Đề tài Kế hoạch tăng trưởng kinh tế thời kỳ 2006 – 2010 và các giải pháp thực hiện

Đổi mới cơ chế quản lý nhân lực khoa học và công nghệ nhằm giải phòng tiềm năng, phát huy tính chủ động, sáng tạo của đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ: - Từng bước chuyển chế độ biên chế sang chế độ hợp đồng lao động đối với cán bộ khoa học và công nghệ, tạo điều kiện cho việc lưu chuyển cán bộ, hình thành thị trường lao động trong hoạt động khoa học và công nghệ. - Thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về quản lý nhân sự đối với cá tổ chức khoa học và công nghệ trong việc quyết định tuyển dụng, đào tạo, bố trí sử dụng, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, cho thôi việc, xếp lương, khen thưởng và các chế độ đãi ngộ khác đối với cán bộ, nhân viên. Xây dựng các chính sách tạo động lực vật chất và tinh thần mạnh mẽ cho các cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ, trọng dụng và tôn vinh nhân tài khoa học và công nghệ: - Thực hiện cơ chế cạnh tranh lành mạnh, xoá bỏ dần chế độ phân phối bình quân, thực hti chế độ đãi ngộ tương xứng với cống hiến của các nhà khoa học và công nghệ; không giới hạn mức thu nhập đối với cán bộ khoa học và công nghệ, miễn hoặc giảm thuế thu nhập cá nhân từ hoạt động khoa học và công nghệ. Bảo hộ hữu hiệu quyền sở hữu trí tuệ nhằm khích lệ sáng tạo và đưa kết quả nghiên cứu vào ứng dụng rộng rãi. - Ban hành chính sách khen thưởng đối với cá nhân có thành tích khoa học và công nghệ có giá trị khoa học và thực tiễn cao; chính sách khuyến khích cán bộ khoa học và công nghệ làm việc tại địa bàn có điều kiện kinh tế, xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn; chính sách sử dụng cán bộ khoa học và công nghệ đã đến tuổi nghỉ hưu nhưng còn khả năng chuyên môn, sức khỏe và tâm huyết với nghề nghiệp.

doc31 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1110 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Kế hoạch tăng trưởng kinh tế thời kỳ 2006 – 2010 và các giải pháp thực hiện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iện kế hoạch tăng trưởng kinh tế thời kỳ 2001 – 2005 1. Những thành tựu 1.1. Đánh giá tổng quát Sau một số năm giảm sút do ảnh hưởng cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính khu vực và những khó khăn trong nội tại nền kinh tế, từ năm 2000, nền kinh tế của Việt Nam đã và đang ngày càng phục hồi duy trì được khả năng tăng trưởng cao. Đó là trong 5 năm 2001 – 2005, nền kinh tế nước ta tăng trưởng khá nhanh và tương đối bền vững. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 5 năm là 7,5%/năm, đạt mục tiêu đề ra. Trong bối cảnh hết sức khó khăn ở cả trong và ngoài nước, tốc độ tăng trưởng kinh tế liên tục tăng lên qua các năm vàc cao hơn 5 năm trước 0.6 điểm % là một thành tựu lớn. Tăng trưởng kinh tế của nước ta cũng ở mức khá cao so với các nước trong khu vực và trên thế giới 1.2. Đánh giá cụ thể a. Đánh giá cụ thể qua các năm Ngay từ năm đầu thực hiện kế hoạch 5 năm tình hình kinh tế nước ta đã có nhiều chuyển biến và đạt tốc độ khá cao, năm sau cao hơn năm trước. Năm 2001, tốc độ tăng trưởng GDP đạt 6,89%, mở đầu cho một giai đoạn tăng trưởng khá cao và ổn định Năm 2002, đã tập trung chỉ đạo phát huy mạnh mẽ nội lực, tháo gỡ từng khó khăn trong sản xuất, kinh doanh... Nhờ đó, tình hình kinh tế, xã hội đã có những chuyển biến tích cực qua từng tháng, nhất là trong những tháng cuối năm, kết quả là tốc độ tăng trưởng kinh tế cả năm đạt 7,08% Năm 2003, nền kinh tế nước ta lại phải đương đầu với những khó khăn, thách thức hết sức gay gắt do hạn hán kéo dài và do dịch bệnh SARS, nhưng nhờ sự chỉ đạo nhanh nhạy, kịp thời, sự nỗ lực rất cao của các ngành, các cấp, nền kinh tế nước ta đã đạt được những kết quả rất khích lệ; tăng trưởng kinh tế đạt 7,34% Năm 2004, tình hình kinh tế cũng có nhiều biến động phực tạp, nhưng Chính phủ và các Bộ, ngành, địa phương đã triển khai nhiều biện pháp có hiệu quả với phương châm chỉ đạo là phấn đấu tháng sau, quý sau tốt hơn tháng trước, quý trước. Nhờ đó, tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2004 đạt 7,79% Năm 2005, là năm đánh dấu bước chuyển biến mới và toàn diện trong toàn nền kinh tế; các chủ trương, chính sách lớn đề ra tại Đại hội IX và tại các Hội nghị Trung ương khoá IX thực sự đi vào cuộc sống, tạo ra động lực mới, đồng thời kích thích mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh. Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 8,43% Tính bình quân 5 năm 2001 – 2005, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 7,5%, trong đó nông, lâm, nghiệp và thuỷ sản đạt 3,8%; công nghiệp và xây dựng đạt 10,2%; các ngành dịch vụ đạt gần 7,0% Qui mô tổng sản phẩm trong nước của nền kinh tế năm 2005 đạt gấp đôi năm 1995, tăng bình quân 7,2%/năm. Năm 2005, GDP theo giá hiện hành đạt 838 nghìn tỷ đồng, bình quân đầu người trên 10 triệu đồng (tương đương 40 USD) cao hơn mức trung bình của nhóm nước có thu nhập thấp b. Đánh giá cụ thể qua các khu vực kinh tế Khu vựcnông, lâm nghiệp và thuỷ sản tiếp tục phát triển. Giá trị sản xuất toàn ngành tăng bình quân trong 5 năm khoảng 5,4%, vượt mục tiêu kế hoạch đề ra là 4,8%, trong đó nông nghiệp tăng 4,1%; lâm nghiệp tăng 1,4%; thuỷ sản tăng 12,1%. Giá trị tăng thêm của ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng bình quân 3,8%/năm (mục tiêu đề ra là 4,3%) Khu vực công nghiệp và xây dựng vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng cao và ổn định. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân 16%/năm, cao hơn 2,9% so với mục tiêu đề ra và cao hơn so với 5 năm trước, đã góp phần duy trì tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước tăng 11,5%; kinh tế ngoài nhà nước tăng 21,9%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng 16,8%. Giá trị tăng thêm của ngành công nghiệp tăng bình quân 10,1%/năm. Năng lực sản xuất của nhiều ngành, nhiều sản phẩm tăng lên đáng kể, nhiều sản phẩm đã cạnh tranh được trên thị trường trong và ngoài nước, đáp ứng cơ bản nhu cầu thiết yếu của nền kinh tế và đóng góp lớn cho xuất khẩu. Mục tiêu sản xuất nhiều sản phẩm được hoàn thành trước thời hạn. Một số ngành công nghiệp đã phát triển nhanh như: khai thác và chế biến khí thiên nhiên, đóng tàu, chế tạo thiết bị đồng bộ, sản xuất, lắp ráp ôtô, xe máy, chế biến đồ gỗ... Tỷ lệ sử dụng nguyên vật liệu, phụ tùng, thiết bị chế tạo trong nước ngày càng tăng. Cơ cấu sản phẩm và công nghệ chuyển dịch theo hướng tiến bộ, gắn sản xuất với thị trường. Quá trình nghiên cứu, thiết kế sản phẩm mới ngày càng được chú trọng và có xu hướng phát triển. Tỷ lệ công nghiệp chế tác, công nghiệp cơ khí chế tạo và tỷ lệ nội địa hoá sản phẩm công nghiệp tăng lên Khu vực dịch vụ có bước dịch chuyển tích cực, theo hướng đáp ứng tốt hơn các nhu cầu về sản xuất, kinh doanh và phục vụ đời sống nhân dân. Giá trị sản xuất của các ngành dịch vụ tăng 7,6%/năm, cao hơn kế hoạch đề ra. Giá trị tăng thêm của ngành dịch vụ tăng gần 7,0%/năm (kế hoạch 6,2%); riêng năm 2005, giá trị tăng thêm tăng 8,5%, cao hơn mức tăng GDP 2. Những yếu kém, tồn tại 2.1. Đánh giá tổng quát Tuy trong 5 năm 2001 – 2005 đã đạt được nhiều thành tựu lớn, rất quan trọng nhưng bên cạnh đó thì tăng trưởng kinh tế nước ta chưa thực sự vững chắc. Đóng góp vào tăng trưởng chủ yếu vẫn là yếu tố vốn và lao động, yếu tố khoa học và công nghệ tuy có tăng lên, nhưng vẫn chiếm tỷ trọng nhỏ. Trong nông nghiệp, các phương thức canh tác tiên tiến chậm được áp dụng trên diện rộng, giống cây trồng, vật nuôi tốt còn thiếu, chưa đáp ứng đủ và kịp thời cho sản xuất. Năng suất nhiều cây trồng, vật nuôi và chất lượng sản phẩm nông nghiệp còn thấp, còn phụ thuộc nhiều vào thời tiết, khí hậu. Chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp và nông thôn còn chậm, nhiều nơi còn mang tính tự phát, chưa bền vững. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn chưa được triển khai một cách có bài bản. Nhiều sản phẩm chủ yếu của nông, lâm nghiệp và thuỷ sản chưa xây dựng được thương hiệu nên hiệu quả kinh tế còn thấp. Mặc dù giá trị sản xuất nông, lâm, thuỷ sản tăng cao và vượt mục tiêu đề ra nhưng chi phí sản xuất cao, nên giá trị tăng thêm của toàn ngành không đạt mục tiêu, chỉ tăng 3,8% so với mục tiêu đề ra là 4,3% Trong công nghiệp, tuy có tốc độ tăng trưởng cao nhưng hiệu quả chung của toàn ngành chưa được cải thiện, sản phẩm, thương hiệu có sức cạnh tranh tiến bộ chậm; giá trị sản xuất ngành công nghiệp 5 năm 2001-2005 tăng 16%/năm. Tỷ trọng công nghiệp chế tác trong công nghiệp khoảng 60-70%, nhưng giá trị gia tăng thấp; đặc biệt là các ngành công nghiệp gia công như: may mặc, da giày, chế biến gỗ xuất khẩu... có giá trị sản xuất cao, nhưng phần lớn chi phí lại là vật tư, nguyên liệu nhập khẩu từ nước ngoài, giá trị tăng thêm rất thấp. Công nghiệp hiện đại trong các ngành công nghiệp chiếm tỷ trọng thấp, tốc độ đổi mới công nghệ chậm. Đến nay, nước ta sử dụng phổ biến công nghệ trung bình; số ngành, lĩnh vực đạt trình độ công nghệ hiện đại còn ít. Sản xuất vật liệu, đặc biệt vật liệu mới để tạo tiền đề cho các ngành công nghiệp khác phát triển chưa hình thành. Chưa có sự gắn kết chặt chẽ giữa phát triển công nghiệp chế biến với phát triển các vùng nguyên liệu nông sản. Sự phát triển của công nghiệp ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa chưa được chú trọng đúng mức; việc thực hiện công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn còn lúng túng, chưa có hướng đi cụ thể, chưa đóng góp nhiều cho công cuộc xoá đói giảm nghèo và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Trong dịch vụ, tốc độ tăng trưởng tuy đạt vượt mức kế hoạch, nhưng còn thấp so với khả năng phát triển; tỷ trọng của ngành dịch vụ trong tổng sản phẩm trong nước còn ở mức thấp; chất lượng và hiệu quả các hoạt động dịch vụ chưa cao; nhiều loại phí dịch vụ còn bất hợp lý và cao hơn nhiều nước trong khu vực. Năng lực tiếp cận thị trường của các doanh nghiệp còn yếu. Các ngành dịch vụ có giá trị tăng thêm cao như dịch vụ tài chính, tiền tệ... gần đây có chuyển biến, nhưng nhìn chung phát triển chậm, chưa đáp ứng yêu cầu. Riêng dịch vụ giao dịch bất động sản thị trường thiếu ổn định. Việc tạo môi trường, khuyến khích, huy động vốn đầu tư xây dựng cơ sở vật chất ngành du lịch chưa đáp ứng nhu cầu và khả năng phát triển ngành. 3. Nguyên nhân của thành tựu và yếu kém a. Nguyên nhân của thành tựu Thứ nhất, đó là kiên trì thực hiện đường lối đổi mới, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; bước đầu đã hoàn thiện và đồng bộ các chính sách và cơ chế quản lý kinh tế, xã hôi. Nhiều chủ trương, chính sách về phát huy nội lực và thu hút ngoại lực để phát triển nông nghiệp và nông thôn, phát triển thị trường trong nước, ngoài nước... đã phát huy tác dụng tích cực Thứ hai, kết quả đầu tư của nhiều năm qua cùng với sự huy động ngày càng cao mọi nguồn lực cả trong và ngoài nước, nhất là nguồn vốn trong dân đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, làm tăng năng lực sản xuất của nhiều ngành, có thêm nhiều công nghệ hiện đại, tăng khả năng cạnh tranh b. Nguyên nhân của yếu kém Thứ nhất, tư duy kinh tế chậm đổi mới. Một số vấn đề lý luận quan trọng về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, độc lập, tự chủ về kinh tế... chưa được làm sáng tỏ, dẫn đến lúng túng, chậm trễ trong việc cụ thể hoá và thực hiện một số chủ trương lớn như sắp xếp và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, phát triển các ngành dịch vụ có tiềm năng (dịch vụ bất động sản, tài chính, ngân hàng, du lich). Chưa tạo lập đồng bộ các loại thị trường theo nguyên tắc thị trường Thứ hai, xuất phát điểm của nền kinh tế thấp, quy mô nền kinh tế nhỏ bé; kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội yếu kém; các ngành công nghiệp bổ trợ chưa phát triển; trình độ công nghệ và năng suất lao động thấp, chi phí sản xuất cao. Chính sách, biện pháp để khuyến khích huy động tốt nguồn lực trong nước và ngoài nước vào phát triển kinh tế, xã hội còn nhiều hạn chế Phần thứ ba: Xây dựng kế hoạch tăng trưởng kinh tế thời kỳ 2006 – 2010 I. Nội dung kế hoạch tăng trưởng kinh tế thời kỳ 2006 - 2010 1. Mục tiêu tổng quát Mục tiêu tổng quát của kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội thời kỳ 2006 – 2010 là: đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, nâng cao hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Cải thiện rõ rệt đời sống vật chất, văn hóa và tinh thần của nhân dân. Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển kinh tế tri thức, tạo nền tảng để đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Giữ vững ổn định chính trị và trật tự, an toàn xã hội. Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia. Tiếp tục củng cố và mở rộng các quan hệ đối ngoại, nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế. Như vậy ta có mục tiêu quan trọng nhất của kế hoạch tăng trưởng kinh tế thời kỳ 2006 – 2010 là phải tiếp tục đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế để tạo tiền đề vật chất thực hiện các mục tiêu phát triển khác 2. Nhiệm vụ chủ yếu Mục tiêu tổng quát của kế hoạch tăng trưởng kinh tế thời kỳ 2006 – 2010 được cụ thể hoá thành nhiệm vụ chủ yếu sau: Giải phóng và phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo bước đột phá về xây dựng kết cấu hạ tầng, tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế 3. Các chỉ tiêu chủ yếu Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2010 theo giá so sánh gấp 2,1 lần so với năm 2000. Tốc độ tăng GDP bình quân trong 5 năm 2006 – 2010 đạt 7,5-8%, phấn đấu đạt trên 8% Quy mô GDP đến năm 2010 đạt khoảng 1.690-1.760 nghìn tỷ đồng (theo giá hiện hành), tương đương 94-98 tỷ USD và GDP bình quân đầu người khoảng 1.050-1.100 USD Giá trị tăng thêm của ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 3-3,2% Giá trị tăng thêm của ngành công nghiệp và xây dựng tăng 9,5-10,2% Giá trị tăng thêm của các ngành dịch vụ tăng 7,7-8,2% II. Đánh giá thực hiện kế hoạch tăng trưởng kinh tế năm 2006 và 2007 1. Tình hình thực hiện kế hoạch tăng trưởng kinh tế năm 2006 Tổng sản phẩm trong nước năm 2006 theo giá so sánh ước tính tăng 8,17% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 3,4%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 10,37%; khu vực dịch vụ tăng 8,29%. Trong 8,17% tăng trưởng chung, khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản đóng góp 0,67 điểm phần trăm; khu vực công nghiệp và xây dựng đóng góp 4,16 điểm phần trăm và khu vực dịch vụ đóng góp 3,34 điểm phần trăm. Khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 3,4%, thấp hơn mức tăng 4% của năm 2005, chủ yếu do tốc độ tăng của ngành nông nghiệp và thuỷ sản chậm lại vì ảnh hưởng của thời tiết bất thường và dịch bệnh. Khu vực công nghiệp, xây dựng tăng trưởng thấp hơn mức tăng của năm 2005 do sản xuất công nghiệp giảm (dầu thô khai thác đạt 17 triệu tấn, thấp hơn mức 18,5 triệu tấn của năm 2005; công nghiệp chế biến và điện, nước, ga cũng giảm so với mức tăng trưởng của năm trước. Khu vực dịch vụ tăng cao hơn mức tăng trưởng chung của nền kinh tế, trong đó một số ngành có tỷ trọng lớn duy trì được mức độ tăng cao như thương nghiệp; vận tải, bưu chính viễn thông, du lịch; khách sạn, nhà hàng; tài chính ngân hàng, bảo hiểm. 2. Tình hình thực hiện kế hoạch tăng trưởng kinh tế năm 2007 Trong 9 tháng đầu năm 2007, tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng 8,16% so với 9 tháng năm 2006, trong đó khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 3,02%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 10,15%; khu vực dịch vụ tăng 8,54%. Đối chiếu 9 tháng các năm trước thì khu vực I tăng trưởng không cao do sản xuất lương thực giảm và chăn nuôi của nhiều địa phương bị dịch bệnh, hiệu quả chăn nuôi thấp, nhưng khu vưc II và khu vực III tăng tương đối cao nên năm nay là năm có tốc độ tăng GDP 9 tháng cao nhất trong 10 năm gần đây. Đáng chú ý là, trong 9 tháng vừa qua, tốc độ tăng GDP quý sau luôn cao hơn quý trước: Quý I tăng 7,73%; quý II tăng 7,89%; quý III tăng 8,69%. Từ đó trên cơ sở tình hình 9 tháng đầu năm và dự báo khả năng phát triển của quý IV, có thể đánh giá rằng, các mục tiêu và nhiệm vụ do Quốc hội đề ra cho năm 2007 đã và đang được thực hiện khá thuận lợi, hầu hết các chỉ tiêu chủ yếu về kinh tế đều đạt và vượt kế hoạch tăng trưởng đề ra. Trong đó những thành tựu chủ yếu là: nền kinh tế nước ta trong năm 2007 đạt mức tăng trưởng cao nhất trong vòng 10 năm qua (8,5%), tạo khả năng hoàn thành nhiều chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm 2006 – 2010 ngay trong năm 2008. Và ngành nông nghiệp tuy gặp nhiều khó khăn do thiên tai, dịch bệnh nhưng vẫn vươn lên đạt được kế hoạch. Công nghiệp đạt tốc độ tăng trưởng khá cao và tăng thêm tỷ trọng công nghiệp chế biến. Lần đầu tiên trong nhiều năm qua, tốc độ tăng trưởng của khu vực dịch vụ cao hơn tốc độ tăng trưởng chung của GDP. Tuy nhiên, bên cạnh chúng ta đạt được một tốc độ tăng trưởng ấn tượng thì tăng trưởng kinh tế năm 2007 vẫn còn nhiều tồn tại, yếu kém. Đó là: tốc độ tăng trưởng cao nhưng vẫn chưa thật bền vững, vẫn còn chưa tương xứng với tiềm năng của đất nước và tăng trưởng kinh tế vẫn chưa thật sự đi vào chiều sâu. 3. Những nhiệm vụ của kế hoạch tăng trưởng kinh tế năm 2008 và khả năng thực hiện kế hoạch tăng trưởng kinh tế thời kỳ 2006 – 2010 a. Nhiệm vụ của kế hoạch tăng trưởng kinh tế năm 2008 Năm 2008 có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển của đất nước, là năm bản lề của Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2006 – 2010. Những thành tựu đạt được của kế hoạch tăng trưởng kinh tế của các năm trước, đặc biệt là của năm 2007 đã tạo nên nền tảng vững chắc cho việc tiếp tục thực hiện thành công kế hoạch tăng trưởng kinh tế năm 2008. Như vậy, nhiệm vụ chủ yếu của năm 2008 là: tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao đồng thời phải chú trọng đến chất lượng của tăng trưởng kinh tế. Một số chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch tăng trưởng kinh tế năm 2008: - Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng 8,5-9,0% so với năm 2007; GDP theo giá hiện hành dự kiến khoảng 1.337-1.347 nghìn tỷ đồng, tương đương khoảng 83 tỷ USD; GDP bình quân theo đầu người khoảng 960 USD. Trong chỉ đạo điều hành, phấn đấu đạt tốc độ tăng GDP là 9%. - Giá trị tăng thêm của ngành nông lâm ngư nghiệp tăng khoảng 3,5-4%; ngành công nghiệp và xây dựng tăng 10,6-11%; ngành dịch vụ tăng khoảng 8,7-9,2% b. Khả năng thực hiện kế hoạch tăng trưởng kinh tế thời kỳ 2006 – 2010 Năm 2007, nền kinh tế nước ta đạt mức tăng trưởng cao nhất trong vòng mười năm qua (8,5%). Trong đó, lần đầu tiên tốc độ tăng trưởng của khu vực dịch vụ cao hơn tốc độ tăng trưởng chung của tổng sản phẩm trong nước (8,7%). Với đà tăng trưởng ấn tượng như vậy thì nhiều khả năng chúng ta sẽ hoàn thành một cách xuất sắc các mục tiêu của kế hoạch tăng trưởng 2008. Bao gồm: GDP tăng 8,5-9% so với năm 2007; trong đó phấn đấu đạt 9%; GDP theo giỏ hiện hành dự kiến tương đương 83 tỷ USD; GDP đầu người khoảng 960 USD. Từ đó sẽ tạo một tiền đề vững chắc cho việc thực hiện không những thành công mà còn vượt các mục tiêu của kế hoạch tăng trưởng kinh tế thời kỳ 2006-2010 đã đề ra. III. Một số giải pháp thực hiện 1. Giải pháp về các nguồn lực chủ yếu cho tăng trưởng kinh tế 1.1. Giải pháp về lực lượng lao động Từ năm 2008, sẽ triển khai các giải pháp đồng bộ để tạo ra những đột phá về nâng cao chất lượng và hiệu quả của đào tạo nhân lực, làm cho nguồn nhân lực trở thành một yếu tố quan trọng để thu hút đầu tư và là một lợi thế cạnh tranh của nền kinh tế nước ta. Nâng cao chất lượng và quy mô đào tạo nghề từ trình độ sơ cấp tới đại học với phương châm đào tạo theo nhu cầu xã hội. Có chính sách và cơ chế khuyến khích để các doanh nghiệp, các nhà đầu tư tổ chức đào tạo và cung cấp nhân lực đáp ứng yêu cầu của thực tiễn sản xuất kinh doanh. Tập trung xây dựng một số trường dạy nghề, trường đại học, cao đẳng đạt trình độ quốc tế. Triển khai trong cả nước việc cho vay với lãi suất thích hợp để học nghề ở mọi trình độ, tăng nhanh tỷ lệ lao động đã qua đào tạo. Tiếp tục cuộc vận động chống tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục phổ thông, nâng cao đạo đức nhà giáo. Chú trọng việc đổi mới phương pháp giảng dạy và đánh giá; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy và học tập; nâng cao chất lượng và chuẩn hoá đội ngũ giáo viên; khuyến khích phát triển mạnh việc giảng dạy và học ngoại ngữ. Đổi mới và phát triển các trường chuyên trong cả nước như một giải pháp cơ bản để bồi dưỡng nhân tài ở lứa tuổi học sinh. Thực hiện phổ cập mầm non cho trẻ 5 tuổi, tiếp tục thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học; phấn đấu để năm 2010 sẽ hoàn thành đạt phổ cập trung học cơ sở ở 46 tỉnh, thành phố. Xây dựng chính sách về nhân tài; có cơ chế phát hiện, bồi dưỡng, đào tạo nhân tài; khuyến khích phát huy tài năng, đặc biệt là tài năng của lớp trẻ. Đổi mới chính sách sử dụng nhân lực từ khâu tuyển dụng, bố trí công việc, chính sách tiền lương, khen thưởng, kỷ luật. Tôn vinh các nhà khoa học có đóng góp thiết thực cho phát triển đất nước. Làm tốt hơn công tác chăm sóc sức khoẻ cộng đồng. Thực hiện tốt chiến lược y tế dự phòng, quy hoạch hệ thống y tế và các chương trình mục tiêu quốc gia về y tế, sức khoẻ, vệ sinh môi trường. Lồng ghép các mục tiêu chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khoẻ nhân dân trong các chính sách, các chương trình, các dự án phát triển. Xây dựng cơ chế đồng bộ để kiểm soát thị trường thuốc. Hoà thiện chính sách hỗ trợ khám chữa bệnh cho các đối tượng chính sách, người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi và những người cận nghèo. Tập trung giải quyết tốt vấn đề vệ sinh, an toàn thực phẩm và xây dựng Luật An toàn thực phẩm; hoàn thiện hệ thống tổ chức quản lý, thanh tra, kiểm nghiệm vệ sinh, an toàn thực phẩm. Kiện toàn đủ mạnh tổ chức làm công tác kế hoạch hoá dân số thuộc Bộ Y tế từ Trung ương đến cơ sở, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ Đảng và chính quyền các cấp, đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận động và kết hợp chặt với thực hiện các biện pháp chuyên môn kỹ thuật, phấn đấu đạt kế hoạch giảm sinh đã đề ra trong kế hoạch 5 năm 2006 -2010. Thực hiện đồng bộc các giải pháp để tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước và công tác bảo đảm an toàn lao động. Xây dựng nhân cách, phát huy giá trị văn hoá, tinh thần của người Việt Nam, tăng sức đề kháng chống lại văn hoá đồi truỵ. Thực hiện tốt cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”. Tăng cường các biện pháp phòng chống các tệ nạn xã hội, xây dựng môi trường sống lành mạnh, an toàn tại các đơn vị cơ sở, phường xã, doanh nghiệp, trường học, khu dân cư... Tăng kinh phí cho công tác bảo tồn, tôn tạo, chống xuống cấp các di tích lịch sử văn hoá, gắn với phát triển du lịch để phát huy có hiệu quả giá trị di sản văn hoá dân tộc. 1.2. Giải pháp về khối lượng vốn đầu tư Để đạt mục tiêu của kế hoạch tăng trưởng kinh tế thời kỳ 2006 – 2010 là 7,5-8% thì ước tính nhu cầu vốn đầu tư cho 5 năm tới lên đến khoảng 140 tỷ USD, tỷ trọng huy động vốn đầu tư xã hội trung bình cả giai đoạn là 38-40% GDP, với tốc độ tăng bình quân 12-13%/năm trong đó nguồn vốn đầu tư trong nước chiếm từ 60-65%... Vì vây, cần có hệ thống giải pháp huy động vốn đầu tư hiệu quả trong nhưng năm còn lại của kế hoạch 5 năm 2006 -2010. Trong đó, cần tập trung vào các giải pháp chính sau đây: - Tiếp tục thực hiện chủ trương, chính sách đa dạng hoá và đa phương hoá các giải pháp huy động vỗn cho đầu tư phát triển. Trong kênh huy động vỗn của ngân sách nhà nước, cần tính toán chi tiết hiệu quả sử dụng vốn. Đánh giá về hiệu quả kinh tế của đợt phát hành trái phiếu Chính phủ bằng ngoại tệ đợt cuối năm 2005 và việc phát hành và sử dụng vốn phát hành công trái, trái phiếu Chính phủ để có biện pháp điều chỉnh trong huy động vốn trong thời gian tới. Kho bạc Nhà nước không trực tiếp bán lẻ tín phiếu hay trái phiếu Chính phủ, hay công trái quốc gia mà để tổ chức đấu thầu từng đợt qua Ngân hàng Nhà nước hay trên thị trường chứng khoán dựa trên nhu cầu vốn. Trái phiếu Chính phủ bằng ngoại tệ trong dân cho đầu tư phát triển, lãi suất hấp dẫn trước hết phải để chính người dân được hưởng mà chưa cần phải phát hành trên thị trường quốc tế. Việc nâng cao hiệu quả vốn đầu tư, chống thất thoát và tham nhũng trong các dự án , cần tránh đầu tư dàn trải là giải pháp rất quan trọng. Yêu cầu này cần được thực hiện chặt chẽ đối với ngân sách trung ương. Các tỉnh, thành phố cũng cần tránh tình trạng nôn nóng, hay đầu tư theo kiểu phong trào, đầu tư chủ quan duy ý chí. Chấm dứt tình trạng dự án chưa được cấp có thẩm quyền phê duyệt, chưa được bố trí kế hoạch vốn đầu tư, đã giao hay chỉ định thầu cho doanh nghiệp triển khai thi công, vay vốn ngân hàng cho đầu tư, để lại hậu quả nặng nề cho việc cân đối ngân sách, dàn trải về hiệu quả sử dụng vốn. Rà roát, bổ sung và hoàn thiện các quy định về quản lý và sử dụng vốn ODA, trong đó phân định rõ trách nhiệm của từng bộ, ngành trong quản lý nguồn vốn tài trợ này. Vốn ngân sách nhà nước, vốn tài trợ quốc tế và các nguồn vốn khác cho vay xoá đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm, hỗ trợ sinh viên nghèo vay vốn học tập, cho các mục tiêu chính sách xã hội khác... chủ yếu cần tập trung qua hệ thống ngân hàng chính sách xã hội để giải ngân cho các đối tượng theo được quy định. - Đẩy mạnh việc sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước, thúc đẩy thì trường chứng khoán phát triển, khuyến khích và tạo mọi điều kiện cho các công ty cổ phần niêm yết cổ phiều và huy động vốn trên thị trường chứng khoán. Đối với các ngân hàng niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán, nên xem xét cho phép các nhà đầu tư nước ngoài mua với tỷ lệ không quá 49% vốn cổ phần của ngân hàng đó và một nhà đầu tư mua không quá 30% vốn cổ phần của một ngân hàng Việt Nam. Việc nâng tỷ lệ này, vẫn đảm bảo tỷ lệ chi phối của phía Việt Nam trong ngân hàng, mặt khác cho phép thu hút vốn đầu tư của các nhà đẩu tư lớn vào Việt Nam. Hơn thế nữa, gắn liền với huy động vốn, chúng ta còn thu hút công nghệ ngân hàng hiện đại, trình độ quản trị điều hành ngân hàng tiên tiến, thúc đẩy sự phát triển và nâng cao nâng lực cạnh tranh của các ngân hàng trong nước. - Tiếp tục đổi mới lĩnh vực thanh toán, mở rộng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt. Thực hiện mục tiêu này đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ của các đơn vị trong ngành tài chính, như: thực hiện thu thuế và lệ phí, bảo hiểm... bằng hình thức thanh toán không dùng tiền mặt. Các tổ chức khác, như: thu cước phí bưu chính viễn thông, thu tiền điện nước, phí sử dụng cáp truyền hình, các hoạt động thu phí và thanh toán ổn định khác,... cũng cần chủ động và sẵn sàng phối hợp với ngân hàng trong sử dụng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt. Các tổ chức có khối lượng tiền mặt lớn, như: Bảo hiểm xã hội, các doanh nghiệp và tổ chức có đông người lao động,... sử dụng việc chi trả lương qua hệ thống ATM của ngân hàng. Chính phủ cần sớm ban hành Nghị định thanh toán không dùng tiền mặt, quy định mức giá trị của các khoản thanh toán không được sử dụng tiền mặt. Về phía hệ thống ngân hàng cần đẩy mạnh hơn nữa việc đầu tư hiện đại hoá công nghệ, phát triển dịch vụ, phát triển mạng lưới máy rút tiền tự động ATM... Thực hiện giải pháp này không những huy động khối lượng vốn rất lớn trong xã hội vào hệ thống ngân hàng mà còn tiết kiệm các khoản chi khổng lồ cho các hoạt động tiền mặt, góp phần hạn chế tham nhũng, tiêu cực trong xã hội. - Đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá các ngân hàng thương mại nhà nước. Việc tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, thông thoáng và lành mạnh cho các NHTM và tổ chức tín dụng hoạt động sẽ cho phép huy động khối lượng vốn rất lớn và nâng cao hiệu quả cho vay đầu tư. Đặc biệt là các NHTM cổ phần cũng nâng cao khả năng quản trị kinh doanh vốn, nên thị trường liên ngân hàng, đầu tư vốn trên thị trường tiền gửi của các tổ chức tín dụng phát triển mạnh mẽ hơn. Nhiều NHTM đa dạng hoá danh mục tài sản hiện có, không chỉ cho vay trực tiếp, mà còn phân tán rủi ro bằng cách đầu tư trên thị trường tiền gửi, bán buôn vốn ngắn hạn cho các NHTM khác có điểu kiện mở rộng cho vay an toàn, đầu tư vào trái phiếu chính phủ, công trái và tín phiếu Kho bạc nhà nước, trái phiếu đô thị, trái phiếu doanh nghiệp... Khi cần vốn khả dụng, các ngân hàng có thể giao dịch các loại giấy tờ có giá trên thị trườn mở với Ngân hàng Nhà nước, thúc đẩy thị trường tiền tệ phát triển, tăng nhanh tốc độ chu chuyển vốn trong nền kinh tế. - Tiếp tục đổi mới xây dựng và điều hành linh hoạt chính sách tiền tệ. Đổi mới các hoạt động khác của Ngân hàng Nhà nước, như: điều hành thị trường mở, thị trường đấu thầu tính phiếu kho bạc, đổi mới thanh toán và mở rộng thanh toán điện tử liên ngân hàng, các hoạt động khác có liên quan trực tiếp đến sự phát triển thị trường vốn. Việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài, thu hút vốn đầu tư của Việt kiều, vốn đầu tư của người dân trong thành lập và bỏ vốn kinh doanh,... cần được thực hiện theo hướng vừa thúc đẩy các kênh xúc tiến đầu tư, mời gọi đầu tư, vừa cải tiến các quy trình, thủ tục, vừa chống tiêu cực, phiền hà, nhưng phải giám sát chặt chẽ phù hợp với thông lệ quốc tế, chống các hoạt động lừa đảo hay tiêu cực khác. 1.3. Giải pháp về phát triển khoa học công nghệ 1.3.1. Đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ a. Quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ Tiếp tục hoàn thiện hệ thống quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ theo hướng thực hiện đúng chức năng quản lý Nhà nước, không chồng chéo với hoạt động sự nghiệp, phù hợp với tiến trình cải cách hành chính; tăng cường sự chỉ đạo và điều hoà phối hợp của Chính phủ trên cơ sở phân cấp và quy định rõ trách nhiệm trong quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ đối với các bộ và các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. b. Tổ chức và thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ Đổi mới cơ chế tổ chức và thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ: - Cơ chế tổ chức và thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ phải mở rộng sự tham gia của các nhà khoa học và doanh nghiệp, tổ chức xã hội, bảo đảm dân chủ, cạnh tranh, khách quan, công khai và bình đẳng trong việc tuyển chọn tổ chức và cá nhân thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ; đổi mới căn bản công tác đánh giá khoa học và công nghệ, lấy chất lượng và hiệu quả làm tiêu chuẩn, bảo đảm sự tương hợp với chuẩn mực quốc tế, nhằm đưa nhanh kết quả nghiên cứu vào sản xuất và đời sống. - Đối với các nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ, thực hiện cơ chế liên kết giữa cơ quan quản lý nhà nước, tổ chưc khoa học và công nghệ, triển khai thực hiện, đánh giá và đưa kết quả nghiên cứu vào ứng dụng trongthực tiễn. - Kết hợp phương thức tuyển chọn thông qua cạnh tranh, công khai, dân chủ với phương thức giao nhiệm vụ trực tiếp dựa trên các tiêu chí lựa chọn rõ ràng, hợp lý để bảo đảm chọn đúng tổ chức, cá nhân có đủ năng lực thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ ở các cấp, các ngành và địa phuơng. - Tăng cường quản lý kết quả của hoạt động khoa học và công nghệ nhằm nâng cao chất lượng khoa học và đưa nhanh kết quả nghiên cứu vào ứng dụng trong thực tiễn. c. Cơ chế quản lý các tổ chức khoa học và công nghệ Ban hành cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với các tổ chức khoa học và công nghệ của Nhà nước: - Nhà nước giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các tổ chức khoa học và công nghệ phù hợp với đặc thù của mỗi loại hình hoạt động, nhằm phát huy tối đa tính năng động, sáng tạo của các tổ chức này. - Quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của các tổ chức khoa học và công nghệ nhà nước phải được thực hiện trong việc xây dựng và thực hiện kế hoạch hoạt động khoa học và công nghệ, quản lý tài chính, tài sản, nhân sự và hợp tác quốc tế. Căn cứ vào đặc thù của mỗi loại hình hoạt động khoa học và công nghệ, nhà nước có cơ chế, chính sách phù hợp: - Các tổ chức khoa học và công nghệ chủ yếu thực hiện nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu luận phục vụ xây dựng chính sách, chiến lược, nghiên cứu các lĩnh vực khoa học và công nghệ trọng điểm và những lĩnh vực công ích, được Nhà nước giao nhiệm vụ khoa học và công nghệ theo chức năng hoạt động và bảo đảm kinh phí hoạt động. - Các tổ chức khoa học và công nghệ nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ tạo ra sản phẩm phục vụ nhu cầu thị trường, chuyển sang một trong các hình thức tổ chức sau: tổ chức khoa học và công nghệ hoạt động theo cơ chế tự trang trải kinh phí, doanh nghiệp, doanh nghiệp khoa học và công nghệ. Đối với các tổ chức này, Nhà nước chỉ cấp kinh phí theo cơ chế đặt hàng nhiệm vụ khoa học và công nghệ. Xây dựng cơ chế liên kết giữa khoa học và công nghệ với giáo dục và đào tạo: - Tăng cường chức năng nghiên cứu trong các trường đại học: Quy định nhiệm vụ nghiên cứu đối với cán bộ giảng dạy đại học; tăng đầu tư cho hoạt động nghiên cứu trong các trường đại học. - Thực hiện liên kết giữa các tổ chức nghiên cứu-phát triển với các trường đại học: Quy định nhiệm nhiệm vụ giảng dạy đối với các cán bộ nghiên cứu thuộc các tổ chức nghiên cứu-phát triển; xây dựng quy chế dùng chung phòng thí nghiệm và thiết bị phục vụ nghiên cứu và giảng dạy; thành lập các loại hình tổ chức liên kết giữa đào tạo và nghiên cứu như học viện và các hình thức hợp tác khác. 1.3.2. Phát triển tiềm lực khoa học và công nghệ a. Phát triển nhân lực khoa học và công nghệ Đổi mới cơ chế quản lý nhân lực khoa học và công nghệ nhằm giải phòng tiềm năng, phát huy tính chủ động, sáng tạo của đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ: - Từng bước chuyển chế độ biên chế sang chế độ hợp đồng lao động đối với cán bộ khoa học và công nghệ, tạo điều kiện cho việc lưu chuyển cán bộ, hình thành thị trường lao động trong hoạt động khoa học và công nghệ. - Thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về quản lý nhân sự đối với cá tổ chức khoa học và công nghệ trong việc quyết định tuyển dụng, đào tạo, bố trí sử dụng, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, cho thôi việc, xếp lương, khen thưởng và các chế độ đãi ngộ khác đối với cán bộ, nhân viên. Xây dựng các chính sách tạo động lực vật chất và tinh thần mạnh mẽ cho các cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ, trọng dụng và tôn vinh nhân tài khoa học và công nghệ: - Thực hiện cơ chế cạnh tranh lành mạnh, xoá bỏ dần chế độ phân phối bình quân, thực hti chế độ đãi ngộ tương xứng với cống hiến của các nhà khoa học và công nghệ; không giới hạn mức thu nhập đối với cán bộ khoa học và công nghệ, miễn hoặc giảm thuế thu nhập cá nhân từ hoạt động khoa học và công nghệ. Bảo hộ hữu hiệu quyền sở hữu trí tuệ nhằm khích lệ sáng tạo và đưa kết quả nghiên cứu vào ứng dụng rộng rãi. - Ban hành chính sách khen thưởng đối với cá nhân có thành tích khoa học và công nghệ có giá trị khoa học và thực tiễn cao; chính sách khuyến khích cán bộ khoa học và công nghệ làm việc tại địa bàn có điều kiện kinh tế, xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn; chính sách sử dụng cán bộ khoa học và công nghệ đã đến tuổi nghỉ hưu nhưng còn khả năng chuyên môn, sức khỏe và tâm huyết với nghề nghiệp. Đổi mới chính sách đào tạo cán bộ khoa học và công nghệ; - Đẩy mạnh việc tuyển chọn và gửi học sinh, sinh viên, cán bộ khoa học và công nghệ đi đào tạo một cách đồng bộ ở các nước có trình độ khoa học và công nghệ tiên tiến, trước mắt trong một số lĩnh vực khoa học và công nghệ trọng điểm quốc gia. Phối hợp chặt chẽ giữa việc đào tạo với cơ quan sử dụng cán bộ khoa học và công nghệ. - Điều chỉnh cơ cấu đào tạo theo hướng tăng đào tạo công nhân kỹ thuật (đặc biệt công nhân có tay nghề cao) cho các ngành đang thu hút đầu tư nước ngoài và những ngành kinh tế – xã hội trọng điểm. - Huy động tối đa và hỗ trợ các thành phần kinh tế tham gia trực tiếp vào quá trình đào tạo nhân lực khoa học và công nghệ, nhất là khu vực kinh tế tư nhân và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. - Khuyến khích mở các trường đại học, viện nghiên cứu công nghệ quốc tế hoặc khu vực tại Việt Nam. b. Phát triển hệ thống thông tin quốc gia về khoa học và công nghệ Nhà nước tăng cường đầu tư, nâng cấp, hiện đại hoá các cơ sở thông tin khoa học và công nghệ hiện có, xây dựng và phát triển hệ thống thông tin khoa học và công nghệ quốc gia liên thông với quốc tế. Xây dựng và phát triển các ngân hàng dữ liệu quốc gia về khoa học và công nghệ. Đẩy mạnh việc phổ biến thông tin khoa học và công nghệ tới người sử dụng, chú trọng thông tin phục vụ doanh nghiệp, phát triển nông thôn, vùng sâu, vùng xa. c. Tập trung xây dựng một số tổ chức khoa học và công nghệ và cơ sở hạ tầng đạt tới trình độ trung bình tiên tiến trong khu vực cho một số hướng khoa học và công nghệ trọng điểm. Tập trung đầu tư xây dựng một số tổ chức khoa học và công nghệ trong một số hướng khoa học và công nghệ trọng điểm, đảm bảo cho các cơ quan này có đầy đủ những trang thiết bị nghiên cứu, thực nghiệm, thông tin-tư liệu, đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ đạt trình độ tiên tiến trong khu vực. d. Huy động và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực tài chính cho khoa học và công nghệ. Xây dựng cơ chế, chính sách đa dạng hoá nguồn vốn đầu tư cho hoạt động khoa học và công nghệ: khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ; thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài, sử dụng vỗn viện trợ phát triển chính thức (ODA) đầu tư cho phát triển khoa học và công nghệ; khuyến khích thành lập quỹ phát triển khoa học và công nghệ và quỹ đầu tư mạo hiểm có vốn ngoài ngấn sách nhà nước; bảo đảm tốc độ tăng chi cho khoa học từ ngân sách nhà nước hàng năm cao hơn tốc độ tăng chi ngân sách nhà nước. 1.3.3. Xây dựng và phát triển thị trường khoa học và công nghệ a. Đẩy mạnh đổi mới cơ chế và chính sách kinh tế-xã hội nhằm tạo nhu cầu ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ vào sản xuất và đời sống. Tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, đẩy mạnh cải cách doanh nghiệp nhà nước, từng bước hạn chế độc quyền của các Tổng công ty nhà nước; ban hành các chính sách về cạnh tranh và kiểm soát độc quyền về giải thể và phá sản doanh nghiệp, hạn chế khoanh nợ, dãn nợ. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện các cam kết quốc tế, tạo sức ép thúc đẩy các doanh nghiệp quan tâm thực sự đến hiệu quả sản xuất, kinh doanh và tính toán hiệu quả khi lựa chọn công nghệ, đổi mới sản phẩm. Phát triển thị trường vốn, đặc biệt là thị trường chứng khoán, hoàn thiện và mở rộng các công cụ của thị trường tài chính, như thuê mua tài chính, công ty tài chính,v.v... để các doanh nghiệp có thể tiếp cận các nguồn vốn đầu tư trung hạn và dài hạn phù hợp với chu kỳ đổi mới sản phẩm, đổi mới công nghệ. áp dụng cơ chế Nhà nước mua sản phẩm khoa học và công nghệ từ những nghiên cứu không sử dụng ngân sách nhà nước để phục vụ các nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội. b. Tạo lập môi trường pháp lý cho hoạt động của thị trường khoa học và công nghệ. Hoàn thiện cơ sở pháp lý cho hoạt động của thị trường khoa học và công nghệ. Đẩy mạnh việc tuyên truyền, giáo dục, phổ biến và nâng cao hiệu lực thực thi pháp luật về sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ. Thể chế hoá các giao dịch trong thị trường khoa học và công nghệ nhằm đẩy mạnh thương mại hoá sản phẩm khoa học về công nghệ góp vốn bằng bản quyền đối với sản phẩm nghiên cứu hoặc các hinh thức sở hữu trí tuệ khác; mua bán sản phẩm khoa học và công nghệ; giao dịch thương mại điện tử,v.v... c. Phát triển các tổ chức trung gian, môi giới thì trường khoa học và công nghệ. Khuyến khích, hỗ trợ việc hình thành và phát triển các tổ chức tư vấn, môi giới, dịch vụ chuyển giao công nghệ, chợ thiết bị và công nghệ ở địa phương và ở quy mô cả nước. 1.3.4. Đẩy mạnh hội nhập quốc tế về khoa học và công nghệ - Đa dạng hoá đối tác và hình thức hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ, lựa chọn đối tác chiến lược, gắn kết giữa hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ với hợp tác quốc tế về kinh tế. - Ban hành chính sách thu hút chuyên gia là người Việt Nam ở nước ngoài và chuyên gia nước ngoài có trình độ cao đến Việt Nam tham gia nghiên cứu, giảng dạy, tư vấn, đảm đương các chức vụ quản lý nghiên cứu khoa học và công nghệ. - Tăng cường tối đa quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức khoa học và công nghệ trong hợp tác quốc tế: gửi cán bộ đi đào tạo ở nứơc ngoài; mời chuyên gia nước ngoài hợp tác trong nghiên cứu, giảng dạy, thâm nhập thị trường quốc tế, mở rộng xuất khẩu sản phẩm hàng hoá từ triển khai các kết quả nghiên cứu vào sản xuất. 2. Một số giải pháp khác 2.1. Giải pháp về phát triển các doanh nghiệp Đẩy mạnh việc sắp xếp và đổi mới doạnh nghiệp nhà nước một cách vững chắc theo hướng hình thành loại hình doanh nghiệp nhà nước có nhiều chủ sở hữu để nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh, làm tốt vai trò nòng cốt trong những ngành then chốt, thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội. Tiếp tục thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước theo các đề án đã được Chính phủ phê duyệt, bao gồm cả các tổng công ty lớn mà Nhà nước không cần giữ 100% vốn. Xây dựng một số tập đoàn kinh tế mạnh trong các lĩnh vực quan trọng: bưu chính viễn thông, dầu khí, điện lực, hàng không... Tiếp tục đổi mới kinh tế tập thể và phát triển mạnh hình thức đa sở hữu. Tạo điều kiện phát triển các hình thức kinh tế hợp tác đa dạng phù hợp với trình độ phát triển của các ngành nghề, trên các địa bàn, tiếp tục nghiên cứu xây dựng môt hình hợp tác xã kiểu mới; đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của hợp tác xã. Tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển, không hạn chế quy mô, ngành nghề, lĩnh vực, địa bàn. Xoá bỏ triệt để mọi hình thức phân biệt đối xử, tôn vinh những người sản xuất, kinh doanh giỏi. Phát triển mạnh kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Triển khai thực hiện tốt Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, giảm dần và tiến tới bãi bỏ những quy định phân biệt giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với doanh nghiệp trong nước. Khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư trực tiếp và gián tiếp vào tất cả những ngành, những lĩnh vực mà nhà nước không cần. Sớm áp dụng thống nhất quy định về giá phí hàng hoá dịch vụ, giá thuê đất, chi phí đền bù, giải phóng mặt bằng giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. 2.2. Giải pháp về xây dựng đồng bộ và hoàn thiện thể chế kinh tế a. Hoàn thiện hệ thống pháp luật và phát triển các loại thị trường Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về kinh tế, trước hết là các hệ thống pháp luật bảo đảm môi trường đầu tư bình đẳng, thống nhất, công khai, minh bạch nhằm khuyến khích mọi thành phần kinh tế, huy động mọi nguồn vốn trong và ngoài nước để đầu tư kinh doanh, thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước. Hoàn thiện khung pháp luật cho việc tạo lập và vận hành có hiệu quả các loại thị trường, tập trung vào các thị trường hàng hoá và dịch vụ, bất động sản, lao động, tài chính và khoa học công nghệ. b. Phát triển các chủ thể tham gia kinh tế thị trường. Xác định rõ phạm vi và nội dung quản lý kinh tế của Nhà nước; điều chỉnh chức năng và quyền hạn trách nhiệm của các cơ quan của Chính phủ. Sớm xoá bỏ chức năng đại diện chủ sở hữu của các Bộ, UBND các tỉnh, thành phố đối với doanh nghiệp nhà nước. Tách bạch nội dung quản lý hành chính nhà nước với quản lý sự nghiệp và dịch vụ công. Tăng cường quyền chủ động, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về hoạt động của các đơn vị sự nghiệp thực hiện dịch vụ công. Phấn đấu xây dựng nền hành chính nhanh chóng đạt trình độ chính quy, hiện đại. Hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn chức danh phù hợp làm căn cứ đánh giá năng lực của cán bộ, công chức. Thực hiện công tác quy hoạch cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo. Đổi mới quy trình bổ nhiệm cán bộ để tuyển chọn được những người có đủ trình độ làm việc trong bộ máy Nhà nước. Hoàn thiện cơ chế hỗ trợ gia nhập, hoạt động, phát triển và cạnh tranh của doanh nghiệp. Tổ chức triển khai thực hiện tốt Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp. Hoàn thiện và cụ thể hoá khung khổ pháp lý về cạnh tranh và kiểm soát độc quyền. Khuyến khích doanh nghiệp cạnh tranh bằng sản phẩm có hàm lượng tri thức. Tạo điều kiện cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, hợp tác xã, các trang trại và các loại hình doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân tiếp cận dễ dàng hơn với các chính sách và các chương trình hỗ trợ của Nhà nước, nhất là trong việc huy động vốn tín dụng, thuê mặt bằng sản xuất kinh doanh, nắm bắt thông tin thị trường, khai thác tư vấn kỹ thuật và đào tạo phát triển nguồn nhân lực cũng như tiếp cận với các dịch vụ phát triển kinh doanh. c. Hoàn thiện các cơ chế thực hiện Đổi mới phương thức điều tiết kinh tế của Nhà nước trên cơ sở đổi mới một cách cơ bản công tác quy hoạch và kế hoạch hoá: Đổi mới mạnh mẽ, nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, kế hoạch, đáp ứng tốt hơn yêu cầu của việc chỉ đạo và quản lý kinh tế, xã hội. Thực hiện quy trình kế hoạch hoá đi từ chiến lược, quy hoạch đến kế hoạch, gắn với thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Đặc biệt coi trọng việc xây dựng các chỉ tiêu đánh giá chất lượng phát triển kinh tế và xã hội trong các quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội. Đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước về kinh tế. Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính nhằm đảm bảo tính pháp lý, hiệu quả, minh bạch và công bằng trong giải quyết công việc hành chính. Bảo đảm tính công khai, minh bạch, thực hiện tốt quy chế “một cửa” tại các cơ quan hành chính nhà nước. Tăng cường thực hành tiết kiệm chống lãng phí đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước. Tạo điều kiện để tổ chức đoàn thể, xã hội và cộng đồng dân cư tham gia quản lý và giám sát một số lĩnh vực công. 2.3. Giải pháp về phát triển đồng bộ các loại thị trường Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về kinh tế để tạo lập đồng bộ và vận hành thông suốt các loại thị trường, để các giao dịch thị trường diễn ra phù hợp với các nguyên tắc của kinh tế thị trường. Hoàn thiện hệ thống quy tắc vận hành của các tổ chức tham gia thị trường đáp ứng yêu cầu của kinh tế thị trường và thông lệ quốc tế. Điều chỉnh mạnh chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của Nhà nước theo hướng phát huy vai trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế, tạo môi trường kinh doanh và hỗ trợ doanh nghiệp phát triển, không can thiệp trực tiếp vào sản xuất kinh doanh. Phát triển thị trường hàng hoá, dịch vụ theo hướng đẩy mạnh tự do hoá thương mại và đầu tư phù hợp với các cam kết song phương, đa phương của nước ta và theo thông lệ quốc tế; tạo bước phát triển mới, nhanh và toàn diện thị trường dịch vụ; thúc đẩy cạnh tranh, kiểm soát độc quyền, bảo vệ lợi ích người tiêu dùng; tôn trọng quyền định giá và cạnh tranh về giá cả của doanh nghiệp theo quy định của pháp luật; thực hiện quản lý nhà nước về giá đối với một số hàng hoá, dịch vụ độc quyền phù hợp với cơ chế thị trường và nguyên tắc của hội nhập kinh tế quốc tế. Phát triển thị trường tài chính theo hướng đồng bộ, có cơ cấu hoàn chỉnh; tăng nhanh quy mô và mở rộng phạm vi hoạt động; vận hành an toàn, được quản lý, giám sát hiệu quả; khuyến khích mở rộng các hoạt động dịch vụ hỗ trợ phát triển thị trường tài chính; bảo vệ lợi ích hợp pháp của mọi đối tượng tham gia thị trường. Phát triển mạnh thị trường vốn theo hướng phát triển vững mạnh hệ thống ngân hàng thương mại thuộc các thành phần kinh tế, phát huy vai trò của các ngân hàng trong việc huy động và cho vay vốn đầu tư; đồng thời khẩn trương nâng cấp và thực hiện các biện pháp đồng bộ để phát triển nhanh thị trường chứng khoán thành kênh huy động vốn dài hạn quan trọng trong nền kinh tế. Đẩy nhanh và mở rộng diện cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, khuyến khích hình thành các công ty cổ phẩn thuộc mọi thành phần kinh tế, kể cả các doanh nghiệp FDI, niêm yết cổ phiếu và huy động vốn qua thị trường chứng khoán. Hình thành đồng bộ thể chế về thị trường chứng khoán; tăng cường hỗ trợ của Nhà nước về kết cấu hạ tầng, đào tạo nguồn nhân lực, phổ cập kiến thức, tạo điều kiện thuận lợi cho công chúng tham gia thị trường này. Phát triển thị trường tiền tệ theo hướng hiện đại hoá và đa dạng hoá các hình thức hoạt động; hoàn thiện hệ thống luật pháp, nâng cao sức cạnh tranh, năng lực quản trị của các ngân hàng; xoá bỏ các phân biệt đối xử trong tiếp cận nguồn vốn và tham gia thị trường, tạo môi trường bình đẳng trên thị trường tiền tệ; tăng cường liên kết giữa thị trường tiền tệ với thị trường vốn. Phát triển thị trường bất động sản trên cơ sở thực hiện Luật Đất đai, Luật Xây dựng, Luật Nhà ở và Luật về kinh doanh bất động sản...; hoàn thiện việc phân loại, đánh giá đất đai và cấp giấ chứng nhận quyền sử dụng đất; làm cho quyền sử dụng đất chuyển thành hang hoá một cách thuận lợi, đất đai trở thành nguồn vốn quan trọng cho phát triển. Giá bất động sản được hình thành theo nguyên tắc thị trường. Nhà nước tác động đến giá đất trên thị trường bằng các chính sách kinh tế vĩ mô trên cơ sở quan hệ cung-cầu về đất đai. Tăng cường các biện pháp chống đầu cơ, hạn chế việc giao dịch ngầm không theo quy định của pháp luật. Xây dựng hệ thống đăng ký, thông tin bất động sản. Phát triển nhanh các dịch vụ đáp ứng yêu cầu của thị trường bất động sản. Hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, tạo môi trường thông suốt để phát triển thị trường lao động theo hướng gắn kết cung-cầu lao động; đa dạng hoá các hình thức giao dịch việc làm, phát huy tính tích cực và bảo đảm quyền của người lao động lựa chọn chỗ làm việc. Thực hiện rộng rãi chế độ hợp đồng lao động; bảo đảm quyền lợi hợp pháp của cả người lao động và người sử dụng lao động; thực hiện chế độ bảo hiểm và trợ cấp thất nghiệp. Tăng cường hệ thống thông tin, thống kê thị trường lao động. Đẩy mạnh xuất khẩu lao động và tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động này. Về thị trường khoa học, công nghệ, thực hiện tốt Luật Sở hữu trí tuệ và Luật Chuyển giao công nghệ. Đổi mới quản lý nhà nước đối với thị trương khoa học, công nghệ; khuyến khích, hỗ trợ các hoạt động khoa học và công nghệ theo cơ chế thị trường; bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ đối với các công trình khoa học và hoạt động sáng tạo. Khuyến khích các hoạt động tư vấn, dịch vụ ứng dụng công nghệ mới và chuyển giao công nghệ. Phát triển các doanh nghiệp khoa học và công nghệ, các tổ chức nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ thuộc nhiều hình thức sở hữu, hoạt động theo cơ chế doanh nghiệp. Tạo môi trường mua bản thuận lợi các sản phẩm khoa học và công nghệ, gắn kết hoạt động nghiên cứu và ứng dụng công nghệ, phát triển quan hệ hợp đồng giữa doanh nghiệp sản xuất với cơ sở nghiên cứu, phát triển, ứng dụng công nghệ mới. Có chính sách nhập khẩu lao động có chất lượng cao trong lĩnh vực công nghệ và quản lý những ngành, nghề cần ưu tiên phát triển. Kết luận Trên thế giới, hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn. Kinh tế thế giới và khu vực tiếp tục phục hồi và phát triển nhưng vẫn tiềm ẩn những yếu tố bất trắc khó lường. Toàn cầu hoá kinh tế tạo ra cơ hội phát triển nhưng cũng chứa đựng nhiều yếu tố bất bình đẳng, gây khó khăn, thách thức lớn cho các quốc gia, nhất là các nước đang phát triển. Cạnh tranh kinh tế – thương mại, giành giật các nguồn tài nguyên, năng lượng, thị trường, nguồn vốn, công nghệ... giữa các nước ngày càng gay gắt. Khoa học và công nghệ sẽ có bước tiến nhảy vọt và những đột phá lớn. Trong nước, những thành tựu của hơn 20 năm đổi mới làm cho thế và lực nước ta lớn mạnh lên nhiều so với trước. Việc mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững môi trường hoà bình tạo thêm nhiều thuận lợi nền kinh tế nước ta tăng trưởng với tốc độ nhanh. Tuy nhiên, nước ta đang đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen nhau, tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp, không thể coi thường bất cứ thách thức nào. Nguy cơ tụt hậu xã hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới còn tồn tại. Chất lượng tăng trưởng kinh tế của nước ta chưa thật bền vững và chưa đi vào chiều sâu. Vì vậy, với việc thực hiện đề tài này em muốn cung cấp một tầm nhìn dài hạn hơn cho tăng trưởng nước ta trong giai đoạn tới với mong muốn nước ta sẽ đạt được một sự tăng trưởng kinh tế thật ấn tượng để góp phần thúc đẩy công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở nước ta nhanh đến với thành công hơn. Tài liệu tham khảo 1. Báo cáo tình hình thực hiện kinh tế xã hội năm 2006, 2007. Wedsite: www.chinhphu.gov.vn. 2. Báo cáo của Chính phủ do thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trình bày tại kỳ họp thứ 2 Quốc hội khoá XII. Wedsite: www.chinhphu.gov.vn. 3. Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2001 – 2010.(Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng) 4. Giáo trình kinh tế phát triển. Trường ĐHKTQD. GS-TS Vũ Thị Ngọc Phùng. Hà nội 2005. 5. Giáo trình kế hoạch hoá phát triển kinh tế xã hội. Trường ĐHKTQD. TS Ngô Thắng Lợi. Hà nội 2006. 6. Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2006-2010. Hà nội 2006. 7. Những vấn đề chủ yếu về kinh tế phát triển. PGS-TS Ngô Doãn Vinh. Nhà xuất bản chính trị quốc gia. Hà nôi 2006. 8. Tổng kết kinh tế Việt Nam 2001 – 2005. Lý luận và thực tiễn. Trường ĐHKTQD. GS-TS Nguyễn Văn Thường. GS-TSKH Lê Du Phong. Hà nội 2006

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docC0273.doc
Tài liệu liên quan