợp tác về bảo hiểm giữa các nước ASEAN: 11 4. Trung Quốc và việc mở cửa thị trường bảo hiểm. 11 II/Thực trạng bảo hiểm Việt Nam. 12 1/Thuận lợi: 1.1/ Thành tựu của các công ty bảo hiểm nhân thọ: 17 1.2/ thành tựu của các công ty bảo hiểm phi nhân thọ: 18 1.3 Thị trường bảo hiểm xuất hiện thêm nhiều nghiệp vụ và sản phẩm mới. 19 1.3.1/ Nghiệp vụ đầu tư tài chính đã được các công ty bảo hiểm chú ý: 19 1.3.2/ Nhiều sản phẩm mới đã xuất hiện. 20 2. Khó khăn: 21 Chương III>Hướng đi nào cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam. 1/ Hoàn thiện môi trường pháp lí. 27 2/ Hoàn thiện về mặt tổ chức, mở rộng các loại hình doanh nghiệp bảo hiểm: 27 3/ Các biện pháp hạn chế tình hình cạnh tranh không lành mạnh. 28 4/ Các giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư vốn của các doanh nghiệp bảo hiểm ở Việt Nam. 29 5/ Việc hội nhập quốc tế cần phải tuân thủ các nguên tắc cơ bản . 31 Kết luận 33

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35472.doc
Tài liệu liên quan