Đề tài Kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và những giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện mục tiêu chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010

Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế luôn luôn là một vấn đề quan trọng cần phải đề cập đến khi nói tới tăng trưởng và phát triển kinh tế. Cơ cấu ngành kinh tế của một quốc gia có hợp lý thì quốc gia đó mới có cơ hội phát triển và hội nhập được với thế giới. Nhìn chung, cơ cấu kinh tế của Việt Nam hiện nay cũng đã có sự chuyển dịch phù hợp với xu hướng chung của nền kinh tế thế giới, tỷ trọng nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm dần trong khi tỷ trọng của công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng cả trong GDP và lao động. Song xu hướng chuyển dịch của chúng ta vẫn còn chậm, tỷ trọng nông nghiệp vẫn còn cao, lao động nông thôn còn chiếm đa số trong tổng số lao động của nền kinh tế; ngành dịch vụ mặc dù có sự tăng lên về giá trị sản xuất nhưng tỷ trọng chiếm trong GDP vẫn không có sự chuyển biến rõ rệt, các ngành dịch vụ quan trọng như tài chính, ngân hàng, du lịch . ở Việt Nam vẫn còn rất non yếu, đóng góp không đáng kể vào tổng thu nhập quốc dân. Hạn chế này cùng với những yêu cầu về sự điều chỉnh nhất định trong cơ cấu nội ngành nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ chính là những nhiệm vụ đặt ra nhằm thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của nước ta trong thời gian tới.

doc34 trang | Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 1033 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và những giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện mục tiêu chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
óa, nền kinh tế Việt Nam đã đạt tới “điểm ngoặt” về chuyển dịch cơ cấu lao động, chia theo lao động, tức là thời điểm mà ở đó, lao động nông, lâm nghiệp không chỉ giảm đi về tỷ trọng mà còn bắt đầu giảm đi về số lượng tuyệt đối. CHƯƠNG II: ĐÁNH GIÁ THỰC HIỆN KẾ HOẠCH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2006-2010. Nhiệm vụ của kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Khái niệm kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành là một bộ phận trong hệ thống phát triển kinh tế - xã hội. Nó xác định các mục tiêu cần đạt được về cơ cấu ngành kinh tế và đưa ra các giải pháp, chính sách cần thiết để thực hiện mục tiêu đó trong thời kỳ kế hoạch. Nhiệm vụ của kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Tuy tất cả các nước có xu hướng chuyển dịch cơ cấu như nhau nhưng tốc độ chuyển dịch không giống nhau vì bị chi phối bởi nhiều yếu tố khác về tự nhiên, nhân lực, điều kiện kinh tế, kĩ thuật và văn hoá mỗi nước. Và để đạt được các mục tiêu về tăng trưởng và phát triển kinh tế thì mỗi quốc gia cần có một bản kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành riêng của nước mình. Nhìn chung thì kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành của các quốc gia có những nhiệm vụ chủ yếu sau: Xác định các điều kiện, yếu tố và các quan điểm chi phối sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đây chính là cơ sở để đưa ra các hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Nó bao hàm các vấn đề về kinh tế- xã hội, khoa học, công nghệ, các mối quan hệ kinh tế quốc tế và các nguồn lực của đất nước. Xác định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cụ thể hóa bằng các quan hệ tỷ lệ giữa các ngành sao cho đảm bảo phù hợp với xu thế biến đổi chung và phản ánh được đặc điểm của nền kinh tế trong những điều kiện cụ thể. Xác định hướng huy động và sử dụng các yếu tố đầu vào đặc biệt là cơ cấu vốn đầu tư và cơ cấu lao động nhằm đảm bảo được cơ cấu đầu ra theo hướng đã xác định. Đề xuất các chính sách, biện pháp kinh tế - xã hội xần thiết để hướng dẫn hoạt động nền kinh tế sao cho đáp ứng được các yêu cầu của sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Đánh giá thực hiện kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010. Những thành tựu và tồn tại của công cuộc chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001 – 2005. Cơ cấu GDP 2001-2005 là giai đoạn mà nền kinh tế Việt Nam đã có những bước phát triển tương đối ổn định và bền vững. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) 5 năm (2001 - 2005) tăng bình quân 7,5%/năm (đạt kế hoạch đề ra). Năm 2005, GDP theo giá hiện hành đạt 839 nghìn tỉ đồng, bình quân đầu người trên 10,0 triệu đồng (tương đương khoảng 640 USD). Tuy nhiên, đây mới chỉ là những con số thống kê sơ bộ, khái quát để hiểu rõ sự phát triển của nền kinh tế VN trong 5 năm 2001- 2005 chúng ta cần phải xem xét kĩ lưỡng từng khía cạnh của nền kinh tế dưới nhiều góc độ khác nhau. Cụ thể ở đây là sự chuyển biến trong cơ cấu ngành kinh tế của Việt Nam. Bảng 2. Tình hình thực hiện kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế giai đoạn 2001 – 2005. Đơn vị tính: % STT Chỉ tiêu Mục tiêu 2001 2002 2003 2004 2005 5năm 2001-2005 1 Tăng trưởng kinh tế 7,5 6,89 7,08 7,34 7,79 8,4 7,5 - Nông, lâm và thủy sản 4,3 3,0 4,2 3,6 4,4 4,0 3,8 - Công nghiệp và xây dựng 10,8 10,4 9,5 10,5 10,2 10,6 10,2 - Dịch vụ 6,2 6,1 6,5 6,5 7,3 8,5 7,0 2 Tốc độ tăng giá trị sản xuất - Nông, lâm và thủy sản 4,8 4,7 6,5 5,5 5,8 4,9 5,4 - Công nghiệp và xây dựng 13,1 14,6 14,8 16,8 16,0 17,2 16,0 3 Cơ cấu kinh tế - Nông, lâm nghiệp và thủy sản 20 - 21 23,3 23,0 22,5 21,8 20,9 - Công nghiệp và xây dựng 38 - 39 38,1 38,5 39,5 40,2 41,0 - Dịch vụ 41 - 42 38,6 38,5 38,0 38,0 38,1 Nguồn: tổng hợp số liệu từ Tổng cục Thống kê Cơ cấu ngành kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tỷ trọng của khu vực Nông, lâm nghiệp và thủy sản thì giảm dần trong khi tỷ trọng của khu vực công nghiệp và dịch vụ thì tăng lên đáng kể. Năm 2001, tỷ trọng của khu vực nông nghiệp là 23,3% nhưng đến năm cuối cùng của kỳ kế hoạch 5 năm, năm 2005 thì tỷ trọng của ngành này chỉ còn có 20,9%. Như vậy sau 5 năm, tỷ trọng của ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm 2,4%. Trái ngược với sự giảm xuống về tỷ trọng của ngành nông nghiệp là sự tăng lên về tỷ trọng của ngành công nghiệp và xây dựng. Từ 38,1% năm 2001 đến năm 2005 con số này đã là 41%, tăng 2,9% (vượt chỉ tiêu kế haọch đề ra. Ngành dịch vụ vẫn giữ được vị thế quan trọng của mình khi chiếm tới 38,1% trong GDP, vượt xa đóng góp của khu vực nông nghiệp và gần bằng tỷ trọng của công nghiệp. Xét về mối quan hệ tương quan giữa các ngành, chúng ta có thể thấy, ngành công nghiệp và xây dựng là ngành có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất và cao nhất 10,2%, gấp 1,36 lần mức tăng GDP của toàn nền kinh tế (7,5%) và gấp 2,7 lần ngành nông nghiệp. Ngành dịch vụ có mức tăng xấp xỉ mức tăng GDP của cả nền kinh tế nên tỷ trọng không đổi, duy trì ở mức 38%. Dù đạt tốc độ tăng trưởng gần gấp 3 lần so với ngành dịch vụ, nhưng vì quy mô tuyệt đối nhỏ hơn, nên mức độ thay đổi tương quan tỷ lệ giữa hai khu vực nông nghiệp và công nghiệp không nhanh tương ứng với mức tăng trưởng công nghiệp. Sự tăng trưởng nhanh của các ngành công nghiệp và một số ngành dịch vụ đã tạo nên sự thay đổi đáng kể trong cơ cấu kinh tế, bước đầu hình thành được một số ngành, sản phẩm quan trọng tạo động lực cho phát triển như: công nghiệp dầu khí, sản xuất thép, xi măng, cơ khí đóng tàu, lắp ráp ô tô, xe máy... Về sự chuyển dịch trong nội bộ từng ngành. Trong 5 năm 2001 – 2005, ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản vượt qua nhiều khó khăn, duy trì được tốc độ tăng trưởng khá, tăng 5,4% trong khi kế hoạch đặt ra là 4,8%. Trong nội bộ của ngành đã có sự thay đổi nhất định, trong đó rõ rệt nhất là sự gia tăng của ngành thủy sản và sự suy giảm về tỷ trọng của sản xuất nông nghiệp. Đây là một tín hiệu đáng mừng cho thấy sự được theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa của ngành. Ngành thủy sản đã có những bước phát triển tương đối vững chắc, tỷ trọng giá trị sản xuất thủy sản trong toàn ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng từ 15,6% năm 200o lên 21,2% năm 2005. Đáng chú ý là hàng thủy sản xuất khẩu gia tăng nhanh chóng và trở thành một trong số những mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn. Trong khi đó, sản xuất nông nghiệp mặc dù có sự giảm đi về tỷ trọng nhưng vẫn đáp ứng được nhu cầu về lương thực thực phẩm trong nước và duy trì được vị trí là một trong ba nước hàng đầu thế giới về xuất khẩu gạo (Thái Lan, Hoa Kỳ, Việt Nam). Còn ngành lâm nghiệp vẫn tiếp tục chú trọng vào bảo vệ và trồng rừng. Độ che phủ rừng tăng từ 33,7% năm 2000 lên 37,4% năm 2005. Ngành công nghiệp tăng trưởng ổn định ổn định với tốc độ cao hơn nhiều so với 5 năm trước, giá trị sản xuất công nghiệp tăng 16% vượt mức kế hoạch đề ra (kế hoạch là 13,1%). có thể nói khu vực công nghiệp đã thực sự đóng vai trò đầu tàu trong sự phát triển và chuyển dịch cơ cấu của toàn bộ nền kinh tế. Cùng với quá trình chuyển đổi nền kinh tế sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, ngành dịch vụ đã từng bước hình thành và phát triển đa dạng, góp phần phục vụ đắc lực cho sản xuất của các ngành nông nghiệp và công nghiệp, tốc độ tăng thêm giá trị của dịch vụ đạt nhịp độ khá cao, tăng 7,6%. Tuy đạt được những kết quả tích cực nhưng việc chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế còn nhiều hạn chế thể hiện chất lượng tăng trưởng kinh tế chưa cao. Mức tăng trưởng nông nghiệp so với mức tăng trưởng GDP của toàn bộ nền kinh tế là khá cao, thể hiện mức đóng góp của tăng trưởng nông nghiệp cho tổng mức GDP là khá lớn. Về ngành công nghiệp, mặc dù vị trí và vai trò của công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân đã được nâng lên trong những năm qua nhưng trong cơ cấu nội bộ nganh công nghiệp sự chuyển biến diễn ra vẫn còn chậm. Thực chất đóng góp cho tăng trưởng công nghiệp trong những năm vừa qua chủ yếu vẫn là công nghiệp khai thác khoáng ản, tỷ trọng công nghiệp chế biến và chế tạo còn rất nhỏ bé. Trong khi đó, các ngành công nghiệp mới như công nghiệp điện tử, công nghiệp cơ khí như xe máy, ôtô mới phát triển ở giai đoạn đầu... Riêng trong khu vực dịch vụ, trái với sự mong đợi là tỷ trọng tăng lên thì trên thực tế hầu như không thay đổi thậm chí còn giảm từ từ 38,6% năm 2001 xuống còn 38,1% năm 2005. Tỷ trọng của các ngành khách sạn, nhà hàng, vận tải, bưu điện, du lịch là quá thấp (khoảng 3-4% trong GDP). Thương mại, mặc dù có tỷ trọng yương đối lớn khoảng 13-14% GDP nhưng chủ yếu vẫn là buôn bán nhỏ. Các loại hình dịch vụ như tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, vận tải hàng không, vận tải biển, dịch vụ tư vấn pháp lý chưa được phát triển. Ngành tài chính – ngân hàng với tỷ trọng chưa đến 2% trong GDp là quá thấp. Cơ cấu lao động Đến năm 2005, tổng số lao động làm việc trong nền kinh tế đạt gần 42,7 triệu người; trong đó 24,2 triệu người làm việc trong ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản; 7,8 triệu người làm việc trong ngành công nghiệp và xây dựng; 10,9 triệu người làm việc trong các ngành dịch vụ. Trong 5 năm 2001-2005: số lao động được giải quyết việc làm đạt khoảng 7,5 triệu người, trong đó ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản đạt trên 4,7 triệu; công nghiệp và xây dựng đạt trên 1,2 triệu người; các nàgnh thương mại và dịch vụ đạt 1,6 triệu. Bước đầu tạo ra sự chuyển dịch về cơ cấu lao động theo hướng tích cực, đáp ứng yêu cầu của sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nâng cao hiệu qủa đầu tư trong kinh doanh. Tỷ trọng lao động trong nông, lâm, thủy sản trong tổng số lao động xã hội từ 68,2% năm 2000 giảm xuống còn 56,8% năm 2005; công nghiệp và xây dựng tăng từ 12,1% lên 17,9%, được tăng từ 19,7% lên 25,3%. Bảng 3. Tình hình thực hiện kế hoạch kế hoạch lao động giai đoạn 2001 – 2005. STT Chỉ tiêu Đvị tính Mục tiêu 2001 2002 2003 2004 2005 1 Số lao động làm việc trong nền kinh tế. Tr. ng 38,6 39,5 40,6 41,6 42,7 Cơ cấu lao động - Nông, lâm nghiệp và thủy sản % 56-57 63,4 61,9 60,3 58,8 56,8 - Công nghiệp và xây dựng % 20-21 14,3 15,4 16,5 17,3 17,9 - Dịch vụ % 22-23 22,3 22,7 23,2 23,9 25,3 2 Tỷ lệ lao động qua đào tạo % 16,8 18,7 21,2 22,5 25,0 3 Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị % 5,4 6,28 6,01 5,78 5,60 5,31 4 Tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn % 80 74,26 75,42 77,65 79,10 80,65 Nguồn: tổng hợp số liệu từ Tổng cục Thống kê Số liệu cho thấy sự chuyển dịch lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ còn rất chậm chạp. Sự phát triển các ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ chưa tạo ra việc làm tương ứng cho lao động nông thôn, trong khi các khu đô thị mới, khu công nghiệp mở rộng đã lấy đi khá nhiều diện tích đất canh tác màu mỡ của nông nghiệp. lao động vẫn tập trung khá lớn ở khu vực nông nghiệp, lại ko được đào tạo dẫn đến khả năng tìm việc làm rất khó khăn, cho dù nhiều khu công nghiệp vẫn đang tìm công nghiệp có tay nghề. Cho đến năm 2005, tỷ lệ lao động qua đào tạo của Việt Nam mới đạt 25% - là một tỷ lệ rất thấp so với các nước trong khu vực. Điều này dẫn đến tình trạng năng suất lao động ở khu vực nông nghiệp rất thấp, hạn chế năng suất lao động chung của cả nước: năm 2005, năng suất lao động của nhóm ngành nông, lâm nghiệp, thủy sản đạt 450 USD, của ngành dịch vụ là 1.860 USD và của nhóm ngành công nghiệp và xây dựng là 2.852 USD, năng suất lao động bình quân cả nước là 1.243.4 USD. Mục tiêu chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong giai đoạn 2006-2010. Khung kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam giai đoạn 2006-2010 Bảng 4. Mục tiêu chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong giai đoạn 2006-2010. Đơn vị tính: % STT Chỉ tiêu Thực hiện 2001- 2005 Kế hoạch 2006 - 2010 1 Tăng trưởng kinh tế 7,50 7,5 - 8,0 - Nông, lâm nghiệp và thủy sản 3,8 3 - 3,2 - Công nghiệp và xây dựng 10,2 9,5 - 10,2 - Dịch vụ 7,0 7,7 - 8,2 2 Tốc độ tăng giá trị sản xuất - Nông, lâm nghiệp và thủy sản 5,4 4,5 - Công nghiệp và xây dựng 16,0 15,2 - 15,5 3 Cơ cấu kinh tế (đến năm cuối kỳ) - Nông, lâm nghiệp và thủy sản 20,9 15 - 16 - Công nghiệp và xây dựng 41,0 43 - 44 - Dịch vụ 38,1 40 - 41 4 Tỷ trọng lao động trong tổng số lao động - Nông, lâm nghiệp và thủy sản 58 50 - Công nghiệp và xây dựng 18 23 - 24 - Dịch vụ 25 26 - 27 Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư Bảng 5. Đóng góp vào tăng trưởng kinh tế của từng ngành giai đoạn 2006 – 2010 Đơn vị tính: % Ngành Thực hiện 2005 Kế hoạch 2006 - 2010 2006 2007 2008 2009 2010 - Nông, lâm nghiệp và thủy sản 9,8 9,5 8,5 8,1 7,8 7,5 - Công nghiệp và xây dựng 49,7 50,2 50,8 51,2 51,5 51,8 - Dịch vụ 40,5 40,3 40,7 40,6 40,7 40,7 Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư Một số nhận định về kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010. Trên đây mới chỉ là khung định hướng cơ bản về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010, được Bộ Kế hoạch và Đầu tư xây dựng dựa trên những kết quả đã đạt được trong thời kỳ 2001 – 2005 cùng những phân tích đánh giá, phân tích về bối cảnh quốc tế và trong nước. Nhìn chung, thì khung kế hoạch đặt ra là tương đối hợp lý, thể hiện được xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong giai đoạn hiện nay đó là: giảm dần tỷ trọng của khu vực nông nghiệp, tăng dần tỷ trọng của khu vực công nghiệp và xây dựng cả trong cơ cấu GDP, cũng như cơ cấu lao động. Xét về tốc độ tăng trưởng của từng ngành trong nền kinh tế, như đã phân tích ở trên, ngành có tốc độ phát triển cao hơn tốc độ phát triển chung của nền kinh tế sẽ tăng tỷ trọng và ngược lại, ngành có tốc độ thấp hơn sẽ giảm tỷ trọng. nhìn vào khung kế haọch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010, ta thấy mục tiêu tăng trưởng GDP của toàn bộ nền kinh tế là 7,5 – 8%. Do đó, để tăng được tỷ trọng của 2 ngành công nghiệp và dịch vụ, cũng như giảm tỷ trọng của ngành nông nghiệp thì tốc độ tăng trưởng của các ngành thuộc khu vực II và khu vực III phải cao hơn tốc độ tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế và tốc độ tăng trưởng của các ngành thuộc khu vực I phải thấp hơn con số này. Mục tiêu đề ra với khu vực II là tăng trưởng từ 9,5% - 10,2% và của khu vực III là 7,7% - 8,2%, hai chỉ tiêu này đều cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế. Như vậy mục tiêu đặt ra với từng ngành là tương đối hợp lý. Như chúng ta đã biết, kế hoạch 2006 – 2010, vốn được xây dựng trên cơ sở kết quả thực hiện kế hoạch 2001 – 2005. Theo kết quả chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001 – 2005 thì tỷ trọng của khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản trong GDP là 20,9%, của công nghiệp và xây dựng là 41% và của dịch vụ là 38,1% nhưng khi đặt mục tiêu cho kế hoạch 2006 – 2010 thì tỷ trọng của 3 ngành này lần lượt là 15 – 16%. 43 – 44% và 40 – 41%. Như vậy, là sau 5 năm tỷ trọng của ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm 5%, trung bình mỗi năm tỷ trọng của nhóm ngành này giảm 1%. Đây là một chỉ tiêu hợp lý và hoàn toàn có thể thực hiện được. Bởi vì, năm 2003, tỷ trọng của nông, lâm nghiệp và thủy sản trong GDP là 22,5% đến năm 2004 là 21,8%. như vậy giảm 0,7%. Sang đến năm 2005, tỷ trọng của ngành này là 20,9%, giảm 0,9%. Theo đà tăng trưởng như hiện nay thì việc hoàn thành mục tiêu kế hoạch đặt ra là việc hoàn toàn nằm trong tầm tay. Kết thúc giai đoạn 2001 – 2005, tỷ trọng của ngành công nghiệp và xây dựng chiếm trong GDP là 41% (vượt kế hoạch đề ra, kế hoạch là 38 – 39%). Năm 2001, đóng góp của ngành trong tổng thu nhập quốc dân là 38,1%, như vậy trung bình một năm tỷ trọng của ngành công nghiệp và xây dựng tăng 0,6%. Theo kế hoạch 2006 – 2010, tỷ trọng công nghiệp và xây dựng chiếm 43 – 44%, tính bình quân hàng năm thì tốc độ tăng tỷ trọng của nhóm ngành này trong GDP cũng là 0,6%. So với kế hoạch 2001 – 2005, kỳ kế hoạch mà ngành công nghiệp và xây dựng đã có những bước phát triển tích cực hoàn thành mục tiêu đặt ra thì những chỉ tiêu mà bản kế hoạch 2006 – 2010 là rất hợp lý. Đối với ngành dịch vụ, đây là nganh duy nhất ko hoàn thành mục tiêu kế hoạch đặt ra. Kế hoạch 2001 – 2005, mục tiêu đặt ra đối với ngành dịch vụ là 41 – 42% nhưng kết thúckỳ kế hoạch ngành dịch vụ chỉ đóng góp được khoảng 38,2% trong tổng GDP của nền kinh tế. Sang kỳ kế hoạch 2006 – 2010, chúng ta có điều chỉnh dôi chút về chỉ tiêu đặt ra, tỷ trọng đóng góp của dịch vụ trong GDP là 40 – 41%, như vậy là so với kế hoạch trước, mục tiêu này giảm khoảng 1%. Điều này cho thấy sự thận trọng và rút kinh nghiệm khi đặt kế hoạch. Việc đặt chỉ tiêu đóng góp của dịch vụ trong GDP là hợp lý ko quá cao nhưng nó cũng thể hiện niềm tin của Việt Nam về sự chuyển dịch cơ cấu ngành theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. tỷ trọng của dịch vụ có xu hướng tăng lên, mặc dù ko quá nhanh nhưng đó là những bước tiến vững chắc nhất là khi Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của WTO vào tháng 11 năm 2006 thì cơ hội phát triển đối với ngành dịch vụ nói riêng và của toàn bộ nền kinh tế Việt Nam nói chung là rất lớn. Về cơ cấu ngành theo lao động, kết quả thực hiện kỳ kế hoạch 2001 – 2005 là tỷ trọng lao động trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản là 58%, công nghiệp và xây dựng là 18% và dịch vụ là 25%. Bước sang giai đoạn 2006 – 2010, chúng ta đã mạnh dạn đặt chỉ tiêu tỷ trọng lao động trong nông, lam nghiệp và thủy sản là 50% (giảm 8%), trong công nghiệp là 23 – 24% (tăng 5 – 6%) và dịch vụ là 26 – 27% (tăng 1-2%). Việc giảm tỷ trọng lao động nông nghiệp xuống còn 50% là hơi cao và hơi khó có thể đạt được mục tiêu kế hoạch đề ra. Bởi lẽ, chúng ta có xuất phát điểm là một nước nông nghiệp, địa bộ phận dân cư đều hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp. Để giảm được tỷ trọng của lao động nông nghiệp trong tổng lao động của nên kinh tế từ 58% xuống chỉ còn 50% là hơi khó. Mặc dù con số về mặt tương đối là giảm khoảng 8% nhưng xét về mặt tuyệt đối con số này là không nhỏ chút nào. Nhất là khi, các phương thức canh tác tiên tiến vẫn còn chậm được áp dụng trên diện rộng, giống cây trồng và vật nuôi tốt còn thiếu; năng suất nhiều cây trồng, vật nuôi và chất lượng sản phẩm nông nghiệp còn thấp, phụ thuộc nhiều vào khí hậu và thời tiết, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn vẫn chưa được thực hiện một cách bài bản, các ứng dụng của tiến bộ khoa học công nghệ, những máy móc, thiết bị có thể thay thế người nông dân vẫn còn ít và thiếu ,lại chưa được áp dụng một cách rộng rãi và phổ biến. Điều này dẫn đến việc, sản xuất nông nghiệp vẫn còn phải sử dụng nhiều lao động, vẫn còn phải phụ thuộc nhiều vào kinh nghiệm trong sản xuất nông nghiệp của người dân. Bên cạnh đó, chúng ta chưa xây dựng được một nền công nghiệp tương đối ổn định và vững chắc có thể sản xuất ra các mặt hàng có giá trị cao đáp ứng tốt nhu cầu trong nước và xuất khẩu nên đóng góp của các mặt hàng nông, lâm nghiệp và thủy sản trong xuất khẩu vẫn còn chiếm tỷ trọng lớn. Khó khăn là vậy nhưng không phải là chúng ta không thể hoàn thành được kế hoạch đã đề ra. Nếu thực hiện một cách nghiêm túc và có hiệu quả các giải pháp và chính sách của Nhà nước, phát huy tốt thế mạnh của bản thân, tận dụng mọi cơ hội có được thì cúng ta hoàn toàn có thể nghĩ đến việc vượt mục tiêu kế hoạch đặt ra. Đánh giá thực hiện kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế năm 2007 trong quý III. Bên cạnh những điều kiện thuận lợi về thu hút vốn đầu tư, về ổn định kinh tế vĩ mô và các biện pháp điều hành hiệu quả của Chính phủ, về khả năng đẩy mạnh tăng trưởng cao của các ngành sản xuất, kinh tế quý III/2007 tiếp tục phải đối mặt với tình hình thời tiết và dịch bệnh diễn biến rất phức tạp, gây ảnh hưởng lớn tới tình hình sản xuất các ngành kinh tế. Vượt qua những khó khăn gây kìm hãm tốc độ tăng trưởng, khắc phục những tồn tại trong quý trước về tình trạng thiếu điện, về tình hình chậm giải ngân các nguồn vốn đầu tư,.. tốc độ tăng trưởng kinh tế quý III đạt kết quả rất khả quan. Tốc độ tăng trưởng GDP quý III ước đạt 8,9% (cùng kỳ năm 2006 đạt 8,71%). Cụ thể, khu vực nông, lâm, thủy sản tăng 3,97%; công nghiệp và xây dựng tăng 10,84%; dịch vụ tăng 8,94%. Tính chung 9 tháng, tốc độ tăng trưởng GDP ước đạt 8,16%, tăng cao hơn so với mức tăng cùng kỳ năm 2006 (cùng kỳ tăng 7,84%). Trong đó, khu vực nông, lâm, thủy sản tăng 3,02%; công nghiệp và xây dựng tăng 10,15%; dịch vụ tăng 8,54%. Đối chiếu với 9 tháng các năm trước thì khu vực I tăng trưởng ko cao do sản xuất lương thực giảm và chăn nuôi của nhiều địa phương bị dịch bệnh, hiệu quả chăn nuôi thấp, nhưng khu vực II và III tăng tương đối cao nên năm 2007 là năm có tốc độ tăng GDP 9 tháng cao nhất trong 10 năm gần đây. Thành công đặc biệt trong năm nay là tăng trưởng GDP quý sau luôn cao hơn quý trước (quý I đạt 7,7%, quý II đạt 8,0%, quý III đạt 8,9%) và tăng trưởng khu vực dịch vụ luôn cao hơn tăng trưởng toàn nền kinh tế (tăng trưởng dịch vụ quý I đạt 7,92%; quý II đạt 8,83%; quý III đạt 8,94%). Đây là những kết quả rất khả quan, tạo đà đẩy mạnh tăng trưởng quý IV và đưa tăng trưởng cả năm hoàn thành kế hoạch theo Nghị quyết Quốc hội đề ra, đồng thời là tín hiệu tích cực hứa hẹn tăng trưởng kinh tế những năm tiếp theo đạt tốc độ cao hơn nữa. Có thể nói, cơ cấu ngành Việt Nam đang có sự chuyển dịch theo đúng hướng mà kế hoạch đặt ra khi tỷ trọng và tốc độ tăng trưởng của công nghiệp, xây dựng và dịch vụ ko ngừng tăng. Bảng 6: Tốc độ tăng sản phẩm trong nước trong 9 tháng (theo giá so sánh 1994) Đơn vị: (%) Tốc độ tăng so với cùng kỳ năm trước 9 tháng đầu năm 2005 9 tháng đầu năm 2006 9 tháng đầu năm 2007 GDP 7,6 7,84 8,16 Khu vực nông, lâm và thủy sản 4,1 3,32 3,02 Khu vực công nghiệp và xây dựng 10 9,85 10,15 Khu vực dịch vụ 8,2 8,03 8,54 Nguồn Tổng cụcThống kê Những nhận định về việc hoàn thành kế hoạch 2006 – 2010. Năm 2007, theo dự báo, nền kinh tế vẫn duy trì được tăng trưởng cao và ổn định, cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực. Tốc độ tăng trưởng kinh tế cả năm 2007 ước tăng khoảng 8,5%. Trong đó, khu vực nông, lâm, ngư nghiệp tăng 3,2%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 10,7%; khu vực dịch vụ tăng 8,8%. Cơ cấu kinh tế có chuyển dịch tích cực theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ. Tỷ trọng ngành nông, lâm, thủy sản chiếm khoảng 19,8%; công nghiệp và xây dựng chiếm 42,1%; dịch vụ chiếm 38,1%. Như vậy, so với mục tiêu mà kế hoạch 2006 – 2010 đề ra thì ngành nông nghiệp và công nghiệp đã có những sự chuyển biến tích cực. Tỷ trọng của nông nghiệp giảm đều từng năm từ mức còn trên 20% năm 2006, nay xuống dưới 20%. Trong khi đó ngành công nghiệp cũng có đạt được những thành tựu đáng kể, khi tỷ trọng của ngành nay liên tục tăng, dự kiến cuối năm nay là trên 42%. theo kế hoạch đến năm 2010 thì tỷ trọng của công nghiệp trong GDP là khoảng 44%. Như vậy, với tốc độ tăng tỷ trọng đều đặn như hiện nay thì trong 3 năm tới chúng ta hoàn toàn có thể nâng tỷ trọng của ngành công nghiệp lên 44%. Cần phải lưu ý một điều là tốc độ tăng trưởng năm 2007 theo dự kiến của ngành công nghiệp là 10,7% trong khi mục tiêu kế hoạch đề ra chỉ có 10,2%/năm. Có thể nói chỉ cần duy trì nhịp độ phát triển như hiện nay thì ngành công nghiệp không những có thể hoàn thành mục tiêu kế hoạch đề ra mà còn vượt mức kế hoạch. Về ngành dịch vụ, mặc dù tỷ trọng của ngành này theo dự kiến vẫn chỉ là 38,1%, không có sự gia tăng so với năm 2005, thậm chí là giảm so với năm 2006. Nhưng chúng ta không nên lo lắng quá, bởi lẽ tốc độ tăng trưởng của ngành dịch vụ năm 2007 theo dự báo đạt 8,8%. một con số rất cao, cao hơn chỉ tiêu của kế hoạch 2006 – 2010 nhiều (kế hoạch đặt ra chỉ là 7%). Hơn nữa, đây mới là năm thứ hai Việt Nam gia nhập WTO nên chúng ta vẫn còn nhiều vướng mắc chưa được giải quyết, và thị trường chứng khóan Việt Nam cũng mới dần dần đi vào sự ổn định nên giá trị gia tăng tạo ra là chưa nhiều. Có thể năm 2007, tỷ trọng của ngành dịch vụ không có cao như mong muốn nhưng chúng ta hoàn toàn có thể tin tưởng vào việc hoàn thành chỉ tiêu mà kế hoạch 2006 – 2010 đề ra vì những kết quả mà ngành dịch vụ năm 2007 đạt được sẽ tạo tiền đề vững chắc để chúng ta có những bước phát triển mạnh mẽ vào 3 năm tiếp theo của kỳ kế hoạch. Nông, lâm nghiệp và thủy sản: mặc dù còn tồn tại nhiều bất lợi như dịch bệnh, lũ lụt, đặc biệt là hai cơn lũ lịch sử ở các tỉnh miền trung vừa qua, việc hoàn thành mục tiêu của kế hoạch 2007gặp nhiều khó khăn song những kết quả dự báo về ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản vẫn rất khả quan thể hiện được sự được theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa kinh tế nông thôn. Sản xuất đáp ứng được nhu cầu trong nước, những mặt hàng nông sản chủ lực vẫn tiếp tục đà phát triển của quý trước, đạt và vượt mức chỉ tiêu đề ra trong năm 2007, trong đó gạo và cà phê là những mặt hàng sẽ về đích sớm. Mặt hàng gạo dự báo là sẽ đạt mức xuất khẩu trên 4,5 triệu tấn. Cà phê dự đoán là sẽ vượt mức xuất khẩu 1 triệu tấn, với kim ngạch hơn 1,5 tỷ USD, thóat khỏi thời kỳ suy thóai trầm trọng trước đó, nguyên do là trong quý tới bắt đầu vụ thu hoạch cà phê mới và giá cà phê thế giới đang tăng cao. Trên đà tăng trưởng cao của ba quý trước, xuất khẩu thủy sản trong những tháng cuối năm sẽ rất thuận lợi. Kim ngạch xuất khẩu thủy sản có triển vọng tăng mạnh ở những thị trường có các rào cản kỹ thuật khắt khe là Mỹ, Nga, Đài Loan và EU. Để tiếp tục duy trì được tốc độ tăng trưởng xuất khẩu, ngành chế biến thủy sản vẫn cần phải chú trọng đến 3 thách thức lớn, đó là: vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm, chế biến thiếu nguồn nguyên liệu an toàn và cạnh tranh gay gắt cả đầu ra và đầu vào. Song song với đó, các cơ quan chức năng cũng cần phải có sự phối hợp kiểm tra, ban hành các quy định chế tài nghiêm khắc đối với các đơn vị vi phạm. Ngành công nghiệp tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng cao đạt 10,7% và là ngành chủ đạo đóng góp vào sự tăng trưởng GDP toàn nền kinh tế. Với những dấu hiệu tích cực của tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp quý III nói riêng và 9 tháng đầu năm nói chung, công nghiệp sẽ vẫn tiếp tục tăng trưởng mạnh trong quý còn lại của năm và hứa hẹn sẽ đạt kế hoạch đề ra trong năm nay (thậm chí một số nhóm mặt hàng vượt kế hoạch). Như đã phân tích ở trên, giá trị sản xuất công nghiệp trong quý III đã đạt 27,7% kế hoạch năm và tính chung cả 9 tháng, con số này lên tới 76,39% kế hoạch năm. Như vậy, khả năng hoàn thành kế hoạch năm nay của ngành công nghiệp là nằm trong tầm tay, nhất là khi nhiều mặt hàng công nghiệp chủ lực như than đá, điện, dệt may, giày dép đều tăng trưởng tốt và sẽ tiếp tục tăng trưởng mạnh vào những tháng cuối năm nay. Giá trị sản xuất công nghiệp quý IV dự báo sẽ đạt 160,2 nghìn tỷ đồng, đưa tổng giá trị sản xuất công nghiệp cả năm lên mức 591,83 nghìn tỷ đồng, tức là vượt khoảng 4% so với kế hoạch năm 2007. Các ngành dịch vụ đã có nhiều bước chuyển biến tích cực, đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế. Ngành du lịch cũng đã có nhiều chuyển biến trong việc nâng cao chất lượng dịch vụ và thu hút khách du lịch. Công tác xúc tiến, quảng bá du lịch cũng được đẩy mạnh, tạo thuận lợi cho ngành du lịch phát triển. Dịch vụ vận tải đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế và đời sống nhân dân. Dự kiến khối lượng vận chuyển hàng hóa năm 2007 tăng 9,8% so với năm 2006. Các dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm tiếp tục phát triển Thị trường chứng khoán cuối năm 2007 dự báo sẽ tiếp tục xu hướng hồi phục cùng với tốc độ tăng trưởng cao của nền kinh tế. Mức vốn hóa thị trường chứng khoán ước khoảng 25-27% GDP. Tuy nhiên, còn tiềm ẩn nhiều nhân tố ảnh hưởng không thuận đến khả năng hồi phục của thị trường. Thị trường chứng khoán cuối năm 2007 dự báo sẽ tiếp tục xu hướng hồi phục cùng với tốc độ tăng trưởng cao của nền kinh tế. Mức vốn hóa thị trường chứng khoán ước khoảng 25-27% GDP. Tuy nhiên, còn tiềm ẩn nhiều nhân tố ảnh hưởng không thuận đến khả năng hồi phục của thị trường. Thị trường bảo hiểm năm 2007 dự kiến tiếp tục có bước phát triển nhanh với tốc độ tăng trưởng doanh thu toàn thị trường khoảng 10%, trong đó tốc độ tăng của thị trường bảo hiểm nhân thọ là 5,5%, thị trường bảo hiểm phi nhân thọ là 17%. Tuy nhiên, nhiều vấn đề đặt ra trong giai đoạn này đối với các ngành sản xuất của Việt Nam, đó là chúng ta đang phải đối mặt với nguy cơ lạm phát cao trong năm nay. Chỉ số giá tiêu dùng trong những tháng vừa qua không ngừng tăng lên, đến tháng 9 tăng 7,53% so với tháng 12/2006 và nếu không kiềm chế được nguy cơ này thì tăng trưởng kinh tế của Việt Nam sẽ khó mà đạt mục tiêu đề ra trong mối tương quan hợp lý giữa tăng trưởng và lạm phát. CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP ĐỂ CÓ THỂ THỰC HIỆN ĐƯỢC KẾ HOẠCH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2006 – 2010 Mục tiêu tổng quát của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 – 2010 là: “Đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, nâng cao hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Cải thiện rõ rệt đời sống vật chất, văn hóa và tinh thần của nhân dân. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức, tạo nền tảng để đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Giữ vững ổn định chính trị và trật tự, an toàn xã hội. Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia. Tiếp tục củng cố và mở rộng các quan hệ đối ngoại, nânng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế”. Là một trong những bộ phận quan trọng cấu thành nên hệ thống kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội, việc hoàn thành kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành sẽ góp phần giúp chúng ta đạt được mục tiêu của kế hoạch 5 năm 2006 – 2010. Tuy nhiên, trước bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa của thế giới như hiện nay, cũng như những khó khăn nội tại của bản thân thì việc hoàn thành được kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010 không hẳn là một việc dễ dàng. Để có thể đạt được các mục tiêu đề ra cần phải có một hướng đi đúng đắn, chủ động, phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của nước ta. Là 1 sinh viên năm thứ 4 của chuyên ngành kế hoạch và phát triển, tôi xin đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần thực hiện bản kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế này. Lựa chọn các ngành cần tập trung phát triển Việt Nam hiện nay có 3 nhóm ngành cơ bản chính đó là Nông, lâm nghiệp và thủy sản, Công nghiệp và xây dựng, và Dịch vụ. Mỗi nhóm ngành lại bao gồm nhiều nhóm ngành nhỏ với những thế mạnh và đặc thù riêng. Với một hệ thống cơ cấu ngành đa dạng và phong phú như vậy, việc lựa chọn nên tập trung phát triển ngành nào, duy trì ngành nào là một việc làm hết sức quan trọng. Chúng ta không đủ tiềm lực để phát triển tất cả các ngành, và việc phát triển tất cả các ngành cũng không phải là một hướng đi đúng vì như thế chúng ta sẽ không xác định được đâu là ngành mũi nhọn, đâu là ngành mà Việt Nam có thế mạnh. Tất cả các ngành đều được coi là quan trọng sẽ dẫn đến tình trạng vốn đầu tư bị phân tư bị phân nhỏ, không có hiệu quả, tất cả các ngành đều ở trong một vòng luẩn quẩn, vẫn phải tiếp tục đầu tư để duy trì mà nhưng không có ngành nào thật sự nổi bật, các ngành đều ở mức ngang bằng nhau, không ở trình độ cao, mà cũng không hẳn là quá kém. Kết quả là hàng hóa sản xuất ra không thể cạnh tranh được với hàng hóa của các nước khác, những nước có sự tập trung và chuyên môn hóa cao. Do vậy, chúng ta chỉ nên tập trung vào những ngành mà Việt Nam có thế mạnh, những ngành có khả năng cạnh tranh với các nước bạn trên trường quốc tế, những ngành không phải là thế mạnh chúng ta chỉ đầu tư ở mức vừa đủ để duy trì sản xuấtvà đáp ứng được nhu cầu trong nước. Tuy nhiên, một vấn đề lớn đặt ra ở đây là chúng ta nên lựa chọn đầu tư phát triển những ngành nào, theo một tiêu chí như thế nào. Chúng ta cần xác định cho mình một hướng phát triển các ngành hợp lý, không chỉ phát huy được thế mạnh của ngành đó mà còn phải phù hợp yêu cầu của thị trường và các quy định quốc tế. Chúng ta không thể tập trung cho những ngành mà Việt Nam cho là có thế mạnh nhưng những sản phẩm của ngành đó lại không được thị trường chấp nhận. Trong xu hướng hội nhập và mở cửa của nền kinh tế như hiện nay, cùng với việc các tiến bộ về khoa học công nghệ được ứng dụng ngày càng nhiều, tri thức ngày càng được coi trọng chúng ta nên tập trung phát triển cho những ngành sử dụng nhiều vốn và kỹ thuật, giảm bớt những ngành sử dụng nhiều lao động đặc biệt là lao động thủ công cho năng suất thấp. Bên cạnh đó, chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong điều kiện hội nhập không những đòi hỏi phải tuân thủ nghiêm ngặt các nguyên tắc lợi thế so sánh quốc tế mà còn phải tích cực thu hút vốn và kỹ thuật tiên tiến của nước ngoài để phát triển những ngành mới, cải tạo những ngành cũ. Trên cơ sở đó, có thể xác định một số hướng cụ thể cho các ngành cơ bản như sau: Với nhóm những ngành thuộc lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thủy sản: Sản xuất lúa gạo là ngành có ý nghĩa đặc biệt đôi với kinh tế nông nghiệp nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nói chung, trước mắt cũng như lâu dài. Sản xuất lúa gạo đóng vai trò là ngành sản xuất lương thực cơ bản, truyền thống có ý nghĩa ổn định đời sống kinh tế và xã hội của một quốc gia đông dân như Việt Nam. Và hiện nay, Việt Nam đang là 1 trong 3 nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới. Vì vậy, chúng ta vẫn phải tập trung đầu tư cho ngành sản xuất lúa gạo bằng các biện pháp đầu tư cây giống; phát triển cơ sở hạ tầng, máy móc thiét bị, cải tạo, nâng cấp và sửa chữa hệ thống kênh mương; ứng dụng nhiều tiến bộ cvủa khoa học công nghệ vào sản xuất. Phát huy lợi thế khí hậu nhiệt đới, tiếp tục thực hiện có hiệu quả chương trình bảo vệ và phát triển rừng. Nâng cao chất lượng rừng phòng hộ, rừng đặc dụng, phát triển mạnh việc trồng mới và khai thác bền vững rừng sản xuất để nâng cao khả năng đáp ứng nhu cầu trước mắt và lâu dài về nguyên liệu gỗ cho chế biến hàng tiêu dùng và xuất khẩu; bảo đảm lợi ích thoả đáng của người được giao kinh doanh, chăm sóc và bảo vệ rừng. Phát triển nuôi trồng thuỷ sản theo hướng sản xuất hàng hoá lớn, phục vụ xuất khẩu và thị trường nội địa đi đôi với bảo vệ môi trường sinh thái; chuyển đổi cơ cấu khai thác qua việc lựa chọn ngư trường, loại hình nghề nghiệp và sản phẩm để nâng cao giá trị hàng hoá, sử dụng hợp lý nguồn lợi, giảm chi phí. Nâng cao sức cạnh tranh, bảo đảm tăng trưởng bền vững trong sản xuất, chế biến và xuất khẩu thuỷ sản. Chú trọng đào tạo nghề, tạo việc làm cho nông dân và cho lao động nông thôn, nhất là các vùng Nhà nước thu hồi đất để xây dựng kết cấu hạ tầng và phát triển các cơ sở phi nông nghiệp. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông thôn theo hướng giảm nhanh tỷ trọng lao động làm nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao động làm công nghiệp và dịch vụ. Tạo điều kiện cho lao động nông thôn có việc làm cả trong công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, tại chỗ và ngoài khu vực nông thôn, kể cả ở nước ngoài. Nhà nước đầu tư nhiều hơn và phát huy khả năng trợ giúp của xã hội để thực hiện tốt xoá đói, giảm nghèo ở nông thôn, đặc biệt ở các vùng sâu, vùng xa. Giải quyết ổn định vấn đề lương thực cho các hộ thuộc diện nghèo, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số, gắn với việc giao khoán rừng. Với nhóm những ngành thuộc lĩnh vực công nghiệp và xây dựng Phát triển đồng bộ công nghiệp chế biến, chế tác, công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất quan trọng, công nghiệp quốc phòng, góp phần xây dựng nền tảng cho một nước công nghiệp và nâng cao khả năng tự chủ của nền kinh tế. Xây dựng và thực hiện tốt chương trình phát triển công nghiệp phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Tập trung nguồn lực phát triển mạnh và nâng cao chất lượng các ngành công nghiệp có lợi thế cạnh tranh, tạo ra sản phẩm xuất khẩu và thu hút nhiều lao động, như: chế biến nông, lâm, thuỷ sản; may mặc, giày dép, đồ nhựa, đồ gỗ gia dụng; cơ khí đóng tàu, công nghiệp chế tạo thiết bị đồng bộ, thiết bị điện, thiết bị xây dựng, máy nông nghiệp, phương tiện giao thông, sản xuất và lắp ráp cơ - điện tử; công nghiệp bổ trợ, công nghiệp công nghệ thông tin, sản xuất phần mềm. Nâng tỉ trọng sản phẩm công nghiệp xuất khẩu đã qua chế biến. Chú trọng phát triển công nghiệp năng lượng đi đôi với áp dụng công nghệ tiết kiệm năng lượng; công nghiệp vật liệu và công nghệ tiết kiệm nguyên vật liệu; công nghiệp dược và các chế phẩm sinh học; công nghiệp bảo vệ môi trường. Với nhóm những ngành thuộc lĩnh vực dịch vụ Ưu tiên phát triển các ngành dịch vụ có tiềm năng lớn và sức cạnh tranh cao. Tiếp tục mở rộng và nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ truyền thống, như vận tải, thương mại, du lịch, ngân hàng, bưu chính - viễn thông. Phát triển mạnh các dịch vụ phục vụ sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, phục vụ đời sống ở nông thôn. Mở rộng các dịch vụ mới, nhất là những dịch vụ cao cấp, dịch vụ có hàm lượng trí tuệ cao, dịch vụ hỗ trợ kinh doanh. Trong sự phát triển nhanh hơn của dịch vụ vận tải, cần tạo lập và phát triển mạnh dịch vụ vận tải đa phương thức và dịch vụ hỗ trợ các phương thức vận tải. Tiếp tục phát triển mạnh thương mại trong nước trên tất cả các vùng và gia tăng nhanh xuất khẩu. Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng hoạt động du lịch, đa dạng hoá sản phẩm và các loại hình du lịch. Hiện đại hoá và mở rộng các dịch vụ ngân hàng theo kịp yêu cầu phát triển thị trường tài chính, tiền tệ và hội nhập kinh tế quốc tế. Phát triển các dịch vụ pháp luật, kiểm toán, bảo hiểm, khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, y tế, văn hoá, thông tin, thể thao; tăng số lượng và nâng cao chất lượng dịch vụ việc làm, an sinh xã hội. II.Huy động vốn cho chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và hợp lý hóa vốn đầu tư Ngày nay vốn sản xuất và vốn đầu tư được coi là yếu tố quan trọng của quá trình sản xuất. Vốn sản xuất vừa là yếu tố đầu vào, vừa là sản phẩm đầu ra của quá trình sản xuất. Vốn đầu tư không chỉ là cơ sở để tạo ra vốn sản xuất, tăng năng lực sản xuất của các doanh nghiệp của nền kinh tế, mà còn là điều kiện để nâng cao trình độ khoa học công nghệ, góp phần đáng kể vào việc đầu tư theo chiều sâu, hiện đại hóa quá trình sản xuất. Việc tăng vốn đầu tư cũng góp phần vào việc giải quyết công ăn, việc làm cho người lao động khi mở ra các công trình xây dựng và mở rộng quy mô sản xuất. Cuối cùng, cơ cấu sử dụng vốn đầu tư là điều kiện quan trọng tác động vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế của đất nước. Như đã phân tích ở trên, chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thực sự chỉ là sự thay đổi tỷ trọng phần trăm giữa các ngành trong nền kinh tế quốc dân. Và hiện nay, xu hướng của chúng ta là giảm dần tỷ trọng của ngành nông lâm nghiệp, thủy sản nâng cao tỷ trọng của công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Đó là một xu thế tất yếu nếu muốn đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp. Nhưng có một định hướng tốt, một hướng đi hợp lý mà không có nguồn lực thì chúng ta cũng không thể đạt được những mục tiêu mà mình đề ra. Có thể nói vốn đầu tư là một phương tiện quan trọng và cần thiết để chúng ta có thể đi được trên con đường mà mình đã vạch ra. Để thực hiện mục tiêu chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa chúng ta phải giảm dần tỷ trọng của khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản. muốn làm được điều đó chúng ta phải áp dụng những công nghệ tiên tiến hiện đại trên thế giới vào sản xuất, phải xây dựng kết cấu hạ tầng tạo đièu kiện cho sản xuất và sinh hoạt của ngươi dân, phải đào tạo đội ngũ nhân công vừa có tay nghề, trình độ vừa có ý thức tác phong công nghiệp... muốn làm được diều đó trước hết phải có nguồn vồn đầu tư. Công nghệ là một yếu tố không thể thiếu được đôi với quá trình phát triển của mỗi quốc gia. Công nghệ tiên tiến hiện đại cho phép chúng ta nâng cao được năng suất lao động, mở rộng quy mô sản xuất, sản phẩm tạo ra có chất lượng đạt yêu cầu và tiêu chuẩn quốc tế, có sức cạnh tranh trên thị trường. Nhưng vấn đề quan trọng ở đây là làm thế nào chúng ta tiếp cận được những công nghệ đó, nắm công nghệ đó trong tay và sở hữu chúng. Đay là một câu hỏi không dễ trả lời, chúng ta chỉ có thể làm được điều đó khi chúng ta nắm trong tay một nguồn vốn đầu tư đủ lớn. Có nguồn vốn trong tay chúng ta có thể mua được các công nghệ tiên tiến, hiện đại nhất, đồng thời trong xu thế mở cửa và hội nhập như hiện nay thì việc tiếp nhận các khoản đầu tư ngoài dưới hình thức chuyển giao công nghệ cũng là một giải pháp có nhiều ưu điểm. Bên cạnh việc sử dụng nguồn vốn đầu tư để được sở hữu các công nghệ tiên tiến và hiện đại nhất thì nguồn vốn này còn cho phép chúng ta cải tạo nâng cấp hệ thống cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật của quốc gia. Giao thông vận tải, thong tin liên lạc và các yếu tố khác thuôc kết cấu hạ tầng là một yếu tố không thể thiếu đối với quảtình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Kết cấu hạ tầng tốt, giao thông thuận lợi, thông tin được đảm bảo sẽ thúc đẩy giao lưu buôn bán hàng hóa, và đặc biệt là tạo tiền đề thuận lợi cho việc phát triển các ngành thuộc khu vực dịch vụ, khu vực mà trong tương lai sẽ nắm giữ vị trí dẫn dầu về tỷ trọng trong cơ cấu ngành kinh tế quốc dân. Hiện nay, ngành du lịch đang là một ngành mũi nhọn, có tốc độ tăng trưởng hàng năm khá cao, nhưng lượng du khách đến Việt Nam vẫn chưa tương xứng với tiềm năng du lịch của đất nước. Các điểm du lịch của Việt Nam không hề thua kém Thái Lan, Singapore hay Malaysia nhưng chúng ta lại kém họ ở điều kiện cơ sở vật chất hạ tầng. Nhưng một khi đã được đầu tư, cải tạo và nâng cấp hệ thông cơ sở vật chất hạ tầng kỹ thuật thì chắc chắn Việt Nam sẽ là cường quốc số một Đông nam Á về thu hút du lịch. Có thể nói với việc nguồn vốn đầu tư sẽ đem lại một bộ mặt mới cho Việt Nam, đem lại một tương lai tươi sáng cho nền kinh tế Việt Nam. Một nhân tố đầu vào vô cùng quan trọng của quá trình sản xuất đó là nguồn nhân lực. Việt Nam là một nước dồi dào về nguồn nhân lực nhưng chất lượng của nguồn lao động Việt Nam là không cao, không đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển, lao động hoạt động trong ngành nông nghiệp của Việt Nam là chủ yếu. Hiện nay, chúng ta đang có xu hướng thu hút lao động nông nghiệp sang lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ. Nhưng một vấn đề đặt ra hiện nay là lao động hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ thường có những yêu cầu nhất định về trình độ tay nghề, kỹ thuật điều mà lao động nông nghiệp khó có thể đáp ứng được. Vì vậy, chúng ta cần phải có chính sách đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao trình độ kỹ năng của người lao động bằng cách mở các trường đào tạo nghề, các trường đại học, cao đẳng... Muốn làm được điều đó diều kiện tiên quyết là chúng ta phải có được một nguồn vốn đầu tư cho hoạt động đào tạo và nâng cao và chất lượng nguồn nhân lực. Vai trò của vốn đầu tư là không thể phủ nhận được nhưng nguồn vốn này ở đâu ra, và chúng ta phải huy động và sử dụng chúng như thế nào để có được hiệu quả cao nhất lại là một câu hỏi không dễ trả lời. Cơ cấu vốn đầu tư rất đa dạng, bên cạnh nguồn vốn ngân sách Nhà nước còn có các nguồn vốn khác đóng vai trò tích cực như: vốn tín dụng nhà nước, vốn của doanh nghiệp nhà nước, vốn đầu tư của khu vực tư nhân và dân cư, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và các nguồn vốn khác. Đối với các nước đang phát triển, thì nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước là chủ yếu, nguồn vốn thu hút từ khu vực tư nhân và dân cư vẫn còn thấp, đây là một khó khăn rất lớn. Chính vì vậy, nếu muốn đạt được các mục tiêu tăng trưởng kinh tế mà trong trường hợp này là thực hiện được kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế chúng ta cần phải phát huy cao độ nguồn vốn huy động trong dân, đồng thời tranh thủ các nguồn vốn bên ngoài và sử dụng, phân bổ chúng một cách có hiệu quả nhất. Sau đây, tôi xin phép được đưa ra một vài giải pháp huy động và sử dụng vốn đầu tư. Tạo môi trường khuyến khích và nâng cao hiệu quả vốn đầu tư Sự ổn định về kinh tế, chính trị, xã hội là yêu cầu trước hết để các nhà kinh doanh yên tâm bỏ vốn đầu tư, có thể dự kiến và thực thi những dự án đầu tư dài hạn, giảm bớt rủi ro trong quá trình đầu tư. Sự ổn định về kinh tế liên quan đặc biết đến sự ổn định tiền tệ, sự dúng dắn của các định hướng chiến lược phát triển dài hạn của đất nước. Môi trường đầu tư được hệ thống luật pháp và chính sách của nhà nước đảm bảo. hệ thống luật pháp, trước hết là luật đầu tư công bằng hợp lý và được đảm bảo thực thi trong thực tiễn đối với mọi thành phần kinh tế. Nhờ đó, các nguồn vốn đầu tư được huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả. Môi trường đầu tư khuyến khích thu hút đầu tư phải xe lợi nhuận là dộng lực mạnh mẽ kích thích sáng tạo trong kinh doanh, đổi mới công nghệ nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp và nền kinh tế. Phát triển thị trường tài chính Thông qua thị trường tài chính mà tiết kiệm được chuyển đến các nhà đầu tư. Với sự giúp đỡ của các trung gian tài chính, việc dẫn vốn được thực hiện thông qua hai kênh: trực tiếp và gián tiếp. Kênh dẫn vốn gián tiếp thực hiện thông qua các trung gian tài chính như: hệ thống ngân hàng, các quỹ tín dụng, cácc ty bảo hiểm, cácc ty tài chính, các qũy đầu tư... Kênh dẫn vốn trực tiếp được thực hiện thông qua thị trường chứng khoán. Trong một thị trường tài chính, sự vận hành của cả hai kênh đãn vốn sẽ bổ sung cho nhau, tạo khả năng sử dụng vốn một cách có hiệu quả. Trong điều kiện nước ta hiện nay, hệ thống tài chính cần tiếp tục phát triển và chuyển đổi phù hợp với cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, nhằm biến hệ thống tài chính thành trung tâm thu hút và phân bổ các nguồn vốn đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội và hội nhập quốc tế, cụ thể là: Củng cố, nâng cao năng lực kinh doanh và sức cạnh tranh của các trung gian tài chính với các hình thức đa dạng, thích hợp; Khuyến khích các trung gian tài chính phát triển các loại dịch vụ mới phù hợp; Hoàn thiện và phát triển đồng bộ thị trường tài chính, đặc biệt ưu tiên phát triển thị trường vốn trung và dài hạn, đảm bảo sự vận hành an toàn, lành mạnh, hiệu quả; Tạo lập khuôn khổ pháp luật giám sát hoạt động tài chính trên thị trường được thực hiện minh bạch vì lợi ích người đầu tư và đảm bảo anninh tài chính quốc gia; Từng bước mở cửa thị trường tài chính Việt Nam, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Tiếp tục hoàn thiện chính sách tài chính, tiền tệ Tiếp tục cải thiện hệ thống thuế theo hướng: Thuế và phí là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước, đồng thời phỉa đảm bảo nuôi dưỡng nguồn thu, khuyến khích sản xuất, công bằng xã hội; Đảm bảo tính rõ ràng và ổn định của các sắc thuế; Đảm bảo phù hợp với thông lệ quốc tế, tạo điều kiện thực hiện hội nhập kinh tế với khu vực và trên thế giới; Nâng cao năng lực của bộ máy quản lý thu thuế, đổi mới phương thức thu thuế, chống thất thu và lạm thu. Đối với chính sách chi ngân sách: Chi cho đầu tư là khoản chi có tác động trực tiếp đến phát triển kinh tế. Vì vậy, tăng chi chp đầu tư được coi là khuynh hướng tich cực. Giải pháp cơ bản là: Triệt để xóa bỏ bao cấp đối với doanh nghiệp nhà nước thông qua ngân sách; Thực hiẹn triệt để tiết kiệm chi ngân sách; Phân bổ và lựa chọn hướng ưu tiên chi cho đầu tư phát triển một cách hợp lý và hiệu quả. Tăng cường quản lý nợ, nhất là nợ nước ngoài. Cần phải có chính sách vay và trả nợ đúng đắn để tránh đất nước rơi vào tình trạng khủng hoảng nợ, do đó giải pháp cơ bản là: Xây dựng hạn mức nợ nước ngoài của quốc gia phù hợp với các tiêu chuẩn an ninh được quốc tế thừa nhận và gắn với hệ thống các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô lành mạnh; Ngân sách nông nghiệp chỉ vay cho đầu tư phát triển, không vay cho tiêu dùng; Thiết lập cơ chế giám sát tài chính, tiền tệ nhằm đảm bảo an ninh tài chính quốc gia, kiểm soát chặt chẽ các luồng vốn nước ngoài, đặc biệt là nguồn vốn ngắn hạn... Nâng cao hiệu quả các nguồn đầu tư từ ngân sách. Để nâng cao hiệu quả sử dụng vôn đầu tư từ ngân sách phải thực hiện các biện pháp sau: cần xác định đúng các chủ trương đầu tư trong dài hạn; Quản lý chặt chẽ quá trình đầu tư; Công khai hóa vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước. LỜI KẾT Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế luôn luôn là một vấn đề quan trọng cần phải đề cập đến khi nói tới tăng trưởng và phát triển kinh tế. Cơ cấu ngành kinh tế của một quốc gia có hợp lý thì quốc gia đó mới có cơ hội phát triển và hội nhập được với thế giới. Nhìn chung, cơ cấu kinh tế của Việt Nam hiện nay cũng đã có sự chuyển dịch phù hợp với xu hướng chung của nền kinh tế thế giới, tỷ trọng nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm dần trong khi tỷ trọng của công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng cả trong GDP và lao động. Song xu hướng chuyển dịch của chúng ta vẫn còn chậm, tỷ trọng nông nghiệp vẫn còn cao, lao động nông thôn còn chiếm đa số trong tổng số lao động của nền kinh tế; ngành dịch vụ mặc dù có sự tăng lên về giá trị sản xuất nhưng tỷ trọng chiếm trong GDP vẫn không có sự chuyển biến rõ rệt, các ngành dịch vụ quan trọng như tài chính, ngân hàng, du lịch ... ở Việt Nam vẫn còn rất non yếu, đóng góp không đáng kể vào tổng thu nhập quốc dân. Hạn chế này cùng với những yêu cầu về sự điều chỉnh nhất định trong cơ cấu nội ngành nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ chính là những nhiệm vụ đặt ra nhằm thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của nước ta trong thời gian tới. Là một sinh viên đang theo học chuyên ngành kế hoạch, tôi chọn đề tài này cho đề án môn học của mình với mong muốn được vận dụng những kiến thức mà mình đã được đào tạo vào thực tiễn, đưa ra một số giải pháp với hi vọng có thể đóng góp chút gì đó vào việc đẩy nhanh thực hiện mục tiêu của kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong giai đoạn 2006-2010. Với sự giúp đỡ và hướng dẫn tận tình của thầy giáo Phạm Thanh Hưng tôi đã hoàn thành bài làm của mình trong điều kiện hạn chế về thời gian, số liệu cũng như kiến thức. Thông qua bài làm tôi xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của thầy và rất mong được thầy và các bạn góp ý thêm để tôi có thể hoàn thiện kiến thức của mình. TÀI LIỆU THAM KHẢO Bộ môn Kinh tế Công cộng, Khoa Kế hoạch và Phát triển, Trường ĐH KTQD: Giáo trìnhKinh tế Công cộng, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội, 2005. Khoa Kế hoạch và Phát triển, Trường ĐH KTQD: Giáo trình Kế hoạch hóa phát triển kinh tế - xã hội, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội, 2006. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia. Nguồn số liệu lấy từ các trang web của Bộ Kế hoạch và Đầu tư: www.mpi.gov.vn Bộ Công thương: www.moi.gov.vn. Tổng cục thống kê: www.gso.gov.vn Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam: www.cpv.org.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docV0357.doc
Tài liệu liên quan