Đề tài Khả năng cạnh tranh trong hàng hoá Việt Nam trên thị trường Asean

Là động lực của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, nền kinh tế Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng cần nỗ lực tăng cường sức cạnh tranh của hàng hoá, dịch vụ thích ứng với quá trình hội nhập, trực tiếp là AFTA. Đối với các doanh nghiệp Việt Nam, tham gia AFTA cũng có nghĩa là chấp nhận cuộc chơi cạnh tranh trên sân chơi bình đẳng ngay trong khu vực và ở tại nước mình. Thành công hay thất bại của doanh nghiệp phụ thuộc vào khả năng cạnh tranh. Khi đã nâng cao được khả năng cạnh tranh, sản xuất được thúc đẩy và doanh nghiệp phát triển. Mọi sự chuẩn bị tích cực để tham gia hợp tác, hội nhập trên nhiều phương diện, ở nhiều cấp độ không chỉ phụ thuộc vào những điều kiện cần thuộc phạm vi chính sách vĩ mô mà còn liên quan đến nhiều yếu tố khác, đặc biệt là khả năng nội lực chủ động thích ứng của chính các doanh nghiệp. Nâng cao khả năng cạnh tranh, đáp ứng của các doanh nghiệp Việt Nam với AFTA đang là yêu cầu cấp thiết, liên quan trực tiếp đến lợi ích của các chủ thể tham gia công cuộc hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, trong đó có các doanh nghiệp và người tiêu ding

doc91 trang | Chia sẻ: baoanh98 | Lượt xem: 658 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Khả năng cạnh tranh trong hàng hoá Việt Nam trên thị trường Asean, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ăng từ 3,6 lên 3,7 điểm trong năm 2000. Rõ ràng sự vững tin trong cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam chỉ thực sự mạnh mẽ tại thị trường với những đối thủ quen thuộc. Cũng theo cuộc điều tra trên, có tới 29% doanh nghiệp trong số 800 doanh nghiệp được hỏi vẫn phải sử dụng trên 40% nguyên, phụ liệu nhập khẩu, thậm chí có ngành sử dụng 70 – 80% nguyên, phụ liệu nhập khẩu. Chính vì phương thức sản xuất này mà tỷ lệ giá trị gia tăng trong hàng xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam được đánh giá thấp. Trong xu thế giảm giá hàng xuất khẩu công nghiệp của thế giới, thì việc giữ thị trường trong nước và mở rộng thị trường ASEAN cho hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam đứng trước thách thức lớn. Thứ hai, chi phí trung gian cao So với thời điểm 1996 đến nay, giá xăng dầu tăng 42,2%, giá cước vận chuyển tăng 130%, tiền công tăng 75%. Thuế sử dụng đất tăng 90,9%, điện tăng 37,5%, ngoại tệ tăng 20,2%, ngoài ra còn thêm các loại tiêu cực phí cũng góp phần không nhỏ vào làm tăng chi phí cho doanh nghiệp. Nếu đối chiếu với bảng chi phí đầu tư của một số nước trong khu vực thì ta thấy chi phí trung gian của Việt Nam là tương đối cao. Bảng 22: So sánh chi phí đầu tư tại một số thành phố chính ở Đông Nam á (Tháng 12 – 2000) Đơn vị: USD Hà Nội TP HCM Singapore Bangkok Kuala Lumpur Manila Lương công nhân 78-108 76-114 442-594 174 341 114-224 Phí thuê đất KCN (m2/tháng) 2,62/năm 2,25/năm 6,9 0,50 5,7-8,5 85 Phí thuê văn phòng (m2/tháng) 18-21 14-16 49,91 10,09 17 27,58 Phí thuê nhà ở (tháng) 1.700 1.700 2.418 1.329,7 190-1.035 15000-16000 Phí điện thoại tối thiểu/máy/tháng 1,86 1,86 4,78 2,29 9,21 13,41 Giá điện dùng cho sản xuất – KD (Kwh) 0,07 0,07 0,07 0,04 0,05 0,09 Giá nước dùng cho sản xuất – KD (m3) 0,21 0,28 1,05 0,22-0,36 0,32 0,18-0,22 Cước vận chuyển container 40 feet 1.500 1.400 500-600 1.350 970 1.169 Thuế thu nhập doanh nghiệp–mức chuẩn(%) 25 25 25,5 30 28 32 Thuế thu nhập cá nhân cao nhất (%) 50 50 28 37 29 32 Thuế GTGT (mức cơ bản) (%) 10 10 3 7 5-15 10 Nguồn: JETRO (Trích Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 281 – Tháng 10/2001 Thứ ba, các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay đang phải đối mặt với tình trạng máy móc thiết bị cũ, lạc hậu, làm cho năng suất lao động không cao, chất lượng sản phẩm thấp, dẫn đến giá sản phẩm cao. Các số liệu cho thấy, hiện có khoảng 53.000 doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế với khoảng 3 triệu lao động. Tuy nhiên, nếu so sánh với doanh nghiệp của các nước ASEAN thì phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam là các doanh nghiệp quy mô nhỏ, trình độ công nghệ lạc hậu. Tài sản cố định bình quân cho một lao động của một doanh nghiệp nhà nước chỉ có 44 triệu đồng, trong đó có gần một nửa doanh nghiệp nhà nước chỉ có 20 triệu đồng. Đối với các doanh nghiệp tư nhân, bao gồm 23.000 doanh nghiệp, vốn tài sản cố định chỉ chiếm 16% tổng số vốn tài sản cố định của doanh nghiệp nhà nước. Trình độ công nghệ của Việt Nam hiện tụt hậu khoảng 25-30 năm so với Thái Lan, dẫn đến chi phí đầu tư cao hơn 30-35% so với các đối tác ASEAN khác. Thứ tư, kinh nghiệm về kinh doanh, năng lực quản lý, công tác tiếp thị, sự hiểu biết về thị trường (thông tin kinh doanh) của các doanh nghiệp Việt Nam còn yếu kém, chất lượng lao động chưa cao, chưa có tính chuyên nghiệp, các doanh nghiệp hầu như chưa có chiến lược phát triển lâu dài ổn định, chiến lược cạnh tranh quốc tế, mà phần lớn chỉ mới có kế hoạch kinh doanh ngắn hạn, thậm chí là kế hoạch kinh doanh trong từng thương vụ. Như vậy, xét một cách tổng quát, bài toán đặt ra là: làm thế nào để hàng hoá của các doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia vào AFTA có thể cạnh tranh được trên thị trường ASEAN. Một giải pháp kinh điển là muốn chiến thắng trong cạnh tranh là phải có đầu ra mạnh, mà muốn có đầu ra mạnh thì phải có đầu vào mạnh. 3/ Khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam so với hàng hoá các nước ASEAN trên thị trường Việt Nam Việt Nam ra nhập khẩu ASEAN chủ yếu là những nguyên vật liệu dùng cho sản xuất và hàng công nghiệp như nhôm, xi măng, hoá chất, hàng điện tử phân hoá học, thuốc chữa bệnh, giấy, xăng dầu, thuốc trừ sâu, nhựa, thép Hơn một nửa tổng số nhóm mặt hàng có thuế suất nhập khẩu hiện thấp hơn mức 5%. Đó là những hàng hoá vật tư phục vụ sản xuất hoặc hàng tiêu dùng thiết yếu. 857 mặt hàng trong số này đã được đưa vào danh sách tham gia CEPT kể từ tháng 1/1996. Trên thực tế thì việc tham gia như vậy không ảnh hưởng gì tới sản xuất trong nước cũng như buôn bán. Cần phải thấy rằng cơ cấu sản xuất và cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam và một số nước ASEAN khá tương đồng, thậm chí lại là đối thủ cạnh tranh của Việt Nam trên các thị trường quốc tế. Ví dụ như có rất nhiều mặt hàng cùng sản xuất, có thể cạnh tranh nhau không chỉ trên thị trường Việt Nam mà cả thị trường ngoài ASEAN như các loại nông sản chưa chế biến và đã chế biến, ô tô, xe máy, xe đạp, máy móc gia dụng (máy giặt, điều hoà, quạt điện), sắt thép, các sản phẩm cơ khí thông dụng, hàng dệt may, đồ chơi trẻ em, mỹ phẩm. Hiện tại, một số mặt hàng của Việt Nam còn kém sức cạnh tranh so với các nước ASEAN bởi thua về chất lượng, chủng loại, và cả số lượng. Vì thế, các nước này đang cố gắng chiếm lấy một thị phần lớn hơn ở ngay Việt Nam. Việc thực hiện AFTA sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các nước ASEAN trong việc nâng cao sức cạnh tranh về giá cả so với hàng hoá Việt Nam, chiếm ưu thế hơn về giá cả và về các thủ tục hải quan so với hàng hoá của các nước và lãnh thổ ngoài ASEAN (như Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật Bản) cùng cạnh tranh trên thị trường Việt Nam. Chiếm lấy một thị phần ở Việt Nam, là điều mà các nhà kinh doanh nước ngoài quan tâm hàng đầu. Bởi vì thị trường Việt Nam có tiềm năng lớn về dung lượng, lại thuộc loại không đòi hỏi cao về chất lượng hàng hoá. Có lý để chúng ta lo ngại rằng do Việt Nam có trình độ phát triển kinh tế thấp hơn các nước ASEAN khác, sức cạnh tranh của hàng hoá rất yếu ớt, nên đang và sẽ đứng trước những thách thức vô cùng to lớn khi tham gia AFTA. Hiện tại, do việc hàng hoá nhập khẩu đang tràn ngập thị trường nên đã làm điêu đứng không ít ngành công nghiệp trong nước như: dệt, giày dép, hàng cơ khí, đồ điện dân dụng, sứ, thuỷ tinh, thép cán, thậm chí ngay cả khi hàng rào thuế quan đang còn được duy trì khá cao. Vấn đề này càng đặc biệt đáng lo ngại đối với các ngành có hàm lượng vốn và kỹ thuật cao, bởi có sự chênh lệch về trình độ hiện tại giữa nước ta với các nước rất rõ rệt. Chính vì vậy, khi mà hàng rào bảo hộ bị cắt bỏ thì các ngành sản xuất trong nước chắc chắn sẽ chịu những sức ép lớn hơn nhiều lần. Tham gia AFTA sẽ làm cho các xí nghiệp trong nước phải sớm bị đặt trong một môi trường cạnh tranh quốc tế, nhưng vấn đề này có ảnh hưởng tích cực đến những sản phẩm công nghiệp mà Việt Nam có lợi thế so sánh trước mắt. Hiện nay, thuế nhập khẩu của những mặt hàng này khoảng 50% đến 60%, đủ để xí nghiệp trong nước cạnh tranh với hàng nhập. Nhưng kinh nghiệm của Nhật và một số nước Châu á cho thấy, nếu bảo hộ kéo dài quá lâu, các ngành đó sẽ không phát triển lành mạnh và không thể trở thành lợi thế để cạnh tranh trên thị trường thế giới. Do đó, dù có gia nhập AFTA hay không, Việt Nam cũng nên từng bước giảm thuế quan mà CEPT qui định rất phù hợp với chiến lược công nghiệp hoá hướng vào xuất khẩu mà trước mắt là có trong các ngành có hàm lượng lao động cao, các ngành chế biến nông-lâm-thuỷ sản. Nhìn từ góc độ này, ta thấy việc tham gia AFTA của Việt Nam sẽ cho ta có thêm cơ hội để xâm nhập vào thị trường các nước ASEAN khác. Điều này sẽ là một tác nhân quan trọng không những thúc đẩy việc cải tiến kỹ thuật công nghệ và hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp sản xuất, mà hơn thế, còn bắt buộc chúng ta điều chỉnh cơ cấu sản xuất trong đó có vịêc ngừng sản xuất những mặt hàng không đủ sức cạnh tranh. Chính phủ đã lựa chọn những mặt hàng mà hiện nay còn cần bảo hộ cho sản xuất trong nước bằng thuế suất nhập khẩu cao để đưa vào danh sách những mặt hàng trước mắt chưa tham gia CEPT. Các cơ sở sản xuất sẽ có được một số năm để chuẩn bị đối với việc giảm đi dần bảo hộ qua thuế và sau đó cắt cả các biện pháp bảo hộ không phải thuế (như hạn ngạch, giấy phép buôn bán). Như vậy phải đuổi kịp và vượt các nước ASEAN về chất lượng mẫu mã, giá cả hàng hoá trong vòng 5-8 năm, nếu không sẽ không tăng được vị thế và thị phần của Việt Nam trong khu vực. Đó là cách thức mà AFTA đặt ra cho các nhà sản xuất Việt Nam. Để góp phần giải quyết vấn đề nêu trên, chúng ta cần lượng vốn không nhỏ để đầu tư đổi mới công nghệ cho ít nhất các ngành sản xuất ra khoảng 20% tổng số mặt hàng nói trên. Những ngành sản xuất ra mặt hàng tiêu dùng phổ thông có lượng tiêu thụ lớn trong nước, thu hút nhiều lao động trong sản xuất và có giá trị gia tăng cao cần phải được ưu đãi trong việc cho vay vốn phát triển. Tuy vậy, như thế vẫn chưa đủ. Cùng với việc gia nhập AFTA, chúng ta cần phải tính toán xa hơn, đến phương hướng chuyên môn hoá sản xuất trong phạm vi ASEAN. Do cơ cấu giữa Việt Nam và các nước ASEAN có một số điểm tương đồng nên cần có sự thoả thuận trong nội bộ ASEAN về việc tiến hành chuyên môn hoá các ngành công nghiệp. Chương III: Các giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường ASEAN I/ Các giải pháp về phía nhà nước 1/ Nhất quán coi xuất khẩu là hướng ưu tiên và trọng điểm của hoạt động kinh tế đối ngoại để xác lập chính sách ưu đãi phù hợp Hiện nay đang có ý kiến cho rằng ranh giới giữa "hướng về xuất khẩu" và "thay thế nhập khẩu" đã mờ đi do có sự liên thông giữa thị trường trong nước và thị trường ngoài nước. Vì vậy, không nên đặt ra vấn đề "hướng về xuất khẩu" hay "thay thế nhập khẩu". Chiến lược duy nhất đúng là lựa chọn sản phẩm có thị trường tiêu thụ (cả trong nước, cả ngoài nước), tập trung đầu tư phát triển và nâng cao sức cạnh tranh trên cơ sở các lợi thế có sẵn như sức lao động, tài nguyên thiên nhiên và vị trí địa lý. Nếu có sức cạnh tranh, vấn đề đầu ra sẽ mặc nhiên được giải quyết. Hai chiến lược này, trong những điều kiện nhất định, không nhất thiết phải loại trừ nhau mà có thể bổ sung cho nhau để tạo thành động lực tăng trưởng chung. Vấn đề cốt lõi là sức cạnh tranh. Nếu đã có sức cạnh tranh thì một sản phẩm có thể duy trì được chỗ đứng của mình trên cả thị trường trong và ngoài nước. Sự phát triển sản phẩm đó sẽ vừa mang ý nghĩa hướng về xuất khẩu, vừa có tác dụng thay thế nhập khẩu. Tuy nhiên, quan điểm "chiến lược song hành" này cần được xem xét kỹ hơn trên một vài khía cạnh sau đây: Thứ nhất, nếu cơ sở của sức cạnh tranh chỉ là các lợi thế có sẵn như lao động và tài nguyên thì kết quả của sự lựa chọn sẽ vẫn là hướng về xuất khẩu, theo đúng lý thuyết về lợi thế so sánh. Chỉ khi trình độ phát triển của quốc gia đã lên tới một mức nào đó, kéo theo sự phát triển của công nghệ, mới có thể bắt đầu quá trình "thay thế nhập khẩu" song song với "hướng về xuất khẩu". Nói cách khác, ranh giới giữa "thay thế nhập khẩu" và "hướng về xuất khẩu" sẽ chỉ mờ đi khi một quốc gia đã tiến hành thành công giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá. Thứ hai, sức cạnh tranh của sản phẩm, có được nhờ công nghiệp hoá, sẽ chỉ duy trì được trong dài hạn nếu môi trường công nghiệp hoá là môi trường cạnh tranh tương đối hoàn hảo, tức là không có các rào cản gây lệch lạc đến tính toán về chi phí và giá thành. Một môi trường như vậy, cho tới nay, chưa tồn tại ở nước ta. Thứ ba, trong những điều kiện chưa chín muồi, nếu đặt vấn đề song hành cả hai chiến lược "hướng về xuất khẩu" và "thay thế nhập khẩu" sẽ rất dễ dẫn đến những định hướng không rõ ràng, vừa gây bị động và lúng túng trong điều hành, vừa gây lãng phí và lệch lạc trong đầu tư. Hiệu quả của "thay thế nhập khẩu" chỉ là hiệu quả ảo. Xuất khẩu cũng rất khó phát triển bởi trong bối cảnh toàn cầu hoá và khu vực hoá như hiện nay, sẽ không thể có thị trường xuất khẩu trong khi vẫn đóng cửa thị trường của mình. Như vậy, chiến lược hợp lý nhất, cần được ưu tiên trong thời gian tới đây, sẽ vẫn là "hướng về xuất khẩu" vì vậy cần nhất quán coi xuất khẩu là hướng ưu tiên và trọng điểm của hoạt động kinh tế đối ngoại. Cụ thể, các hình thức ưu đãi cao nhất phải được dành cho sản xuất hàng xuất khẩu. Còn đối với các ngành thay thế nhập khẩu mà năng lực sản xuất trong nước đã đáp ứng nhu cầu thì không nên tăng thêm đầu tư, kể cả đầu tư nước ngoài. Trong đầu tư nên tập trung vào các ngành hàng chủ lực và các dự án nâng cao cấp độ chế biến, từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá. Theo hướng đó, đối với các dự án đầu tư chỉ nhằm mở rộng quy mô (có nghĩa là chỉ dẫn đến thay đổi về lượng mà không dẫn đến thay đổi về chất) thì ưu đãi ít ; đối với các dự án đổi mới công nghệ, nâng cao được cấp độ chế biến hàng hoá thì, tuỳ theo mức độ, được ưu đãi nhiều hơn. Có chính sách ưu đãi, đặc biệt là về thuế, để thúc đẩy các doanh nghiệp sử dụng ngày càng nhiều sản phẩm trong nước, nâng cao hàm lượng nội địa của sản phẩm. 2. Điều chỉnh chính sách mặt hàng và thị trường xuất nhập khẩu Tại Đại hội lần thứ IX của Đảng, hoạt động xuất nhập khẩu trong 10 năm tới cần phục vụ trực tiếp cho mục tiêu chung đã được thông qua với nội dung cơ bản là: nỗ lực gia tăng tốc độ tăng trưởng xuất khẩu, góp phần đẩy mạnh CNH - HĐH; chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, gia tăng sản phẩm chế biến và chế tạo, các loại sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ; chú trọng nhập khẩu thiết bị và nguyên vật liệu phục vụ sản xuất, nhất là công nghệ tiên tiến, bảo đảm cán cân thương mại ở mức hợp lý, tiến tới cân bằng kim ngạch xuất nhập khẩu; mở rộng và đa dạng hoá thị trường và phương thức kinh doanh; hội nhập thắng lợi vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Để đạt được các mục tiêu trên, cần nắm vững các quan điểm chỉ đạo sau: Một là, tiếp tục kiên trì chủ trương dành ưu tiên cao cho XK để thúc đẩy tăng trưởng GDP; phát triển sản xuất, thu hút lao động, có thêm ngoại tệ. Hai là, chủ động hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới trên cơ sở giữ vững độc lập tự chủ và định hướng XHCN, với kế hoạch tổng thể và lộ trình hợp lý, phù hợp với trình độ phát triển của đất nước và quy định của các tổ chức mà ta tham gia. Ba là, lấy việc phát huy nội lực, đẩy mạnh sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cơ chế quản lý; hoàn chỉnh hệ thống pháp luật; nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của các doanh nghiẹp cũng như của toàn bộ nền kinh tế làm khâu then chốt, có ý nghĩa quyết định đối với việc mở rộng kinh doanh XNK, hội nhập quốc tế. Bốn là, gắn kết thị trường trong nước với thị trường ngoài nước; vừa chú trọng thị trường trong nước, vừa ra sức mở rộng và đa dạng hoá thị trường ngoài nước. Năm là, kiên trì chủ trương đa dạng hoá các thành phần kinh tế tham gia hoạt động xuất nhập khẩu, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. 2.1 Chính sách sản phẩm xuất khẩu Nội dung của chính sách này là tập trung sự cố gắng vào xuất khẩu một số sản phẩm thô và sơ chế dựa trên lợi thế so sánh sẵn có do điều kiện tự nhiên đem lại như các mặt hàng nông sản và khoáng sản sơ khai ... mà Việt Nam đã có chỗ đứng trên thị trường ASEAN để tăng mạnh cả về số lượng và trị giá xuất khẩu. Tuy nhiên, trên thị trường thế giới, điều kiện mậu dịch luôn bất lợi cho các quốc gia xuất khẩu bằng nông sản và khoáng sản sơ khai, trong đó có Việt Nam, vì vậy cần phải đa dạng hoá các mặt hàng xuất khẩu, chuyển hướng tăng dần trình độ chế biến của hàng xuất khẩu, coi đó là một biện pháp để tăng quy mô giá trị gia tăng trong xuất khẩu, tăng tích luỹ cho công nghiệp hoá. Mặt hàng, chất lượng, mẫu mã cần đáp ứng nhu cầu của từng thị trường. Theo các hướng nói trên, chính sách các nhóm hàng sẽ như sau: Nhóm hàng nguyên nhiên liệu Hiện nay nhóm hàng này có hai mặt hàng chính là dầu thô và than đá, đang chiếm khoảng 20% kim ngạch xuất khẩu của nước ta. Về dầu thô, giảm tỷ trọng xuất khẩu dầu thô năm 2010 chỉ còn chiếm từ 1 - 3% tổng kim ngạch xuất khẩu (so với hiện nay là 22%), do Nhà máy lọc dầu Dung Quất sẽ đi vào hoạt động. Về Than đá, xuất khẩu sẽ chỉ dao động ở mức 4 triệu tấn/năm, kim ngạch mỗi năm khoảng 120 - 150 triệu USD. Nhìn chung, giá xuất khẩu than ít có khả năng tăng đột biến do nguồn cung trên thị trường thế giới tương đối dồi daò. Nhóm hàng nông, lâm, thuỷ sản: Hướng phát triển chủ đạo nhóm hàng này trong 10 năm tới là chuyển dịch cơ cấu toàn lĩnh vực, trong mỗi ngành, thậm chí trong từng loại sản phẩm, nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị gia tăng. Để đạt được mục tiêu này cần có sự đầu tư thích đáng vào khâu giống và công nghệ sau thu hoạch, kể cả đóng gói, bảo quản, vận chuyển để tạo ra những bước đột phá về năng suất và chất lượng. Về Thuỷ sản, Sản lượng dự kiến đạt 3,7 triệu tấn, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản đạt 2,5 tỷ USD vào năm 2005 và 3,2 - 3,5 tỷ USD vào năm 2010, chiếm 40% tổng kim ngạch của nhóm nông,lâm, thuỷ sản. Về gạo, Trong thời kỳ này dự kiến xuất khẩu 4 - 4,5 triệu tấn/năm, thu về mỗi năm khoảng trên 1 tỷ USD. Để nâng cao hơn nữa kim ngạch, cần đầu tư cải thiện cơ cấu và chất lượng gạo xuất khẩu; ngoài việc khai thác các thị trường mới (như Trung Đông, châu Phi, Nam Mỹ) cần phải chú trọng ổn định thị trường đã có như Inđônêsia, Philipin... thông qua các hợp đồng G-to-G, nghiến cứu khả năng phối hợp với Thái Lan để điều tiết nguồn cung, ổn định giá cả thị trường, tăng hiệu quả xuất khẩu gạo. Về nhân điều, có thể tăng kim ngạch lên 400 triệu USD vào năm 2010 vì nhu cầu còn lớn, liên tục tăng, vả lại tiềm năng của nước ta còn lớn. Về Rau quả, kim ngạch xuất khẩu rau quả sẽ tăng lên 1,2 tỷ USD vào năm 2010. Nếu có quy hoạch các vùng chuyên canh và đầu tư thoả đáng cho các khâu như giống, kỹ thuật trồng và chăm sóc, công nghệ sau thu hoạch thì có thể đạt 1,6 tỷ USD. Về cà phê, nếu thuận lợi xuất khẩu có thể đạt 750 ngàn tấn vào năm 2010 với kim ngạch khoảng 850 triệu USD, đưa Việt Nam vượt qua Côlômbia để trở thành nước xuất khẩu cà phê lớn thứ hai thế giới. Để đạt giá trị cao, nên chú trọng phát triển cây cà phê chè (arabica), tự tổ chức hoặc thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực chế biến cà phê rang xay và cà phê hoà tan. Xingapo vấn là một trong những thị trường chủ yếu. Về cao su và chè, dù Chính phủ đã có đề án phát triển nhưng cần tính lại vấn đề phát triển cao su vì nhu cầu của thế giới tăng chậm. Dự kiến kim ngạch cao su đạt 500 triệu USD vào năm 2010. Kim ngạch xuất khẩu chè dự kiến đạt 200 triệu USD vào năm 2010, gấp 4 lần hiện nay. Sản phẩm chế biến và chế tạo Hiện nay kim ngạch của nhóm này đã đạt trên 4 tỷ USD, tức là trên 30% kim ngạch xuất khẩu. Mục tiêu đến năm 2010 là 20 - 21 tỷ USD và chiếm khoảng 40% kim ngạch xuất khẩu. Về hàng dệt may và giày dép, kim ngạch mỗi năm phải đạt khoảng 7 - 7,5 tỷ USD. Như vậy mỗi năm dệt may tăng 14%/năm và giày dép là 15 -16%/năm. Cần tiếp cận thị trường quốc tế, dự báo nhu cầu của người tiêu dùng để từ đó cố gắng tạo ra những ngành hàng mới. Về thủ công mỹ nghệ, đây là ngành hàng ta có nhiều tiềm năng, dung lượng thị trường thế giới còn lớn, phấn đấu năm 2005 kim ngạch xuất khẩu đạt 800 triệu USD và 1,5 tỷ USD vào năm 2010, trong đó hàng gốm sứ khoảng 60%. Thị trường các nước ASEAN là thị trường tiềm tàng. Sản phẩm hàm lượng công nghệ và chất xám cao Đây là ngành mới xuất hiện nhưng có kim ngạch lớn, hạt nhân là hàng điện tử và tin học. Mục tiêu kim ngạch đặt ra là 2,5 tỷ USD vào năm 2005 và 6 -7 tỷ USD vào năm 2010 (riêng phần mềm là 1 tỷ). Việt Nam sẽ tập trung xuất khẩu sang thị trường ASEAN các sản phẩm thuộc về phần cứng. Vấn đề cốt lõi là có cơ chế chính sách khuyến khích, phát triển nguồn nhân lực. Hiện nay, chúng ta cần tính toán lại, nên đầu tư vào các ngành hàng nào có lợi thế cạnh trnh chứ không nhất thiết tiếp tục duy trì và đầu tư cho tất cả các ngành hàng. Bởi lẽ “trên thế giới hiện nay, rất ít nước tự ình đầu tư phát triển đầy đủ các ngành cần thiết, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hoá. Chẳng hạn, trong khu vực ASEAN, ta rất nên nghiên cứu bài học của Malaixia, là nước đề cao rất nhiều ngọn cờ độc lập dân tộc và cũng rất thành công trong phát triển kinh tế nhưng họ chỉ tập trung vào một số ngành có lợi thế cạnh tranh, lợi ích kinh tế cao như dầu cọ, cao su, mang lại giá trị gia tăng cao. Trong công nghiệp, họ sẵn sàng bỏ một số ngành không hiệu quả để đi vào công nghiệp công nghệ thông tin, điện tử Giá trị các ngành ccông nghiệp công nghệ cao đang chiếm tỷ trọng lớn trong kim ngạch xuất khẩu của họ” (Bà Phạm Chi Lan - Phó chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam). Mặt hàng trọng tâm của Việt Nam được đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường ASEAN là gạo, linh kiện vi tính, sản phẩm cơ khí, hoá phẩm tiêu dùng, thực phẩm chế biến, sản phẩm nhựa, hàng bách hoá (đối với Lào, Campuchia). 2.2 Chính sách nhập khẩu Chính sách nhập khẩu có vai trò rất tích cực trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hội nhập. Hoạt động nhập khẩu phải nhằm vào thực hiện các yêu cầu và mục tiêu cơ bản là. - Trang bị cho nền kinh tế quốc dân các thiết bị, máy móc và công nghệ sản xuất hiện đại. - Bổ sung các yếu tố sản xuất và hàng hoá mà nền kinh tế quốc dân thiếu hoặc chưa đáp ứng nhu cầu của sản xuất và tiêu dùng . - Nhập khẩu phải bảo hộ hợp lý sản xuất nội địa để giúp các ngành có tiềm năng phát triển cạnh tranh được trên thị trường nội địa và thị trường quốc tế. Vấn đề bảo hộ mậu dịch là vấn đề hết sức nhạy cảm trong chính sách thương mại. Trong tiến trình hội nhập, chúng ta cần khẳng định Việt Nam không lấy chính sách bảo hệ mậu dịch làm nền tảng và xu hướng phát triển cho chính sách ngoại thương của mình. Thực hiện chính sách bảo hộ đối với một ngành hàng nào đó cốt hỗ trợ ngành hàng này vươn lên trong cạnh tranh, và không vì bảo hộ mà quên lợi ích của người tiêu dùng. ở đây, sự bảo hộ sản xuất nội địa phải được quan niệm là sự bảo hộ tích cực trong xu hướng tự do hoá thương mại. Nó khác hẳn sự bảo hộ trong điều kiện tư bản độc quyền cả trong điều kiện nền kinh tế khép kín, sản xuất thay thế nhập khẩu. Trên quan điểm như vậy, chính sách bảo hộ mậu dịch phải dựa trên bốn nguyên tắc sau: - Quy định chỉ bảo hộ cho những mặt hàng đáp ứng được nhu cầu tăng trưởng kinh tế, có tiềm năng phát triển, tạo được nguồn thu cho ngân sách và thu hút được nhiều lao động. - Việc bảo hộ được áp dụng thống nhất cho mọi thành phần kinh tế, kể cả các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. - Việc bảo hộ được áp dụng cho từng ngành hàng, có thời hạn, không bảo hộ vĩnh viễn cho bất kỳ ngành hàng nào. - Quy định bảo hộ không trái với tiến trình tự do hoá và các hiệp định mà Chính phủ Việt Nam đã ký kết. 2.3 Xác định thị trường ưu tiên trong chính sách thương mại Về mặt đối ngoại, Việt Nam thực hiện chủ trương đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoại; chúng ta mong muốn làm bạn với tất cả các quốc gia để tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân và chính phủ các nước đối với sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta, đồng thời tăng cường quan hệ hữu nghị và hiểu biết lẫn nhau giữa nhân dân ta và nhân dân các nước. Tuy nhiên, trong chính sách thương mại cần lựa chọn thị trường ưu tiên, thị trường trọng điểm cho từng thời kỳ. Không thể mở rộng buôn bán với mọi quốc gia trên thế giới, đặc biệt là giai đoạn hiện nay, khi nền kinh tế nước ta còn kém phát triển, kim ngạch xuất khẩu còn bị hạn chế . Xác định thị trường ưu tiên không thể là sự lựa chọn chủ quan mà phải dựa vào sự phân tích các sự kiện, xu thế phát triển của nền kinh tế thế giới, của khu vực và của quốc gia đối tác cũng như nhu cầu khả năng của nền kinh tế quốc dân. Quan điểm chỉ đạo việc lựa chọn thị trường ưu tiên là lựa chọn thị trường có nhiều khả năng cung cấp các yếu tố vật chất - kỹ thuật cho công nghiệp hoá đất nước và thị trường mở cho hàng hoá Việt Nam xâm nhập. Nhà nước có thể dự kiến tỷ lệ buôn bán với từng thị trường. Nhưng tỷ lệ đó không phải là sự phân định cứng nhắc mà linh hoạt trên nền tảng định hướng đề ra. Trên quan điểm như vậy, thị trường ưu tiên cho sản phẩm xuất nhập khẩu trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá có thể là Nhật Bản, Tây Âu, Mỹ và ASEAN. Cần nhanh chóng khắc phục những trở ngại trong buôn bán để tăng nhanh qui mô xuất khẩu đáp ứng nhu cầu nhập khẩu ngày càng cao từ các thị trường này. ASEAN là thị trường mà ta thường xuyên nhập siêu nên vấn đề đẩy mạnh xuất khẩu cho ASEAN để tiến tới thương mại cân bằng là vấn đề có tầm quan trọng hàng đầu. Định hướng chiến lược sẽ là tăng kim ngạch nhưng giảm về tỷ trọng, chủ yếu nhờ giảm buôn bán qua trung gian Singapore. Ngoài ra, cần khai thác tốt thị trường Lào và Campuchia trong bối cảnh mới bởi phát triển buôn bán với Lào và Campuchia không chỉ đơn thuần mang ý nghĩa kinh tế. Các doanh nghiệp VN cần tích cực, chủ động tận dụng thuận lợi do cơ chế AFTA mang lại để gia tăng xuất khẩu sang các thị trường này. 3. Ưu tiên phát triển các ngành sản xuất, kinh doanh mà Việt Nam có lợi thế so với các nước trong khu vực Trong giai đoạn đầu tham gia AFTA, chúng ta nên chọn những ngành mà lợi thế so sánh có thể phát huy tác dụng nhiều nhất, đó là những ngành dựa trên nguồn lao động dồi dào có thể tiếp thu tay nghề nhanh, nguồn tài nguyên đa dạng và phong phú (có thể nói đây là những lợi thế so sánh trước mắt, được quy định bằng đặc tính kinh tế hiện đại). Như vậy mới có thể đảm bảo trong thời gian tương đối ngắn những mặt hàng sản xuất trong nước này có thể cạnh tranh được, trước tiên là trong thị trường nội địa, sau đó là thị trường nước ngoài . Một số ngành sản xuất có lợi thế so sánh nhiều nhất sau đây cần được ưu tiên phát triển: Ngành hàng nông sản Gạo, cà phê và hạt điều là những mặt hàng nông sản có kim ngạch lớn trong thương mại Việt Nam - ASEAN. Hầu hết khối lượng xuất khẩu sang ASEAN thực chất được chuyển khẩu sang thị trường đích là Châu Âu và Mỹ (cà phê, hạt điều) và khắp các châu lục (gạo). Nói chung, nông sản có nhiều cơ hội thâm nhập thị trường ASEAN và qua đó thâm nhập các thị trường khác trên thế giới. Nhu cầu gạo trên thế giới vẫn có tăng, Việt Nam vẫn có dư gạo dể xuất khẩu. Hiện nay trong nông nghiệp đã xuất hiện xu hướng canh tác gạo giống mới thuộc loại cao cấp. Kể từ năm 2003, danh mục nông phẩm chế biến nhạy cảm bắt đầu được đưa vào thực hiện CEPT, Việt Nam có cơ hội thuận lợi hơn để xuất khẩu gạo sang các nước ASEAN. Nhìn chung xuất khẩu gạo có thể tăng, đặc biệt Việt Nam có thể sẽ cạnh tranh trực tiếp với Thái Lan trong xuất khẩu gạo cao cấp vào các thị trường này. Các mặt hàng nông sản có thể được coi là một trong những thế mạnh trong xuất khẩu của Việt Nam. Tuy nhiên, đây là những mặt hàng hết sức nhạy cảm và thông thường trong thương mại Quốc tế được các nước áp dụng những biện pháp và chính sách bảo hộ, trợ giá ở mức độ cao. Vì vậy, đối với những mặt hàng này, chúng ta xây dựng một hệ thống các chính sách ổn định với mức độ ưu đãi cao và đặc biệt tập trung để khuyến khích phát triển công nghệ chế biến trong nước đối với các mặt hàng này để nâng cao vị thế của hàng hoá Việt Nam trong thương mại quốc tế. Ngành dệt may So với các nước ASEAN, ngành dệt may của Việt Nam có ưu thế hơn về nguồn nhân công có văn hoá, cần cù, thông minh và lương không cao, thêm vào đó, thị trường nội địa rộng lớn, đang phát triển nhanh cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Nhu cầu trong nước đang có xu hướng đa dạng hoá đạt yêu cầu cao hơn, thị hiếu biến đổi nhanh hơn. Tuy nhiên, ta cũng kém lợi thế hơn về công nghệ sản xuất và công nghệ quản lý; sự hiện diện của nhãn hàng Việt Nam trên thị trường thế giới còn ở mức thấp, điều kiện tiếp cận nguồn vốn còn rất hạn chế. Hầu hết các doanh nghiệp chưa làm chủ được các công đoạn tạo mẫu, chọn mẫu hợp thị hiếu và chỉ có một số doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh các sản phẩm có sức cạnh tranh thuộc khoang tiếp thị loại cao. Ngành dệt hiện đại không cần sử dụng nhiều nhân công, chất liệu nhanh. Hiện nay ta chưa có thể mạnh trong lĩnh vực này. Do đó, để chiếm lĩnh thị trường và nâng cao khả năng cạnh tranh trong ngành. Bên cạch những sản phẩm mà chúng ta có lợi thế so sánh tương đối lớn mà sớm có thể đạt được khả năng cạnh tranh với các nước thành viên ASEAN khác trên thị trương ngoài nước như đã được nói tới ở trên, còn một số mặt hàng khác, mặc dù hiện đang được nhập khẩu với số lượng tương đối lớn nhưng thực tế chúng ta cũng có nhiều điểm lợi thế cần được tích cực khai thác để nâng cao khả năng cạnh tranh. Khai thác lợi thế tương đối về lực lượng lao động dồi dào với khả năng tiếp thu tay nghề nhanh những ngành hàng điện, điện tử sẽ là những ngành thích hợp để phát huy lợi thế sau này của Việt Nam. Nhìn chung, các ngành công nghiệp này được phát triển từ cơ sở của công nghiệp lắp ráp và là những ngành sản xuất được phát triển nhiều ở các nước đang phát triển để sử dụng nguồn lực của về sức lao động và chuyển giao các công nghệ không phải là hàng đầu từ những nước đã phát triển. Tuy nhiên những hàng sản xuất đòi hỏi phải có thời gian nhất định để phát triển và tạo lập thế đứng trên thị trường Việt Nam. Đây là một vấn đề hết sức khó khăn, vì thị trường trong nước đã tràn ngập hàng hoá của các hãng lớn của các nước đang phát triển cũng như của các nước trong khu vực ASEAN. Do đó trong giai đoạn phát triển ban đầu của các ngành sản xuất này, việc sử dụng đầu tư nước ngoài trực tiếp dưới các hình thức xí nghiệp liên doanh hay xí nghiệp 100% vốn nước ngoài và việc chuyển giao công nghệ sẽ là những tiền đề quan trọng. 4. Tiếp tục cải cách chính sách thuế và thuế quan Trong những năm đổi mới, chúng ta đã có rất nhiều cố gắng trong việc cải cách chính sách thuế nội địa và thuế quan. Những thành tựu của công cuộc đổi mới có phần đóng góp rất đáng kể của chính sách thuế. Tuy nhiên, hệ thống chính sách thuế hiện hành còn đang tồn tại nhiều nhược điểm. Thứ nhất là phạm vi điều tiết vĩ mô của thuế còn hẹp, chưa bao quát hết các hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế quốc dân đã và đang phát sinh, phát triển đa dạng trong nền kinh tế thị trường. Thứ hai, sử dụng loại thuế này thay cho loại thuế khác, làm hạn chế tác dụng điều tiết vĩ mô của cả hệ thống thuế. Thứ ba, dàn đều cho các sắc thuế cùng thực hiện mục tiêu giống nhau là hướng dẫn sản xuất và hướng dẫn tiêu dùng nên mỗi sắc thuế đều có nhiều thuế suất, dẫn đến không thực tế, khó thực hiện. Thứ tư, chính sách thuế còn có sự phân biệt đối xử giữa hàng sản xuất trong nước và hàng nhập khẩu, việc quy định và tổ chức thực hiện các loại thuế chưa phù hợp với thông lệ quốc tế, chưa tương đồng với hệ thống thuế các nước. Hệ thống chính sách thuế thiếu rõ ràng, thiếu công bằng, hay thay đổi gây bất lợi cho nhà đầu tư nước ngoài và nhà đầu tư trong nước. Để khắc phục những nhược điểm trên nhằm làm cho hệ thống chính sách thuế Việt Nam góp phần thúc đẩy ngoại thương phát triển, đồng thời thúc đẩy tự do hoá và hội nhập, cải cách hệ thống chính sách thuế hiện hành cần thực hiện theo hướng: giảm bớt số mức thuế suất trong từng sắc thuế; hạ thấp mức thuế suất đi đôi với mở rộng diện chịu thuế nhằm đảm bảo vừa tăng thu cho ngân sách vừa khuyến khích sản xuất phát triển, đơn giản hoá biểu thuế và giảm sự chênh lệch giữa các mức thuế. Cụ thể là: - Giảm mức thuế xuất khẩu từ 12 mức xuống còn 3 mức (0%, 10%, và 20%). Mức 0% áp dụng đối với hàng hoá đã qua chế biến, mức 10% đối với hàng xuất khẩu chưa qua chế biến và mức 20% đối với hàng không khuyến khích xuất khẩu. - Đối với hàng nhập khẩu, vừa giảm mức thuế vừa giảm dần thuế suất. Về mức thuế, chỉ nên áp dụng 5 – 6 mức: 0%, 5%, 10%, 20% và 30%. Thuế suất cao nhất đánh vào hàng nhập khẩu chỉ nên là 50%. Ngoài ra, đối với thuế nhập khẩu cần hoàn thiện việc xây dựng biểu thuế theo hệ thống HS, gồm 3 loại thuế suất: thuế suất thông thường, thuế suất ưu đãi (MFN) và thuế suất ưu đãi đặc biệt. Đồng thời ban hành luật thuế chống bán phá giá, chống trợ cấp và chống phân biệt đối xử. - áp dụng giá tính thuế hải quan căn cứ vào giá nhập khẩu của hàng hoá. - Chấm dứt sự phân biệt đối xử về thuế giữa hàng hoá, dịch vụ nhập khẩu với hàng hoá, dịch vụ sản xuất trong nước. - Cần miễn thuế GTGT cho các xí nghiệp vệ tinh, nơi cung cấp nguyên liệu đầu vào trực tiếp cho các xí nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu. Cải tiến phương thức thu thuế GTGT đầu vào của các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu. Việc giảm và miễn thuế xuất khẩu nên áp dụng rộng rãi hơn cho các loại hàng xuất khẩu của ta. Kinh nghiệm một số nước đang phát triển cho thấy, nhìn chung số miễn giảm thường chiếm khoảng gần 20% tổng giá trị thuế của một nước. Ngoài ra một hình thức khác cũng được áp dụng là loại bỏ nhà xuất khẩu khỏi phạm vi đánh thuế bằng cách hoàn lại thuế, cho phép nhà xuất khẩu hoàn lại thuế bao gồm cả thuế gián tiếp và trực tiếp đã nộp, miễn giảm thuế, không áp dụng hàng rào phi thuế đối với hàng xuất khẩu, xây dựng các nhà máy trong đó không đánh thuế nguyên vật liệu, thành phẩm, xây dựng khu chế xuất và trên thực tế là xây dựng một ốc đảo dành riêng cho việc chế biến, sản xuất hàng xuất khẩu. Đối với thuế nhập khẩu, chúng ta sẽ theo thông lệ quốc tế, giảm thuế suất thuế nhập khẩu xuống mức cao nhất, thu hẹp diện chịu thuế suất 0% (chỉ áp dụng cho thiết bị toàn bộ, nguyên vật liệu thiết yếu phục vụ cho sản xuất nông nghiệp), mở rộng diện hàng chịu thuế tối thiểu là 3%, sau đó nâng dần lên 5%, áp dụng cho cả hàng hoá nhập khẩu và cả hàng hoá sản xuất trong nước với thuế suất trong khoảng 5 – 15%. Mở rộng diện thuế tiêu thụ đặc biệt đối với hàng hoá nhập khẩu với khung thuế suất khoảng từ 20% đến 140% trên giá nhập khẩu CIF. 5. Hoàn thiện các quy chế thương mại phi thuế quan Để hoàn thiện và từng bước tạo điều kiện cho nền kinh tế Việt Nam hội nhập với nền kinh tế thế giới và khu vực, chúng ta cần điều chỉnh hoàn thiện các quy chế phi thuế quan phù hợp với yêu cầu của AFTA/ASEAN và APEC. Đó là: - Giảm dần các biện pháp phi thuế quan và đảm bảo các quy chế thương mại phi thuế quan luôn được công bố rõ ràng. - Đảm bảo không áp dụng các biện pháp vô lý gây phương hại cho tiến trình giảm hàng rào phi thuế quan. Theo hướng đó chúng ta cần: - Sắp xếp lại danh mục hàng hoá quản lý bằng hạn ngạch và giấy phép. Chỉ áp dụng hạn chế số lượng nhập khẩu đối với một số hàng hoá liên quan đến bảo hộ nền công nghiệp non trẻ hoặc liên quan đến cân bằng cán cân thanh toán với thời gian và điều kiện nhất định. Việc quy định hạn ngạch nhập khẩu cần được công bố công khai trên những phương tiện thông tin đại chúng. Thực hiện tự do hoá xuất khẩu, không áp dụng bất kỳ hạn chế xuất khẩu nào, xoá bỏ các chính sách, thủ tục hạn chế xuất khẩu. Các quy chế phi thuế quan nhằm điều tiết hoạt động thương mại, các quy định này không mang tính chất bảo hộ thương mại, không gây nên những cản trở cho quá trình tự do hoá thương mại. Bảng 23: Cam kết quốc tế của Việt Nam về bãi bỏ giấy phép Tên hàng Với AFTA Với quỹ Miyazawa Với Mỹ Với IMF Dầu thực vật 2003 2004 2005 Như AFTA Rượu Không cam kết 2005 2006 Sau năm 2003 Xi măng 2002 2007 2007 Như AFTA Clinker 2001 2007 2007 Như AFTA Phân bón 2003 2007 2006 Như AFTA Giấy 2003 2005 2006 Như AFTA Gạch ốp lát 2003 2003 2004 Như AFTA Kính xây dựng 2002-2003 2004 2007 Như AFTA Thép 2001-2002 2007 2007 Như AFTA Xe hơi Không cam kết 2005 2006 Sau năm 2003 Xe máy Không cam kết 2005 2006 Sau năm 2003 Xăng dầu Không cam kết 2007 2008 Sau năm 2003 Đường 2013 2010 2011 Sau năm 2003 Trứng gia cầm Chưa cam kết Chưa cam kết Bãi bỏ ngay Chưa cam kết Gạo Chưa cam kết Chưa cam kết Bãi bỏ ngay Chưa cam kết Nguồn: Bộ Thương mại 6. Chính sách tài chính - tiền tệ - tín dụng Để tạo điều kiện thuận lợi cho tự do hoá và hội nhập cần thực hiện thị trường tài chính mở, các chính sách tài chính - tiền tệ dần dần không có sự phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế, giữa nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Chế độ hai giá đối với hàng hoá dịch vụ mang tính phân biệt đối xử các loại hình doanh nghiệp cần được xoá bỏ. áp dụng chế độ quản lý ngoại tệ khuyến khích xuất khẩu, quản lý điều tiết nhập khẩu và áp dụng cơ chế tỷ giá linh hoạt tạo điều kiện thúc đẩy tự do hoá thương mại. Các chính sách tài chính tiền tệ khác như lãi suất, tín dụng trước và sau bán hàng... cần đảm bảo cho khu vực xuất khẩu có lợi nhuận trung bình cao hơn lợi nhuận trung bình của nền kinh tế quốc dân. Để đẩy mạnh và mở rộng quy mô xuất khẩu sang thị trường này Chính phủ cần hỗ trợ các doanh nghiệp thông qua chính sách tài chính-tín dụng như: - Nhà nước cần thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng để mở rộng khả năng tiếp cận các nguồn vốn cho doanh nghiệp vừa và nhỏ. Quỹ này thực hiện bảo lãnh cho các doanh nghiệp có khả năng phát triển nhưng không đủ tài sản để thế chấp vay vốn. Quỹ được tổ chức dưới hình thức là một tổ chức tài chính của Nhà nước, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu có hiệu quả được vay vốn theo phương thức tự vay tự trả. - Xây dựng và sử dụng "Quỹ bảo hiểm xuất khẩu": Từ năm 1997 Việt Nam đã bắt đầu xây dựng "quỹ bảo hiểm" này. Đây là một hoạt động rất có ý nghĩa đối với xuất khẩu, đặc biệt đói với các mặt hàng nông sản xuất khẩu (cà phê, cao su, hạt điều ) vì đây là những sản phẩm phải chịu ảnh hưởng nhiều của các yếu tố khách quan. - Thực hiện lãi suất ưu đãi cho doanh nghiệp vừa và nhỏ sản xuất, kinh doanh xuất nhập khẩu với ASEAN có hiệu quả, sản xuất sản phẩm mới hoặc nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ mới. - Tiếp tục áp dụng chính sách thưởng xuất khẩu mở rộng dựa trên cơ sở kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp thuộc tất cả thành phần kinh tế trong việc xuất khẩu các loại hàng như: gạo, cà phê, rau quả tươi, đã qua sơ chế hoặc đóng gói, hạt điều nhân, sản phẩm thủ công mỹ nghệ. - Nhà nước có thể khuyến khích và hỗ trợ xuất khẩu thông qua chính sách thuế. Chính sách ưu đãi thuế rất quan trọng giúp cho các nhà xuất khẩu giảm giá xuất khẩu, đồng thời giúp họ tiến hành nghiên cứu thị trường cũng như khuyến khích các doanh nghiệp thiết lập các văn phòng, chi nhánh ở nước ngoài. Chính sách thuế mà Nhà nước còn có thể áp dụng là: miễn giảm tất cả các loại phí đánh vào hàng xuất khẩu và các loại phí đánh vào hạn ngạch xuất khẩu, giấy phép xuất khẩu và giấy chứng nhận xuất xứ hàng xuất khẩu, giảm thuế nhập khẩu để giảm đến mức tối thiểu chi phí đầu vào cho sản xuất nông nghiệp, áp dụng mức thuế ưu đãi cho hàng xuất khẩu đã qua chế biến, đồng thời có thể sử dụng nguồn thuế thu được để đầu tư lại cho các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu đã qua chế biến... 7. Phát huy chức năng thông tin thị trường và xúc tiến xuất khẩu Trong thời gian tới, cần tăng cường mạnh mẽ công tác thu thập và phổ biến thông tin về thị trường ngoài, từ tình hình chung cho tới các cơ chế chính sách của các nước, dự báo các chiều hướng cung-cầu hàng hóa và dịch vụ ... Để thông tin có thể đến với mọi doanh nghiệp quan tâm theo con đường ngắn nhất, tiết kiệm nhất, Bộ Thương mại cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu và trang chủ (trang Web) của Bộ, tăng cường phát hành các tài liệu theo chuyên đề. Khi đã có sản phẩm hàng hoá, tức là đã có tiền đề thì việc tổ chức thị trường và hoạt động xúc tiến cụ thể là rất quan trọng. Thông qua hai khâu này sản phẩm xuất khẩu mới đến được thị trường nhập khẩu, đến với người tiêu dùng. Vì vậy, tổ chức thị trường và xúc tiến thương mại phải trở thành một chức năng quan trọng của Bộ Thương mại và tham tán thương mại. Tại thị trường ngoài, các tham tán phải là tác nhân gắn kết doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp trên thị trường mà tham tán hoạt động. Và để làm được vai trò đó phải đặt mối quan hệ giữa các cơ quan hữu quan trên một trục dọc và phải tăng tốc độ chuyển động đi đôi với đảm bảo sự chuyển động hướng đích của toàn bộ trục này. Tham tán nông nghiệp là vấn đề cần được bàn thêm. Là một nước xuất khẩu nông sản, chúng ta nên có các tham tán nông nghiệp ở nước ngoài để kịp thời thông tin về nhà những thay đổi về chính sách và khả năng nhập khẩu nông sản của thị trường sở tại. Với chuyên môn sâu về nông sản và nông học, tham tán nông nghiệp có thể sẽ giúp được các doanh nghiệp nhiều hơn là tham tán thương mại. Điều này đặc biệt có ý nghĩa khi các biện pháp kỹ thuật và môi trường đang được các nước phát triển sử dụng ngày càng nhiều để hạn chế nhập khẩu, bảo hộ sản xuất nông nghiệp trong nước. Cần nâng cao hiệu quả hoạt động của Cục Xúc tiến Thương mại thuộc Bộ Thương mại với nhiệm vụ chính là phổ biến thông tin và tổ chức xúc tiến các hoạt động thương mại. Để thực hiện tốt chức năng của mình, Cục Xúc tiến Thương mại cần được trang bị đầy đủ hơn nữa về cơ sở vật chất và đội ngũ. 8. Chính sách đào tạo và tái đào tạo cán bộ Trong quá trình toàn cầu hoá, ngoài những lợi thế về tài nguyên thiên nhiên và vị trí địa lý là những yếu tố thuộc về lợi thế so sánh do thiên nhiên ban tặng, chúng ta chỉ còn một yếu tố được coi là lợi thế so sánh là nguồn lao động rẻ và dồi dào. Tuy nhiên, lợi thế đó của chúng ta hiện cũng đang bị cạnh tranh gay gắt từ Trung Quốc. Mặt khác, trong những năm tới, lao động kỹ thuật trình độ cao mới là loại lao động mà nền kinh tế tri thức cần đến. Cho nên, đông và rẻ không sẽ không còn là lợi thế của Việt Nam nữa. Do đó, phát triển nguồn nhân lực phải là ưu tiên hàng đầu. Để đáp ứng những tiêu chuẩn thương mại quốc tế, nhà nước cần chú trọng tới chính sách đào tạo và tái đào tạo lực lượng lao động cho phù hợp với những thay đổi và yêu cầu của thị trường khu vực và thế giới, đồng thời cũng cần có một thị trường lao động linh hoạt hơn. Bên cạnh đó, chúng ta tranh thủ sự hỗ trợ kỹ thuật của ban thư ký ASEAN, APEC, các nước thành viên và các tổ chức quốc tế khác trong việc giúp ta đào tạo đội ngũ cán bộ có năng lực để chuẩn bị cho việc ta ra nhập các tổ chức này và tiếp tục tham gia các hoạt động sau này của các tổ chức đó. Từ nay trở đi, Việt Nam tham gia AFTA và các chương trình hợp tác ASEAN, các chương trình họp của APEC, nên phải tăng cường thêm cán bộ có chuyên môn để giải quyết nhiều vấn đề tại chỗ, không nhất thiết gửi các vấn đề đó về trong nước. Như vậy các cán bộ phải biết phối hợp và chỉ đạo công việc đồng thời phát hiện, nắm bắt vấn đề, chỉ như vậy mới có thể hoàn thành nhiệm vụ Tóm lại, tuy trình độ phát triển kinh tế còn thấp, nền kinh tế nước ta đã từng bước hội nhập với nền kinh tế khu vực và quốc tế. Nhà nước đã từng bước có những cải cách chính sách thương mại thúc đẩy quá trình hội nhập và tự do hoá. Thành quả do chính sách thương mại đem lại là rất khả quan. Tuy nhiên, bên cạnh những cơ hội và thuận lợi, những thách thức đối với nền kinh tế, đối với các doanh nghiệp cũng rất lớn. Một hệ thống chính sách thương mại cản trở hội nhập và tự do hoá đều sẽ mang lại những hậu quả tiêu cực đối với nền kinh tế. Vì vậy, đòi hỏi Nhà nước phải có chính sách khôn khéo thúc đẩy quá trình tự do hoá thương mại để Việt Nam thu được những lợi ích trong quá trình tham gia hội nhập. II/ Các giải pháp về phía doanh nghiệp. 1. Cải thiện chất lượng và chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp Mục đích của giải pháp là nâng cao năng suất và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình tham gia AFTA. Giải pháp này bao gồm hai biện pháp tiến hành đồng bộ vừa cải thiện chất lượng, hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp vừa tiến hành xây dựng chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. 1.1 Biện pháp cải thiện chất lượng, hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp Biện pháp này cần tập trung vào một số vấn đề: Cải tiến phương thức quản lý hoạt động, đặc biệt là quản lý tài chính, quản lý các yếu tố đầu vào nhằm giảm chi phí sản xuất kinh doanh tăng hiệu quả sử dụng vốn. Đầu tư đổi mới trang thiết bị công nghệ gắn với năng lực quản lý và trình độ tay nghề của cán bộ, công nhân trong doanh nghiệp. Nâng cao chất lượng dịch vụ phục vụ khách hàng, mở rộng mạng lưới tiếp thị để tạo thêm giá trị cho sản phẩm. Quản lý chất lượng sản phẩm trước, trong và sau giai đoạn sản xuất. Đặc biệt các sản phẩm của doanh nghiệp phấn đấu đạt chất lượng tiêu chuẩn quốc tế, cải tiến chất lượng, bao bì và nhất thiết các sản phẩm phải thực hiện mã vạch. Để thực hiện được các vấn đề trên đây, các DNVN cần có những thông tin đầy đủ, cập nhật về công nghệ, thị trường sản phẩm, có sự hỗ trợ tư vấn chuyên môn và chuyên môn hoá công tác quản lý. 1.2 Xây dựng chiến lược doanh nghiệp Bên cạnh chiến lược tổng thể của Nhà nước, Bộ chủ quản, từng doanh nghiệp cũng phải xây dựng chiến lược doanh nghiệp riêng. Nội dung chiến lược doanh nghiệp tập trung vào 3 vấn đề cơ bản sau đây: Thứ nhất: Phân tích lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp trong tương quan với các doanh nghiệp cùng ngành, các đối tác cạnh tranh. Xác định các đặc điểm kinh tế chủ chốt như thị trường, thị phần, các điều kiện của thị trường, khách hàng, công nghệ, đặc điểm của sản phẩm, quy mô tối ưu của số lượng... Xác định các nhân tố tác động đến sự phát triển của từng ngành, điều kiện cạnh tranh, điều kiện thay đổi công nghệ, nguyên vật liệu, phương hướng kinh doanh, xu hướng tiêu dùng của thị trường. Phân tích các nhân tố cạnh tranh chủ yếu đối với doanh nghiệp, các đối thủ cùng ngành, các đối thủ từng ngành tương tự, các đối thủ mới và tiềm năng, mỗi quan hệ giữa các nhà cung cấp nguyên vật liệu, vốn đầu tư, quan hệ với khách hàng... Thứ hai, nghiên cứu dự báo tình hình và sự cạnh tranh trên thị trường trong nước, khu vực và thế giới trong bối cảnh Việt Nam hội nhập vào các tổ chức quốc tế và khu vực như AFTA, APEC, WTO. Đồng thời nghiên cứu những tác động, xu hướng chuyển động thương mại của một số đối tác cạnh tranh với thị trường Việt Nam như việc Trung Quốc tham gia WTO, thị trường EU... Thứ ba, từ cơ sở trên các doanh nghiệp Việt Nam xác định chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp tập trung vào một số vấn đề chủ yếu: Chọn lựa hướng chiến lược cụ thể cho doanh nghiệp trên cơ sở phân tích các yêú tố lợi thế của doanh nghiệp, về sản phẩm, chi phí sản xuất, yếu tố giá thành, khả năng tiêu thụ sản phẩm... Tạo lợi thế cạnh tranh thông qua giá trị gia tăng của sản phẩm và dịch vụ thiết kế sản phẩm, lựa chọn và nghiên cứu các sản phẩm mới, nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ, công tác tiếp thị phù hợp với yêu cầu khách hàng trong nước, khu vực và thế giới. Sản phẩm của từng doanh nghiệp phải mang những đặc trưng riêng về bí quyết sản phẩm, nhãn mác, các kênh kiểm soát và phân phối sản phẩm. Phải đề ra các kế hoạch ngắn hạn, trung hạn trong chiến lược kinh doanh tổng thể của từng doanh nghiệp, trong đó cần chú ý đến mục tiêu trước mắt cũng như dự báo về từng loại sản phẩm nhằm làm cho sản phẩm của từng doanh nghiệp vừa có tính thích ứng với thị trường hiện tại vừa "đón bắt" được những xu hướng tiêu thụ của thị trường dự báo. 2. Từng bước cải thiện chất lượng môi trường kinh doanh của doanh nghiệp Môi trường kinh doanh của doanh nghiệp là sự hội tụ của nhiều yếu tố khác nhau bao gồm các biện pháp vi mô và vĩ mô nhằm tạo cho doanh nghiệp biết sử dụng khai thác quy trình từ sản xuất đến lưu thông hàng hoá. Các yếu tố này bao gồm biện pháp xúc tiến xuất khẩu, đầu tư, cơ sở hạ tầng, trình độ quản lý và tay nghề, các chính sách hỗ trợ sản phẩm... Quan trọng hơn cả là các doanh nghiệp phải xác định việc tham gia AFTA là nhiệm vụ, trách nhiệm của chính doanh nghiệp để tồn tại, phát triển trong điều kiện cạnh tranh mở của nền kinh tế. 3. Kết hợp giữa việc tham gia AFTA với các hình thức hợp tác kinh tế khác giữa Doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp các nước ASEAN Bên cạnh việc nâng cao hiệu quả trong quá trình tham gia AFTA, các doanh nghiệp nhà nước cũng cần mở rộng và phối hợp các hình thức liên kết với các doanh nghiệp trong nghiệp vụ. Mối liên quan giữa AFTA với chương trình hợp tác công nghiệp ASEAN (AICO) hoặc khu vực đầu tư ASEAN (AIA) sẽ giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội học hỏi kinh nghiệm, cọ xát và tăng khả năng cạnh tranh trong tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới... Vấn đề bức xúc hiện nay là doanh nghiệp Việt Nam cần nâng cao khả năng tạo vốn, trình độ quản lý, trình độ kỹ thuật để có thể đuổi kịp với trình độ phát triển công nghiệp của một số đối tác ASEAN mạnh. Ngoài ra, các doanh nghiệp chủ động đưa ra các danh mục sản phẩm có khả năng cạnh tranh, giảm bớt hoặc xoá bỏ các danh mục sản phẩm hoặc không có lợi thế cạnh tranh với các đối tác doanh nghiệp ASEAN nhằm tối ưu hoá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế. Kết luận Là động lực của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, nền kinh tế Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng cần nỗ lực tăng cường sức cạnh tranh của hàng hoá, dịch vụ thích ứng với quá trình hội nhập, trực tiếp là AFTA. Đối với các doanh nghiệp Việt Nam, tham gia AFTA cũng có nghĩa là chấp nhận cuộc chơi cạnh tranh trên sân chơi bình đẳng ngay trong khu vực và ở tại nước mình. Thành công hay thất bại của doanh nghiệp phụ thuộc vào khả năng cạnh tranh. Khi đã nâng cao được khả năng cạnh tranh, sản xuất được thúc đẩy và doanh nghiệp phát triển. Mọi sự chuẩn bị tích cực để tham gia hợp tác, hội nhập trên nhiều phương diện, ở nhiều cấp độ không chỉ phụ thuộc vào những điều kiện cần thuộc phạm vi chính sách vĩ mô mà còn liên quan đến nhiều yếu tố khác, đặc biệt là khả năng nội lực chủ động thích ứng của chính các doanh nghiệp. Nâng cao khả năng cạnh tranh, đáp ứng của các doanh nghiệp Việt Nam với AFTA đang là yêu cầu cấp thiết, liên quan trực tiếp đến lợi ích của các chủ thể tham gia công cuộc hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, trong đó có các doanh nghiệp và người tiêu ding. Gia nhập ASEAN - AFTA, tham gia APEC, tiến vào WTO có thể được ví như ba đường tròn đồng tâm trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Trên hành trình đó, các doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp Đổi mới - Phát triển - Hội nhập. Ngoài vai trò của nhà nước luôn cần được điều chỉnh phù hợp với yêu cầu nâng cao hiệu quả quản lý, định hướng chính sách và hỗ trợ tiếp cận thị trường , các doanh nghiệp Việt Nam cũng phải xác định chủ động nâng cao năng lực cạnh tranh thường xuyên trên mọi phương diện và trước mắt vẫn cần sự ủng hộ của người tiêu ding với tinh thần tự cường dân tộc. Thực hiện CEPT/AFTA thành công, những thu hoạch về công nghệ và hiệu quả kinh tế, năng lực và kinh nghiệm tăng cao góp phần tạo đà cho những bước tiến Việt Nam hội nhập rộng xa hơn, toàn diện hơn và sâu sắc hơn trong APEC, ASEM và WTO.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKhoa luan.doc
Tài liệu liên quan