Đề tài Lạm phát tại Việt Nam thập kỉ 90

Thập kỉ 90 đã qua nhưng những dư âm của nó vẫn còn là điều trăn trở, suy ngẫm của các nhà nghiên cứu kinh tế, bởi đó là thời kì đánh dấu sự chuyển mình của một đất nước trong công cuộc đổi mới, phát triển một cách toàn diện xã hội theo định hướng XHCN dưới sự quản lí, điều tiết vĩ mô của nhà nước. Điểm nổi bật và đáng chú ý nhất là cột mốc năm 1999 - chặng đường cuối cùng kết thúc một giai đoạn phát triển đầy thử thách, chông gai. Sự biến động kinh tế với những hiện tượng xưa nay chưa từng thấy như lạm phát một chữ số, thiểu phát, trượt giá.

doc26 trang | Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1158 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Lạm phát tại Việt Nam thập kỉ 90, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời dẫn Lạm phát là một trong những hiện tượng quan trọng nhất của thế kỉ 20 và đụng chạm tới mọi hệ thống kinh tế, dù có phát triển hay không. Milton Friedman có một tuyên bố nổi tiếng: Lạm phát luôn luôn và mọi nơi là vấn đề thuộc về tiền tệ, và chúng ta đã biết tiền tệ là công cụ điều tiết hiệu quả các chính sáchvĩ mô của nền kinh tế. Vì thế thực trạng lạm phát hiện là một vấn đề được quan tâm hàng đầu của các nhà kinh tế khi hoạch định các chính sách cho quốc gia. Mỗi quốc gia đều có những đặc điểm, tình hình, thực trạng nền kinh tế khác nhau. Kiềm chế lạm phát là một vấn đề có tầm quan trọng hàng đầu trong chính sách kinh tế của các nước nói chung và ở Việt Nam ta nói riêng. Từ một nền kinh tế tập trung và chưa phát triển, Việt Nam chuyển đổi sang kinh tế thị trường mà khó khăn đầu tiên phải đương đầu là lạm phát. Lạm phát là thước đo độ đúng sai của các chính sách cải cách và đo lường lòng tin của dân chúng và chính quyền trong xây dựng và phát triển kinh tế. Vì chính mức độ lạm phát ít hay nhiều và khả năng kiềm chế đến đâu ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống hàng ngày của người dân. Rõ ràng ở nước ta, trong bối cảnh đổi mới kinh tế dưới sự lãnh đạo của Đảng, vấn đề lạm phát không những là một tiêu thức kinh tế mà còn mang cả ý nghĩa chính trị nữa. Nước ta đã trải qua thời kì lạm phát cao kéo dài với những ảnh hưởng nặng nề trong suốt thập kỉ 80, được coi như là hậu quả tất yếu của cơ chế quản lí thiếu hiệu quả và tình trạng bao cấp tràn lan của thời kì chiến tranh. Những năm bước vào nền kinh tế thị trường, chúng ta đã vận dụng một cách sáng tạo các công trình nghiên cứu lạm phát trên thế giới vào điều kiện thực tế phù hợp với thực trạng lạm phát nước nhà. Đảng và Nhà nước ta cũng xem đây là nhiệm vụ cấp bách trước mắt cũng như về lâu dài, nên đã tiến hành cùng lúc nhiều biện pháp có kết quả về chính sách kinh tế để kiềm chế lạm phát và tăng trưởng kinh tế. Chính vì thế mà tình hình kinh tế tài chính của nước ta trong những năm vừa qua đã đạt được sự ổn định và có chiều hướng tốt. Nghiên cứu về lạm phát sẽ giúp chúng ta hiểu được bản chất cũng như những tác động của nó, thúc đẩy hay kìm hãm sự tăng trưởng của nền kinh tế diễn ra trên thực tiễn ở Việt Nam, từ đó mới có thể đưa ra được những biện pháp hữu hiệu để đảm bảo vừa tăng trưởng kinh tế vừa kiềm chế lạm phát ở mức tốt nhất. Với tất cả kiến thức đã thu thập được từ môn học Lí thuyết tiền tệ ngân hàng và những học hỏi từ thầy cô, bạn bè, sách báo... em xin được trình bày trong đề tài Lạm phát ở Việt Nam thập kỉ 90. Trong khuôn khổ bài viết có thể sẽ không tránh khỏi những sai sót, rất mong được các thầy cô chỉ bảo để em tiến bộ hơn trong những đề tài sau. *** Nội dung I. Khái quát về lạm phát Lạm phát từ lâu đã là căn bệnh chung cho mọi nền kinh tế, nhiều lí thuyết được đưa ra để chẩn đoán cũng như xác định giải pháp khắc phục. Song khi xem xét và giải quyết căn bệnh, chúng ta phải hiểu một cách đầy đủ về nó. Vậy lạm phát là gì ? Trong lịch sử, tình trạng lạm phát được coi là xảy ra khi nào khối lượng tiền tệ lưu hành quá thừa đối với nhu cầu của nên kinh tế. Để xét đoán tình trạng đó, các nhà kinh tế đã có nhiều định nghĩa về lạm phát, phù hợp với trình độ hiểu biết ngày càng sắc. Các định nghĩa về lạm phát được đưa ra thường tiếp cận từ hai khía cạnh chủ yếu. Loại thứ nhất là các định nghĩa xuất phát từ việc xem xét các nguyên nhân, chẳng hạn lạm phát là quá nhiều tiền đi săn quá ít hàng hoặc lạm phát là khi tiền lương danh nghĩa tăng nhanh hơn năng suất lao động. Thực chất đây là đưa ra các giải thích khác nhau về nguyên nhân lạm phát hơn là định nghĩa về lạm phát. Cách tiếp cận thứ hai tập trung vào những ảnh hưởng của lạm phát và được sử dụng phổ biến hiện nay: lạm phát là mức giá cả chung (mức giá bình quân) tăng lên. Đây là hiện tượng xảy ra ở tất cả các nước với mức biến động khác nhau. Sự tăng lên của mức giá làm giảm giá trị tiền tệ được đo lường bằng sức mua đối nội của nó. Mức biến động giá cả khác nhau giữa các nước và kéo dài sẽ ảnh hưởng tới tỉ giá ngoại tệ và làm giảm sức mua đối ngoại của đồng tiền. Đối nghịch với lạm phát là giảm phát khi mức giá cả chung có xu hướng giảm xuống. Cả hai hiện tượng đều có thể gây những ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống kinh tế xã hội. Quan niệm trên được tóm tắt trong phương trình của Fisher: MV = PY Trong đó, M : số lượngtiền tệ trong lưu thông. V : tốc độ lưu thông tiền tệ. P : giá trị trao đổi của tiền tệ. Y: hàng hoá, dịch vụ (kể cả chứng khoán) trên thị trường. Nếu M tăng thêm, trong khi Y vẫn giữ vững thì tất nhiên P sẽ tăng. Thêm vào đó, nếu V tăng thì P càng tăng nhanh và không giới hạn. Hiện tượng lạm phát là như vậy song nguyên nhân của nó là gì ? Sau nhiều năm nghiên cứu tìm tòi, các nhà kinh tế đã phân biệt hai nguyên nhân cơ bản gây ra lạm phát như sau: * Lạm phát do cầu kéo. Đây là nguyên nhân do tổng cầu (AD) tăng lên vượt quá mức cung ứng hàng hoá của xã hội đẫn đến áp lực làm tăng giá. Các lí do cụ thể là: Chi tiêu của Chính phủ tăng lên (chi phúc lợi xã hội, trợ cấp thất nghiệp...). Chi dùng của các hộ gia đình tăng lên (có thể do thu nhập thực tế tăng hoặc do lãi suất giảm). Nhu cầu đầu tư tăng xuất phát từ dự đoán về triển vọng phát triển kinh tế, khả năng mở rộng thị trường hoặc lãi suất đầu tư giảm. Do chính sách tiền tệ mở rộng làm cho cả lượng tiền cơ sở và mức cung tiền tăng lên. Các yếu tố liên quan đến nhu cầu của nước ngoài như tỉ giá, giá cả hàng hoá nước ngoài so với hàng hoá cùng loại ở trong nước... * Lạm phát chi phí đẩy. Đặc điểm quan trọng nhất của lạm phát chi phí đẩy là áp lực làm tăng giá cả xuất phát từ sự tăng lên của chi phí sản xuất vượt quá mức tăng của năng suất lao động và làm giảm mức cung ứng hàng hoá của xã hội. Chi phí sản xuất có thể tăng lên do: Mức tăng tiền lương vượt quá mức tăng năng suất lao động. Sự tăng lên của mức lợi nhuận ròng của người sản xuất đẩy giá cả hàng hoá lên cao. Giá nội địa của hàng khập khẩu tăng lên do giá trị của đồng nội tệ giảm so với ngoại tệ hoặc do ảnh hưởng của khủng hoảng... Thuế và các khoản nghĩa vụ đối với ngân sách Nhà nước tăng.... II. Thực trạng lạm phát ở Việt Nam thập kỉ 90. Trong giai đoạn này, lạm phát ở Việt Nam là lạm phát vừa phải, nghĩa là lạm phát ở mức một con số, xảy ra khi tốc độ tăng giá chậm. Hiện ở phần nhiều các nước phát triển lạm phát được duy trì ở mức vừa phải, tỉ lệ là bao nhiêu còn tuỳ thuộc vào tình trạng phát triển của nền kinh tế và môi trường chính sách tiền tệ từng thời kì. Với điều kiện lạm phát vừa phải, giá cả tăng chậm (thường xấp xỉ bằng mức tăng tiền lương hoặc cao hơn chút ít), tác hại của nó là không nguy hiểm mà trái lại có tác dụng kích thích sản xuất, thúc đẩy các hoạt động đầu tư. Thập kỉ 90 này tỉ lệ lạm phát ở nước ta đạt dưới một chữ số cùng với tốc độ tăng trưởng bình quân 8,6%/năm. Để hiểu được thực trạng lạm phát trong thập kỉ 90, chúng ta có thể xem xét và phân tích các số liệu về tỉ lệ lạm phát qua các năm trong bảng. Tỉ lệ lạm phát (tính theo tháng) Đơn vị : % năm tháng 90 91 92 93 94 95 96 97 98 99 1 2,9 13,2 4,4 1,7 1,8 3,8 0,9 0,8 1,6 1,7 2 3,8 8,7 5,5 1,9 3,7 3,4 2,5 1,8 2,2 1,9 3 1,9 0,5 0,5 -0,5 -0,4 0,2 0,8 -0,5 -0,8 -0,7 4 2,5 2,2 0,9 -0,2 0,3 1,0 0,1 -0,6 1,6 -0,6 5 2,6 3,0 1,3 1,5 0,6 1,8 -0,5 -0,5 1,4 -0,4 6 2,1 1,7 0.1 -0,3 0,9 0,8 -0,5 0,1 0 -0,3 7 3,6 2,5 0,3 -0,2 0,2 0 -0,7 0,2 -0,5 -0,4 8 5,8 3,4 0,3 0,5 0,9 0,3 -0,4 0,1 1,1 -0,4 9 4,3 3,7 0 -0,1 1,6 0,5 0,3 0,6 1,0 -0,6 10 6,1 2,8 -0,2 -0,3 1,3 0,1 0,1 0,3 0,3 -1,0 11 7,9 5,6 1,98 0 1,7 0,1 0,9 0,3 0,1 0,4 12 - 6,06 1,35 1,2 1,1 0,3 1,0 1,0 0,8 - Công cuộc đổi mới kinh tế ở nước ta thời gian qua đã thu được những kết quả bước đầu rất khả quan, tạo niềm tin trong dân chúng cũng như các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Nhưng nhiều người cũng lo sợ khả năng nền kinh tế Việt Nam sẽ rơi vào tình trạng thiểu phát và khó có thể thoát ra khỏi vòng xoáy này. Tính xác thực của nó là hết sức rõ ràng, được thể hiện thông qua các chỉ tiêu kinh tế giảm sút trong thời gian gần đây. Biểu đồ trên cho ta thấy tỉ lệ lạm phát thập kỉ 90 là luôn biến đổi với xu thế giảm dần nhưng đôi khi vẫn có sự tăng lên đáng kể. *Thời kì hai năm đầu 1990-1991. Nhìn lại thời kì 1990-1991 tái lạm phát, hai nhân tố trực tiếp có liên quan đến việc tăng đáng kể lạm phát hai chữ số (trên 60%/năm) là: ảnh hưởng có tính quyết định của thị trường quốc tế về sự thay đổi căn bản thị trường xuất nhập khẩu, quan hệ kinh tế đối ngoại. Do biến động chính trị ở Liên Xô (cũ) và các nước XHCN Đông âu, khu vực tập trung tuyệt đại bộ phận kim ngạch XNK của Việt Nam và cũng là khu vực cung ứng các nguồn tài chính chủ yếu cho Việt Nam gần như bị cắt đứt hoàn toàn. Hơn nữa, kim ngạch xuất khẩu qua khu vực I (đồng rúp) năm 1991 chỉ hơn 18% (so với năm 1986) và 10% (so với năm 1989), trong khi kim ngạch nhập khẩu tương ứng là 20% và 17%. Sự kiện chiến tranh vùng Vịnh làm cho giá xăng dầu tăng đột ngột, ảnh hưởng khá nặng nề đến lạm phát. ở Việt Nam, trong quý III-1990 giá xăng dầu được điều chỉnh và làm tăng giá điện cũng như giá một loạt hàng nhập khẩu. Các chỉ tiêu tài chính, tiền tệ cũng trực tiếp ảnh hưởng đến tình trạng lạm phát. Tuy chỉ tiêu tăng trưởng GDP và các bộ phận hợp thành nó trong năm 1990 và cả năm 1991 đều có tốc độ tăng khá cao nhưng do ảnh hưởng chủ yếu của những biến động trong quan hệ quốc tế đã làm thay đổi trong cán cân thương mại và cán cân thanh toán. *Thời kì hai năm tiếp theo 1992-1993. Đánh dấu một xu thế mới về diễn biến lạm phát ở Việt Nam. Trong giai đoạn này tốc độ tăng giá và lần đầu tiên xuất hiện lạm phát một con số (tháng 11/1993, tỉ lệ lạm phát là 0%). Những nhân tố tác động đến việc hạ thấp nhanh chỉ số lạm phát đó là: Kết quả của công cuộc đổi mới trong suốt 7 năm qua đã tạo ra những chuyển biến tích cực trong cơ cấu và cơ chế kinh tế theo hướng kinh tế thị trường, tạo động lực thúc đẩy tổng sản phẩm trong nước GDP tăng nhanh. Sự tăng trưởng GDP có xu hướng đáp ứng quỹ tiêu dùng và từ năm 1991 nền kinh tế bắt đầu có tích luỹ, đến năm 1993 đạt gần 10%. Điều này cho thấy đã có bước ngoặt trong lịch sử kinh tế Việt Nam, sản xuất nông nghiệp tăng mạnh, giải quyết được vấn đề lương thực. Cán cân thương mại được cải thiện rõ rệt, từ nhập siêu liên tục chuyển qua thời kì cân bằng (nhập siêu ở mức độ không đáng kể, kim ngạch XNK đạt trên 6 tỉ USD và bằng 118% tổng kim ngạch năm 1990, xấp xỉ bằng 140% năm 1991) Cán cân thanh toán bắt đầu có khả năng hoàn thành dự trữ ngoại tệ, làm cho quỹ điều hoà và điều hành tỉ giá hối đoái được chủ động. Các biện pháp hạn chế sự tăng quá mức của cầu đã đem lại những kết quả tức thời: hạn chế chi tiêu ngân sách, khơi tăng nguồn thu, giảm bội chi, hạn chế và tiến tới ngừng phát hành bù đắp thiếu hụt ngân sách. Từ năm 1990 đã bắt đầu thực hiện cuộc cải cách hệ thống ngân hàng theo hướng chuyển từ đơn cấp sang hai cấp. Chính sách lãi suất thực dương, chính sách một tỉ giá sát với tỉ giá thị trường, tỉ giá hối đoái thực tế và việc khắc phục lạm phát từ kênh tín dụng đã góp phần quan trong trong ổn định và phát triển kinh tế, chống lạm phát. Do kết quả chính sách đổi mới và mở cửa, hàng hoá nước ngoài vào Việt Nam ngày càng nhiều góp phần cân đối tiền-hàng. Dù Mĩ vẫn duy trì cấm vận nhưng luồng ngoại tệ từ xuất khẩu, đầu tư trực tiếp, dịch vụ, tín dụng, viện trợ và các kênh phi mậu dịch vẫn được đưa vào nước ta như một thứ hàng hoá có giá làm tăng khả năng đáp ứng của cung ứng đối với tiêu dùng. * Năm 1994, tiếp tục kiểm soát lạm phát đồng thời thực hiện nhiệm vụ cân bằng tăng trưởng kinh tế đi đôi với chuyển biến mạnh mẽ về ổn định và tăng cường quốc phòng, an ninh xã hội. * Năm 1995, lạm phát tiếp tục biến động và chủ yếu có xu hướng giảm, mức thấp nhất là 0% vào tháng 7. * Bắt đầu từ năm 1996, nền kinh tế có dấu hiệu giảm phát, cuối quý I giá cả giảm liên tục và chuyển sang âm. Đến quý IV giá mới nhích lên do được điều chỉnh mức tăng của tổng phương tiện thanh toán. * Năm 1997, cơn bão khủng hoảng tài chính-tiền tệ châu á đã cuốn các nước trong khu vực rơi vào vòng xoáy của nó. Việt Nam tuy không chịu tác động trực tiếp nhưng cũng bị ảnh hưởng ít nhiều. * Năm 1998, mức gia tăng lạm phát 9,2% gấp khoảng 2,5 lần năm 1997, chấm dứt thời kì thiểu phát tiền tệ kéo dài 2 năm (1996-1997). Sở dĩ lạm phát năm này tăng mạnh là do biến động và gia tăng các yếu tố kích cầu của nền kinh tế, tuy phân tán, rời rạc và chưa nồng độ (liên quan đến bố trí cơ cấu đầu tư, chi tiêu ngân sách, giảm khung thuế tiêu thụ đặc biệt, tăng ưu đãi tín dụng, tạo việc làm, xoá đói giảm nghèo...) cũng bắt đầu phát huy tác dụng. * Năm 1999, lạm phát là 0,1% - đây là năm lạm phát thấp chưa từng thấy từ trước tới nay. Các nhà kinh tế đã ví lạm phát nhẹ đối với nền kinh tế giống như “chất nhờn” giúp cỗ máy không bị hoen rỉ và hoạt động êm ả hơn. Tiền tệ cung ứng nhiều hơn so với khối lượng hàng hoá tăng lên trong năm là nguyên nhân của lạm phát vừa phải, giúp nền kinh tế ổn định và GDP tăng trưởng nhanh. * Dự tính năm 2000 này tỉ lệ lạm phát ở nước ta sẽ được kiểm soát ở mức 6% , tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức 5,5-6%. Trong khoảng 10 năm qua, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu trong kiểm soát lạm phát nhưng lại có ít kinh nghiệm trong chống thiểu phát. Một số nguyên nhân tạo nên lạm phát thấp trong năm 1999, đặc biệt thiểu phát ở 8 tháng cuối năm: Thiểu phát đã được báo trước. Theo báo cáo thường niên năm 1998 của NHNN Việt Nam, khối lượng tiền cung ứng năm 1998 tăng 23,9% so với năm 1997 nhưng thấp hơn số tiền cung ứng năm 1996 là 2,2%. Cũng theo báo cáo, khối lượng tiền mặt trong lưu thông tăng 7,4% so với năm 1997 nhưng con số tăng thấp nhất so với nhiều năm trước đó. Cuối năm 1998, tiền mặt trong lưu thông chiếm tỉ trọng 26,6% tổng phương tiện thanh toán, giảm 4,2% so với năm 1997. Trong khi thanh toán qua ngân hàng giữa nhân dân với doanh nghiệp, với Nhà nước hoặc ngược lại hầu như không đáng kể, tiền gửi tiết kiệm có kì hạn tại các NHTM chiếm tỉ trọng 50,6% tổng phương tiện thanh toán, tăng 9,2% so với năm 1997. Đó là những dấu hiệu cảnh báo thiểu phát sẽ đến trong năm 1999. Vai trò của ngân hàng chống thiểu phát trong 8 tháng liên tục là không nhạy bén. Việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ như hạ lãi suất cho vay, giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc đối với NHTM, hạ lãi suất tái cấp vốn... chỉ được thực hiện trong 6 tháng cuối năm. Biểu đồ lạm phát năm 1999tỉ lệ % T 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Tóm lại, năm 1999 là năm mà thực trạng lạm phát Việt Nam được quan tâm nhiều nhất vì đã xuất hiện những hiện tượng ít thấy từ trước tới nay. Khi nhìn nhận vấn đề này đã có nhiều quan điểm tiếp cận theo từng góc độ khác nhau, nhưng tất cả chúng ta đều thấy rằng lạm phát trong 11 tháng đầu năm 1999 chỉ đạt mức -0,4%, trung bình mỗi tháng khoảng 0,036%. So với cùng kì các năm từ năm 1990 trở lại thì con số này là đáng khích lệ, vậy giảm phát có phải là một lợi thế kinh tế ? Nhìn nhận vấn đề ở góc độ mang tính học thuật và tích cực hơn, thì hiện tượng lạm phát thấp như vậy chưa hẳn là điểm xấu, mà trên thực tế đã và đang là những cơ hội lớn nhằm tiến hành các giải pháp điều chỉnh chính sách chiến lược về điều hành kinh tế vĩ mô. Tỉ lệ lạm phát trong thập kỉ 90 tỉ lệ % Trước hết, lạm phát thấp gần như là điều kiện cơ bản nhất mang lại cơ hội giảm dần lãi suất tiền gửi và tiền vay, để một mặt vừa phù hợp với thông lệ quốc tế, mặt khác trả lại cho lãi suất chức năng quan trọng nhất là công cụ hỗ trợ tăng trưởng. Tất nhiên không thể suy luận vấn đề một cách đơn giản theo kiểu giảm phát bao nhiêu thì điều chỉnh lãi suất bấy nhiêu bởi lãi suất là một biến số cực kì phức tạp và NHTƯ phải có trách nhiệm tính toán nhiều khía cạnh trong mối tương quan đồng bộ với trình độ phát triển của nền kinh tế để công bố một mức lãi suất phù hợp. Nhớ lại đầu thập niên 90, trong giai đoạn siêu lạm phát với chỉ số giá có lúc vượt quá hai con số, lãi suất tiền gửi tiết kiệm đạt mức kỉ lục 13%/tháng (tức 156%/năm) còn lãi suất tiền vay xấp xỉ 15%/tháng (180%/năm) thì chúng ta mới thấy được tác hại do lạm phát gây ra dường như quá sức chịu đựng của nền kinh tế. Qua nhiều lần điều chỉnh, lãi suất tiền gửi hiện nay vào khoảng 0,5%/tháng (6%/năm) và lãi suất tiền vay là 0,9%/tháng (10,8%/năm), so với một số ngoại tệ mạnh trên thế giới thì lãi suất ở nước ta vẫn còn khá cao, tuy nhiên trong khu vực thì mức này là vừa phải. Điều này cho phép chúng ta có cơ sở để kết luận rằng nền tài chính-tiền tệ Việt Nam đang bước vào giai đoạn thay đổi mang tính bước ngoặt, và từ nền tảng này chúng ta sẽ tự tin hơn khi hội nhập với thế giới. III.Các chỉ số đo lường lạm phát 1. Chỉ số Tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Nền kinh tế thị trường của ta hiện nay đang có những chuyển biến theo xu hướng tốt. Thập kỉ 90 ở nước ta, công cuộc đổi mới nền kinh tế theo cơ chế thị trường có sự quản lí vĩ mô của Nhà nước đã đạt được nhịp độ tăng trưởng tương đối đều và bắt đầu có tích luỹ, đầu tư được mở rộng, sản xuất lưu thông phát triển. Chỉ số này đo lường mức giá bình quân của tất cả các hàng hoá, dịch vụ tạo nên tổng sản phẩm quốc nội. Nó được xác định theo công thức sau: GDP danh nghĩa Chỉ số giảm phát GDP = ------------------------ GDP thực tế Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) từ 1990-1999 Năm Tốc độ tăng GDP (%) 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 5,10 5.96 8,65 8,07 8,83 9,54 9,34 8,15 5,80 5,00 Tham khảo những con số trên chúng ta thấy vào thời kì 1990-1996, nhờ chính sách mở cửa mà sức lao động được giải phóng, kinh tế nước ta đã tăng trưởng với tốc độ khá cao. Nhưng khi quy mô kinh tế lớn dần, sự tăng trưởng có chiều rộng bắt đầu có sự hạn chế và những yếu kém bộc lộ rõ nét, thêm vào đó là cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ châu á năm 1997 đã cuốn nhiều nước trong khu vực vào vòng xoáy của nó. Việt Nam tuy không trực tiếp bị ảnh hưởng song do có quan hệ thương mại, mậu dịch, đầu tư với các nước bị khủng hoảng nên cũng phải chịu sức ép không nhỏ, tốc độ tăng trưởng có dấu hiệu chững lại. Nếu năm 1997 tốc độ tăng trưởng đạt tới 8,15% thì đến quý I năm 1999 chỉ còn 4% và cả năm 1999 là khoảng 5%. Vì thế nhiều người cho rằng quý I năm 1999 nói riêng và cả năm nói chung là đáy của sự giảm tốc độ tăng trưởng. Tác động của cuộc khủng hoảng đã đưa đến những tổn thất cho nền kinh tế trên các mặt: Nguồn vốn đầu tư nước ngoài giảm sút gây ra sự hẫng hụt lớn trong đầu tư phát triển. Thu nhập, sức mua của người dân giảm dẫn đến sức tiêu thụ hàng hoá trên thị trường giảm, làm cho các nhà sản xuất và cung ứng dịch vụ gặp rất nhiều khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm. Nền kinh tế từ chỗ luôn phải đối phó với tình trạng lạm phát thì nay phải đề phòng nạn giảm phát. Thu nhập của đại bộ phận dân cư trong năm không tăng, nạn thất nghiệp tràn lan. Sức sản xuất trong nước vốn đã yếu đuối lại càng đình trệ dưới sức ép của hàng giả, hàng trốn lậu thuế... Một số doanh nghiệp kinh doanh không có hiệu quả, làm ăn thua lỗ nhưng vẫn được nhà nước cho giảm thuế, khoanh nợ hay xoá nợ. Lượng hàng hoá của các doanh nghiệp này tung vào thị trường chỉ làm tăng thêm tổng cung. Trong khi đó thu nhập của người lao động giảm khiến khoảng chênh lệch giữa khối lượng hàng hoá và nhu cầu có khả năng thanh toán ngày càng lớn. Nước ta đang đứng trước ngưỡng cửa của kỉ nguyên tăng trưởng, giải quyết tốt mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng là một vấn đề hết sức quan trọng. Việc điểm lại cách nghiên cứu và kinh nghiệm của nước ngoài cùng những đánh giá trên giúp cho chúng ta nhìn nhận vấn đề một cách sáng tỏ hơn. Trước hết, phải khảng định rằng tăng trưởng và lạm phát là hai trọng số kinh tế không những Chính phủ mà cả người dân đều quan tâm. Tăng trưởng cao, lạm phát thấp là điều mà bất kì ai trong chúng ta đèu mong muốn. Dễ thấy rằng tăng trưởng cao sẽ dẫn đến tăng tổng cầu trong ngắn hạn, trong khi tổng cung chưa kịp biến đổi cho phù hợp vì các yếu tố sản xuất chưa phát huy tác dụng, cho nên nếu các chính sách của Chính phủ không đủ mạnh thì lạm phát xảy ra là tất yếu. Tuy nhiên trong dài hạn, khi chiến lược tăng trưởng thành công thì việc tăng sản lượng tiềm năng sẽ giúp một phần vào kiềm chế lạm phát. Bởi vậy trong dài hạn, chúng ta cần đặt mục tiêu kiềm chế lạm phát ở mức bình quân, thấp hơn tỉ lệ tăng trưởng. Nừu tốc độ tăng trưởng bình quân là 10-12% thì lạm phát cần phải ở mức dưới 10%. Chỉ với tỉ lệ như vậy mới huy động được tiết kiệm từ nội bộ nềnkinh tế, mới khuyến khích được đầu tư và đảm bảo thành quả của tăng trưởng. Tuy nhiên trong ngắn hạn, do xuất phát điểm của ta còn thấp thì lạm phát có thể sẽ vượt tốc độ tăng trưởng. Vì vậy để lạm phát không tuột khỏi tầm kiểm soát của Nhà nước thì trong quá trình điều hành kinh tế cần đặc biệt chú ý đến các biện pháp hạn chế lạm phát do tăng trưởng gây nên. Ví dụ như chiến lược xuất khẩu cần đi kèm với nhập khẩu để làm giảm bớt tổng cầu, chiến lược đầu tư với tiết kiệm để giảm tiêu dùng... Tóm lại, mối quan hệ giữa tăng trưởng và lạm phát không rõ ràng và thiếu ổn định. Chính vì vậy trong điều hành chính sách kinh tế vĩ mô cần phải linh hoạt mới đạt được mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đề ra là tăng trưởng nhanh và ổn định. 2. Chỉ số lãi suất. Những năm 90 trôi qua với nhiều dấu hiệu đáng mừng như tỉ lệ lạm phát một chữ số, tốc độ tăng trưởng bình quân 8,6%... đã trợ giúp đáng kể cho chính sách lãi suất phát huy được chức năng của mình là công cụ điều chỉnh có hiệu quả đối với sự phát triển nền kinh tế. Trong thời kì này, lãi suất trong nước là thực dương, chỉ trừ vài giai đoạn lãi suất thực âm do khâu điều hành bị buông lỏng. Theo quyết định số 39-1998-NHVN1 ngày 17/1/1998 quy định trần lãi suất cho vay của các NHTM ngắn hạn là 1,2%/tháng, trung và dài hạn là 1,25%/tháng với bảng sau: Tháng 1 2 3 4 5 Tỉ lệ lạm phát (%) 1,6 2,2 -0,8 1,6 1,4 Lãi suất cho vay ngắn hạn (%) 0,4 -1,2 -0,4 0,2 Lãi suất cho vay trung và dài hạn (%) 0,35 0,95 2,05 -0,35 -0,5 Như ta đã biết, lãi suất là nguồn sinh lợi chủ yếu của người có tiền và là khoản chi phí cho những ai cần tiền. Nhưng không phải tất cả những người có tiền đều gửi vào ngân hàng để nhận lãi suất và các nhà đầu tư đều muốn đi vay tiền để trả khoản lãi suất tiền vay. Muốn thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế thì phải tận dụng triệt để những nguồn vốn nhàn rỗi của dân chúng và kích thích các nhà đầu Diễn biến trần lãi suất cho vay bằng VNĐ năm 1993-1998 tỉ lệ % tư vay vốn, từ đó tạo nhiều công ăn việc làm, giảm tỉ lệ thất nghiệp, xoá đói giảm nghèo, tạo thêm phúc lợi xã hội... Điều này đòi hỏi phải có một chính sách lãi suất phù hợp với điều kiện của nền kinh tế nước nhà và phù hợp với các thành phần kinh tế trong xã hội. Năm 1999 trước nạn thiểu phát, tốc độ tăng trưởng chững lại, NHNN đã điều chỉnh lãi suất theo cơ chế lãi suất trần và linh hoạt theo xu hướng nới lỏng tiền tệ trên cơ sở bám sát các biến động kinh tế vĩ mô, cung - cầu vốn trên thị trường tiền tệ, giảm trần lãi suất cho vay đối với nền kinh tế nhằm thực hiện chỉ đạo của Chính phủ về giải pháp kích cầu. Từ đầu năm, NHNN đã chủ động thực hiện 5 lần điều chỉnh giảm lãi suất cho vay tối đa, nhờ đó trần lãi suất cho vay đã hạ từ mức 1,25%/tháng trong tháng 1/1999 xuống còn 0,85%/tháng sau ngày 25/10/1999; lãi suất cho vay tái cấp vốn giảm 1,1%/tháng xuống 0,5%/tháng vào thời điểm 1/11/1999. Riêng lãi suất cho vay của các quỹ Tín dụng nhân dân và HTX Tín dụng vẫn giữ mức 1,5%/tháng. Bên cạnh đó, các tổ chức Tín dụng cũng giảm lãi suất tiền gửi xuống, loại không kì hạn khoảng 0,1-0,15%/tháng và loại có kì hạn là 0,5-0,55%/tháng. Thực trạng lạm phát năm 1999 đã ảnh hưởng rất lớn tới các chính sách lãi suất - một bộ phận của chính sách tiền tệ trong nền kinh tế. Chính sách điều hành lãi suất của NHNN từ trước tới nay chủ yếu là khống chế trần lãi suất, nghĩa là giới hạn các NHTM không được cho vay với lãi suất vượt quá mức hạn định. Biện pháp này nhằm bảo vệ người đi vay không bị ép bởi các ngân hàng. Nhưng chính sách trần lãi suất chỉ thích hợp trong trường hợp: Nhu cầu tín dụng lớn hơn cung tín dụng. Ngân hàng hoạt động trong môi trường độc quyền. Trong điều kiện như vậy, ngân hàng luôn cho vay với mức lãi suất tối đa, không quan tâm nhiều đến việc tiết kiệm chi phí và thái độ phục vụ khách hàng. Tuy nhiên tình hình năm 1999 (đặc biệt là các tháng cuối năm) điều kiện thị trường tín dụng đã có nhiều thay đổi. Nhu cầu vay vốn thu hẹp lại, các NHTM ứ đọng vốn, xuất hiện tính thiếu ổn định ở người đi vay theo quy luật thị trường. Khách hàng vay vốn giảm đi, các tổ chức Tín dụng lại gia tăng về số lượng dẫn đến cạnh tranh quyết liệt. Tính quyết liệt ngày càng trở nên gay gắt hơn trong điều kiện thị trường tiền tệ chưa phát triển, các loại dịch vụ còn đơn giản, lợi nhuận ngân hàng hầu hết là do hoạt động cho vay mang lại. Muốn cạnh tranh và tồn tại chỉ còn cách là hạ lãi suất, và như vậy thì xem ra chính sách điều hành bằng trần lãi suất không còn thích hợp nữa. 3. Chỉ số giá hàng tiêu dùng và dịch vụ (CPI). Thập kỉ vừa qua chúng ta đã thành công trong kiềm chế lạm phát và đạt được mức tăng trưởng đáng mừng. Nhưng để nhận biết rõ về thực trạng lạm phát thì việc nghiên cứu tình hình biến động của giá cả hàng tiêu dùng và dịch vụ cũng là rất quan trọng, bởi ở một góc độ nào đó thì “lạm phát là sự tăng lên của mức giá chung”. Chỉ số CPI từ năm 1990 đến năm 1998 (năm trước = 100) Năm 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 CPI 167,1 167,5 117,5 105,2 114,4 127 45 36 92 Qua biểu trên ta thấy chỉ số giá tương đối ổn định qua các năm 1990-1995, những thành tựu này là do nhà nước ta đã áp dụng các biện pháp kinh tế vĩ mô đồng bộ tác động vào thị trường để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, các nhà đầu tư thực hiện các hợp đồng kinh doanh và tính toán hiệu quả hoạt động và bảo đảm lợi ích của mình. Điều đáng lưu ý trong năm 1999 là từ tháng 3 đến tháng 10 chỉ số giá hàng tiêu dùng và dịch vụ liên tục giảm, tháng 11 tăng không đáng kể nên nhìn chung chỉ số trượt giá và lạm phát 11 tháng đầu năm là giảm 0,4%. Giá cả thị trường ổn định và ngày càng giảm là mong muốn của người tiêu dùng. Nhưng ngược lại, đối với người sản xuất thì đây lại là một điều đáng lo vì trong mọi chu kì sản xuất bất kể lớn nhỏ, chi phí sản xuất là phải bỏ ra trước, sau đó mới tiêu thụ để thu hồi vốn và lãi sau. Do đó nếu giá thị trường hạ thì người sản xuất sẽ thu về được ít tiền hơn, lợi nhuận của họ ít hơn, chu kì sản xuất sau sẽ phải cầm chừng. Vậy khi giá cả cứ liên tục giảm trong thời gian dài thì điều gì sẽ xảy đến? Tất yếu là sẽ có hàng loạt các cơ sở sản xuất bị đình đốn và có thể bị phá sản... Giá cả thị trường là chiếc hàn thử biểu kinh tế quan trọng. Nếu giá cả luôn giữ ở thế ổn định là sự biểu hiện của một nền kinh tế đang phát triển bình thường, lành mạnh. Ngược lại, nếu giá cả luôn biến động và tăng cao (lên cơn sốt) chứng tỏ nền kinh tế đang có sự mất cân đối. Tuy nhiên giá cả thị trường lại liên tục giảm xuống thì đó cũng là điều đáng lo ngại. Trên phương diện nào đó, có thể coi nền kinh tế như cơ thể của một con người, việc bị sốt dù nóng hay lạnh đều là sự biều hiện của trạng thái không bình thường và chứng tỏ là có một con bệnh đang ngự trị trong cơ thể đó. Do vậy, đứng trên góc độ chung của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, khi giá cả thị trường liên tục giảm xuống chưa chắc đã là điều đáng mừng mà có khi lại là điều đáng lo hơn. Hiện tượng giảm giá liên tục ở một số mặt hàng như mía, đường, giấy viết, xi măng, sắt thép... đã làm cho nhiều cơ sở sản xuất điêu đứng vì sản phẩm sản xuất ra không tiêu thụ được, càng ứ đọng, càng lỗ vốn. Nhiều nhà máy, xí nghiệp sản suất mía đường... phải thu hẹp sản xuất, sản suất cầm chừng để duy trì, cho công nhân nghỉ không lương. Đây cũng là vấn đề cần được các cấp, các ngành quan tâm nghiên cứu để có biện pháp khắc phục hữu hiệu, tạo điều kiện cho các ngành kinh tế tiếp tục phát triển trong cơ chế thị trường. IV. Một số giảI pháp kiềm chế lạm phát. Từ kinh nghiệm thực tế những năm gần đây, Chính phủ đã có những biện pháp chỉ đạo đúng đắn, các tổ chức ngân hàng, tài chính được chấn chỉnh. Nhưng chúng ta cần luôn luôn tỉnh táo trong vấn đề chống lạm phát, tiến thêm một bước thực hiện đồng bộ một hệ thống giảI pháp cho cả trước mắt và lâu dài. Những giải pháp đó là: Điều chỉnh cơ cấu sản xuất và tiêu dùng. Điều chỉnh lại cơ cấu sản xuất, cơ cấu đầu tư, đặc biệt chú ý nâng tỉ lệ đầu tư trong nông nghiệp. Ưu tiên phát triển ngành nghề cần ít vốn nhưng thu hút nhiều lao động (may mặc, dệt, thủ công mĩ nghệ...). Đặc biệt chú trọng đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng như giao thông vận tải và thông tin liên lạc, tạo điều kiện thu hút vốn nước ngoài. Sắp xếp lại kinh tế quốc doanh theo hướng thu hẹp những cơ sở không cần thiết, cho phép phá sản. Rà soát lại các công ti, các tổ chức liên doanh liên kết thuộc tổ chức Nhà nước, chuyển các công ti, tổ chức này sang hình thức kinh tế cổ phần, doanh nghiệp tập thể, tư nhan chịu sự quản lí của Nhà nước. Điều chỉnh cơ cấu tiêu dùng cho phù hợp với sự thay đổi cơ cấu thu nhập quốc dân, tiến tới hình thành chiến lược tiêu dùng. Phấn đấu giảm mức thâm hụt ngân sách. Bộ Tài chính cần thông báo chính xác mức chênh lệch thu chi ngân sách. Tách các khoản vay của Nhà nước ra khỏi ngân sách và chuyển thành nguồn vốn đi vay. Nếu ngân sách đi vay thì cũng phải trả lãi. Ngân sách có 4 nguồn thu (huy động trong nước, vay nước ngoài, vay trong dân, vay ngân hàng). 2.1. Huy động vốn trong nước: Tăng thu: chủ yếu là thu thuế. Thực hiện thuế VAT, thuế vốn, thuề thu nhập... Khai thác, bồi dưỡng các nguồn thu khác. Hình thành bộ máy chống thất thu thuế, tạo mọi điều kiện để bộ máy này hoạt động có hiệu quả. Kiểm kê tài sản, ấn định giá đất, giá nhà để bán và cho thuê, tăng nguồn thu cho ngân sách. Giảm chi: rà soát lại các nguồn chi. Thực hiện chính sách chi tiêu nghiêm ngặt. Có thể cắt giảm một tỉ lệ nhất định các khoản chi tiêu chưa thật cần thiết của các cơ quan Nhà nước, cơ quan Đảng và đoàn thể. Đồng thời có biện pháp dự phòng nhằm đối phó với những khoản chi tiêu đột biến dẫn đến tái lạm phát. Hạn chế tới mức thấp nhất việc cung cấp tài chính cho các xí nghiệp quốc doanh, các công ti Nhà nước. Chấm dứt hoàn toàn việc phát hành tiền để cứu vớt các xí nghiệp quốc doanh làm ăn thua lỗ, cũng như xoá bỏ bao cấp cho các xí nghiệp quốc doanh dưới bất kì hình thức nào (trừ các xí nghiệp then chốt giữ vai trò quan trọngcủa nền kinh tế thì được Nhà nước áp dụng các chính sách trợ giá và chính sách đầu tư thoả đáng để ổn định và phát triển sản xuất). Thực hiện chính sách triệt để tiết kiệm gắn liền với chống tham ô, lãng phí ngay từ các cơ quan Nhà nước. 2.2. Vay vốn trong dân: Theo các tài liệu thì tiềm năng vốn trong dân còn khá lớn. Nhà nước cần có chính sách khuyến khích thoả đáng để tạo lòng tin cho dân, thu hút vốn nhàn rỗi. Đây là nguồn lực lớn cần khai thác. Vay dân và trả lãi cho dân là điều dễ làm hơn là vay nước ngoài. Sửa đổi hệ thống ngân hàng. Tăng cường chức năng quản lí vi mô của Ngân hàng Nhà nước, trước hết là sử dụng có hiệu quả các công cụ như lãi suất, tỉ giá, kiểm soát chặt chẽ việc phát hành trái phiếu, công trái nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế của vốn tín dụng. Củng cố và thiết lập Ngân hàng Trung ương tách khỏi các ngân hàng chuyên doanh. Ngân hàng Trung ương không dính đến kinh doanh. Ngân hàng Trung ương sẽ quy định giới hạn lãi suất và quyền điều chỉnh lãi suất khi có lạm phát. Ngân hàng Trung ương quản lí điều tiết các ngân hàng chuyên doanh bằng pháp luật. Cho các ngân hàng chuyên doanh tự do hoạt động và mở rộng phạm vi cho vay. Mở cửa cho ngân hàng nước ngoài vào hoạt động trong phạm vi kiểm soát của Nhà nước. Hàng tuần và hàng tháng các ngân hàng chuyên doanh phải báo cáo với Ngân hàng Trung ương về tình hình hoạt động, Ngân hàng Trung ương chỉ đạo việc tăng, hạ lãi suất hoặc đình chỉ cho vay. Việc quy định mức lãi suất phải căn cứ vào nhu cầu vốn. Vấn đề quan trọng nhất hiện nay là Ngân hàng Nhà nước phải giúp đỡ Chính phủ tăng cường khả năng dự trữ (dưới nhiều hình thức) vàng và ngoại tệ, để khi cần thiết có thể tung ra ngăn chặn những cơn sốt đột biến. Đồng thời có biện pháp kiềm chế không cho giá vàng và đôla hạ xuống dưới mức cần thiết gây khó khăn cho xuất nhập khẩu. Chấn chỉnh hệ thống tài chính. Thực hiện nhất quấn chính sách tạo vốn của ngân sách là phải dựa trên cơ sở bồi dưỡng và phát triển các nguồn thu, đồng thời thực hiện phân phối hợp lí các nguồn thu. Xoá bỏ thói quen dựa vào phát hành để chi tiêu ngân sách. Nếu ngân sách thiếu hụt thì phải dùng nguồn vốn vay để bù đắp. Ngân sách Nhà nước có thể chia thành hai quỹ tích luỹ và tiêu dùng. Phần dành cho tích luỹ được quản lí theo cơ chế vốn, thực hiện đầu tư có trọng điểm. Phần dành cho tiêu dùng thì quản lí theo đơn vị dự toán từ Trung ương đến tỉnh và cơ sở. Phân cấp ngân sách phải tuân theo nguyên tắc chủ yếu là vào nguồn thu. Trước mắt, cần hoàn thiện hệ thống thuế và chỉnh đốn lại đội ngũ những người làm công tác thuế. Về giá cả. Ta đã phát triển kinh tế thị trường, do đó cần để cho thị trường định giá. Nhà nước chỉ khống chế mặt bằng giá một vài mặt hàng thiết yếu. Trong những trường hợp nhất định, nâng giá là cần thiết, vì đây là một thứ thuế vô hình đánh vào mọi người. Vấn đề là phải chú ý để việc nâng giá khỏi ảnh hưởng tới việc đảm bảo mức sống cơ bản của người lao động. Đặc biệt chú ý mối quan hệ giữa giá tư liệu sản xuất và giá nông sản. Tăng sức mua cho nông dân cũng là một biện pháp kích thích sản xuất nông nghiệp phát triển. Cải tiến chế độ tiền lương. Nếu chế độ tiền lương không được cải tiến một cách cơ bản thì mọi cái đặt ra đều không có ý nghĩa. Nếu cứ để chế độ tiền lương như hiện nay thì không thể siết chặt kỉ luật, kỉ cương và thực hiện chống tham nhũng có kết quả, không thể xây dựng được một phong cách làm ăn mới và chân chính, và cũng không thể thiết lập được một chế độ hưởng thụ công bằng. Vì vậy cần cải tiến chế độ tiền lương một cách mạnh bạo, khẩn trương và ít nhất phải bảo đảm cho được yêu cầu về tái sản xuất giản đơn sức lao động. Gắn liền cải tiến chế độ tiền lương với giải quyết việc làm. Xuất nhập khẩu. Chúng ta nói xoá bỏ độc quyền nhưng phải bảo đảm sự thống nhất quản lí về xuất nhập khẩu. Chấm dứt tình trạng xuất nhập khẩu lộn xộn. Nhà nước cần có chính sách khuyến khích xuất khẩu, đồng thời đánh thuế mạnh những mặt hàng nhập khẩu trong nước đã có, khuyến khích nhập những mặt hàng trong nước chưa có hoặc còn thiếu. Trên lĩnh vực xuất nhập khẩu, nhà nước cần có biện pháp kiên quyết hơn để ngăn chặn tình trạng nhập và xuất lậu những mặt hàng bị cấm. Còn đối với các mặt hàng khác thì Nhà nước cần cho tự do lưu thông, không nên cấm đoán mà dùng hàng rào thuế quan để điều tiết. 8. Gấp rút xây dựng và sửa đổi, hoàn thiện hệ thống luật và lưới luật, phù hợp với nền kinh tế hàng hoá nhiều thành ophần chuyển sang nền kinh tế thị trường, bảo đảm quyền tựdo kinh doanh, quyền sở hữu và chuyển nhượng tàI sản của công dân. 9. Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lí theo hướng chuyển hẳn sang kinh tế thị trường, thực hiện tự do kinh doanh có sự quản lí của Nhà nước, tạo lập thị trường vốn, lao động, vật tư... trong nước gắn liền với mở rộng thị trường ra nước ngoài. 10. Tổ chức lại bộ máy quản lí Nhà nước và nâng cao trình độ quản lí cho phù hợp với yêu cầu mới. Phân rõ chức năng quản lí Nhà nước về kinh tế với chức năng sản xuất kinh doanh của xí nghiệp ; ngăn cấm các cơ quan Nhà nước can thiệp trực tiếp vào sản xuất kinh doanh của xí nghiệp và đơn vị kinh tế. Bộ chủ quản quản lí chủ yếu bằng pháp luật, bằng việc vạch ra hành lang pháp lí cho hoạt động kinh doanh. Xử lí nghiêm minh các cơ quan Nhà nước và cán bộ vi phạm pháp luật, tham ô, lãng phí của cải của nhân dân. Bất cứ một sai lầm dù là lớn hay nhỏ ở Bộ, ngành nào, thì thủ trưởng cơ quan đó phải chịu trách nhiệm trước nhân dân và pháp luật, không nên dùng hình thức cảnh cáo, thuyên chuyển công tác để bảo vệ và duy trì vị trí của những cán bộ bất tài, kém đạo đức. Trên cơ sở giải quyết cơ bản chế độ tiền lương, nghiêm cấm việc các cơ quan, tổ chức không có chức năng kinh doanh lại tiến hành kinh doanh dịch vụ và liện hệ với các tố chức kinh doanh nước ngoài làm hỗn loạn thị trường và làm mất trật tự, anh ninh đất nước. Vấn đề quan trọng là cần có biện pháp kiên quyết và sáng suốt trong sắp xếp bộ máy và bố trí cán bộ quản lí. Tinh giản bộ máy, lựa chọn những cán bộ thực sự có năng lực và phẩm chất để thực thi nhiệm vụ. kết luận Thập kỉ 90 đã qua nhưng những dư âm của nó vẫn còn là điều trăn trở, suy ngẫm của các nhà nghiên cứu kinh tế, bởi đó là thời kì đánh dấu sự chuyển mình của một đất nước trong công cuộc đổi mới, phát triển một cách toàn diện xã hội theo định hướng XHCN dưới sự quản lí, điều tiết vĩ mô của nhà nước. Điểm nổi bật và đáng chú ý nhất là cột mốc năm 1999 - chặng đường cuối cùng kết thúc một giai đoạn phát triển đầy thử thách, chông gai. Sự biến động kinh tế với những hiện tượng xưa nay chưa từng thấy như lạm phát một chữ số, thiểu phát, trượt giá... cùng với những hậu quả nặng nề do thiên tai để lại đã cản trở sức sản xuất trong nước và kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế yếu đuối. Nhưng qua những gì chúng ta thấy trên thực tế thì lại càng chứng tỏ sự nỗ lực vươn lên trong khó khăn của toàn dân ta dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Nhà nước, càng thấy rõ được vai trò của Chính phủ trong việc giải quyết đúng đắn các vấn đề kinh tế vĩ mô phù hợp với điều kiện, tình hình đất nước, đưa nền kinh tế Việt Nam đi lên hoà nhập với nền kinh tế thế giới. Một thập kỉ đã qua đi, chúng ta hướng đến tương lai với những bài học kinh nghiệm quý giá trong quá khứ để từng bước xây dựng đất nước công bằng, tiến bộ, văn minh, tươi đẹp hơn. Danh mục tàI liệu tham khảo Tạp chí cộng sản 1/1993. Báo cáo thường niên - Ngân hàng Nhà nước Việt Nam - 1997, 1998, 1999. Thời báo kinh tế Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính - F. S Miskin Giáo trình lưu thông tiền tệ - Học viện Ngân hàng Tạp chí lí luận và nghiệp vụ Ngân hàng Tạp chí Ngân hàng Thông tin khoa học Ngân hàng Mục lục Trang Lời dẫn. Nội dung. I. Khái quát về lạm phát. II. Thực trạng lạm phát ở Việt Nam thập kỉ 90. III. Các chỉ số đo lường lạm phát : 1. Chỉ số Tổng sản phẩm quốc nội (GDP). 2. Chỉ số lãi suất. 3. Chỉ số giá hàng tiêu dùng và dịch vụ (CPI). IV. Một số giảI pháp kiềm chế lạm phát. Kết luận Danh mục tàI liệu tham khảo Mục lục 1 3 5 11 13 16 17 23 24 25

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0849.doc
Tài liệu liên quan