Đề tài Huy động các nguồn vốn trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam

Vốn là một trong những yếu tố quan trọng nhất đê phát triển kinh tế. Đối với một nước đang đi vào thục hiện quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước như Việt Nam hiện nay thì vốn là điều kiện tiên quyết đối với sự thành công của quá trình này. Muốn có được một lượng vốn cần thiết, chúng ta phải có chiến lược huy động vốn phù hợp. Vấn đề huy động vốn các nguồn vốn trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay là một là vấn đề cần thiết và cấp bách. Trong đề tài này, vấn đề huy động các nguồn vốn trong nền kinh tế thị trường đã được bàn đến với nội dung cơ bản là: các nguồn vốn trong nền kinh tế hiện nay, khả năng khai thác của chúng, các công cụ để huy động vốn; các nguồn vốn đã được khai thác ở Việt Nam; các công cụ đã được sử dụng để huy động vốn; nguồn vốn nào đóng vai trò chủ đạo cho sự phát triển kinh tế thời gian tới; những biện pháp để huy động có hiệu qủa các nguồn vốn và những trỏ ngại đối với việc huy động vốn ở nước ta hiện nay.

doc55 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1442 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Huy động các nguồn vốn trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g chủ yếu của nó là nhận tiền gửi của khách hàng, cho vay làm nhiệm vụ triết khấu và thanh toán .Chức năng chủ yếu của NHTM là làm chứcnăng tổ chức trung gian tín dụng để huy động vốn nhàn rỗi, đồng thời cung cấp vốn cho các chủ thể . Hiện nay ở nước ta chủ yếu là NHTM NN và NHTM CP .Đặc điểm của người Việt Nam là chưa có thói quen đầu tư mà thường dùng tiết kiệm của mình để mua các tài sản có giá như vàng bạc đá quý đồ cổ ... do đó NHTM cần tạo được lòng tin trong dân chứng để thu hút họ gửi tiền vào tiết kiệm. 2. Thị trường vốn . Thị trường đấu thầu tín phiếu và trái phiếu kho bạc . Đây là hình thức huy động vốn cho NSNN rất mới mẻ ở nước ta. Thị trường đấu thầu tín phiếu và trái phiếu kho bạc chính thức được khai trương và đi vào hoạt động ở nước ta từ tháng 6\1995. Hình thức này được thực hiện bằng cách phát hành tín phiếu, trái phiếu kho bạc theo phương thức đấu thầu qua NHNN. Hình thức huy động vốn này có lãi suất và chi phí huy động thấp, đáp ứng kịp thời vốn cho chi tiêu của NSNN cho các dự án phát triển ở trung ương và địa phương. Tuy mới ra đời được 6 năm, nhưng số thành viên tham gia vào thị trường này ngày một tăng và trong tương lai nó có thể phát huy được khả năng vốn có. Các dự án đầu tư. Dự án đầu tư là một tập hồ sơ tài liệu trình bày một cách chi tiết và có hệ thống các hoạt động và chi phí theo một kế hoạch của một công cuộc đầu tư phát triển kinh tế xã hội hoặc phát triển sản xuất kinh doanh nhằm đạt được những kết qủa nhất định và xác định mục tiêu trong tương lai lâu dài. Trên cơ sở thực trạng nền kinh tế xã hội trong nước và những yêu cầu phát triển kinh tế xã hội trong tương lai, Nhà nước lập ra các dự án nhằm đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế xã hội như: Các dự án về nâng cấp cơ sở hạ tầng. Các dự án về xây dựng khu công nghiệp, khu chế xuất. Các dự án về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. ......... Từ đó để thu hút các nguồn vốn trong và ngoài nước. Vay nợ và xin viện trợ. Hiện nay Việt Nam là một trong những nước nghèo nhát thế giới, do đó xin viện trợ của một số nước và tổ chức trên thế giới. Tuy nhiên, hình thức này ngày càng khó khăn và trong tương lai nó sẽ không được tính đến. Nhà nước có thể vay nợ từ hai nguồn: trong và ngoài nước. Vay nợ trong nước bằng cách phát hành công trái, tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc. Vay nợ nước ngoài có thể thông qua ODA hoặc vay các NHTM nước ngoài, vay tư nhân. Hình thức này làm phát sinh nợ, mặt khác nó chịu các sức ép đòi hỏi Nhà nước phải cân nhắc trước khi vay. Các hợp đồng trả trước. Đây là một phương pháp bán trước, sản xuất sau. Cách này thường đưọc các doanh nghiệp sử dụng để huy động vốn. Việc thuê tài chính. Đây là hình thức huy động vốn được các nước phát triển sử dụng từ lâu và có hiệu quả khá tốt, ít xảy ra rủi ro, phạm vi tài trợ rộng rải. Tuy nhiên ở nước ta hình thức này chưa phổ biến. Việc huy động vốn thông qua thuê tài chính là một hình thức nên làm ở các nước đang phát triển, nhằm thay đổi công nghệ, phục vụ cho phát triển kinh tế trong điều kiện ít vốn. CHƯƠNG II CÁC NGUỒN VỐN ĐÃ ĐƯỢC KHAI THÁC Ở VIỆT NAM Các công cụ huy động vốn đã được sử dụng ở Việt Nam. Sau nhiều năm chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, công cụ huy động vốn ở nước ta ngày càng phong phú đa dạng. Ngoài công cụ truyền thống: phát hành công trái, vay trong nước thông qua hệ thống ngân hàng, vay nước ngoài, gọi đầu tư,...Hiện nay còn có những công cụ mới mẽ như: thị trường vốn, thuê tài chính...các hình thức này hiện nay chưa phát huy được hết tác dụng nhưng nó có triển vọng lớn trong tương lai. Hệ thống các tổ chức tài chính trung gian không ngừng phát triển và đóng vai trò quan trọng trong việc huy động vốn thời gian vừa qua và sắp tới. Hệ thống các NHTM đưọc mở rộng dưới nhiều hình thức: NHTM quốc doanh, NHTM cổ phần, NHTM liên doanh... Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam giữ vững nhịp độ tăng trưởng. Năm 2000, tổng tài sản tăng 21%, nguồn vốn huy động tăng 35% và đổi mới, mở rộng, nâng cao sức cạnh tranh. Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn: tổng nguồn vốn kinh doanh tăng 41%, tổng dự nợ tăng 36%. Trong năm 2000 đã tiếp nhận 42 dự án nước ngoài với tổng số vốn là 1210 triệu $ đến nay ngân hàng nông nghiệp đã thực hiện được 20 sản phẩm dịch vụ mới. Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn ở Việt Nam là ngân hàng chủ lực trong huy động vốn và cho vay tín dụng đối với các doanh ngiệp, tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh nông nghiệp. Công cụ thu hút vốn bằng các dự án đầu tư đã và đang được sử dụng phổ biến và mang lại hiệu quả. Nó đã huy động được vốn từ khu vực tư nhân trong nước và đặc biệt là khu vực nước ngoài. Kể từ khi ban hành luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam tới nay đã có hơn 3260 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) được cấp giấy phép ở Việt Nam với tổng số vốn là 44 tỷ $. Đây là công cụ huy động vốn rất quan trọng hiện nay. Công cụ huy động vốn thông qua vay nợ và xin viện trợ đã được sử dụng và thu được nhiều kết quả trong những năm qua (viện trợ của các tổ chức phi chính phủ NGOs, của Liên Xô cũ...). công cụ này hiện nay khó sự hơn do sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường vốn. Công cụ này được dùng để huy động ODA-nguồn vốn rất quan trọng cho phát triển kinh tế. Thị trường đấu thầu tín phiếu và trái phiếu kho bạc là một công cụ huy động vốn rất mới mẽ ở nước ta. Từ khi nó bắt đầu sử dụng ở nước ta tháng 6/1995 tới cuối tháng 9/2000, ban đấu thầu liên bộ NHNN-Bộ Tài chính chức 184 đợt đấu thầu tín phiếu, trái phiếu kho bạc qua NHNN trong đó có 39 đợt đấu thầu tín phiếu kho bạc (thời hạn dưới 1 năm) và 145 đợt đấu thầu tín phiếu kho bạc (thời hạn 1 năm). Tổng khối lượng tín phiếu, trái phiếu đã phát hành qua trị trường này là 15282,8 tỷ đồng. Công cụ này ngày càng thu hút đưọc nhiều thành viên tham gia và thông qua nó ngày càng huy động được nhiều vốn. Thị trường vốn mà cốt lõi là thị trường chứng khóan được thành lập và đi vào hoạt động ngày 20/7/2000. Đến nay trên thị trường chứng khoán chính thức có 6 loại cổ phiếu được niêm yết. Ngoài ra thị trường chứng khoán phi chính thức (OTC) hoạt động khá sôi động. Công cụ thị trường vốn là công cụ quan trọng và bậc nhất để huy động kịp thời các nguòn vốn cho nền kinh tế đối với một đất nước muốn phát triển. Tuy nhiên công cụ này ở nước ta hiện nay chưa phát huy được vai trò của nó trong việc huy động các nguồn vốn. Ngoài ra, các công cụ còn lại cũng đã xuất hiện ở nước ta. Tuy nhiên vai trò của nó rất mờ nhạt. I. T×nh h×nh huy ®ĩng vỉn ị n­c ta hin nay. Trong hơn 10 năm nền kinh tế chuyển đổi sanh nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Đảng và Nhà nước liên tục có những chính sách cải cách kinh tế cho phù hợp với tình hình mới của sự phát triển kinh tế. Theo đó các chính sách về huy động các nguồn vốn trong nền kinh tế thị trường đã đạt nhiều kết quả tốt. Tính chung trong 6 tháng đầu năm 2001, cả nước đã thu hút được hơn 973 triệu $ (thông qua 97 dự án) , gấp 3 lần cùng kỳ năm trước, tăng 13% về lượng dự án và 68% về mức vốn so với 6 tháng đầu năm 2000. Đây là mức tăng trưởng khá, đặc biệt là đang trong giai đoạn khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, cũng như trong nước gặp rất nhiều trở ngại. Vốn đầu tư từ Nhật và Mỹ vươn lên đứng thứ 2 và 4 với số vốn: 86,4 triệu $ và 54,6 triệu $ con số này một phần phản ánh được sự chuyển động của dòng vốn trước kia chảy mạnh vào Mỹ và Nhật nay đổi hướng vào các nước có tình hình chính trị ổn định hơn trong đó có Việt Nam. Bất chấp tình trạng thiểu phát kéo dài, vốn nhàn rỗi trong dân cư được khai thác tốt là dấu hiệu phản ứng tính tích cực của luật doanh nghiệp và luật khuyến khích đầu tư trong nước. Chỉ trong vòng một năm rưỡi kể từ tháng 6/2001 trở lại, tổng số vốn đầu tư tư nhân đã lên tới 2 tỷ $ gấp 5 lần cả năm 1999. Dưới đây là tình hình huy động từng nguồn vốn cụ th 1. Nguồn vốn Nhà nước. Trong những năm gần đây, quy mô NSNN không ngừng tăng lên nhờ mở rộng nhiều nguồn thu khác nhau, nhưng chủ yếu qua thuế và phí (chiếm khoảng 95%) tỷ lệ động viên GDP vào NSNN đã tăng trung bình từ 13,1% GDP trong thời kỳ 1986-1990 lên 20,5%GDP thời kỳ 1991-1995, và hiện nay khoảng 22% GDP. Đồng thời tỷ lệ chi cho đầu tư phát triển (chủ yếu là đầu tư phát triển cở sở hạ tầng kinh tế xã hội và phát triển nông lâm nghiệp) trong tổng chi NSNN Nhà nước hàng năm cũng gia tăng đáng kể, từ mức 2,3% GDP năm 1991 lên 6,1% GDP năm 1996 (nếu kể cả mức khấu hao cơ bản là 7,9% GDP) . Tình hình thu-chi và bọi chi NSNN tính theo % của GDP được thể hiện ở bảng sau: 91 92 93 94 95 96 97 98 99 00 Tốc độ tăng trưởng KT % 6 8,6 8,1 8,8 9,5 9,3 8,2 5,8 4,8 6,7 Thu NSNN 13,1 19,0 23,6 23,2 23,3 23,1 21,6 20,5 18,3 18,0 Chi NSNN 15,5 21,4 28,8 27,9 27,5 26,2 26,8 23,6 23,2 22,9 Bội chi NSNN 2,4 2,4 5,2 4,7 4,2 3,1 4,2 3,1 4,9 4,9 Bình quân 10 năm tỷ suất thu NSNN so với GDP đạt 20,2%. Những năm cuối thế kỷ quy mô NSNN đã tăng khoảng 2,6-2,9 lần so với năm 1991. Nếu xét số tuyệt đối, xét theo giá hiện hành thì thu NSNN năm 2000 đã tăng gấp 7,7 lần so với năm 1991. Trong đó số thu từ thuế và phí ngày một tăng. Chi NSNN khá thất thường trong những năm đầu thập niên 90. Năm 90, tổng chi NSNN chiếm 20% GDP, năm 1991 xuống còn 15,5%. Sau đó tăng đột ngột lên 28,8% năm 1993 và từ năm 1994 thì chi NSNN so với GDP liên tục giảm. Bình quan cả thập niên từ 1991-2000 mức chi NSNN đã đạt 24,1% GDP, tăng mạnh so với mức bình quan 19,7% giai đoạn 1986-1990. Thâm hụt NSNN là trung bình trong các năm. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, việc thâm hụt NSNN là khó tránh khỏi, do Nhà nước phải đầu tư một lượng vốn lớn vào xây dựng cơ bản. Ngoài ra NSNN còn phải tập trung đầu tư cho nông nghiệp và phát triển nông thôn, khắc phục hậu quả của thiên tai, tăng vốn cho các công trình mục tiêu quốc gia nhất là chương trình xóa đói giảm nghèo. Tổng giá trị tài sản doanh nghiệp Nhà nước hiện có trên 527000 tỷ đồng. Tài sản cố định theo nguyên giá có trên 218700 tỷ đồng đã hao mòn 43%. Vốn lưu động chỉ đáp ứng được 15-20% nhu cầu, mà nhu cầu lên tới 50000-70000 nghìn tỷ đồng trong khi ngân sách chỉ có thể đảm bảo cấn đối được vài trăm tỷ đồng. Trong 10 năm qua NSNN đã đầu tư thêm cho DNNN 41535 tỷ nhưng công nợ của DNNN đã bằng 160% tổng số vốn Nhà nước trong các DNNN. Trong tổng số DNNN, số doanh nghiệp làm ăn có lãi chỉ chiếm 71,9%, số bị lỗ khoảng 19-20%. Các tỉnh có tỷ trọng thua lỗ cao như: Nam Định 46%, Thái Bình 35%, Hà Nam 33%, Hải Phòng 21%, Bà Rịa-Vũng Tàu 21%. Việc các DNNN làm ăn kém hiệu quả như hiện nay gây ra nhiều khó khăn cho việc tạo vốn mới. Ngoài việc Nhà nước không thu được phần lợi nhuận bằng tiền do công ty làm ra, Nhà nước còn phải bù lỗ cho các DNNN làm ăn thua lỗ này. Giải quyết tình trạng thiếu vốn và hiệu quả thấp của các DNNN cần phải có giải pháp ở cả 3 phía: doanh nghiệp-Nhà nước-ngân hàng. Nhà nước cần phải nhanh chóng sắp xếp lại và đổi mới đối với DNNN, sắp xếp về số lượng, quan trọng hơn là đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, khắc phục những hạn chế, khó khăn, trước hết là tình trạng thiếu vốn và sử dụng kém hiệu quả nguồn vốn. Nhà nước cũng cần phải quản lý chặt chẽ hơn nữa các DNNN để tránh hiện tượng báo cáo khống; hiện tượng tham nhũng, vô trách nhiệm của các cán bộ quản lý. Nguồn tài sản công ước khoảng 750000 tỷ đồng ở dạng tiềm năng là tài sản Nhà nước do các cơ quan hành chính sự nghiệp, đơn vị lực lượng vũ trang, cơ quan Đảng, đoàn thể quản lý. Chỉ tính 1599 dự án đầu tư nước ngoài được cấp giấp phép mà phía Việt Nam dùng giá trị tiền thuê đất đã được 4 tỷ $. Nếu thu tiền sử dụng đất đối với 645205 ha đất nông nghiệp và 63402 ha đất đo thị mà Nhà nước đang nắm giữ sẽ thu được khoảng 30000 tỷ đồng/năm. Hàng năm việc khai thác các tài nguyên trên mặt đất, dưới lòng đất và trên mặt đất đã đem lại một tài sản lớn cho quốc gia. 2. Nguồn vốn trong dân cư. Đây là một nguồn vốn lớn đầy tiềm năng. Hiện nay nguồn vốn còn nhàn rỗi còn nhiều trong dân cư chưa được phát huy. Theo dự tính nguồn vốn tồn đọng trong dân cư còn khoản 6 tỷ $. Nếu khai thông được nguồn vốn này thì nó sẽ đem lại một lượng vốn cho nền kinh tế. Việc huy động vốn trong dân đã đạt được khá nhiều kết quả. Số các doanh nghiệp tư nhân tăng nhanh, khả năng thu hút vốn đầu tư, tăng mức nộp ngân sách và thu nhập lao động khá cao. Năm 1991 có 123 doanh nghiệp với tổng số vốn điều lệ là 69 tỷ đồng. Năm 1996 đã tăng lên 26091 doanh nghiệp và 8257 tỷ đồng, tương đương với 14% tổng số vốn điều lệ của các DNNN. Tuy nhiên, về quy mô các doanh nghiệp này còn nhỏ, công nghệ lac hậu, hầu như không liên doanh liên kết với nhau. 50% số doanh nghiệp không mở rộng đầu tư, chỉ có 36% tăng vốn điều lệ lên 1-2 lần và 5% tăng lên 2 lần. Ngoài ra còn kể tới 10 triệu hộ nông dân và 2 triệu hộ cá thể sản xuất tiểu thủ công nghiệp, kinh doanh thương mại và dịch vụ trên cả nước. Tất cả đều ở tình trạng vốn nhỏ, công nghệ lạc hậu hơn các doanh nghiệp nói trên. Còn các hợp tác xã thì vốn cố định trung bình chiếm tới 80% số vốn hiện có trong đó 60% là nhà xưởng, 20% là thiết bị, tất cả đều cũ nát, lạc hậu. Nhiều hợp tác xã vẫn ở tình trạng nằm chờ chính sách giữ nhà xưởng. Trong 6 tháng đầu năm 2001, tình hình huy động vốn trong dân cư có nhiều dấu hiệu khả quan bất chấp tình trạng thiếu phát kéo dài. Đây là dấu hiệu phản ứng tích cực của lụat danh nghiệp và luật khuyến khích đầu tư trong nước. Nguồn vốn trong dân hiện nay có thể được huy động như sau: Các doanh nghiệp tự đầu tư bao gồm cả DNNN và DN dân doanh. Từ khi Nhà nước đưa ra chính sách đầu tư tư nhân đến nay, số DN tư nhân tăng lên nhanh chóng. Tuy nhiên, Việt Nam là một nước chủ yếu là kinh tế nông nghiệp nên cần tạo ra những làng nghề đặc trưng, đồng thời phải iếp tục đẩy mạnh việc khuyến khích phát triển kinh tế trang trại. Tất cả những điều đó đều thúc đẩy người dân đầu tư vào sản xuất một cách mạnh dạn do độ rủi ro thấp. Huy động vốn từ chính các đối tượng chịu tác động tích cực của chính sách. Nguồn này được huy động để thực hiện các dự án theo các phương thức Nhà nước và nhân dân cùng làm. Theo phươn thức này cần phải xác định rõ các đối tượng nằm trong vùng ảnh hưởng ngoại biện tích cực của dự án. Nợ trong nước là nguồn vay tín dụng của các ngân hàng, nguòn vốn này có liên quan tới việc huy động nhân dân gửi tiền tiết kiệm, mua các loại trái phiếu Chính phủ. Hình thức này được thực hiện bởi hệ thống ngân hàng thương mại rộng khắp trên đất nước. Nguồn vốn ODA. Ở Việt Nam, nguòn vốn ODA đã có mặt từ rất lâu, song nguồn vốn này có một thời gian bị gián đoạn đó là từ khi Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, cho đến cuối năm 1993 với việc bình thường hóa quan hệ với ngân hàng thế giới (WB) và ngân hàng phát triển Châu Á (ADB). Các nguồn vốn ODA chuyển vào Việt Nam có triển vọng tăng nhanh. Tính từ năm 1993 tới hết tháng 12/1999 tổng số vốn ODA cam kết là 15347,2 triệu $, trong đó vốn được giải ngân là 6478 triệu $, số liệu cam kết và giải ngân cụ thể trong từng năm như sau: Đơn vị tính: triệu $ Năm 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 Tổng số Vốn cam kết 1810,8 1941 2264,5 2430,9 2400 2400 2100 1537,2 Giải ngân 274 625 612 985 1100 1430 1450 6478 Tỷ lệ % 15,1 32,2 27 40,5 45,8 59,6 69,1 42,2 ODA là nguồn vốn đầu tư chủ yếu tạo bước tăng trưởng về cơ sở hạ tầng của cả nước trong những năm qua. Tính đến cuối năm 1998, ước giải ngân ODA đạt khoảng 5,1 tỷ $, nhưng số vốn thực hiện trong 3 năm đầu từ 1993- 1995 chỉ chiếm 30% tổng số vốn, 70% phần vốn còn lại tập trung vào giai đoạn 1996-1998. Các công trình cơ sở hạ tầng thường kéo dài. Chính vị vậy mà nguồn vốn ODA thường tác động chậm đến tăng trưởng kinh tế. Trong giai đoạn 1996-1997 ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước có nhịp độ tăng bình quân là 11,8%, ngành vận tải, kho bãi và thông tin liên lạc tăng 8,2%. Mặc dù bối cảnh trong nước và quốc tế có nhiều khó khăn, nhưng mức thực hiện vốn ODA vẫn giữ được xu thế tiến bộ. Đây là cơ hội ngàn vàng tạo điều kiện để chúng ta khắc phục được những khó khăn tạm thời mà cuộc khủng hoảng tài chính mang lại. Tuy nhiên mức độ thực hiện ODA năm 1998 vẫn chỉ đạt khoảng 80% kế hoạch năm, điều này cho thấy dù tiến bộ trong việc thực hiện nguồn vốn này, nhưng tốc độ vẫn còn thấp so với tiềm năng. Việc sử dụng ODA trong thời gian qua đã phù hợp với những ưu tiên phát triển của Chính phủ Việt Nam, đóng góp tích cực cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam. Mức giải ngân bình quân hàng năm thời kỳ 1996-2000 vào khoảng 1,1 tỷ $, đạt hơn 70% mức kế hoạch. Giải ngân vốn ODA của các nhà tài trợ lớn như Nhật Bản, WB, ADB có nhiều tiến bộ. Theo báo cáo năm 1999 của chương trình phát triển Liên Hợp Quốc tại Việt Nam (UNDP), tình hình giải ngân vốn ODA có những thành tích đáng ghi nhận. Mức giải ngân cho ngành giao thông vận tải đã tăng từ 110 triệu $ trong năm 1996 lên 212 triệu $ trong năm 1998. Các chương trình khôi phục hệ thống cấp thoát nước và phát triển đô thị đạt mức giải ngân 45 triệu $ trong năm 1998, mức này vẫn được giữ ổn định từ năm 1994. Cũng năm 1998, phù hợp với chủ trương dành ODA cho phát triển nông nghiệp nông thôn của Chính phủ, khoảng 216 triệu $ vốn ODA đã đượci cho lĩnh vực này. Mức giải ngân của các dự án ODA trong ngành giáo dục-y tế cũng tăng từ 146 triệu $ năm 1997 lên 178 triệu $ năm 1998. Trong năm 1998, các phát triển xây dựng cơ bản bằng nguồn vốn ODA giải ngân được 708 triệu $, chiếm 600 tổng số vốn ODA giải ngân trong năm này. Tốc độ giải ngân tuy đã có nhiều tiến bộ, đặc biệt trong 2 năm 1999-2000 nhưng vẫn còn thấp so với mong muốn của cả hai phía: Chính phủ Việt Nam và cộng đồng các nhà tài trợ. Trong bảng thống kê ở trên cho ta thấy nguồn vốn ODA đã liên tục tăqng trong những năm vừa qua, đặc biệt nguồn vốn này chịu ảnh hưởng không đáng kể bởi cuộc khủng hoảng tài chính khu vực, mà có xu hướng ngày càng gia tăng. Như vậy, hơn lúc nào hết trong giai đoạn hiện nay Việt Nam có thể coi nguồn vốn ODA là một giải pháp cứu cánh để khắc phục khó khăn tạm thời về vốn, đồng thời tạo đà cho việc thu hút đầu tư tư nhân, xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội và giải quyết các vấn đề xã hội như: xóa đói giảm nghèo, nâng cao chất lượng chính sách thông qua các phúc lợi công cộng như phát triển y tế cộng đồng, tái hòa nhập hồi hương, tăng đầu tư giáo dục... Trong thời gian tới việc huy động ODA sẽ ngày càng trở nên khó khăn. Vấn đề đặt ra với Việt Nam là làm sao đẩy nhanh được tốc độ giải ngân. Muốn vậy Việt Nam phải nhanh chóng học hỏi những kiến thức, kinh nghiệm cần thiết trong tiến trình chuẩn bị, xây dựng dự án đến lúc phê duyệt, bắt tay vào thực hiện dự án (khi ODA thực sự được giải ngân) cũng như những kinh nghiệm trong quy hoạch, điều phối, quản lý dự án, đấu thầu, giải phóng mặt bằng. Cụ thể là: Đẩy mạnh “hài hòa thủ tục dự án”: dự án đầu tư bằng nguồn vốn ODA phải trải qua hai khâu thẩm định. Các quá trình thẩm định và phê duyệt dự án diễn ra từ phía các cơ quan Chính phủ và các nhà tài trợ. Để đảm bảo việc phê duyệt dự án được suôn sẻ cần có sự cải tiến thủ tục và sự phối hợp của cả hai phía. Cả hai bên cần nghiên cứu, điều chỉnh để thủ tục thẩm định của hai bên tiến tới đồng bộ, thống nhất và phối hợp nhịp nhàng với nhau cả về nội dung và thời điểm thẩm định. Nên giảm bớt những thủ tục không thực sự cần thiết trong quá trình phê duyệt các văn bản báo cáo nghiên cứu khả thi. Giải quyết tốt vốn đối ứng: vốn đối ứng cho các chương trình, dự án sử dụng vốn ODA là phần vốn trong nước tham gia trong từng chương trình dự án ODA được cam kết giữa Việt Nam và phía nước ngoài trong các hiệp định, văn kiện dự án , quyết định đầu tư của cấp có thẩm quyền. Các dự án vay vốn của Chính phủ Nhật Bản (IBIC) hoặc WB, hoặc ADB thường yêu cầu vốn đối ứng trong nước chiếm từ 15-30% tổng giá trị dự án, các dự án viện trợ của các tổ chức Liên Hợp Quốc thường cũng đòi hỏi vốn trong nước khoảng 20% giá trị dự án. Về nguyên tắc vốn đối ứng của chương trình, dự án thuộc cấp nào thì cấp đó xử lý từ nguồn ngân sách của mình. Trường hợp một số địa phương có vốn đối ứng phát sinh quá lớn, vượt quá khả năng cân đối thì cần trình thủ tướng Chính phủ để xin hỗ trợ một phần ngay từ khi lập dự án . tuy nhiên vốn đối ứng không phải lúc nào cũng trôi chảy mà đang là một trong những nguyên nhân gây nên sự chậm trể thực hiện dự án. Cơ chế vốn đối ứng khác nhau cho những dự án cùng loại là câu hỏi đang chờ giải đáp. Bên cạnh đó một số dự án do vốn đầu tư lớn nên càng khó khăn về vốn đối ứng đặc biệt là đối với các địa phương. Để tháo gỡ những khó khăn về vốn đối ứng, cần quy định cụ thể hơn về cơ chế vốn đối ứng. Đảm bảo vốn đối ứng được cấp đầy đủ và kịp thời theo tiến độ thực hiện dự án, thống nhất cơ chế vốn đối ứng đối với những dự án cùng loại. Cải thiện chất lượng đầu vào của dự án: cần quan tâm nhiều hơn nữa tới chất lượng đầu vào của nguồn vốn ODA. Phải lựac chọn dự án phù hợp, phục vụ việc thực hiện chiến lượnc phát triển kinh tế xã hội dài hạn và trung hạn. Các dự án cần gắn với quy hoạch tổng thể phát triển ngành, vùng, lãnh thổ. Cần chú trọng tới cơ cấu và tính bền vững của nguồn ODA. Cần phát triển hơn nữa các quan hệ đối tác giữa các bên, trên cơ sỏ quan tâm tới lợi ích chung của các bên và đề cao vai trò làm chủ của bên tiếp nhận ODA. Chia sẻ thông tin cũng là một cơ sở quan trọng để phát triển quan hệ đối tác. Thời gian qua chúng ta đã tiến hành nhiều hoạt động nhằm cải thiện trao đổi thông tin giữa Việt Nam và các nhà tài trợ. Chẳng hạn, tổ chức hội nghị điều phối viện trợ ngành, tổ chức các nhóm quan hệ đối tác này, phân tích và đánh giá tình hình phát triển của Việt Nam nói chung và trong một số lĩnh vực cụ thể nói riêng. Tuy vậy công tác thông tin vẫn còn nhiều hạn chế. Để có thể phối hợp trong quan hệ thì các bên phải có những thông tin chính xác, kịp thời. Vì thế cần đẩy mạnh công tác thông tin về ODA. Tiếp tục hoàn thiện chính sách đền bù, tái định cư...Đây là khâu quan trọng có ý nghĩa kinh tế, xã hội, chính trị, môi trường...Nhưng cũng là khâu thường xuyên có vướng mắc, gây tổn hại cho dự án ODA. Tăng cường năng lực quản lý dự án ODA: hiện tại, năng lực các ban quản lý dự án phụ thuộc phần lớn vào năng lực cá nhân những người phụ trách, khả năng quan hệ của họ và vừa làm, vừa học để tích lũy kinh nghiệm. Tình trạng này một phần do các văn bản pháp quy còn chưa đầy đủ, thiếu rõ ràng. Quyền hạn của các ban quản lý dự án còn hạn chế, lại phải chịu nhiều trách nhiệm. Tăng cường công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ dự án: cần đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý dự án ODA. Chương trình đào tạo cần được thiết kế cho từng chức danh khác nhau của ban quản lý dự án. Cần có đánh giá sau đào tạo và cấp chứng chỉ. Nguồn vốn FDI. Thực tế cho thấy trong thời gia qua, nguồn vốn FDI là nguồn vốn nước ngaòi chủ yếu đối với nền kinh tế Việt Nam, là một trong những điều kiện tiên quyết để Việt Nam thực hiện và đẩy nhanh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Dự báo trong giai đọan tới, nguồn vốn FDI vẫn là một nguồn vốn quan trọng và có khả năng khai thác cao. Tính đến tháng 3/2001, đã có hơn 3260 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) được cấp giấp phép đầu tư tại Việt Nam, với tổng số vốn là 44 tỷ $ (cả cấp mới và tăng vốn), trong đó có trên 2600 dự án còn hiệu lực với tổng số vốn đăng ký trên 36 tỷ $. Số vốn thực hiện đến nay đạt gần 20 tỷ $, bằng 44,5% số vốn đăng ký, tạo ra trên 12% GDP, hơn 34% giá trị sản xuất công nghiệp, gần 7% nguồn thu ngân sách của cả nước (không kể dầu khí), sử dụng 350000 lao động trực tiếp. Hơn thế nữa, thông qua đầu tư nước ngoài, chúng ta đã tiếp thu được công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý và tạo ra một số ngành sản xuất mới cho nền kinh tế. Nếu tính riêng 5 năm: từ 1996-2000 so với 5 năm trước thì tổng vốn đầu tư mới đạt 20,73 tỷ $, tăng 27,5%. Tổng vốn còn hiệu lực đạt 18,03 tỷ $, tăng 7,5%. Vốn thực hiện đạt 21,87 tỷ $ với tốc độ tăng trưởng bình quân là 17%. Xuất khẩu đạt 10,6 tỷ $, gấp 8,62 lần 5 năm trước và đạt tốc độ tăng trưởng bình quân là 15,4%/năm. Nhập khẩu đạt 15,33 tỷ $ gấp 6,4 lần 5 năm trước, tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 11%/năm. Bình quân thời kỳ 5 năm qua khu vực đầu tư nước ngoài đóng góp vào GDP chung cả nước với tỷ lệ 10,7% và đạt tốc đọ tăng trưởng công nghiệp là 21,4%/năm. Nguồn vốn FDI góp phần đưa nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng cao. Trong giai đoạn 1991-1997, nước ta đã đạt được mức tăng trưởng bình quân hàng năm khoảng 8,4%. Trong giai đoạn này nguồn vốn FDI chiếm khoảng 26-30% tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội. Những tính toán sơ bộ cho thấy nếu thời gian qua không có nguồn vốn này thì mức tăng trưởng có thể không vượt quá 5% bình quân năm và nếu không có cả nguồn vốn ODA thì mức tăng trưởng hàng năm có thể chỉ là 3-4% trong điều kiện phát huy tốt nội lực. FDI cũng đã góp phần đưa tăng trưởng của khu vực công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài lên bình quân 22,3%/năm trong giai đoạn 1996-1999. Nhịp độ thu hút nguồn vốn FDI của nước ta có xu hướng tăng nhanh từ năm 1988 đến năm 1995 cả về số dự án cũng như vốn đăng ký. Riêng năm 1996, sở dĩ có lượng vốn đăng ký tăng vọt là do có hai dự án đầu tư vào lĩnh vực phát triển đô thị ở Hà Nội và TP Hồ Chí Minh được phê duyệt có quy mô dự án lớn (hơn 3 tỷ $/2 dự án). Như vậy, nếu xét trong suốt thời kỳ 1988-1999 thì năm 1995 có thể được xem là đỉnh cao về thu hút FDI ở Việt Nam. Từ năm 1997, FDI vào Việt Nam bắt đầu suy giảm, nhất là các năm 1998, 1999 thì xu hướng giảm ngày càng rõ rệt hơn: nếu so với năm 1997, số dự án được duyệt của năm 1998 chỉ bằng 79,71%, năm 1999 chỉ bằng 80,58%. Số liệu tương ứng của vốn đăng ký là 83,83% và 33,01%. Lý do khách quan có thể do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực đối với FDI vào Việt Nam (khi mà khoảng 70% vốn FDI vào Việt Nam là xuất phát từ các nhà đầu tư Châu Á). Thế nhưng trên thực tế tổng số vốn FDI vào Châu Á năm 1998 không hề suy giảm, chỉ có FDI vào Việt Nam là giảm. Lý do chủ quan đã trở nên rõ ràng là môi trường đầu tư vào Việt Nam khong hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Nếu theo số lượng vốn đăng ký thì quy mô dự án bình quan của thời kỳ 1988-1999 là 13,4 triệu $/dự án. So với một số nước ở thời kỳ đầu thực hiện chính sách thu hút nguồn vốn FDI thì quy mô này không thấp. Nhưng có vấn đề rất đáng quan tâm, xem xét là quy mô dự án theo vốn đăng ký bình quân của năm 1999 lại nhỏ đi một cách đột ngột và ở mức thấp nhất từ trước đến nay (5,52 triệu $/dự án). Quy mô dự án theo vốn đăng ký bình quân của năm 1999 chỉ bằng 41,19% quy mô của thời kỳ 1988-1999, và chỉ bằng 31,27% quy mô dự án bình quân của năm cao nhất (1995). Trước tình đó, bộ tài chính đã tổ chức những buổi đối thoại theo định kỳ (6 tháng- 1lần) với các nhà đầu tư nước ngoài và phối hợp với các cơ quan hữu quan của Chính phủ nghiên cứu kiến nghị của các nhà đầu tư nước ngoài, có phương án xử lý cụ thể nhằm giải quyết kịp thời những vướng mắc về cơ chế, chính sách tài chính, tạo môi trường thông thoáng, bình đẳng cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phát triển hoạt động. Với quan điểm “Chính phủ Việt Nam luôn coi các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận hữu cơ của nền kinh tế quốc dân”, Chính phủ Việt Nam cam kết sẽ tích cực làm thông thoáng môi trường đầu tư để hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Từ khi thực hiện chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài cho đến nay, vốn đầu tư nước ngoài thực hiện tại Việt Nam trung bình là 1111,75 triệu $/ năm. Vốn đầu tư xây dựng cơ bản của các dự án đầu tư nước ngoài bình quân thời kỳ 1991-1999 là 16291 tỷ đồng/năm. Đối với nền kinh tế có quy mô như nước ta thì đây là một lượng vốn đầu tư không nhỏ, nó thực sự là nguồn vốn góp phần tạo ra sự chuyển biến không chỉ về quy mô đầu tư mà điều quan trọng hơn là nguồn vốn này có vai trò như “chất xúc tác- điều kiện” để việc đầu tư của nước ta đạt được hiệu quả nhất định. Nếu so với tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản thì vốn đầu tư xây dựng cơ bản của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm 26,51% lượng vốn này có xu hướng tăng lên qua các năm cụ thể như sau: Cơ cấu vốn đầu tư xây dựng cơ bản của Việt Nam thời kỳ 1991-1999. Năm Tổng vốn đầu tư (tỷ đồng) Vốn trong nước (tỷ đồng) Vốn đầu tư TT nước ngoài Số lượng (tỷ đồng) So với tổng số (%) 1991 11526 9606 1920 16,7 1992 19755 15255 4500 22,8 1993 34176 25376 8800 35,7 1994 43100 29900 13200 30,6 1995 68047,8 46047,8 33000 32,3 1996 79367,4 56667,4 22700 28,6 1997 96870,4 66570,4 30300 31,3 1998 96400 72100 24300 25,2 1999 102900 85000 18900 18,2 Tổng 553142,6 406522,6 146620 26,54 Sau một vài năm chững lại và suy giảm do khủng hỏang tài chính khu vực, so cạnh tranh thu hút FDI và những hạn chế của môi trường đầu tư, từ năm 2000 đầu tư nước ngoài ở Việt Nam đã có dấu hiệu phục hồi, đặc biệt trong 2 tháng đầu năm 2001 đã có 35 dự án đầu tư nước ngoài được cấp giấy phép với số vốn là 71,3 triệu $ tăng 16,7% về số dự án và tăng 16,1% về vốn so với cùng kỳ năm 2000. Để tiếp tục huy động tốt nguồn vốn FDI trong giai đoạn tới, ta cần có các biện pháp sau: Đẩy mạnh thực hiện chiến lược kinh tế mở, hoàn thiện và cụ thể hóa chiến lược thu hút FDI. Đổi mới công tác vận động xúc tiến đầu tư, tạo ra những nổ lực vượt bậc để đẩy mạnh thu hút FDI ở thị trường rộng lớn. Đổi mới cơ chế chính sách tạo môi trường thuận lợi hơn cho thu hút và triển khai FDI. Tích cực chuẩn bị thu hút FDI trong điều kiện hội nhập quốc tế và khu vực. Những trở ngại cần khắc phục trong việc huy động vốn ở nước ta. Trong hơn 10 năm đất nước ta thực hiện chuyển đổi nền kinh tế theo hướng kinh tế thị trường định hướng XHCN, Đảng và Nhà nước đã có rất nhiều nỗ lực trong việc đổi mới và đưa ra các chính sách nhằm thu hút các nguồn vốn trong nền kinh tế thị trường. Trong 10 năm qua, việc huy động các nguồn vốn đã đạt được nhiều kết quả đáng mừng. Tuy nhiên vẫn còn nhiều trở ngại đòi hỏi Đảng và Nhà nước tiếp tục đổi mới, khắc phục để tạo điều kiện cho việc thu hút vốn trong thời gian tới. Về hệ thống luật pháp. Trong việc huy động vốn trong dân cư các biện pháp khuyến khích đầu tư trực tiếp người còn chưa thực sự hợp lý. Trong những năm đầu khi luật khuyến khích đầu tư trực tiếp ra đời, song nó bị chững lại sau một thời gian ngắn. Điều đó phần lớn là do các doanh nghiệp này bước đầu đã gặp nhiều khó khăn, khó khăn về vay vốn, về chế độ nộp thuế, về những thủ tục hành chính...làm cho các doanh nghiệp này hoạt động kém hiệu quả. Như vậy, họ sẽ nản chí trong kinh doanh và bị mài đi phần nào đó lòng tin vào sự giúp đỡ của Nhà nước. Mặt khác, việc quản lý thuế ở nước ta hiện nay chưa thực sự chặt chẽ. Các bộ quản lý có đủ chuyên môn thì thiế. Điều đó tạo điều kiện để các đơn vị kinh tế trốn thuế, gian lận thuế, gây nên những tổn thất lớn cho NSNN. Các doanh nghiệp Nhà nước làm ăn kém hiệu quả. Tình trạng tham nhũng, vô trách nhiệm của cán bộ quản lý còn phổ biến. Việc sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước đã được thực hiện những vãn còn rất chậm. Việc cổ phần hóa doanh nghiệp cũng diễn ra chậm chạp và không mấy sôi động do các doanh nghiệp Nhà nước còn ỉ lại nhiều vào Nhà nước. Đối với tình trạng này cũng đòi hỏi phải có những luật quy định cụ thể về chế đọ thưởng, phạt cho thỏa đáng. Hệ thống luật pháp, chính sách của chúng ta trong quá trình hoàn chỉnh nên thiếu đồng bộ, chưa cụ thể, các biện pháp khuyến khích cũng như hệ thóng cơ chế chính sách tài chính, đặc biệt là lĩnh vực thuế chưa đủ hấp dẫn cho các nhà đầu tư. Môi trường đầu tư ở nước ta còn nhiều rủi ro do chính sách hay thay đổi, thiếu rõ ràng. Có thể nói, trong những năm qua hành lang pháp luật của Việt Nam đang được xúc tiến cải tổ nhưng thực tế nhiều năm cho thấy nó luôn không theo kịp nhịp đập của thị trường. Hệ thống văn bản pháp qua vẫn còn hiện tượng chồng chéo, hành lang pháp lý chưa được thông thoáng, chưa tạo ra môi trường luật pháp lành mạnh, bình đẳng, tự do cạnh tranh theo khuôn khổ của pháp luật pháp. Về hoạt động của hệ thống ngân hàng. Hoạt động của hệ thống ngân hàng nước ta còn nhiều bất cập. Trước hết, cơ chế lãi súat chưa được hợp lý, cơ chế điều hành lãi suất còn mang nặng tính hành chính trực tiếp và giản đơn. Các ngân hàng trung gian hiện nay có rất ít loại hình dịch vụ, kinh doanh chủ yếu bằng hình thức chênh lệch giữa lãi tiền vay với lãi tiền gửi. Do đó, các ngân hàng hiện nay duy trì mức lãi suất cho vay khá cao so với các nước trong khu vực của nguồn vốn. Về thực chất, các NHTM có xu hướng không muốn gửi tiền mặt, mà muốn biến hầu hết tiền gửi của khách hàng thành qũy cho vay. Tuy nhiên với lãi suất như vậy, các doanh nghiệp cũng hạn chế vay, các ngân hàng cũng có thể bị thừa vốn. Mặt khác, các ngân hàng hiện nay phần lớn vẫn là các ngân hàng quốc doan, các ngân hàng này thường rất do dự cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh vay vốn, làm cho các doanh nghiệp này thiếu vốn để phát triển mở rộng sản xuất, còn các ngân hàng thì thừa vốn. Năng lực tài chính của nhiều NHTM còn rất yếu, chất lượng tín dụng thấp (tỷ lệ nợ quá hạn cao) đang làm cho hoạt động tín dụng thiếu lành mạnh có nhiều rủi ro, đe dọa nền tảng tài chính của các NHTM. Hiện nay, Nhà nước cũng chưa có những chính sách huy động vốn hợp lý thông qua các ngân hàng để tạo vốn cho đầu tư phát triển, thu hút tiền mặt trong lưu thông. Về hoạt động cảu thị trường chứng khóan. Thị trường chứng khoán được thành lập 20/7/2000. Tuy nhiên, chúng ta đều biết rừng: thị trường chứng khóan với tư cách là thị trường vốn dài hạn chỉ có thể phát triển trên cơ sở một nền kinh tế phát triển cao, hệ thống tiền tệ, tỷ giá ổn định và hệ thống các thị trường vốn ngắn hạn đã được thiết lập, hoạt động trôi chảy và có hiệu quả. Như vậy, ở nước ta hiện nay, thị trường chứng khoán còn thiếu nhiều điều kiện cho sự phát triển. Hàng hóa cho thị trường chứng khoán về cơ bản là rất thiếu. Thị trường thứ cấp hầu như chưa hoạt động. Một chuyên gia chứng khoán cgo rừng thị trường chứng khóan Việt Nam lúc nào cũng khan hiếm hàng và hữu hiệu nhất để bình ổn thị trường lúc này là phải nhanh chóng đưa thêm chứng khoán vào . Trong khi đó việc cấp giấy phép niêm yết cho các công ty chứng cổ phần lại diễn ra rất chậm. Hệ thống luật pháp để điều khiển hoạt động của thị trường chứng khoán hiện còn chưa đầy đủ. Những người có hiểu biết sâu về thị trường chứng khóab còn rất ít,...Những điều đó cũng tạo nên sự sôi động của thị trường chứng khoán ở Việt Nam hiện nay. Các trợ ngại khác. Hiện nay, việc cạnh tranh về vốn trên thị trường thế giới ngày càng gay gắt. Bên cho vay cũng như bên các nhà đầu tư rất dè dặt khi quyết định đổ vốn vào đâu, trong khi đó, ở Việt Nam hiện nay: vấn đề về cải cách thủ tục hành chính vẫn chưa hoàn thiện, rất mất thời gian. Hơn nữa, kinh nghiệm tiếp nhận vốn của Việt Nam còn rất kém. Việc chuẩn bị vốn đối ứng không linh hoạt, chậm chạp, kém hiệu quả. Các thông tin về Việt Nam ở nước ngoài chưa đủ để đáp ứng cho các đối tác nước ngoài hợp tác, kinh doanh với nước ta. Đội ngũ cán bộ quản lý dự án còn thiếu, hoạt động thiếu tinh thần trách nhiệm; các công trình kết cấu hạ tầng còn yếu kém,...v..v.. CHƯƠNG III ĐỊNH HƯỚNG TRONG VẤN ĐỀ HUY ĐỘNG VỐN Ở NƯỚC TA Mục tiêu tổng qúat phát triển kinh tế đến năm 2010 là tăng gấp đôi GDP so với năm 2000. Để đạt được mục tiêu đó thì mức tăng trưởng GDP bình quân hàng năm là 7,2% và nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển phải đạt từ 28-38% GDP với tổng số vốn huy động cho đầu tư thời kỳ này là khoảng 160 tỷ $, trong đó, tỷ lệ vốn trong nước huy động khoảng 19-20% GDP ước khoảng 100 tỷ $, và phải huy động từ bên ngoài là 60 tỷ $. Trong đó dự kiến thu từ ODA là 18 tỷ $; từ vay thương mại và phát hành trái phiếu qốc tế là 12 tỷ $, còn lại, FDI là 30 tỷ $, trung bình mỗi năm thực hiện là 3 tỷ $. Dự báo nguồn vốn đóng vai trò chủ đạo trong nền thị trường nước ta giai đoạn tới. Trong giai đoạn khởi đầu của phát triển đối với những nước thiếu vón, công nghệ, kỹ thuật nói chung và Việt Nam nói riêng, thì vốn nước ngoài là loại vốn có vai trò quan trọng đặc biệt, song vai trò này chỉ mang tính quá độ, tạm thời. Trong dài hạn, và đặc biệt xét trên phương diện tổng thể thì vốn trong nước vẫn giữ vai trò quyết định bởi các lý do sau: Muốn hấp thụ được vốn nước ngoài cần một lượng vốn trong nước thích hợp để xây dựng các điều kiện hạ tầng, các công trình kiên đới. Tỷ lệ nyà khác nhua giữa các nuớưc (ở Việt Nam có thể là 2:1). Tỷ lệ này cũng khác nhau giữa các ngành, phụ thuộc vào mức độ kỹ thuật cũng như từng giai đoạn phát triển cụ thể (giai đoạn đầu thấp, sau đó tăng dần). Việc sử dụng vốn nước ngoài thường kèm theo các điều kiện chính trị hoặc buôn bán quốc tế bất lợi cho các nước vay vốn và thường phụ thuộc vào tương quan lực lượng cũng như quan hệ cung-cầu vốn trên thế giới. Do đó, bên vay không chủ động được tình thế. Việc sử dụng vốn nước ngoài, đặc biệt là FDI, nếu không có nguồn vốn đối ứng thích hợp giữa các bên liên doanh thì không những dẫn đến những thua thiệt trong việc chia lợi nhuận bởi các công ty nước ngoài về lâu dài. Vì thế, quan điểm cơ bản cần quán triệt trong chiến lược vốn cho tăng trưởng là: tích cực huy động và sử dụng vốn nước ngoài nhằm tận dụng khia thác tối đa các lợi thế so sánh của đất nước, nhanh chóng tạo năng lực tích lũy nội bj. Việc tận dụng tối đa nguồn vốn trong nước, quản lý và sử dụng nguồn vốn với hiệu quả cao nhất được coi là định hướng chủ đạo cho toàn bộ chiến lược tạo vốn và sử dụng vốn của nước ta trong giai đoạn tiếp theo. Như vậy, trong giai đoạn tới việc huy động các nguồn vốn trong nền kinh tế thị trường ở nước ta, phải thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước. Cần huy động tối da các nguồn nội lực và sáng tạo của mọi thành phần kinh tế trong nước. Trong đó kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Mặt khác, tiếp tục tăng cường hoạt động hợp tác quốc tế và khu vực, trong đó có đầu tư trực tiếp nước ngoài. Việt Nam luôn coi khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận không thể tách rời của nền kinh tế. Quan điểm thu hút vốn đầu tư nước ngoài là một quan điểm nhất quán và lâu dài. Các biện pháp nhằm huy động có hiệu quả các nguồn vốn trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Đối với các nguồn vốn trong nước. Để có thể huy động được tối đa các nguồn vốn trong nước Nhà nước cần phải thực hiện các biện pháp sau: 1.1Cần phải giải quyết mối quan hệ giữa tích lũy và tiêu dùng, có chính sách tiêu dùng hợp lý. 1.2 Khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho sự hình thành và phát triển của tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. 1.3 Đầu tư chiều sâu đồng bộ hóa máy móc thiết bị hiện đại để tăng công suất sử dụng thực tế. 1.4 Xây dựng hệ thống pháp luật thống nhất và bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, xóa bỏ sự bao cấp đối với các thành phần kinh tế quốc doanh và tư tưởng kỳ thị đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Hoàn chỉnh các định chế và sở hữu vốn, tài sản, về thừa kế, chuyển nhượng, về nghĩa vụ đối với Nhà nước, ...một cách công khai, rõ ràng, thống nhất và ổn định. 1.5 Tiếp tục đưa thêm hàng hóa vào thị trường chứng khoán, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho hoạt động và sự phát triển của thị trường chứng khoán,khuyến khích liên doanh liên kết, phát hành cổ phiếu để huy động vốn,tiện tệ hóa các quan hệ kinh tế . 1.6 .Coi trọng các nguồn vốn trong dân cư, khuyến khích mọi người dân, mọi hộ gia đình bỏ vốn kinh doanh sản xuất, phân tích đặc điểm, cơ cấu nguồn vốn này và đề ra các biện pháp cụ thể bao gồm cả biện pháp về tâm lý, chính trị và biện pháp kỹ thuật để khuyến khích nhân dân đầu tư vào sản xuất. Muốb vậy cần phải: Khuyến khích mọi người làm giàu chính đáng, tôn trọng tâm lý tập quán từng vùng, từng dân tộc. Nhà nước bảo đảm tài sản và giữ bí mật tài sản chính đáng của mọi người dân. Đơn giản hóa các thủ tục đăng ký kinh doanh, có chế độ miễn, gỉam thuế đối với các ngành, lĩnh vực khuyến khích đầu tư. 1.7 Định hướng và có chính sách, chế độ rõ ràng về việc khai thác có hiệu quả các nguồn lực về vốn, lao động tài nguyên thiên nhiên và chất xám, đó là những nguồn lực vô giá có thể tạo ra bước nhảy vọt về sự tăng trưởng của nền kinh tế. 1.8 Sử dụng mạnh mẽ các công cụ thuế, công cụ tài chính khác trong việc khuyến khích đầu tư và tái đầu tư từ lợi nhuận. 1.9 Ngoài ra còn các biện pháp như: Phải kiềm chế lạm phát trong một mức độ vừa phải để khuyến khích tư nhân bỏ vốn ra kinh doanh sản xuất. Sử dụng linh hoạt công cụ lãi suất để có thể huy động vốn nhàn rỗi, đồng thời chống lạm phát. Thực hiện việc sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước. Đối với vốn nước ngoài. Vốn nước ngoài không tự động chảy vào các nước đang phát triển. Để có thể huy động được vốn nước ngoài trong điều kiện cạnh tranh quyết liệt trên thị trường vốn quốc tế, chúng ta cần phải thực hiện các biện pháp thích hợp nhằm tạo ra sự hấp dẫn đối với các đối tác nước ngoài. Ở phần trên ta đã đưa ra những biện pháp đối với từng nguồn vốn nước ngoài cụ thể. Trong phần này ta chỉ đưa ra biện pháp chung cho những nguồn vốn này. 2.1Tạo lập ổn định kinh tế vĩ mô để huy động có hiệu quả nguồn vốn nước ngoài. Về phương diện lý thuyết, tạo lập ổn định vĩ mô là nền tảng căn bản để có sự tăng trưởng lâu bền, do đó cũng là để huy động vốn nước ngòai nhiều hơn. Ở đây ta xét đến 3 biến số vĩ mô có tác động trực tiếp và mạnh mẽ nhất tới sự ổn định vĩ mô là: lạm phát, tỷ giá hối đoái, thâm hụt ngân sách. Chống lạm phát: đây là mục tiêu hàng đâu trong sự duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, là điều kiện thiết yếu để giải quyết vấn đề vốn nước ngoài. Trong chiến lược dài hạn, sự ổn định này lại giả định một định hướng tăng trưởng hợp lý và khả năng điều tiết vĩ mô có hiệu quả của Chính phủ, với khâu trung tâm là điều hành chính sách tiền tệ. Vấn đề tỷ giá hối đoái: có thể nói rằng đây là một trong những khâu nối tiền tệ quan trọng bậc nhất giữa hai vế của phương trình gồm hai biến số: tăng trưởng và ổn định. Tỷ giá hối đoái tác động đến việc huy động vốn nước ngoài hoặc là trực tiếp (vốn vay trở nên đắt hơn hay rẻ hơn theo thời gian), hoặc gián tiếp (thúc đẩy hoặc kiềm chế tăng trưởng xuất khẩu). Để thu được lợi ích tổng thể, dài hạn, cần có sự kết hợp linh hoạt giữa các mục tiêu dài hạn và ngắn hạn trong quan hệ tỷ giá. Vấn đề thâm hụt ngân sách: thâm hụt ngân sách có thể dẫn tới rối loạn kinh tế vĩ mô hay hiểm họa bùng nổ lạm phát. Giải pháp tối ưu và căn bản nhất để ngăn ngừa thâm hụt ngân sách là phải kìm giữ mức thâm hụt thấp. Do đó, về mặt chiến lược, yêu cầu cấn bằng thu chi ngân sách bằng cách kiểm soát chặt chẽ chi tiêu Chính phủ, cố gắng mở rộng nguồn thu ngân sách. Sự ổn định của môi trường chính trị: mọt đất nước có tình hình chính trị ổn định thì sẽ có lợi thế hơn các nước khác trong việc thu hút vốn nước ngoài. Việt Nam là một trong những nước có nền chính trị ổn định nhất thế giới. Đây là một lợi thế được xây dựng lên từ truyền thống dân tộc lâu đời. Trong thời gian tới chúng ta cần phải tận dụng, gìn giữ, phát huy nó. 2.3 Tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho sự phát triển của vốn nước ngoài. Cần tạo ra sự bảo đảm về mặt pháp lý đối với quyền sở hữu tài sản tư nhân và môi trường cạnh tranh lành mạnh (sự bình đẳng giữa các chủ thể kinh tế trong hoạt động kinh doanh), tạo nên sức hấp dẫn đặc biệt đối với các nhà đầu tư và cho vay quốc tế. Cần hoàn thiện quy chế pháp lý của việc phân chia lợi nhuận và quyền hồi hương lợi nhuận đối với các hình thức vận động cụ thể của vốn nước ngoài. Cần lưu ý đến những quy định pháp lý cụ thể có liên quan đến việc làm thuận lợi hóa môi trường vận động của vốn. Các đạo luật về quyền sở hữu đất đai, quyền chuyển nhượng và thuê mướn đất, quy chế về trọng tài kinh tế. 2.4 Chuẩn bị nguồn vốn đối ứng đủ và kịp thời khi đặt chương trình vay mượn quốc tế. Nhiệm vụ có liên quan là cần xác định rõ tiến độ vốn chảy vào để có các giải pháp huy động vốn trong nước kịp thời. Các giải pháp này bao gồm trong cơ chế kích thích tiết kiệm và huy động vốn tập trung qua ngân hàng. Chúng liên quan đến toàn bộ hệ thống điều tiết vĩ mô thông qua các công cụ tiên tệ. 2.5 Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong nền kinh tế. Việc sử dụng có hiệu quả lượng vốn đã huy động được cho nền kinh tế là một công việc hết sức khó khăn song nó lại là yếu tố quan trọng hàng đầu. Nó là tiêu thức đánh giá mức độ tăng trưởng bền vững của nền kinh tế và là một điều kiện cơ bản để huy động được một lượng vốn mới, đặc biệt là vốn từ nước ngoài. Muốn vậy cần phải: Cải tạo nâng cấp cơ sở hạ tầng. Hệ thống này bao gồm cả lĩnh vưc thông tin, lĩnh vực tài chính-ngân hàng. Đầu tư phát triển các cơ sở, các ngành kinh tế trọng điểm, có hàm lượng vốn và kỹ thuật công nghệ cao. Bù đắp thâm hụt trong cán cân thanh toán quốc tế. Việc chuẩn bị địa bàn, môi trường trong nước thuận lợi để vốn nước ngoài có thể phát huy tác dụng cũng có một giá trị lớn. Trong bối cảnh quốc tế hiện nay, do khả năng biến đổi nhanh chóng của khoa học-công nghệ, của nhu cầu thị trường, một cơ cấu kinh tế có hiệu quả xét trên quan điểm nền kinh tế mở, phải có khả năng sịch chuyển nhanh chóng và thỏa mãn các đòi hỏi của mô thức cạnh tranh hiện đai. Chỉ khi đó, nó mới tự nẩy sinh ra sức hút mạnh mẽ đối với các dòng vốn nước ngoài. Những lưu ý về việc huy động các nguồn vốn cho nền kinh tế ở nước ta trong quá trình hội nhập. Là một nước nghèo, thực hiện qúa trình CNH, HĐH đất nước muộn và từ một xuất phát điểm thấp, con đường mà Việt Nam lựa chọn hiện nay không phải là “rượt đuổi” nữa mà là “đi tắt đón đầu”, tận dụng lợi thế của nước đi sau, hay lợi thế “đi xe miễn phí”. Đó là con đường duy nhất để có thể tránh được nguy cơ tụt hậu trước mắt. Đứng trước xu thế hội nhập khu vực và thế giới, việc huy động vốn ngày càng trở nên khó khăn song tầm quan trọng của nó lại ngày một lớn. Nếu khôgn có được một lượng vốn lớn để thay đổi công nghệ, phát triển sản xuất, nâng cao trình độ nguồn nhân lực, nâng cấp cơ sở hạ tầng .v..v..thì nền kinh tế Việt Nam sẽ bị bóp nghẹt nhanh chóng khi thực hiện khu vực hóa, toàn cầu hóa. Mở cửa hội nhập với thế giới là một xu hướng tất yếu, không thể tránh được, do đó Việt Nam cần phải nhanh chóng chuẩn bị kịp thời, đầy đủ các điều kiện cần thiết cho sự hội nhập này. Vấn đề hiện nay là Việt Nam cần phải quyết tâm cải cách chính sách và thể chế, tạo cơ hội đầu tư tại Việt Nam tiếp tục được mở rộng, công việc đầu tư kinh doanh tại Việt Nam phải ngày càng thuận lợi. Do đó những vấn đề cấp bách cần lưu ý hiện nay là : Phát huy triệt để sức mạnh nội lực. Tăng cường mối đoàn kết toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Cần tạo cho mỗi người một tinh thần trách nhiệm không chỉ với bản thân mà còn với cả dân tộc. Hướng cho mọi người biết cách làm việc tập thể, có tình thần tập thể và hướng tới lợi ích chung. Mặt khác, cần phải nhìn nhận lại vị trí của chúng ta hiện nay, Việt Nam không phải là một đất nước có “rừng vàng biển bạc” mà là một đất nước còn nghèo, một đất nước còn nhiều khó khăn, một đất nước chưa phát huy được thể lực, trí lực cho sự phát triển kinh tế. Từ đó hướng mỗi người tới việc phải biết tiết kiệm trong tiêu dùng, biết làm việc có ý thức, mặt khác biết giúo đỡ nhau trong việc kinh doanh sản xuất, phát triển kinh tế. Sinh thời, chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Trong chiến tranh, sức mạnh toàn dân đã được thể hiện rõ ràng. Ngày nay, trên mặt trận kinh tế một lần nữa chúng ta cần phải phát huy sức mạnh này. Một vấn đề rất đáng nói hiện nay trong khi đất nước còn khó khăn, lượng vốn cho phát triển kinh tế còn khan hiếm thì hiện tượng tham ô lãng phí vẫn còn phổ biến. Việc tham ô lãng phí của người lãnh đạo không những làm tổn hại đến lợi ích quốc gia mà còn làm mất lòng tin ở người dân đối với Đảng và Nhà nước. Chúng ta khó có thể nói rằng: mỗi người dân phải biết đặt lợi cíh quốc gia lên hàng đầu, bởi vì trước tiên họ còn phải lo cho vấn đề mưu sinh của bản thân và gia đình họ. Song mỗi người lãnh đạo cần phải biết đặt lợi ích quốc gia lên trên lợi ích cá nhân. Vì họ là những người quan trọng nắm giữ vận mệnh của đất nước. Ngoài việc phát huy yếu tố nôi lực, chúng ta cần phải tận dụng nhưng nguồn vốn từ bên ngoài cho nền kinh tế. Đảng và Nhà nước đã có những nổ lực cho việc cải cách chính sách và thể chế, tạo môi trường thuận lợi cho sự vận động của vốn nước ngoài. Tuy nhiên những nổ lực đó chưa đủ để tạo ra một môi trường thực sự háp dẫn so với các nước trong khu vực. Như vậy trong thời gian tới cần tiếp tục cải thiện hệ thống chính sách, thể chế cho phù hợp hơn nữa, cần có sự tham mưu của các chuyên gia giỏi và sự học hỏi kinh nghiệm của các nước đi trước. Nói chung môi trường kinh tế ở Việt Nam là khá ổn định. Kết quả thu được trong việc huy động vốn những năm qua là tương đối tốt. Môi trường đầu tư đã từng bước được cải thiện. Tuy nhiên cũng cần phải nhìn nhận những hạn chế còn tồn tại để từ đó có những biện pháp thích hợp để khắc phục. KẾT LUẬN Vốn là một trong những yếu tố quan trọng nhất đê phát triển kinh tế. Đối với một nước đang đi vào thục hiện quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước như Việt Nam hiện nay thì vốn là điều kiện tiên quyết đối với sự thành công của quá trình này. Muốn có được một lượng vốn cần thiết, chúng ta phải có chiến lược huy động vốn phù hợp. Vấn đề huy động vốn các nguồn vốn trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay là một là vấn đề cần thiết và cấp bách. Trong đề tài này, vấn đề huy động các nguồn vốn trong nền kinh tế thị trường đã được bàn đến với nội dung cơ bản là: các nguồn vốn trong nền kinh tế hiện nay, khả năng khai thác của chúng, các công cụ để huy động vốn; các nguồn vốn đã được khai thác ở Việt Nam; các công cụ đã được sử dụng để huy động vốn; nguồn vốn nào đóng vai trò chủ đạo cho sự phát triển kinh tế thời gian tới; những biện pháp để huy động có hiệu qủa các nguồn vốn và những trỏ ngại đối với việc huy động vốn ở nước ta hiện nay. Huy động các nguồn vốn trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam là một đề tài quan trọng song nó là một đề tài rất rộng. Vì thế, việc nghiên cứu một cách thực sự cụ thể trong phạm vi đề án môn học là một điều khó khăn. Em rất mong được nghiên cứu kỹ trong một dịp khác. Đề tài này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của thầy Mai Văn Bưu-Giảng viên kiêm chủ nhiệm khoa khoa học quản lý và các tài liệu có liên quan. Em rất mong có sự góp ý và sữa chữa của thầy. Em xin chân thành cám ơn. Sinh viên-Nguyễn Thùy Dương. Lớp Quản Lý Kinh Tế 40 A Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33740.doc
Tài liệu liên quan