Đề tài Kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở Công ty May Thăng Long

Công ty may Thăng long ngoài sản xuất gia công cho các hãng còn sản xuất một số hàng nội địa để phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Tuy nhiên phần sản xuất nội địa chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong toàn bộ hoạt động sản xuất một năm của công ty. Sản xuất hàng nội địa chủ yếu để tận dụng năng lực sản xuất (nguyên vật liệu tiết kiệm được từ hàng gia công). Chính vì công ty chuyên gia công hàng may xuất khẩu nên chủ yếu là sản xuất theo đơn đặt hàng. Mỗi đơn đặt hàng ký kết đều được công ty thống nhất với khách hàng trên nguyên tắc về tiêu chuẩn kỹ thuật, định mức. Trên cơ sở đó phòng kỹ thuật xây dựng hệ thống định mức cho từng công đoạn, chi tiết sản phẩm cho nguyên phụ liệu.

doc56 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1414 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở Công ty May Thăng Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g không nhất trí với kỳ báo cáo. Những đơn đặt hàng đến kỳ báo cáo chưa hoàn thành thì toàn bộ chi phí đã tập hợp theo đơn đó đều coi là sản phẩm dở dang. Những đơn đặt hàng đã hoàn thành thì tổng chi phí đã tập hợp theo đơn đó chính là tổng giá thành sản phẩm của đơn và giá thành đơn vị được tính như sau: Giá thành đơn vị = Tổng giá thành của đơn đặt hàng Số lượng sản phẩm của đơn đặt hàng Các doanh nghiệp có thể áp dụng tính giá thành theo đơn đặt hàng sản xuất là những doanh nghiệp sản xuất đơn chiếc, hàng loạt nhỏ như các loại máy công cụ, sửa chữa xe máy... những doanh nghiệp có quy trình đông nghệ sản xuất phức tạp kiểu song song, chu kỳ sản xuất dài và riêng rẽ. 172.4 Phương pháp tính giá thành theo định mức Dựa vào hệ thống địnhmức tiêuhao lao động, vật tư hiện hành và dự toán về chi phí sản xuất chung, kế toán sẽ xác định giá thành định mức của từng loại sản phẩm. Đồng thời hạch toán riêng các khoản chênh lệch so với định mức phát sinh trong quá trình sản xuất sản phẩm và phân tích toàn bộ chi phí trực tiếp phát sinh trong kỳ thành 3 loại: theo định mức, chênh lệch do thayđổi định mức và chênh lệch so với định mức. Từ đó giá thành thực tế được xác định như sau: Gía thành thực tế sản phẩm ằ Giá thành định mức sản phẩm ± Chênh lệch do thay đổi định mức ± Chênh lệch so với định mức Giá thành định mức được tính toán dựa trên cơ sở định mức tiên tiến hiện hành ngay đầu kỳ (đầu tháng). Tuỳ theo tính chất quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm và đăcụ điểm sản phẩm mà doanh nghiệp áp dụng phương pháp tính giá thành định mức khác nahu (theo sản phẩm hoàn thành, theo bộ phận sản xuất rồi tổng hợp lại...) Để thuận lợi cho việc thực hiện định mức cũng như kiểm tra việc thi hành định mức thì thay đổi định mức được tiến hành vào đầu tháng. Trường hợp định mức diễ ra vào ngày giữa tháng thì đầu tháng sau mới phải điều chỉnh giá thành định mức. Chênh lệch so với định mức là những khoản chi phí phát sinh ngoài phạm vi định mức và dự toán quy định được goi là chênh lêch so với định mức hay thoát ly định mức. Phương pháp tính giá thành này được áp dụng đối với những doanh nghiệp có đủ các điều kiện như, quy trình công nghệ sản xuất đã định hình và sản phẩm đã đi vào sản xuất ổn định, các loại định mức kinh tế được xây dựng tương đối hợp lý, chế độ quản lý định mức đã được kiện toàn và đi vào nề nếp, trình độ tổ chức và nghiệp vụ kế toán đặc biệt là kế toán chi phí sản xuất đã vững vàng . chương 2 thực tế công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở công ty may thăng long 2.1 Đặc điểm của công ty may thăng long 21.1 Quá trình hình thành và phát triển Công ty may Thăng long là một doanh nghiệp Nhà nước thuộc Tổng Công ty dệt may Việt nam được thành lập 8/5/1958. Tên giao dịch quốc tế là Thăng long Garment Company (Thaloga). Trụ sở chính của công ty ở 250 Minh Khai quận Hai Bà Trưng , Hà nội. Công ty hiện là doanh nghiệp hàng đầu về may mặc đặc biệt là may xuất khẩu. Có được ngày hôm nay, những người thuộc nhóm nghiên cứu thành lập đã phải mầy mò tìm đường đi, tập hợp nhân công, máy móc, thiết kế, mẫu mã ban đầu. Năm 1958, chính thức có quyết định thành lập công ty may mặc xuất khẩu thuộc Tổng công ty xuất khẩu tạp phẩm. Đây là công ty may mặc xuất khẩu đầu tiên của nước ta. Tổng sổ cán bộ công nhân viên đầu tiên của công ty chỉ có 28 người, trụ sở đặt tại 15 Cao Bá Quát. Sản xuất sản phẩm ban đầu chỉ là sơ mi, Pijama, Măng tô nam. Thị trường chính là Liên xô (cũ), Tiệp Khắc, Đức. Từ năm 1975, công ty tích cực đổi mới máy móc thiết bị, trang bị dây chuyền tiên tiến, nâng cao sản lượng và chất lượng sản phẩm. Trong những năm này ngoài thi trường truyền thống công ty còn triển khai gia công cho Pháp, Hà lan, Thuỵ điển đồng thời tranh thủ mở rộng thị trường nội địa. Sau những năm 1990, cơ chế bao cấp được xoá bỏ các doanh nghiệp bước vào cơ chế thị trường.... 21.2 Thời kỳ đổi mới để phát triển Sau những năm 1990 cơ chế bao cấp được xoá bỏ, các doanh nghiệp bước vào cơ chế thị trường, tiến hành mạnh mẽ công cuộc đổi mới. Công ty may Thăng Long cũng không nằm ngoài cơn lốc đổi mới đó. Bên cạnh khững khó khăn của cơ chế thị trường, công ty còn gặp phải những khó khăn khác đó là sự sụp đổ của thị trường Đông Đức, thị trường Liên Xô và thị trường ở các nước Đông Âu khác vốn là thị trường quen thuộc của công ty. Đứng trước những khó khăn này, năm 1990 công ty đã phải đầu tư máy móc thiết bị hiện đại hơn, nâng cao trình độ công nghệ, đủ khả năng sản xuất những mặt hàng mới, cao cấp đồng thời phải tổ chức, sắp xếp lại sản xuất, cải tiến các mặt quản lý cho phù hợp với yêu cầu mới. Cụ thể là trước đây sản xuất tách rời theo từng công đoạn: cắt may, là đóng gói, đóng hòm theo từng đơn vị sản xuất khác nhau cho năng suất thấp, lãng phí lao động. Sau khi tổ chức lại, sản xuất theo dây chuyền khép kín đã cho năng suất lao động tăng 20% và tiết kiệm được 305 lao động so với mô hình cũ. Tổng số lao động của công ty từ 3016 người xuống còn 2412 người. Bộ máy tổ chức cũng giảm: các phòng nghiệp vụ giảm từ 14 phòng xuống còn 7 phòng và tỷ lệ lao động gián tiếp từ 18,5% xuống còn 8%. Cũng trong những năm này công ty còn đẩy mạnh tìm kiếm và mở rộng thị trường mới. Công ty đã ký nhiều hợp đồng gia công và hoạt đồng bán sản phẩm cho nhiều công ty của Pháp, Đức, Thuỵ Điển và tiếp cận với thị trường các nước Châu á như Hàn Quốc, Nhật Bản... Bên cạnh đó công ty không quên chú ý tới thị trường nội địa. Từ năm 1990 - 1992 công ty đã đầu tư hơn 20 tỷ đồng thay thế toàn bộ hệ thống thiết bị cũ của CHDC Đức (TEXTIMA) bằng thiết bị mới của CHLB Đức (FAAB); Nhật bản (JUKI) và một số thiết bị khác như dây chuyền là hơi của Nhật Bản, thiết bị giặt mài quần áo bò của Thuỵ Điển. Nhờ có công nghệ hiện đại này mà mặt hàng quần áo bò và những mặt hàng khác của công ty đã có uy tín trên thị trường trong nước và thị trường quốc tế. Với những kết quả đổi mới trên năm 1991 công ty may Thăng Long là đơn vị đầu tiên trong ngành may được Nhà nước cấp giấy phép xuất khẩu trực tiếp. Từ năm 1995 công ty đã mạnh dạn đầu tư mở rộng sản xuất, thành lập hai chi nhánh may Hải Phòng và may Nam Hải (Nam Định) liên tục tới nay, cuối năm 1999 công ty đã hoàn thành xí nghiệp may VI trong 6 xí nghiệp may đứng chân tại Hà Nội. Đến nay mỗi năm công ty đã sáng tác hàng trăm mẫu mã đẹp, mới lạ cho thị trường nội địa và xuất khẩu, đạt doanh thu hàng FOB (hàng xuất khẩu trực tiếp) 80% doanh thu với nhiều mặt hàng đa dạng như quần áo bò, áo sơ mi, áo jacket, quần âu các loai... Với nhiệm vụ chính là sản xuất và gia công hàng, sản phẩm của công ty đã có mặt hơn 30 quốc gia trên thế giới. Điều đó đã khẳng định được tên tuổi và chỗ đứng của công ty trên thị trường. Biểu 1 21.2 Tổ chức sản xuất ở công ty may Thăng Long Với nhiệm vụ chính là sản xuất và gia công hàng may mặc phục vụ tiêu dùng nội địa và xuất khẩu. Công ty may Thăng Long tổ chức thành 8 xí nghiệp chính phù hợp với đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm. Trong mỗi xí nghiệp may này được chia thành các bộ phận: - Văn phòng xí nghiệp - Tổ kiểm tra chất lượng sản phẩm - Tổ cắt - Tổ may - Tổ hoàn thành - Tổ bảo quản Trong 8 xí nghiệp, xí nghiệp VI mới được thành lập từ cuối năm 1999. Ngoài xưởng may chính công ty còn tổ chức bộ phận sản xuất kinh doanh phụ, xí nghiệp phụ trợ và cửa hàng thời trang. Sản phẩm của công ty được sản xuất và gia công theo dây chuyền công nghệ khép kín (cắt- may- là- đóng gói- đóng hòm- nhập kho) với các loại máy móc chuyên dụng và số lượng sản phẩm tương đối lớn được chế biến từ nguyên liệu chính là vải. Vải được nhận từ kho về theo yêu cầu của phòng kỹ thuật. Vải được đưa vào bộ phận cắt: vải được trải, đặt mẫu, đánh số và cắt thành bán thành phẩm, sau đó được chuyển đến các bộ phận may trong xí nghiệp. ở các bộ phận may này được chia thành nhiều công đoạn: may cổ, may tay, ghép thân... và sử dụng vật liệu phụ như chỉ, cúc... để hoàn thành sản phẩm. Các sản phẩm sẽ được chuyền xuống bộ phận là, đóng gói và nhập kho thành phẩm. Có thể nói tính chất sản xuất của các loại hàng trong công ty là sản xuất phức tạp kiểu liên tục, loại hình sản xuất hàng loạt, chu kỳ sản xuất ngắn, quy mô lớn. Sơ đồ 9 21.3 Tổ chức quản lý ở công ty may Thăng Long Công ty may Thăng Long tổ chức quản lý theo kiểu “chức năng trực tuyến” có nghĩa là phòng ban tham mưu với giám đốc theo từng chức năng, nhiệm vụ của mình giúp ban giám đốc điều hành, ra những quyết định đúng đắn và có lợi cho công ty. * Ban giám đốc gồm 4 người: - Tổng giám đốc: người đứng đầu bộ máy công ty thay mặt công ty chịu trách nhiệm trước Nhà nước về toàn bộ hoạt động của công ty mình. - Giám đốc điều hành kỹ thuật: có trách nhiệm giúp tổng giám đốc về mặt kỹ thuật sản xuất, mặt thiết kế của công ty. - Giám đốc điều hành sản xuất: có nhiệm vụ giúp việc cho tổng giám đốc trực tiếp chỉ đạo hoạt động kinh doanh. - Giám đốc điều hành nội chính có nhiệm vụ giúp cho tổng giám đốc biết về các mặt đời sống công nhân viên và điều hành xí nghiệp dịch vụ đời sống. * Các phòng ban chức năng bao gồm: - Văn phòng tổng hợp: có nhiệm vụ quản lý về mặt quân số, mặt tổ chức của công ty , tham mưu cho tổng giám đốc về mặt tổ chức. - Phòng kỹ thuật có nhiệm vụ quản lý, phác thảo, tạo mẫu các mã hàng theo đơn đặt hàng của khách và nhu cầu của công ty. - Phòng KCS: có nhiệm vụ kiểm tra, đánh giá chất lượng sản phẩm, nhằm loại sản phẩm hỏng, lỗi trước khi đưa vào nhập kho thành phẩm. - Phòng kế hoạch thị trường có nhiệm vụ nghiên cứu, khảo sát thị trường và lập kế hoạch sản xuất cho kịp thời, đúng thời hạn trong các hợp đồng. - Phòng kế hoạch tài vụ có nhiệm vụ quản lý sản xuất kinh doanh về mặt số lượng và giá trị, phân tích và tổng hợp để đánh giá kết quả sản xuất kinh doanh. - Cửa hàng dịch vụ: làm công tác dịch vụ, phục vụ thêm cho đời sống của công nhân viên trong xí nghiệp. - Trung tâm thương mại giới thiệu sản phẩm: tại đây công ty trưng bày mặt hàng sản xuất, vừa giới thiệu sản phẩm, vừa bán đồng thời cũng là nơi tiếp nhân những ý kiến đóng góp của người tiêu dùng. - Cửa hàng thời trang: ở đây các mẫu mã quần áo được thiết kế riêng ở xưởng thời trang, mang tính chất giới thiệu sản phẩm là chủ yếu. - Phòng kho: bao gồm kho nguyên vật liệu và kho thành phẩm, nơi bảo quản đầu ra, đầu vào của quá trình sản xuất. Sơ đồ 11 21.4 Tổ chức bộ máy kế toán và công tác quản lý kế toán ở công ty may Thăng Long Xuất phát từ những đặc điểm kinh doanh, quy mô của khối lượng các nghiệp vụ kinh tế phát sinh đồng thời căn cứ vào yêu cầu và trình độ quản lý, trình độ kế toán công ty may Thăng Long đã đăng ký sử dụng hệ thống chứng từ và tài khoản kế toán thống nhất của Bộ tài chính ban hành. Công ty tổ chức hạch toán theo hình thức sổ Nhật ký- Chứng từ. Phương pháp kế toán áp dụng là phương pháp kê khai thường xuyên, hạch toán hàng tồn kho theo phương pháp bình quân cả kỳ dự trữ, kế toán tài sản cố định theo phương pháp khấu hao tuyến tính. Niên độ kế toán bắt đầu 1/1 và kết thúc 31/12 hàng năm. Kỳ hạch toán của công ty là một quý. Bộ máy kế toán ở công ty may Thăng Long được tổ chức theo hình thức kế toán tập trung. Phòng kế toán công ty thực hiện toàn bộ các công tác kế toán, tổ chức hướng dẫn và kiểm tra công tác thu thập và xử lý thông tin kế toán, thực hiện đầy đủ chế độ hạch toán và chế độ quản lý tài chính. Tại các xí nghiệp chỉ bố trí nhân viên hạch toán. * Tại các xí nghiệp thành viên Các kho công ty tuân thủ chế độ ghi chép ban đầu căn cứ vào phiếu nhập kho, phiếu xuất kho, ghi thẻ kho, cuối tháng lập báo cáo “Nhập- xuất- tồn” chuyển lên phòng kế toán. Nhân viên hạch toán tại các xí nghiệp theo dõi từ khâu nguyên liệu đưa vào sản xuất đến lúc giao sản phẩm cho công ty. Cụ thể, các xí nghiệp may theo dõi từng chủng loại nguyên vật liệu đưa vào sản xuất theo dõi mặt hàng, số lượng bán thành phẩm cắt ra số lượng bán thành phẩm cấp phát cho từng tổ sản xuất, tình hình sản xuất nhập kho thành phẩm và các phần việc sản xuất đạt được để tính lương và các báo cáo hàng hoá gửi lên phòng kế toán. Ngoài ra, khi kết thúc hợp đồng, nhân viên hạch toán lập báo cáo quyết toán hợp đồng, giúp kế toán tính thưởng phần trăm tiết kiệm và phần trăm giá trị thu hồi. * Tại phòng kế toán - Kế toán trưởng đồng thời là kế toán tổng hợp- tổng hợp số liệu toàn công ty, lập báo cáo kế toán hàng tháng. - Kế toán vật tư (kế toán nguyên vật liệu) phụ trách tài khoản 152, hạch toán chi tiết nguyên vật liệu theo phương pháp ghi thẻ song song. Cuối quý lên băng kê “nhập- xuất- tồn”. - Kế toán tài sản cố định và công cụ lao động theo dõi tài sản cố định và công cụ lao động trên taì khoản 153, 211, 411, 214, lập băng phân bổ số 3 ‘Tính và phân bổ khấu hao tài sản cố định” ghi nhật ký chứng từ số 9. - Kế toán tiêu thụ thành phẩm: theo dõi tình hình nhập xuất thành phẩm, ghi sổ chi tiết tài khoản 155 cuối tháng lập bảng kê số 11, lên tổng hợp thanh toán và lên báo cáo kết qủa kinh doanh. - Kế toán công nợ: theo dõi các khoản công nợ phải thu phải trả trong công ty và giữa công ty với khách hàng phụ trách tài khoản 131, 136, 138, 141, 331, 333, 336, 338... ghi sổ kế toán chi tiết. Cuối tháng ghi NKCT số 5, số 10 và bảng kê số 11. - Kế toán thanh toán: viết phiếu thu, phiếu chi, phát hành séc, uỷ nhiệm chi... hàng tháng lập kế hoạch tiềm mặt gửi cho ngân hàng có quan hệ giao dịch. Quản lý tài khoản 111, 112, 413 và các sổ chi tiết. Cuối quý lập Nhật ký- chứng từ số 1, số 2; bảng kê số 1, số 2 và NKCT số 4. - Kế toán chi phí sản xuất và giá thành: hàng tháng tổng hợp số liệu từ báo cáo các xí nghiệp gửi lên, lập báo cáo nguyên vật liệu vào sổ chi tiết tài khoản 621, tổng hợp phần chế biến thành phẩm vào báo cáo tổng hợp chế biến nhận số liệu từ các bộ phận kế toán khác đưa vào giá thành, tính giá thành sản phẩm theo phương pháp hệ số, lập bảng kê số 4 và NKCT số 7. - Thủ quỹ: gửi tiền mặt, căn cứ vào chứng từ gốc hợp lệ để xuất quỹ, nhập qũy, ghi sổ quỹ phần thu, phần chim cuối ngày đối chiếu với sổ quỹ của kế toán thanh toán tiền mặt. Sơ đồ 12 2.2 kế toán tập hợp chi phí nguyên vật liệu trực tiếp 22.1. Kế toán chi phí nguyên vật liệu chính Công ty may Thăng long ngoài sản xuất gia công cho các hãng còn sản xuất một số hàng nội địa để phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Tuy nhiên phần sản xuất nội địa chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong toàn bộ hoạt động sản xuất một năm của công ty. Sản xuất hàng nội địa chủ yếu để tận dụng năng lực sản xuất (nguyên vật liệu tiết kiệm được từ hàng gia công). Chính vì công ty chuyên gia công hàng may xuất khẩu nên chủ yếu là sản xuất theo đơn đặt hàng. Mỗi đơn đặt hàng ký kết đều được công ty thống nhất với khách hàng trên nguyên tắc về tiêu chuẩn kỹ thuật, định mức. Trên cơ sở đó phòng kỹ thuật xây dựng hệ thống định mức cho từng công đoạn, chi tiết sản phẩm cho nguyên phụ liệu. Nguyên vật liệu chính mà công ty sử dụng để sản xuất sản phẩm chủ yếu là các loại vải. Công ty nhập nguyên vật liệu theo hai hình thức: nguyên vật liệu do khách hàng cung cấp hoặc do công ty tự mua. Nếu bên đặt hàng cung cấp nguyên vật liệu thì toàn bộ nguyên vật liệu và bao bì (nếu có) được cung cấp tại cảng Hải Phòng theo điều kiện CIF. Chi phí nguyên vật liệu chính được tíng là chi phí vận chuyển từ nơi cung cấp về công ty. Ngoài nguyên vật liệu đã tính theo định mức, bên đặt hàng có trách nhiệm chuyển cho công ty 3%- 5% số nguyên vật liệu để bù đắp số hao hụt trong quá trình sản xuất. Nếu công ty tự mua thì chi phí nguyên vật liệu chính được tính là giá mua vào không có VAT. Việc quản lý nguyên vật liệu được chia làm 2 khâu với 2 mảng kế toán tương ứng. Khâu 1: Nguyên vật liệu về nhập kho công ty, căn cứ vào hoá đơn mua hàng, kế toán sẽ theo dõi nguyên vật liệu trên 2 mặt số lượng và giá trị. Khâu 2: nhập nguyên vật liệu ở kho công ty vào kho xí nghiệp, sau đó đưa vào chế biến (bán thành phẩm) để tạo ra thành phẩm và nhập kho công ty, kế toán chỉ theo dõi về mặt số lượng. - Về mặt hiện vật: dựa vào định mức tiêu hao nguyên vật liệu trực tiếp đã quy định, theo dõi tình hình tiêu hao thực tế, tính toán ghi sổ bước đầu bằng “Phiếu theo dõi bàn cắt” và thực hiện công tác kế toán tập hợp chi phí cho từng phân xưởng, mã hàng. - Về mặt giá trị: Căn cứ vào lượng tiêu hao thực tế, khớp giá mua hoặc chi phí vận chuyển phân bổ cho nguyên vật liệu chính. Giá trị nguyên vật liệu chính nếu do bên đặt hàng cung cấp được tính: Chi phí bình quân 1 mét vải = Tổng chi phí vận chuyển Tổng số mét vải Giá trị nguyên vật liệu chính do công ty mua được tính là giá xuất kho theo phương pháp bình quân cả kỳ dự trữ. Căn cứ vào kế hoạch sản xuất và định mức công ty giao cho các xí nghiệp, theo lệnh sản xuất thủ kho viết phiếu xuất kho theo từng loại vải của mỗi mã hàng. Biểu số 2 Dựa vào phiếu xuất kho và lượng vải chế biến nhân viên hạch toán xí nghiệp lập “Phiếu theo dõi bàn cắt”. Đây là phiếu theo dõi lượng vải chế biến cho từng mã hàng trên từng bàn cắt, có sự so sánh với định mức tiêu hao quy định trên mẫu thiết kế từ đó tính ra lượng vải thực tế còn có khả năng đưa vào chế biến sau quá trình cắt. Phiếu này được hạch toán hàng ngày và từng bàn cắt. Đặc trưng của doanh nghiệp may mặc là dù số vải còn chưa chế biến sau cắt còn nhiều và có giá trị khá lớn nhưng chỉ là vải vụn, mảnh nhỏ không sử dụng được nữa (Biểu số 3) Trên phiếu theo dõi bàn cắt ta thấy ngày 13/3/2001 xí nghiệp I nhận 760,21 mét vải, trải được 88 lá, mỗi là dài 8,43 m. Số nguyên liệu chính thực tế là: 88 x 8,43 = 741, 84 Hao phí đầu bàn đoạn nối là: 0,02 x 88 = 1,76 Số nguyên liệu chính còn lại là: 760,21 - (741,84 + 1,76) = 16,61 Đây chỉ là số liệu tính toán, số vải nhập lại kho của xí nghiệp chỉ là 14,73. số còn lại là 16,61- 14,73 = 1,88 m là những mảnh vải nhỏ không sử dụng được nữa, phần này được gọi là thiếu do hạch toán bàn cắt. Cuối tháng nhân viên hạch toán tổng hợp lập “Báo cáo nguyên liệu”. Báo cáo này theo dõi tình hình sử dụng nguyên liệu của toàn xí nghiệp. Bao gồm các yếu tố sau: mã hàng xí nghiệp nhận chế biến, nguyên liệu theo từng mã hàng, tồn đầu kỳ nhập trong kỳ, xuất trong kỳ và tồn cuối kỳ. Cụ thể phần nhập bao gồm nhập từ kho nguyên liệu của công ty và nhập khác (nhập từ kho xí nghiệp số vải còn lại sau hạch toán bàn cắt có thể dùng để may chi tiết sản phẩm). Phần xuất bao gồm xuất chế biến xuất về kho nguyên liệu (nguyên liệu thiếu chưa lập biên bản), xuất khác (thiếu do hạch toán bàn cắt) và đổi bán thành phẩm. Nếu phần nguyên liệu dùng để chế biến cho mã khác hoặc khi nhập nguyên liệu chưa được viết phiếu nhập thì loại nguyên liệu của những mã hàng đó được ghi ( - ) âm (Biểu số 4). Căn cứ vào phiếu theo dõi bàn cắt cả tháng nhân viên hạch toán tổng hợp lập “Báo cáo chế biến” (Biểu số 5). Báo cáo này thể hiện số lượng bán thành phẩm cắt, lượng nguyên liệu dùng để chế biến cho từng mã hàng. Ví dụ mã 9J806746 sử dụng 2 loại vật liệu chính là vải ngoài và xốp, chế biến được 748 bán thành phẩm trong đó chi tiết lượng nguyên liệu. Ngoài rabáo cáo này cũng thể hiện định mức thực tế xí nghiệp so với định mức tiêu hao nguyên vật liệu công ty giao cho xí nghiệp; tỷ lệ phần trăm hao hụt của nguyên vật liệu theo từng mã hàng. Cuối tháng dựa vào phiếu theo dõi bàn cắt trong tháng, dựa vào số lượng bán thành phẩm cắt và số sản phẩm hoàn thành nhập kho trong phiếu nhập kho, tổng hợp thành “Báo cáo hàng hoá” (Biểu số 6). Báo cáo này thể hiện số lượng thành phẩm tồn đầu kỳ, số lượng sản phẩm nhận chế biến trong tháng bao gồm nhận chế biến và nhận khác; số lượng thành phẩm xuất gồm ba loại , B, C và xuất khác; số lượng thành phẩm tồn cuối kỳ. Sau khi tổng hợp báo cáo trên, nhân viên hạch toán xí nghiệp gửi lên phòng kế toán công ty. Trên cơ sở đó, kế toán lập thành 3 loại báo cáo tổng hợp. Các báo cáo của xí nghiệp mới chỉ phản ánh về mặt lượng, kế toán công ty phải dựa vào giá trị nguyên vật liệu thực tế xuất kho hoặc chi phí vận chuyển để phân bổ tính toán và hoàn chỉnh số liệu về mặt giá trị. “Báo cáo tổng hợp chế biến” tổng hợp số liệu toàn công ty căn cứ vào báo cáo chế biến của các xí nghiệp. Báo cáo này được lập theo quý, thể hiện số lượng bán thành phẩm chế biến theo cả quý trong từng mã hàng. Số lượng nguyên vật liệu chính tiêu hao thực tế cho số bán thành phẩm đó. Chi phí nguyên vật liệu chính tính bằng tiền và chi phí bình quân đơn vị sản phẩm. (Biểu số 7). Trên cơ sở báo cáo hàng hoá hàng tháng của xí nghiệp kế toán xây dựng “Báo cáo tổng hợp hàng hoá” (Biểu số 8) phản ánh số bán thành phẩm chế biến và thành phẩm nhập kho theo từng mã hàng và từng xí nghiệp, tổng hợp thành số liệu toàn công ty. “Báo cáo nguyên liệu của công ty” dựa trên số nguyên liệu tiêu hao thực tế. Số bán thành phẩm chế biến được và số thành phẩm nhập kho (dựa trên báo cáo hàng hoá) đồng thời điều chỉnh với sổ chi tiết vật liệu (Biểu số 9). Biểu số 3 22.2 Kế toán chi phí vật liệu phụ Vật liệu phụ dùng cho sản xuất sản phẩm ở công ty may Thăng Long bao gồm: chỉ, khung, móc, khoá, cúc... Cũng như giống như vật liệu chính, vật liệu phụ cũng được nhập theo hai hình thức: khách hàng cung cấp hoặc công ty tự mua. Quá trình sử dụng phụ liệu được theo dõi, giống như vật liệu chính và song song với vật liệu chính. Hàng tháng nhân viên hoạch toán căn cứ vào phiếu xuất kho phụ liệu và tình hình sử dụng phụ liệu để lập “Báo cáo phụ liệu” gửi cho phòng kế toán. Cuối quý kế toán chi phí tính đơn giá, tổng hợp chi phí vật liệu phụ trên toàn công ty và “Báo cáo vật liệu phụ tính vào giá thành”. Trên báo cáo này, vật liệu phụ được chi tiết cho từng mã hàng và giá trị vật liệu phụ tiêu hao. Ngoài vật liệu phụ ra, kế toán còn phải theo dõi chi phí bao bì. Bao bì sử dụng một lần và xuất cùng sản phẩm do vậy chi phí bao bì cũng được tính vào giá thành. Ví dự chi phí bao bì quý I/2001 là 138.860.285. Giá xuất kho thực tế của vật liệu phụ và bao bì được tính theo phương pháp bình quân cả kỳ dự trữ. Công ty sử dụng tài khoản 621- CFNVL trong đó TK 6211- Chi phí nguyên vật liệu chính 6222- Chi phí nguyên vật liệu phụ 6213- Chi phí bao bì Bên nợ: Chi phí NVL phát sinh trong kỳ Bên có: Kết chuyển chi phí NVL tính vào giá thành ( TK 154) Cuối kỳ kế toán lập bảng kê số 4 và ghi sổ cái TK 621. Biểu số 10 2.3 Hạch toán chi phí nhân công trực tiếp Hiện nay công ty may Thăng Long đang áp dụng chế độ khoán tiền lương theo tỷ lệ phần trăm trên doanh thu do Tổng công ty đệ may Việt nam quy định đối với loại hình sản xuất hàng gia công may. Quỹ tiền lương khoán này dùng để chi trả lương sản phẩm hàng tháng; tiền lương, tiền thưởng trả cho công nhân viên phát sinh trong quá trình sản xuất; tiền thưởng trong lương hàng tháng; tiền lương, tiền thưởng trả thêm cho những sản phẩm, công việc làm ngoài giờ chế độ Nhà nước quy định; tiền lương của những ngày nghỉ phép hàng năm; các khoản phụ cấp theo lương: phụ cấp tổ trưởng, trách nhiệm, độc hại, con bú, vệ sinh phụ nữ... Nhân viên hạch toán cơ sở dựa vào phiếu nhập kho thành phẩm, báo cáo chế biến và tỷ lệ khoán quỹ lương trên doanh thu để xác định tổng quỹ lương được hưởng của các xí nghiệp may và các phòng ban, đơn vị phục vụ. Sau đó kế toán lập bảng “doanh thu chi lương”với quỹ lương đã được tính như sau: Tổng công ty dệt may Việt nam quy định cho công ty được hưởng tỷ lệ khoán quỹ tiền lương là 52% doanh thu may gia công. Sau khi cân đối phần quỹ lương được dùng để phân phối cho các xí nghiệp, đơn vị trực thuộc công ty là 48,78% và được phân chia như sau: a. Đối với các xí nghiệp may - Tỷ lệ khoán quỹ lương là 42,48% doanh thu thực hiện của xí nghiệp (chiếm 87% quỹ lương). - Tỷ lệ đơn giá tăng luỹ tiến đối với phần doanh thu vượt so với kế hoạch (chỉ tính cho những phần doanh thu vượt kế hoạch đã nhập kho công ty) là 19,92% doanh thu vượt kế hoạch. = 42,48% x - 19,92% x Quỹ tiền lương Doanh thu Doanh thu vượt được hưởng thực hiện kế hoạch - = Doanh thu Doanh thu thực hiện Doanh thu vượt kế hoạch đã nhập kho kế hoạch - Khi xí nghiệp không hoàn thành kế hoạch = 42,48% x - 6% x Quỹ tiền lương Doanh thu Doanh thu hụt được hưởng thực hiện so kế hoạch - = Doanh thu Doanh thu Doanh thu hụt kế hoạch kế hoạch thực hiện b. Đối với các phong ban và đơn vị phục vụ - Tỷ lệ khoán quỹ lương là 6,3% doanh thu thực hiện của công ty (chiếm 13% quỹ lương) và 1,5% doanh thu bán hàng của cửa hàng thời trang. - Tỷ lệ đơn giá gia tăng lũy tiến đối với phần doanh thu vượt so với kế hoạch (chỉ tính chonhững phần doanh thu vượt kế hoạch đã nhập kho công ty) là 2,58% doanh thu vượt kế hoạch. Quỹ tiền Doanh thu Doanh thu Doanh thu lương = 6,3% công ty + 1,5% bán hàng của + 2,58% vượt kế được hưởng thực hiện CH thời trang hoạch - = Doanh thu Doanh thu công ty Doanh thu vượt kế hoạch thực hiện kế hoạch Sau khi xác định được quỹ tiền lương được hưởng kế toán tiến hành xác định số tiền lương, tiền thưởng phải trả công nhân viên. a. Đối với các xí nghiệp may Tổng quỹ tiền lương của xí nghiệp là 42,48% doanh thu trong đó: + Các loại phụ cấp là 0,15% doanh thu (chiếm 0,35% quỹ lương) + Lương ngày nghỉ phép: 1,12% doanh thu (chiếm 2,64% quỹ lương) + Quỹ dự phòng: 1,7% doanh thu (chiếm 4% quỹ lương) + Các khoản còn lại: 39,50% doanh thu (chiếm 92,98% quỹ lương). Cụ thể phân phối tiền lương và tiền thưởng như sau: - Để chia đơn giá tiền lương là 27,65% doanh thu (chiếm 70% quỹ lương). - Để chia tiền thưởng: 11,85% doanh thu (chiếm 30% quỹ lương). * Các công đoạn sản xuất thực hiện trả lương sản phẩm trực tiếp như cắt, may, là, đóng gói, dóng hòm, tiền lương tính theo đơn giá và số lượng sản phẩm hoàn thành đảm bảo chất lượng của từng công nhân. = Tiền lươngcủa Quỹ lương công đoạn, bộ phận x Hệ số lương x Số lương làm việc thực tế từng người Tổng hệ số x Tổng ngày công chế độ * Tiền lương của bộ phận phục vụ, quản lý được tính như sau: x x = Tiền lương sản Tỷ lệ tiền lương từng công đoạn x Quỹ lương của xí nghiệp (chia đơn giá) Hệ số PP tiền lương cá nhân Số công làm việc thực tế phẩm cá nhân Tổng số công chế độ x Tổng hệ số PP tiền lương của từng công đoạn b. Đối với các phòng ban và khu vực phục vụ Tổng quỹ lương của các phòng ban và khu vực phục vụ là 6,30% doanh thu gia công, 1,5% doanh thu bán hàng của cửa hàng thời trang trong đó: - 70% quỹ lương dùng để chi lương - 30% quỹ lương dùng để chi thưởng. x x = Tiền lương khoán Tỷ lệ quỹ lương của từng phòng x Quỹ lương của phòng ban phục vụ Hệ số PP tiền lương cá nhân Số công làm việc thực tế của cá nhân Tổng số chế độ của phòng theo định biên x Tổng hệ số PP theo định biên của từng phòng * Tiền thưởng được tính như sau: x = Tiền Tiền lương Hệ số thưởng theo thưởng khoán các loại A, B, C, KK Trong đó: Loại A hệ số 0,3 Loại B hệ số 0,21 Loại C hệ số 0,12 Loại D hệ số 0,1 * Các khoản trích theo lương Hàng tháng căn cứ vào tiền lương công nhân viên, nhân viên hạch toán cơ sở tính BHXH, BHYT, bảo hiểm thân thể trừ vào lương của người lao động. Trong đó BHXH trích 5%, BHYT trích 1% và bảo hiểm thân thể là 3.200 đồng. Cũng căn cứ vào tiền lương cơ bản của công nhân viên để tính BHXH, BHYT, KPCĐ tính vào chi phí sản xuất kinh doanh. Nhưng phần hạch toán này có khác một chút so với quy định đó là 19% của 3 khoản trên được hạch toán chung vào TK 338- BHXH. Khi nộp công ty mới tính chi tiết cho từng khoản theo tỷ lệ quy định. Ví dụ: Anh Dương là công nhân trải vải có hệ số lương chính là 1,78 = = Lương cấp bậc 1,78 x 210.000 15.575 tính theo ngày 24 Lương nghỉ phép = 3 x 15.575 = 46.725 Lương hưởng ngày lễ = 4 x 15.575 = 62.300 Lương sản phẩm của anh Dương trong tháng 2 là 441137. Như vậy tổng lương mà anh Dương nhận được trong tháng 2 là; 441.137 + 46.725 + 62.300 + 132.344 = 682.503 (132.344 là tiền thưởng loại A) Các khoản BH (BHXH, BHYT, BHTT) trừ vào lương được tính BH = (hệ số lương x 210.000) x 6% + 3.200 = 1,78 x 210.000 x 6% + 3.200 = 25.628 Vậy lương thực nhận của anh Dương là 628.503 - 25.628 = 656.875 Như vậy số liệu tiền lương và BHXH trừ vào lương của công nhân sản xuất được kế toán tập hợp theo từng xí nghiệp và tổng hợp ghi vào sổ kế toán theo định khoản: + Nợ TK 622 Có TK 334- Tiền lương của CNSX + Nợ TK 334 Có TK 338- Các khoản tính theo lương của CNSX. Sau khíac định được tiền lương, tiền thưởng và các khoản tính theo lương, nhân viên hạch toán lập “Bảng thanh toán tiền lương”. Gửi bảng doanh thu chi lương và bảng thanh toán tiền lương lên phòng kế toán của công ty. Cuối tháng, kế toán tiền lương căn cứ vào số liệu đã tập hợp được ở các bộ phận để tổng hợp chi phí tiền công của công nhân sản xuất, lập bảng phân bổ số 1. Kế toán chi phí tổng hợp vào bảng kê số 4- Chi phí sản xuất. 2.4 Hạch toán chi phí sản xuất chung Trong quá trình sản xuất ở công ty may Thăng Long chi phí sản xuất chung gồm có các khoản sau: - Chi phí nhân viên phân xưởng - Chi phí vật liệu - Chi phí công cụ, dụng cụ - Chi phí khấu hao tài sản cố định - Chi phí dịch vụ mua ngoài - Chi phí bằng tiền khác Chi phí sản xuất chung được tập hợp cho toàn công ty chứ không được theo dõi cho từng xí nghiệp. * Chi phí nhân viên phân xưởng bao gồm các khoản chi phí về tiền lương của nhân viên quản lý các xí nghiệp sản xuất và các khoản phải trả khác như BHXH, BHYT, KPCĐ được trích theo tỷ lệ quy định là 19% lương cơ bản. Chi phí nhân viên phân xưởng được hạch toán tương tự như hạch toán chi phí nhân công trực tiếp. Kết quả lao động của các nhân viên xí nghiệp được nhân viên hạch toán cơ sở theo dõi, tổng hợp và gửi lên phòng kế toán của công ty. Cách xác định tiền lương của nhân viên quản lý, phục vụ đã được nêu ở phần hạch toán chi phí nhân công trực tiếp. Toàn bộ chi phí này được kế toán tập hợp như sau Nợ TK 6271 Có TK 334- Lương nhân viên phân xưởng Có TK 338- Các khoản trích theo lương của nhân viên phân xưởng. * Chi phí vật liệu sản xuất là toàn bộ vật liệu xuất dùng chung cho các xí nghiệp nhưng không trực tiếp tham gia sản xuất sản phẩm. Chi phí này bao gồm các khoản: chi phí sửa chữa, bảo quản, bảo dưỡng máy móc thiết bị phân xưởng, chi phí nhiên liệu, hoá chất, tẩy mài, dầu máy... Toàn bộ các khoản chi phí này được kế toán tập hợp vào tiểu khoản 6272. Nợ TK 6272 Có TK 111, 112, 331 * Chi phí dụng cụ sản xuất Chi phí dụng cụ sản xuất ở các xí nghiệp sản xuất gồm có: chi phí về vật rẻ tiền mau hỏng, quần áo bảo hộ của công nhân, đồ dùng cho phương xưởng.. Công cụ, dụng cụ nhỏ được tiến hành phân bổ 1 lần như bàn là phân bổ 30%/ quý, bàn thu hoá 25%/ quý. Kế toán sử dụng tài khoản 142 phân bổ giá trị công cụ dụng cụ vào chi phí sản xuất chung. * Chi phí khấu hao tài sản cố định Công ty sử dụng phương pháp khấu hao đường thẳng để tính khấu hao tài sản cố định và được theo dõi trên “Bảng tính phân bổ khấu hao”. Tỷ lệ khấu hao được chia thành nhiều bậc tuỳ vào từng loại tài sản. Ví dụ vật tư văn phòng xí nghiệp khấu hao 5 năm (20% /năm). Máy móc thiết bị 7 năm (14,28% /năm), nhà xưởng 30 năm (3,33%/ năm). Hiện nay công ty đang áp dụng chế độ trích khấu hao cơ bản cho doanh nghiệp = Khấu hao cơ bản Nguyên giá TSCĐ x tỷ lệ trích TSCĐ (trích theo tháng) 12 Kết quả được ghi trên bảng tính và phân bổ khấu hao. * Chi phí dịch vụ mua ngoài Chi phí dịch vụ mua ngoài của công ty bao gồm chi phí về điện dùng chung cho xí nghiệp và cho sản xuất, chi phí về điện thoại... Việc theo dõi chi phí dịch vụ mua ngoài được tiến hành dựa trên các hoá đơn thanh toán, sổ chi tiết các tài khoản 111, 112, 331... Kế toán sử dụng tiểu khoản 6277 để định khoản: Nợ TK 6277 Có TK liên quan. * Chi phí bằng tiền khác bao gồm chi phí tiếp khách, chi phí hội nghị... Các chi phí này được tập hợp căn cứ vào số thực tế phát sinh của các chứng từ: phiếu thu, phiếu chi, giấy thanh toán tạm ứng, giấy đề nghị tạm ứng... Kế toán sử dụng tiểu khoản 6278 để phản ánh các nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Nợ TK 6278 Có TK liên quan Tóm lại công ty tiến hành hạch toán chi phí sản xuất chung đúng theo quy định của Bộ tài chính đó là sử dụng tài khoản: 627- Chi phí sản xuất chung 6271- Chi phí nhân viên phân xưởng 6272- Chi phí vật liệu 6273- Chi phí dụng cụ sản xuất 6274- Chi phí khấu hao TSCĐ 6277- Chi phí dịch vụ mua ngoài 6278- Chi phí bằng tiền khác. Tuy nhiên, chi phí sản xuất chung lại không được theo dõi chi tiết cho từng xí nghiệp sản xuất mà được tập hợp cho toàn công ty là một vấn đề mà công ty cần xem xét lại. 2.5 Hạch toán tổng hợp chi phí sản xuất và kiểm kê đánh giá sản phẩm làm dở Tổng hợp chi phí sản xuất toàn công ty: kế toán căn cứ vào bảng kê số 4, các bảng phân bổ và nhật ký chứng từ để lập nhật ký chứng từ số 7. Tập hợp công nợ các tài khoản 154, 621, 622, 627 trên bảng kê số 4 ghi vào nhật ký chứng từ số 7 ở các cột và dòng quy định. Do công ty áp dụng chế độ khoán quỹ lương nên sản phẩm làm dở rất ít. Kế toán không tính chênh lệch giá trị sản phẩm làm dở vào giá thành sản xuất. 2.6 Tình hình thực tế công tác tính giá thành ở công ty may Thăng Long 26.1 Đối tượng và kỳ tính giá thành ở công ty may Thăng Long Do đặc điểm của ngành may mặc, kích cỡ sản phẩm không mang lại sự khác biệt về mặt giá cả nên công ty chọn đối tượng tính giá thành theo mã hàng tức là nhóm sản phẩm. Đơn vị tính giá thành là chiếc (hoặc bộ). Kỳ tính giá thành là 1 quý. 26.2 Phương pháp tính giá thành sản phẩm tại công ty may Thăng Long Kế toán căn cứ vào kết quả tập hợp chi phí và các tài liệu liên quan để tính ra tổng giá thành và giá thành đơn vị của từng mặt hàng bằng phương pháp hệ số. Kế toán chi phí và giá thành sử dụng đơn giá mặt hàng chế biến làm hệ số. Ví dụ đơn giá mã hàng KINH Tế 99-19 là 3,2 USD, sản lượng là 1010 sản phẩm số lượng quy đổi là 1010 x 3,2 = 3232. Ngoài chi phí nguyên liệu trực tiếp theo dõi chặt chẽ cho từng mã hàng chuyển ngay vào giá thành sản phẩm. Các khoản chi phí khác phải sử dụng phương pháp hệ số quy đổi để phân bổ là: - Chi phí nhân công trực tiếp - Chi phí sản xuất chung - Chi phí bao bì Giá thành sản phẩm được tính như sau: Sản lương Sản lượng hệ số quy đổi của = thực tế của x quy đổi mã hàng từng mã hàng ( đơn giá) x = Tổng giá thành của một mã hàng Tổng chi phí cần phân bổ Sản lượng quy đổi của mã hàng Tổng sản lượng quy đổi = Giá thành đơn vị sản phẩm Tổng giá thành mã sản phẩm đó Số lượng thực tế của mã hàng Ví dụ mã hàng KT99-19 đơn giá 3,2; sản lượng 1010 SF số lượng quy đổi là 3232. Chi phí NVL theo dõi chi tiết sản phẩm là 38.781.263, tổng sản lượng quy đổi của tất cả các mã hàng sản xuất trong kỳ là 580.326. Chi phí khác được phân bổ như sau: - Chi phí nhân công trực tiếp phân bổ cho mã KT99-19 là: 4.574.474.612 x 3232 = 25.476.546 580.326 Tương tự đối với các khản chi phí khác. Ta được tổng giá thành của mã hàng KT99-19 là 90.793.621,46. Giá thành đơn vị của mã hàng KT99-19 là: 90.793.621,46 = 28.092,08 đồng/ sản phẩm 3232 chương 3 một số nhân xét và kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở công ty may thăng long 3.1 Nhận xét về công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành Công ty may Thăng long là một trong những doanh nghiệp hàng đầu của ngành dệt may Việt nam. Sản phẩm của công ty không chỉ phục vụ cho nhu cầu “làm đẹp” của người tiêu dùng trong nước mà còn đáp ứng nhu cầu của nhiều khách hàng trên thế giới. Điều đó khẳng định được về chất lượng sản phẩm của công ty trong sự cạnh tranh gay gắt của cơ chế thị trường và các đơn vị cùng ngành khác như: may Đức Giang, may Chiến Thắng, may 10... nhưng công ty vẫn vươn lên tự khẳng địnhmình bằng chính chất lượng sản phẩm. Kể từ khi thành lập cho đến nay, công ty đã thu hút được rất nhiều bạn hàng từ hơn 30 nước trên thế giới như Pháp, Hà Lan, Thuỵ Điển, Đức, Tiệp, Nhật Bản... Là một doanh nghiệp luôn đi đầu tiếp cận thị trường quốc tế, công ty may Thăng Long luôn ý thức rõ tầm quan trọng của công tác quản lý chi phí và tính giá thành, họ cũng hiểu rằng đây cũng là vấn đề then chốt của bất cứ doanh nghiệp sản xuất nào. Mỗi loại hàng mà công ty sản xuất thuộc những hợp đồng kinh tế khác nhau. Cho nên việc lập dự toán chi phí sản xuất và kế hoạch giá thành là không phù hợp. Do đó công ty đã xây dựng hệ tghống định mức lao động, định mức kỹ thuật tiên tiến và bộ máy quản lý chi phí tới tận cơ sở. Với sự quan tâm thường xuyên của Ban giám đốc công ty, cùng với ý thức tự giách thực thi quy định sản xuất của cán bộ công nhân viên, hàng năm công ty đã hoàn thành và hoàn thành vượt mức những chỉ tiêu đã đề ra. Chính sự kết hợp chặt chẽ giữa trình độ quản lý, trình độ tổ chức sản xuất và trình độ lao động đã tạo ra chất lượng sản phẩm của công ty cũng như sự lớn mạnh của công ty trên thị trường. * Để thu hút được nhiều khách hàng, tiêu thụ ngày càng nhiều sản phẩm. Khiký hợp đồng, công ty đã lập bản thoả thuận cung cấp hàng rất chặt chẽ. Bản thoả thuận được chi tiết về mã hàng, về chất lượng, về định mức nguyên vật liệu, đơn giá... Tạo chokhách hàng có niềm tin vào công ty, yên tâm hợp tác làm ăn với công ty trong cơ chế thị trường. Đồng thời công ty còn kết hợp với thực hành chế độ định mức và yêu cầu chất lượng một cách chặt chẽ dưới sự theo dõi của phòng kỹ thuật, phòng KCS và phòng kế toán. * Việc xử lý chứng từ ban đầu được thực hiện ngay ở các xí nghiệp thành viên. Những nghiệp vụ kinh tế phát sinh tại xí nghiệp đều được nhân viên thống kê theo dõi và cung cấp số liệu cho kế toán về tình hình sử dụng nguyên vật liệu vào sản xuất, tiền lương công nhân sản xuất một cách đầy đủ. Định kỳ nhân viên hạch toán xí nghiệp giúp kế toán lập “Báo cáo tiết kiệm” tính thưởng 20% và 50 % phụ liệu thu hồi cho xí nghiệp. Việc này đã khuyến khích công nhân viên nâng cao hiệu suất lao động và hiệu quả chi phí. * Tiền công trực tiếp tính trên doanh thu đã tạo động lực cho công nhân viên không chỉ công nhân trực tiếp sản xuất mà cả bộ phận phục vụ, bộ phận hành chính, giúp cán bộ công nhân viên nâng cao năng suất lao động. Đồng thời việc thực thi chế độ khuyến khích sáng kiến và lao động giỏi là đòn bảy kinh tế để thúc đẩy cán bộ công nhân không ngừng vươn lên trong sản xuất. * Công ty áp dụng đầy đủ chế độ kế toán do Bộ tài chính quy định đồng thời thực hiện chủ trương tin học hoá công tác kế toán, trang bị máy tính sử dụng các chương trình thích hợp đã giảm nhẹ khối lượng công việc và nâng cao hiệu quả công tác kế toán. Hình thức ghi sổ Nhật ký- Chứng từ được áp dụng rất phù hợp vì khối lượng nghiệp vụ kinh tế phát sinh rất lớn, loại nghiệp vụ đa dạng, đội ngũ nhân viên kế toán của công ty có trình độ chuyên môn nghề nghiệp đồng đều. Tất cả là điều kiện để công tác kế toán đạt hiệu quả cao từ đấy giá thành sản phẩm được tính đúng, tính đủ. 3.2 Một số tồn tại và biện pháp khắc phục 32.1 Về hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp Số lượng nguyên vật liệu được theo dõi từ nhân viên hạch toán xí nghiệp, kế toán công ty tổng hợp và báo cáo đã bỏ qua số lượng sản phẩm hỏng và bán thành phẩm chưa chế biến hoàn thành. Do đó việc tập hợp chi phí nguyên vật liệu chưa thực sự chín xác. Để đảm bảo tính trung thực và chính xác công ty cần có kế hoạch đánh giá xp dở dang. Ví dụ, đánh giá theo khối lượng sản phẩm hoàn thành tương đương, đồng thời công ty cần hạch toán rõ ràng phần thiệt hại do sản phẩm hỏng, ghi giảm chi phí và lập hệ thống định mức kế hoạch nhằm khuyến khích công nhân sản xuất hiệu quả hơn nữa. Số vải còn lại sau công đoạn cắtg thường được chuyển tới kho xí nghiệp, sau đó tuỳ loại sản phẩm có thể xuất dùng may chi tiết. Ví dụ may lót túi. Về phần xuất tận dụng này, kế toán tính chi tiết trên “Báo cáo tiết kiệm” nhưung không phản ánh vào chi phí sản xuất. Ngoài ra nguyên vật liệu để tại kho xí nghiệp chưa được quản lý chặt chẽ, phần nguyên liệu sau công đoạn cắt có thể có giá trị rất lớn nhưng chưa có hệ thống theo dõi riêng. Công ty cần giao nhiệm vụ cho nhân viên hạch toán xí nghiệp trực tiếp thực hiện công việc này để tránh hiện tượng thất thoát. 32.2 Về hạch toán chi phí sản xuất chung Tại công ty may Thăng long, chi phí sản xuất chung được tổng hợp thống nhất trên toàn công ty kế toán giá thành sử dụng số liệu tổng cộng chi phí sản xuất chung để phân bổ cho các loại sản phẩm công ty thực hiện trong kỳ. Nhưng theo định nghĩa chi phí sản xuất chung là chi phí còn lại dùng sản xuất sau chi phí nguyên vật liệu và chi phí nhân công trực tiếp, chi phí này phát sinh trong phạm vi phân xưởng theo dõi chi phí sản xuất chung tạo điều kiện phân bổ cho từng sản phẩm hay nhóm sản phẩm sản xuất tại phân xưởng đó chính xác hơn. Do đó việc tập hợp chi phí sản xuất chung ở công ty may Thăng Long chưa thực sự hợp lý vì phát sinh ở các phân xưởng khác nhau thì điều kiện sản xuất và khối lượng chi phí phát sinhkhác nhau, không nên để giá thành một loại sản phẩm gánh chịu chi phí sản xuất chung nhiều hơn hoặc ít hơn bản thân nó tiêu hao. Hơn nữa chi phí sản xuất chung có thể theo dõi trên phạm vi xí nghiệp do đó sử dụng tài khoản 627 chi tiết cho từng địa điểm phát sinh chi phí, từ đó phân bổ vào các công việc, lao vụ liên quan, không cần thiết phải tổng hợp số liệu toàn công ty rồi mới phân bổ chi tiết theo sản phẩm, kết quả là công việc trùng lắp, số liệu không hoàn toàn xác thực. 32.3 Về hạch toán sửa chữa lớn tài sản cố định Tại công ty may Thăng Long, kế toán tài sản cố định không sử dụng tài khoản 335 tính trước chi phí sửa chữa lớn tài sản cố định. Chỉ khi chi phí thực tế phát sinh, kế toán mới phân bổ dần vào chi phí của kỳ hạch toán. Do vậy kế toán chi phí trở thành bị động với chi phí sửa chữa tài sản cố định và khi có phát sinh đột biến, chi phí sản xuất kỳ kinh doanh nâng cao, ảnh hưởng đến kết quả kỳ sản xuất. Vấn đề này, công ty cần có sự thống nhất giữa phòng kế toán và phòng kỹ thuật, xây dựng kế hoạch sửa chữa tài sản cố định đảm bảo sản xuất vẫn diễn ra liên tục, đồng thời dự trù kinh phí nhằm phù hợp với các nguyên tắc kế toán. 32.4 Quy định bắt buộc về việc thống nhất cách gọi mã hàng Do tổ chức bộ máy kế toán, nhân viên hạch toán xí nghiệp chỉ theo dõi và ghi chép về mặt số lượng, phòng kế toán quản lý cả về mặt hiện vật và giá trị. Do vậy, công việc của kế toán nguyên liệu rất lớn, họ phải nhập đơn giá cho nguyên vật liệu của hơn 2000 mã hàng khác nhau. Tuy công ty đã chuẩn hoá tên gọi các mã hàng nhưng cách gọi của nhiều người không thống nhất, chẳng hạn như: Quần bò yếm QE00-12 có người gọi là quần QE00-112 người khác ghi là quần bò 00-12. Việc này dẫn đến hậu quả là khó áp dụng kế toán máy, làm bằng tay thì khối lượng công việc quá lớn dễ gây nhầm lẫn, sai sót. Công ty cần có văn bản thống nhất cách ghi mã hàng tạo điều kiện cho công việc kế toán tiến triển nhanh hơn. 3.3 Phương pháp hạ giá thành sản phẩm nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh 33.1 Đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp là một trong những vấn đề phức tạp phản ánh trình độ sửu dụng các nguồn nhân tài vật lực của doanh nghiệp để đạt kết quả cao nhất trong quá trình kinh doanh với tổng chi phí thấp nhất. Để đánh giá thực chất hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp chúng ta phải xây dựng hệ thống chỉ tiêu phù hợp. Một số chỉ tiêu quan trọng thường được dùng để đánh gía hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. * Chi phí cho 1000 đồng sản lượng Chỉ tiêu này phản ánh cứ 1000 đồng sản lượng hàng hoá sản xuất trong kỳ thì phải chi bao nhiêu đồng chi phí. Chỉ tiêu này được xác định: Chi phí cho 1000 đồng sản lượng = Tổng chi phí x 1000 Tổng sản lượng hàng hoá Chỉ tiêu này càng nhỏ thì chi phí càng thấp, là dấu hiệu tốt của doanh nghiệp. Đây là mục tiêu mà bất kỳ doanh nghiệp sản xuất nào cũng mong muốn đạt được. * Chỉ tiêu tỷ lệ lãi so với chi phí Chỉ tiêu này phản ánh một đồng chi phí bỏ ra sẽ thu được bao nhiêu đồng lãi. Tỷ suất lợi nhuận giá thành = Lợi nhuận x 100 Chi phí sản xuất Tỷ suất này càng cao càng tốt. * Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận doanh thu Chỉ tiêu này cho biết cứ 100 đồng doanh thu thì có bao nhiêu đồng lợi nhuận được sinh ta Tỷ suất lợi nhuận doanh thu = Lợi nhuận x 100 Doanh thu * Chỉ tiêu lãi gộp/ doanh thu: chỉ tiêu này cho biết một đồng doanh thu sẽ cho bao nhiêu đồng lãi gộp. Các chỉ tiêu của công ty được biểu hiện qua bảng dưới đây: TT Chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000 Chênh lệch 1 Tổng sản lượng tiêu thụ 94.785.400.000 103.015.450.000 +8.230.050.000 2 Tổng chi phí 66.132.509.000 65.514.366.000 -618.143.000 3 Lãi gộp 28.652.891.000 37.501.084.000 +8.848.193.000 4 Chi phí/1000đ sản lượng 697,71 635,97 -61,74 5 Tỷ suất lợi nhuận giá thành 2,28 3,07 0,79 6 Tỷ suất lợi nhuận doanh thu 1,59 1,95 0,36 7 Lãi gộp/ doanh thu 30,32 30,40 6,08 Khi đánh giá các chỉ tiêu trên các báo cáo tài chính của công ty cho ta thấy công ty đang làm ăn có hiệu quả. Chỉ tiêulãi gộp năm 1999 đạt 28.652.891.000 đồng đến năm 2000 lên tới 37.501.084.000 đồng. So với năm 1999 mức tăng tuyệt đối là 8.848.193.000 đồng. Có được con số này là do chi phí cho 1000 đồng sản lượng hàng hoá giảm đáng kể. Năm 1999 tỷ lệ đạt 697,71 đồng đến năm 2000 giảm xuống là 635,97 đồng với tỷ lệ giảm tuyệt đối là -61,67 đồng đã làm cho lãi gộp tăng lên. Đặc biệt là tỷ suất lợi nhaụan giá thành tăng 0,79% càng chứng tỏ công ty đã có biện pháp hữu hiệu trong công tác giảm giá thành. Tỷ suất lợi nhuận tăng, lãi gộp/ doanh thu tăng chứng tỏ công ty đang làm ăn có hiệu quả. Tuy nhiên, các chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận giá thành tỷ suất lợi nhuận doanh thu và lãi gộp/ doanh thu tăng không đáng kể. Trên báo cáo kết quả kinh doanh của công ty, năm 1999 lợi nhuận đạt 1.508.989.720 đồng, sang năm 2000 chỉ tăng có 2.012.346.600 đồng mặc lợi nhuận gộp tăng khá cao. Nguyên nhân là do năm 2000 thu nhập từ hoạt động tài chính và thu nhập từ hoạt động bất thường không đáng kể trong khi đó chi phí cho các hoạt động này lại quá cao đã làm cho lợi nhuận của doanh nghiệp giảm xuống. Bên cạnh đó chi phí quản lý doanh nghiệp cũng cao đây là nguyên nhân dẫn đến lợi nhuận giảm. Do vậy, trong tương lai, công ty muốn làm ăn có hiệu quả hơn nữa, thu được lợi nhuận nhiều hơn nữa thì cần chú ý giải quyết những vấn đề này. 33.2 Phương hướng hạ giá thành nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh Muốn nâng cao hiệu quả kinh doanh công ty phải giảm chi phí trong giá thành. Muốn giảm chi phí trong giá thành đòi hỏi công ty phải nâng cao trình độ quản lý của nhân cviên, hoàn thiện công tác kế toán, đổi mới trang thiết bị hiện đại đồng thời không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm và hạ giá thành sản phẩm. Hạ giá thành sản phẩm một cách có hệ thống là một nguyên tắc quan trọng nhất trong công tác nâng cao hiệu quả kinh doanh. Cơ cấu giá thành được thể hiện như sau: chi phí nguyên vật liệu chiếm 40-50%, chi phí nhân công chiếm 30-40% còn lại là chi phí sản xuất chung. Với cơ cấu giá thành như trên công ty cần phải quan tâm tới khoản mục chi phí nguyên vật liệu, chi phí nhân công và chi phí sản xuất chung. * Tiết kiệm chi phí nguyên vật liệu Chi phí nguyên vật liệu chiếm 1 tỷ trọng tương đối lớn trong tổng giá thành sản phẩm, khi chi phí nguyên vật liệu tăng lên sẽ làm cho giá thành sản phẩm tăng theo do đó muốn hạ thấp giá thành công ty phải có biện pháp làm giảm chi phí nguyên vật liệu mà không ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm. Muốn vậy công ty phải chú ý tới khâu vận chuyển và khâu sản xuất - Phải giảm tỷ lệ hao hụt trong công tác vận chuyển - Công nhân may phải có tay nghề để tránh làm sai, làm hỏng sản phẩm. - Công ty nên khuyến khích công nhân may sáng tạo, ham học hỏi để có những sáng kiên, kỹ thuật cao trong công việc. - Trong quá trình cắt phải tận dụng hết nguyên liệu đến khi nào không tận dụng được nữa thì thôi. - Nên tìm kiếm những vật liệu mới thay thế với giá rẻ hơn mà không làm ảnh hưởng tới chất lượng và mẫu mã sản phẩm. * Tiết kiệm chi phí nhân công Nếu công ty muốn tiết kiệm được chi phí nhân công thì phải đầu tư máy móc thiết bị hiện đại để dần dần thay máy móc cho sức lao động của công nhân ở một số khâu. * Tiết kiệm chi phí sản xuất chung Khoản mục chi phí sản xuất chung bao gồm nhiều lại chi phí phát sinh có liên quan đến quá trình sản xuất. Chi phí sản xuất chung thể hiện trình độ quản lý của công ty, chi phí này càng thấp, trình độ quản lý càng cao. Do đó công ty phải hạch toán đúng đủ các khoản chi phí phát sinh, phải theo dõi chi tiết cho từng phân xưởng, xí nghiệp. Ngoài ra công ty nên giảm các chi phí bằng tiền khác phát sinh như tiếp khách, hội họp... và tránh lãng phí điện sản xuất, nước sinh hoạt, điện thoại... Bên cạnh việc tiết kiệm các chi phí có trong giá thành sản phẩm để nâng cao hiệu quả kinh doanh công ty còn phải chú ý tơí việc tính đúng, tính đủ giá thành và giá thành phải được tính theo khoản mục. Tính đúng giá thành để cung cấp thông tin chính xác phục vụ lãnh đạo nghiệp vụ, nếu tính sai giá thành có thể đề ra phương hướng sản xuất sai. Tính đủ giá thành nhằm mục đích hạch toán chính xác lãi, lỗ, nếu tính thừa giá thành sẽ gây ra tình trạng lãi giả lỗ thật, nếu tính thiếu giá thành thì ngược lại. Tính giá thành theo khoản mục để tạo điều kiện phân tích, đánh giá chi phí từ đó biết được tỷ trọng của từng khoản mục chi phí chiếm trong tổng giá thành để có những biện pháp khắc phục nhằm tiết kiệm chi phí, hạ thấp giá thành sản phẩm, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Tóm lại trên đây chỉ là những ý kiến nhỏ đóng góp cho công ty trong quá trình xây dựng và nâng cao hiêụ quả của hệ thống kiểm soát nội bộ nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty. Kết luận Qua thời gian thực tập tại công ty may Thăng Long, do thời gian và kiến thức còn hạn chế nên tài luận văn này chỉ đi sâu đề cập một số vấn đề chủ yếu về công tác kế toán tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm ở công ty may Thăng Long. Từ đó thấy được những mặt cố gắng, những ưu điểm cần phát huy đồng thời cũng còn một số những mặt hạn chế đã nêu ra nhằm góp phần hoàn thiện hơn nữa công tác hạch toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở công ty may Thăng Long. Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn của cô giáo Phạm Thị Gái và sự nhiệt tình giúp đỡ của các cô, chú, anh, chị trong bộ phận kế toán của công ty may Thăng Long trong việc hướng dẫn và cung cấp số liệu.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc1427.doc