Đề tài Mở rộng hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân Đội

Số lượng các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam gia tăng rất nhanh từ năm 2000 đến 2004 cả nước có gần 120.000 doanh nghiệp được thành lập, trong đó chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa. Cục phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng đặt ra mục tiêu từ nay đến năm 2010 sẽ có khoảng 320.000 doanh nghiệp nhỏ và vừa được thành lập, trong đó có khoảng 3-6% doanh nghiệp nhỏ và vừa trực tiếp tham gia xuất khẩu. Tuy nhiên, đại bộ phận các doanh nghiệp nhỏ và vừa có số lượng đầu tư ban đầu thấp, gần 50% số doanh nghiệp có mức vốn dưới 1 tỷ đồng, gần 75% số doanh nghiệp có mức vốn dưới 2 tỷ đồng và 90% doanh nghiệp có mức vốn dưới 5 tỷ đồng. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa còn gặp nhiều khó khăn về công nghệ, trình độ quản lý, khả năng tiếp cận thị trường Hậu quả của những hạn chế đó là năng suất, chất lượng sản phẩm cũng như hiệu quả đầu tư thấp. Hàng hóa của các doanh nghiệp không thể cạnh tranh trên thị trường, nhiều doanh nghiệp bị thua lỗ, phá sản. Khó khăn lớn nhất của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam là thiếu các chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô của Chính Phủ. Hệ thống chính sách, luật pháp và các tổ chức hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa chưa hoàn thiện. Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế đất nước, doanh nghiệp nhỏ và vừa có nhiều cơ hội để phát triển và rất cần đến sự hỗ trợ từ phía Nhà nước.

doc87 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1616 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mở rộng hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân Đội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tìm kiếm ở các phương tiện thông tin đại chúng, chất lượng nguồn thông tin chưa cao. Nguồn thông tin từ trung tâm thông tin tín dụng (CIC) chưa đảm bảo thông tin nhanh, kịp thời, chính xác, đôi khi nguồn thông tin chưa chính xác, hoặc không truy cập được thông tin. Khi phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp cũng như phương án, dự án đầu tư, Ngân hàng mới chỉ tiến hành đơn giản chủ yếu sử dụng biện pháp so sánh, phân tích các chỉ số đơn giản. Trong quá trình phân tích chưa có chỉ số của ngành, doanh nghiệp hoạt động cùng lĩnh vực tham chiếu. Đối với lĩnh vực hoạt động doanh nghiệp, đôi khi cán bộ tín dụng không hiểu biết cặn kẽ về cách thức hoạt động, hệ thống thiết bị cần thiết nhất là những doanh nghiệp sản xuất kinh doanh những mặt hàng đặc thù của ngành. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến quá trình kiểm tra, kiểm soát trong quá trình vay vốn cũng như chất lượng tín dụng của Ngân hàng. Ngân hàng Quân Đội chưa xây dựng được chiến lược marketing rõ ràng để tiếp thị, thu hút khách hàng. Hình thức tiếp thị khách hàng chủ yếu là trực tiếp tìm đến các doanh nghiệp giới thiệu về các sản phẩm, dịch vụ của Ngân hàng, do đó tốn nhiều thời gian và chi phí, còn có sự chồng chéo giữa các chi nhánh. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa, chưa tìm thấy được lợi ích gia tăng khi đến với các dịch vụ của Ngân hàng ngoài thái độ phục vụ nhiệt tình, niềm nở của cán bộ nhân viên. Các sản phẩn dịch vụ chưa có sự khác biệt so với các ngân hàng khác, lãi suất chưa hấp dẫn. Hệ thống công nghệ thông tin và mạng lưới chi nhánh chưa đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng. Hiện tại, công nghệ của Ngân hàng Quân Đội chưa theo kịp một số ngân hàng trong hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần như: Ngân hàng Kỹ Thương, Ngân hàng á Châu. Vấn đề công nghệ cũng bắt nguồn từ nguyên nhân sâu xa là nguồn vốn tự có của Ngân hàng Quân Đội còn thấp chưa đáp ứng được nguồn vốn cần thiết đầu tư đổi mới thiết bị, công nghệ hiện đại hóa ngân hàng. Những nguyên nhân từ phía doanh nghiệp nhỏ và vừa Các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam tuy đã có bước phát triển nhất định nhưng vẫn còn có nhiều hạn chế trong việc đảm bảo các yêu cầu vay vốn của ngân hàng.  Doanh nghiệp nhỏ và vừa có những hiểu biết về cơ chế tín dụng của ngân hàng thương mại rất hạn chế, họ không hiểu rõ những tính năng, tiện ích của sản phẩm dịch vụ cũng như cách thức tiếp cận và sử dụng các dịch vụ mà ngân hàng cung ứng. Tâm lý chung của các doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn sợ những thủ tục trong quy trình tín dụng của ngân hàng. Quy mô hoạt động cũng như hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhỏ và vừa chưa có tín nhiệm với ngân hàng trong việc sử dụng vốn và trả nợ đầy đủ. Doanh nghiệp nhỏ và vừa thường hoạt động với quy mô nhỏ bé, nguồn vốn tự có không cao, hạn chế đến khả năng tài chính trả nợ cho ngân hàng. Một số trường hợp, nguồn vốn vay của doanh nghiệp nhỏ và vừa thấp, các ngân hàng có tâm lý ngại cho vay vì tốn kém nhiều chi phí cho ngân hàng. Công tác hạch toán kế toán, lập báo cáo tài chính chưa được quan tâm đúng mức, chưa tuân thủ đúng các chuẩn mực, chế độ kế toán hầu như không có đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Các báo cáo tài chính được lập thiếu chính xác, không có các chứng từ làm căn cứ xác minh, gây khó khăn trong quá trình thẩm định. Số doanh nghiệp đáp ứng được yêu cầu 2 năm liền kề thời điểm xem xét cho vay có lãi rất ít. Đại bộ phận các doanh nghiệp nhỏ và vừa không có báo cáo lưu chuyển tiền tệ gây khó khăn cho ngân hàng trong việc xác định dòng tiền vào ra của doanh nghiệp để có kế hoạch thu gốc và lãi hợp lý. Quá trình lập phương án vay vốn cũng như dự án đầu tư còn sơ sài, thiếu căn cứ chưa thuyết phục được ngân hàng tài trợ. Nhiều phương án dự án có ý tưởng kinh doanh tốt nhưng không có được các hợp đồng đầu vào, đầu ra cụ thể, cũng như quá trình phân tích thị trường, dự báo doanh thu, chi phí trong tương lai, để Ngân hàng thẩm định. Một lý do rất quan trọng chiếm tỷ lệ lớn trong số các đơn xin vay của doanh nghiệp nhỏ và vừa là các doanh nghiệp không có tài sản đảm bảo phù hợp với yêu cầu của ngân hàng, phần lớn có giá trị nhỏ, tính thanh khoản không cao, không đảm bảo những điều kiện pháp lý. Phần lớn các doanh nghiệp nhỏ và vừa mới thành lập, chưa tạo lập được vị thế trên thị trường chủ yếu, chưa có nhiều thông tin để xác nhận hiệu quả kinh doanh, uy tín và ý chí khả năng trả nợ. Bên cạnh đó, đội ngũ lãnh đạo thiếu trình độ chuyên môn, năng lực và kinh nghiệm quản lý ảnh hưởng đến khả năng điều hành sản xuất kinh doanh, khả năng nhạy bén với những biến động của thị trường. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa ít sử dụng dịch vụ của Ngân hàng, chủ yếu vẫn sử dụng hình thức thanh toán bằng tiền mặt, trao tay do đó ngân hàng khó kiểm soát được mục đích sử dụng tiền vay, cũng như dòng tiền vào ra của doanh nghiệp. Nguyên nhân từ phía Nhà nước: Hiện nay Nhà nước đang có chủ trương khuyến khích các doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển, nhưng công tác quản lý đối với các doanh nghiệp này còn nhiều hạn chế. Tình trạng doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển tràn lan với số lượng tăng nhanh nhưng không hiệu quả. Số lượng các doanh nghiệp nhỏ và vừa thực sự hoạt động không nhiều như con số đăng ký. Trong khi hệ thống đăng ký doanh nghiệp hiện nay chưa cung cấp được thông tin đầy đủ, các thông tin mang tính chất chung chung, không cụ thể và không được cập nhật thường xuyên. Do đó, cơ quan quản lý không nắm được số lượng các doanh nghiệp đã ngừng hoạt động, và lý do ngừng hoạt động là gì. Chính sự phát triển quá nhanh về số lượng của doanh nghiệp nhỏ và vừa, trong khi bộ máy quản lý không kiểm soát được tình hình hoạt động của các doanh nghiệp. Dẫn đến nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ làm vỏ bọc cho các hoạt động phi pháp, lừa đảo, chiếm dụng vốn của ngân hàng... Hệ thống cung cấp thông tin về các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn quá ít, mang tính chất chung chung, không cụ thể và không được cập nhật thường xuyên. Quỹ bảo lãnh tín dụng đã có quyết định thành lập từ năm 2001, và sửa đổi bổ sung năm 2004 nhưng quá trình triển khai còn chậm có nhiều vướng mắc trong việc góp vốn. Nguồn vốn góp tối thiểu của Quỹ là 30 triệu đồng, nhưng các hiệp hội các doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng như các doanh nghiệp có năng lực vốn hạn chế, nguồn ngân sách địa phương eo hẹp. Các Ngân hàng thương mại cũng dè dặt trong việc góp vốn vì cho rằng việc thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng không có ý nghĩa thực tiễn và lo ngại về tính bền vững của Quỹ. Trong khi đó, thông tư 01/2006/TT-NHNN hướng dẫn về góp vốn thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa nhằm khuyến khích các tổ chức tín dụng sử dụng vốn điều lệ và quỹ dự trữ góp vốn thành lập Quỹ, mới được ban hành ngày 20/02/2006. Hệ thống văn bản pháp luật, cơ chế chính sách trong hoạt động tín dụng ngân hàng cũng như hoạt động của các doanh nghiệp nhỏ và vừa chưa đồng bộ, thiếu các văn bản hướng dẫn cụ thể. Đối với các văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp nhỏ và vừa chỉ mới có nghị định 90 của Chính phủ về khuyến khích hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, chỉ thị 27 về thúc đẩy phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, và một số văn bản liên quan đến thành lập quỹ tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa, hội đồng khuyến khích phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa. Các văn bản này mới chỉ nêu lên những định hướng chung, chứ chưa có những hướng dẫn cụ thể cho các bộ phận liên quan trong quá trình thực hiện. Các văn bản liên quan đến hoạt động tín dụng ngân hàng còn nhiều hạn chế, chưa phù hợp với tình hình thực tế. Theo các quy định hiện hành thì khi các doanh nghiệp sử dụng tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh rất khó khăn trong việc xử lý các thủ tục như: đăng ký quyền sở hữu tài sản, đăng ký giao dịch bảo đảm, xác định giá trị tài sản thế chấp nhất là bất động sản... Vấn đề trích lập và phân loại rủi ro chưa đảm bảo được tính an toàn cho ngân hàng, trích lập dự phòng mới chỉ dựa vào thời hạn tín dụng. Chương III: Giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Quân Đội 3.1 Định hướng hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa 3.1.1 Định hướng phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam Đại hội Đảng lần thứ VI đã xác định đường lối đổi mới toàn diện, trong đó trọng tâm là đổi mới kinh tế, đã tạo điều kiện cho sự ra đời của hàng loạt cơ sở sản xuất kinh doanh nhỏ và vừa, góp phần tăng trưởng kinh tế, giải quyết công ăn việc làm tăng thu nhập cho người lao động. Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa là một nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế- xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhà nước khuyến khích và tạo thuận lợi cho doanh nghiệp nhỏ và vừa phát huy tính chủ động sáng tạo, nâng cao năng lực quản lý, phát triển khoa học - công nghệ và nguồn nhân lực, mở rộng liên kết với các loại hình doanh nghiệp khác, tăng hiệu quả kinh doanh và khả năng cạnh tranh trên thị trường, phát triển sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm và nâng cao đời sống cho người lao động. Xác định được vai trò tầm quan trọng, thực tế và tiềm năng phát triển của doanh nghiệp nhỏ và vừa, Nhà nước đã có những chương trình trợ giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa theo từng thời kỳ tùy thuộc vào định hướng phát triển kinh tế xã hội, cũng như các ngành, địa phương cần khuyến khích. Thông qua những biện pháp tài chính, tín dụng Chính phủ trợ giúp các doanh nghiệp nhỏ và vừa đầu tư trong một khoảng thời gian nhất định, đặc biệt là những doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nghề truyền thống. Chính phủ cũng khuyến khích các tổ chức tài chính, các nguồn lực trong xã hội góp vốn đầu tư vào các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Doanh nghiệp nhỏ và vừa được tạo điều kiện thuận lợi có mặt bằng sản xuất phù hợp, khuyến khích xây dựng các khu, cụng công nghiệp, hưởng các chính sách ưu đãi trong việc thuê đất, chuyển nhượng, thế chấp và các quyền khác về sử dụng đất đai theo quy định của pháp luật. Chính phủ cũng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa: tiếp cận thông tin về thị trường, giá cả hàng hóa, mở rộng thị trường, tiêu thụ sản phẩm, thúc đẩy chuyển giao công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh. Các thông tin, tư vấn và đào tạo nguồn nhân lực đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng được Chính phủ quan tâm. Bên cạnh đó, Nhà nước khuyến khích doanh nghiệp nhỏ và vừa tăng cường xuất khẩu. Các chương trình trợ giúp xúc tiến xuất khẩu như trợ giúp một phần chi phí khảo sát, học tập, trao đổi hợp tác và tham dự hội chợ tìm hiểu thị trường nước ngoài, tham gia các chương trình xuất khẩu của Nhà nước. Chính phủ cũng quyết định thành lập các cơ quan thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về xúc tiến phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa: Cục phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, hội đồng khuyến phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, trung tâm hỗ trợ kỹ thuật doanh nghiệp nhỏ và vừa. Các tổ chức này có quyền hạn và nhiệm vụ cụ thể đáp ứng được yêu cầu đẩy mạnh hoạt động xúc tiến phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trong tình hình mới. Ngoài ra Nhà nước cũng xúc tiến doanh nghiệp nhỏ và vừa tại các địa phương, khuyến khích các tổ chức trợ giúp các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã xây dựng kế hoạch phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa giai đoạn 2006 - 2010, đây cũng là một bộ phận cấu thành của kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội 5 năm 2006 - 2010 của Chính Phủ. Trên cơ sở đó, Cục Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa đã xây dựng một kế hoạch hành động bao gồm các chương trình, biện pháp cụ thể, trong đó ưu tiên xóa bỏ những bất cập vướng mắc liên quan đến việc thành lập và hoạt động của doanh nghiệp và tạo môi trường thuận lợi cho sự lớn mạnh của khối doanh nghiệp nhỏ và vừa. Mục tiêu của kế hoạch này là đến năm 2010, các doanh nghiệp nhỏ và vừa sẽ có 500.000 doanh nghiệp nhỏ và vừa, tạo thêm khoảng 2,5 triệu chỗ làm mới, nâng cao khả năng cạnh tranh để tăng đóng góp cho GDP và tỉ lệ doanh nghiệp nhỏ và vừa trực tiếp tham gia xuất khẩu đạt từ 3 đến 6%. 3.1.2 Định hướng mở rộng hoạt động đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa của Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân Đội. Nhận thức được xu thế phát triển của các doanh nghiệp nhỏ và vừa, Ngân hàng Quân đội đã chủ động đẩy mạnh cho vay các doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc mọi thành phần kinh tế. Ngân hàng đã tăng cường hoạt động huy động vốn từ dân cư và các tổ chức trong và ngoài nước để hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Ngân hàng cũng tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tiếp cận được nguồn vốn thuận lợi với thủ tục cho vay đơn giản, hạn mức, lãi suất và thời hạn cho vay linh hoạt, phù hợp với nhu cầu của doanh nghiệp, thời gian xử lý hồ sơ nhanh. Bên cạnh đó Ngân hàng Quân đội cũng thường xuyên tham gia các diễn đàn, hội thảo để cung cấp các thông tin về sản phẩm, dịch vụ đến khách hàng với phương châm “Sự thành công của doanh nghiệp là niềm tự hào của Ngân hàng chúng tôi”. Ngân hàng cũng có các chính sách ưu đãi đối với doanh nghiệp có lịch sử quan hệ tốt và sử dụng thường xuyên các dịch vụ của Ngân hàng Quân đội. Trong chiến lược phát triển của Ngân hàng Quân Đội giai đoạn 2004-2008, với tầm nhìn phấn đấu trở thành một trong những ngân hàng Thương mại cổ phần hàng đầu Việt Nam trong các mảng thị trường đã lựa chọn tại các khu đô thị trọng điểm tập trung vào các lĩnh vực: Giữ vững và khai thác hiệu quả mảng thị trường các doanh nghiệp truyền thống. Phát triển một cách lựa chọn mảng thị trường các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tạo dựng một vị thế mạnh trong mảng thị trường tiêu dùng. Mở rộng hoạt động kinh doanh vốn và ngoại hối. Bắt đầu từ năm 2004 Ngân hàng Quân Đội đã triển khai hoạt động đổi mới theo chương trình tổng thể đã được Hội đồng quản trị phê duyệt về chiến lược phát triển, mô hình tổ chức, xây dựng cơ sở hạ tầng, quản trị rủi ro nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh. Trong thời gian tới Ngân hàng Quân Đội sẽ tiếp tục triển khai đề án đổi mới, tăng vốn điều lệ, mở rộng mạng lưới hoạt động, đầu tư phát triển nguồn nhân lực đạt trình độ chuyên nghiệp cao, hiện đại hóa công nghệ và phát triển thêm nhiều dịch vụ ngân hàng mới đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Chất lượng hoạt động của các tổ chức trong toàn hệ thống được hoàn thiện và nâng cao, hình thành các khối nghiệp vụ theo hướng quản lý tập trung, đảm bảo hiệu quả. 3.2 Giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng Quân Đội. 3.2.1 Một số giải pháp chủ yếu. 3.2.1.1 Xây dựng chính sách tín dụng phù hợp đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa. Doanh nghiệp nhỏ và vừa có nhu cầu tín dụng, khả năng sinh lời và mức độ rủi ro khác với doanh nghiệp lớn, đồng thời có được những chính sách hỗ trợ khuyến khích của Chính phủ về nhiều mặt. Mặt khác, dư nợ cho vay và số lượng doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm tỷ trọng ngày càng tăng trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Quân Đội. Do đó, Ngân hàng cần xây dựng chính sách tín dụng cụ thể phù hợp đối với loại hình doanh nghiệp này. Thứ nhất: Các ngân hàng thương mại ở nước ta đều có hướng tập trung phát triển mảng thị trường doanh nghiệp nhỏ và vừa, vì thế tính cạnh tranh trong mảng thị trường này ngày càng lớn. Ngân hàng Quân Đội cần mở rộng phạm vi tài trợ ra mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, trong đó ưu tiên những lĩnh vực có xu hướng phát triển tốt trên thị trường. Ngân hàng chủ động tìm kiếm những doanh nghiệp nhỏ và vừa đang hoạt động hiệu quả, phương án và dự án kinh doanh có tính khả thi, qua các mối quan hệ cá nhân, các hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa, các phương tiện thông tin... Khi tìm đến các doanh nghiệp nhỏ và vừa, phải nắm bắt rõ nhu cầu và mục đích kinh doanh, có những được chính sách marketing và chính sách ưu đãi phù hợp, thu hút được các doanh nghiệp quan tâm. Đối với các chi nhánh mới, khách hàng mục tiêu là doanh nghiệp nhỏ và vừa, thì hoạt động tiếp thị, tìm kiếm khách hàng càng quan trọng. Do đó, cán bộ ngân hàng phải có kế hoạch tiếp thị, gặp gỡ các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn thường xuyên, giới thiệu về các sản phẩm dịch vụ của Ngân hàng, tính cạnh tranh và các lợi ích đi kèm của sản phẩm dịch vụ đó. Đối với chi nhánh cũ, đã có số lượng khách hàng nhất định, cần tăng cường mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng thông qua các tiếp xúc, trao đổi những thông tin mà hai bên quan tâm. Qua đó, có những hiểu biết rõ hơn về doanh nghiệp, tình hình hoạt động kinh doanh, các nhu cầu mới phát sinh, những thuận lợi và khó khăn trong quá trình hoạt động để có được những giải pháp kịp thời giúp đỡ doanh nghiệp. Thứ hai: Ngân hàng nên có cơ chế lãi suất và phí suất tín dụng linh hoạt. Lãi suất tín dụng tại Ngân hàng Quân Đội chưa thực sự hấp dẫn đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Ngân hàng Quân Đội cần căn cứ vào đặc điểm của từng loại tín dụng, phân chia thành các loại lãi suất khác nhau đảm bảo tính cạnh tranh của lãi suất trên thị trường cũng như khả năng sinh lời. Tùy thuộc vào đối tượng khách hàng, đối tượng vay khác nhau, Ngân hàng có thể cho phép cán bộ tín dụng điều chỉnh lãi suất trong một giới hạn nhất định, và đưa ra những hình thức lãi suất khác nhau để khách hàng lựa chọn. Đối với doanh nghiệp có mối quan hệ lâu dài có uy tín và doanh nghiệp mới thiết lập quan hệ có thể dùng chính sách lãi suất ưu đãi để thu hút và duy trì quan hệ với Ngân hàng. Phí suất tín dụng tại Ngân hàng Quân Đội, chủ yếu là phí bảo lãnh. Phí bảo lãnh xác định dựa trên cơ sở chi phí cho bảo lãnh và mức rủi ro dự tính. Phí suất bảo lãnh cũng cần áp dụng linh hoạt cho từng loại bảo lãnh, từng đối tượng khách hàng. Thứ ba: Nhu cầu tín dụng trung và dài hạn của doanh nghiệp nhỏ và vừa ngày càng tăng cùng với nhu cầu đầu tư mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngân hàng Quân Đội cũng cần tăng cường tài trợ nhu cầu tín dụng trung và dài hạn đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Hằng năm, Ngân hàng cần xác định tỷ lệ dư nợ tín dụng trung và dài hạn nhất định trong tổng dư nợ tín dụng. Hiện nay, điều kiện thu hút nguồn trung và dài hạn còn gặp nhiều khó khăn, ảnh hưởng đến khả năng cho vay trung và dài hạn nói chung của các ngân hàng thương mại Việt Nam. Để đảm bảo nguồn cho vay trung và dài hạn thì Ngân hàng Quân Đội phải tăng cường huy động nguồn vốn trung và dài hạn từ các tổ chức, dân cư qua các chương trình huy động với lãi suất ưu đãi, lợi ích càng tăng khi kỳ hạn và nguồn tiền gửi càng cao. Để đảm bảo được tính thanh khoản và hạn chế rủi ro, Ngân hàng phải xác định kỳ hạn trả nợ hợp lý. Kỳ hạn trả nợ phải phù hợp với quá trình luân chuyển vốn của doanh nghiệp, lúc đó doanh nghiệp mới có khả năng trả nợ đúng hạn cho ngân hàng. Nếu kỳ hạn vay nhỏ hơn chu kỳ luân chuyển vốn thì khi đến hạn doanh nghiệp chưa có nguồn trả nợ, ảnh hưởng đến hoạt động ngân hàng. Trường hợp kỳ hạn dài hơn chu kỳ luân chuyển tạo điều kiện cho doanh nghiệp sử dụng vốn vay không đúng mục đích và không có nguồn trả nợ khi đến hạn. Thứ tư: áp dụng linh hoạt các quy định về tài sản đảm bảo. Không chỉ tập trung vào các bất động sản, hàng hóa trong kho mà có thể chấp nhận rộng hơn hợp đồng chi trả của người thứ ba, số dư bù, bảo lãnh của người thứ ba. Đối với những khách hàng đã xây dựng được thương hiệu mạnh, có vị thế trên thị trường thì Ngân hàng tăng cường cho vay tín chấp. Tỷ lệ phần trăm cho vay trên tài sản đảm bảo cũng thay đổi tùy thuộc vào tính thanh khoản, tính thị trường... nhưng cũng cần tính đến bản thân khách hàng về phương án sản xuất kinh doanh, dự án đầu tư, ý chí trả nợ. Khi tính toán giá trị tài sản đảm bảo, Ngân hàng áp dụng linh hoạt khung giá của Nhà nước, có sự điều chỉnh của giá cả thị trường phù hợp. Ngân hàng Quân Đội cũng xem xét đưa hợp đồng bảo hiểm nhân thọ vào danh mục tài sản đảm bảo. Các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ làm tài sản đảm bảo tiền vay có nhiều thuận lợi mà Ngân hàng cần khai thác. Hiện tại các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ rất phong phú, ngày càng phổ biến trên thị trường Việt Nam. Hầu hết các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ đều có giá trị xác định, Ngân hàng chỉ căn cứ giá trị hoàn lại của hợp đồng, không cần định giá khi nhận làm đảm bảo. Giá trị giải ước của hợp đồng bảo hiểm không những ổn định mà còn tăng thêm theo thời gian khác với những tài sản đảm bảo khác giá trị thường xuyên thay đổi, có thể suy giảm theo thời gian. Trong khi ngân hàng xử lý thu hồi nợ với các hợp đồng bảo hiểm khá đơn giản, chỉ cần giao nộp các hợp đồng gốc cho công ty bảo hiểm sẽ được nhận lại toàn bộ giá trị giải ước đã cam kết. Các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ phải được công ty bảo hiểm có uy tín phát hành, có giá trị giải ước, thuộc sở hữu của người vay, người có trách nhiệm đối với khoản vay hoặc người bảo lãnh. Với việc chấp nhận hợp đồng bảo hiểm nhân thọ làm giá trị tài sản đảm bảo rất phù hợp, thu hút và mở rộng các doanh nghiệp nhỏ và vừa nhất là đối với những doanh nghiệp thuộc sở hữu cá nhân tiếp cận vốn Ngân hàng, giúp Ngân hàng Quân Đội đa dạng hóa các loại tài sản đảm bảo, hạn chế rủi ro. Ngoài những giải pháp trên, Ngân hàng cần đơn giản hóa thủ tục cho vay và tăng thời gian xử lý hồ sơ. Khi doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn, cán bộ ngân hàng cần hướng dẫn cụ thể, chi tiết và đầy đủ các hồ sơ cần thiết, giảm thiểu thời gian và số lần giao dịch giữa doanh nghiệp và cán bộ ngân hàng. 3.2.1.2 Nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa. Trong hoạt động tín dụng, Ngân hàng Quân Đội đã xác định mở rộng tín dụng phải gắn liền với nâng cao chất lượng tín dụng. Để nâng cao chất lượng tín dụng, trước hết các bộ phận liên quan (bộ phận kinh doanh, bộ phận kế toán, bộ phận thẩm định, bộ phận quản lý tín dụng…) cần tuân thủ lưu đồ tác nghiệp tín dụng qua các bước: từ tiếp xúc khách hàng; thẩm định; trình duyệt hồ sơ vay vốn; lập đàm phán ký kết các hợp đồng; giải ngân; giám sát theo dõi khoản vay, thu nợ và xử lý các vấn đề phát sinh; tất toán khế ước, thanh lý hợp đồng, lưu giữ hồ sơ. Chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận: bán hàng, thẩm định, hỗ trợ bán hàng trong mô hình tín dụng sớm được tách biệt, rõ ràng hơn. Một trong những bước quan trọng nhất trong quy trình tín dụng ảnh hưởng lớn đến chất lượng tín dụng mà Ngân hàng Quân Đội cần quan tâm là bước thẩm định khách hàng. Thẩm định tình hình tài chính: Khi phân tích tình hình tài chính, cán bộ tín dụng phải xem xét tỉ mỉ và hệ thống các báo cáo tài chính ít nhất hai năm liên tục gần nhất kể từ thời điểm xin cấp tín dụng (trừ những khách hàng mới thành lập). Thông qua các báo cáo tài chính của khách hàng, Ngân hàng tiến hành tính toán các chỉ tiêu chủ yếu, phân tích các chỉ tiêu để đưa ra những nhận định cụ thể về tình hình tài chính. Để có được những kết luận chính xác về tình hình tài chính doanh nghiệp, Ngân hàng Quân Đội có thể sử dụng nhiều phương pháp khác nhau để phân tích: phương pháp so sánh, phương pháp Dupont, phương pháp tỉ lệ. Các chỉ tiêu phân tích chủ yếu vẫn là: khả năng thanh toán, khả năng cân đối vốn, khả năng hoạt động, khả năng sinh lãi... Cần có các chỉ tiêu của ngành, các doanh nghiệp hoạt động trong cùng lĩnh vực với doanh nghiệp vay vốn để làm cơ sở so sánh. Trong quá trình phân tích tài chính, tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể mà Ngân hàng chú trọng phân tích chỉ tiêu này hay chỉ tiêu khác để có những đánh giá chính xác nhất về tình hình tài chính. Chẳng hạn: Đối với khách hàng mới và khách hàng xin cấp hạn mức tín dụng thì phải phân tích đầy đủ các chỉ tiêu tài chính. Khi có hạn mức phê duyệt thường kỳ phải cập nhật tình hình tài chính đến thời điểm gần nhất với những thông tin thay đổi như doanh thu, lợi nhuận, nợ vay các ngân hàng tại thời điểm vay vốn… Đối với khách hàng đã có quan hệ tín dụng nhiều lần hoặc đang có hạn mức tín dụng thì những lần tiếp theo chủ cập nhật những chỉ tiêu về doanh thu, khoản phải thu, phải trả, hàng tồn kho và phân tích chi tiết các chỉ tiêu này phù hợp với phương án sản xuất kinh doanh Đối với những khách hàng vay theo món, có phương án kinh doanh khả thi, đầu vào, đầu ra rõ ràng, nguồn trả nợ kiểm soát được, tài sản đảm bảo chắc chắn và có tính thanh khoản thì không cần đi sâu phân tích tài chính mà chỉ cần giới thiệu sơ qua các chỉ tiêu này. Trong quá trình phân tích tài chính cần coi trọng đến vòng chu chuyển dòng tiền, vòng thu hồi vốn đầu tư. Trên cơ sở những phân tích cụ thể, cần đưa ra những sự báo và nhận định về rủi ro trong kinh doanh, rủi ro ngành, rủi ro có tính chu kỳ, mức độ phụ thuộc, cấu trúc chi phí, lợi nhuận thông qua đó đề ra những biện pháp giảm thiểu rủi ro. Thẩm định tài sản đảm bảo Tài sản đảm bảo được Ngân hàng nắm giữ nhằm hai mục tiêu: đảm bảo an toàn vốn cho Ngân hàng khi khách hàng không trả được nợ và tạo lợi thế tâm lý cho bên nhận tài trợ phải thanh toán khoản nợ để tránh khả năng mất tài sản. Khi thẩm định tài sản đảm bảo, cán bộ Ngân hàng phải xem xét tới các yếu tố: quyền sở hữu, tình trạng tài sản, giá trị tài sản, mức độ chuyên môn hóa tài sản, quyền pháp lý, số tiền bảo hiểm, vấn đề thuê mua và thế chấp chấp liên quan đến tài sản. Khi xác định giá tài sản đảm bảo Ngân hàng cần có những điều chỉnh linh hoạt dựa trên cơ sở khung giá Nhà nước và giá thị trường phù hợp với giá trị thực tế của tài sản đảm bảo. Đối với những đảm bảo dưới hình thức bảo lãnh của người thứ ba thì quan tâm đến năng lực pháp lý, tình hình tài chính, uy tín đối với Ngân hàng, trên thị trường và trong xã hội. Tài sản được thế chấp phải thường xuyên kiểm tra hiện trạng tài sản, đánh giá lại giá trị, trường hợp giá trị không đảm bảo thì yêu cầu doanh nghiệp bổ sung tài sản đảm bảo. Những tài sản cầm cố, khi thẩm định chú ý tới tác động của môi trường đến giá trị của chúng, nên lưu giữ trong kho có sự giám sát chặt chẽ của ngân hàng, hay một cơ quan độc lập bảo vệ lợi ích ngân hàng. Thẩm định dự án đầu tư Khả năng lập dự án đầu tư của các doanh nghiệp nhỏ và vừa còn có nhiều hạn chế, nhất là những doanh nghiệp mới. Do đó để dễ dàng trong việc thẩm định cán bộ Ngân hàng nên tư vấn hướng dẫn doanh nghiệp nhỏ và vừa lập dự án đầu tư chi tiết, đảm bảo những thông tin mà Ngân hàng cần. Trong quá trình thẩm định, Ngân hàng Quân Đội đã tiến hành thẩm định khá kỹ lưỡng về tính pháp lý, phương diện tài chính, và tính khả thi của dự án. Tuy nhiên, khi xem xét các dự án, Ngân hàng cần phân tích độ nhạy chỉ ra sự thay đổi của các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tài chính dự án khi một biến số thay đổi một lượng nhất định. Để đảm bảo thời gian và hiệu quả thẩm định, cán bộ thẩm định cần được chuyên môn hóa về những lĩnh vực nhất định, có trách nhiệm tìm hiểu, nghiên cứu sâu về lĩnh vực đó. Trong quá trình thực hiện dự án, tổ chức theo dõi tiến độ hoàn thành từng hạng mục đầu tư, quá trình nhập xuất vật tư hàng hóa thông qua các báo cáo định kỳ của doanh nghiệp vay vốn, và thông qua kiểm tra trực tiếp của cán bộ Ngân hàng. Để kiểm soát được mục đích sử dụng vốn vay, doanh nghiệp phải cam kết sử dụng hình thức các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt, khi thanh toán các hóa đơn, chứng từ với đối tác. Sau quyết định tài trợ cho doanh nghiệp, Ngân hàng Quân Đội hàng phải tăng cường các biện pháp kiểm soát tín dụng đặc biệt trong những trường hợp có sự thay đổi trong cơ cấu tổ chức, cán bộ quản lý của doanh nghiệp. Cán bộ tín dụng trực tiếp theo dõi thông tin doanh nghiệp, đánh giá định kỳ, hay bất thường những đặc tính quan trọng của mỗi khoản vay như: tình hình tài chính, dòng tiền vào ra, tình trạng và chất lượng khoản đảm bảo. Trường hợp có những thay đổi bất thường cần có những kiến nghị kịp thời để có biện pháp phòng ngừa và xử lý. 3.2.1.3 Phát triển nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng Nguồn nhân lực là một yếu tố quan trọng đối với bất kỳ doanh nghiệp nào. Trong hoạt động tín dụng, nhân lực đóng vai trò quan trọng, trực tiếp quyết định đến chất lượng tín dụng. Ngân hàng hoạt động có quan hệ với các doanh nghiệp thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, cán bộ tín dụng phải hiểu biết hoạt động của khách hàng mới tiến hành thẩm định và kiểm soát có hiệu quả. Do đó, cán bộ tín dụng luôn có ý thức tìm hiểu, nắm bắt những thông tin thực tế đảm bảo có hiểu biết nhất định về hoạt động kinh doanh của khách hàng. Thường xuyên cập nhật những thông tin về tình hình kinh tế chính trị, thị trường có liên quan đến lĩnh vực thực hiện. Mỗi cán bộ tín dụng nên được phân công chịu trách nhiệm về một nhóm khách hàng nhất định, hoạt động trong những lĩnh vực giống nhau, có mối quan hệ với nhau. Đồng thời, cũng nên tổ chức các khóa học nâng cao kiến thức cho cán bộ nhân viên về đặc điểm, thực tế hoạt độn và tiềm năng phát triển của doanh nghiệp nhỏ và vừa. Ngân hàng cũng cần hoạch định kế hoạch đào tạo lâu dài, phối hợp với các trung tâm đào tạo thường xuyên tổ chức bồi dưỡng, trao dồi chuyên môn nghiệp vụ, các kỹ năng kinh doanh (giao tiếp, bán hàng, chăm sóc khách hàng...) cho cán bộ nhân viên. Môi trường làm việc công bằng, chuyên nghiệp đãi ngộ theo kết quả lao động là yếu tố quan trọng để phát huy được hết năng lực của người lao động cũng như tạo sự gắn bó lâu dài giữa người lao động với ngân hàng. Trong quá trình làm việc cần gắn trách nhiệm với quyền lợi của cán bộ nhân viên, có chế độ khen thưởng và xử phạt công bằng, hợp lý, công khai kịp thời. Các chế độ này được tiến hành thường xuyên, kịp thời nhằm kích thích, động viên mọi người tập trung làm việc có hiệu quả. Bên cạnh đó cũng cần có những hoạt động giải trí, văn hóa, văn nghệ giao lưu tạo nên mối quan hệ gần gũi, đời sống văn hóa tinh thần cho cán bộ nhân viên. Ngân hàng cũng nên bổ sung thêm nguồn nhân lực đáp ứng được quy mô phát triển, hoạt động có hiệu quả tránh tình trạng để một nhân viên phải giải quyết nhiều công việc cùng một lúc, thời gian xử lý hồ sơ khách hàng chậm ảnh hưởng đến chất lượng, khả năng cạnh tranh và uy tín của Ngân hàng. Trong quá trình cấp tín dụng, quản lý và theo dõi cần phân tách cụ thể rõ ràng hơn giữa các bộ phận: bộ phận bán hàng, bộ phận thẩm định, bộ phận hỗ trợ bán hàng. Điều này sẽ tiết kiệm được thời gian giải quyết hồ sơ, phát huy tinh thần làm việc tập thể, hạn chế rủi ro tín dụng … 3.2.2 Các giải pháp bổ trợ 3.2.2.1 Cung cấp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ các sản phẩm dịch vụ phù hợp Trong quá trình vay vốn với Ngân hàng, khách hàng còn sử dụng các sản phẩm dịch vụ của Ngân hàng để giao dịch, thanh toán. Sản phẩm dịch vụ càng phong phú, hấp dẫn càng thu hút được nhiều khách hàng. Mảng thị trường doanh nghiệp nhỏ và vừa là mảng thị trường đã được lựa chọn, nên Ngân hàng cần nghiên cứu nhu cầu các doanh nghiệp này, để định vị được các sản phẩm cung cấp phù hợp. Hoạt động tín dụng là dịch vụ khởi đầu để doanh nghiệp nhỏ và vừa thực hiện các dịch vụ khác. Ngân hàng Quân Đội trong thời gian tới cần triển khai hoạt động bao thanh toán theo QĐ1096/2004/QĐ-NHNN. Đây là hình thức cấp tín dụng của các tổ chức tín dụng cho bên bán hàng thông qua việc mua lại các khoản phải thu phát sinh từ việc mua bán hàng hóa được bên bán và bên mua hàng thỏa thuận trong hợp đồng mua bán. Bao thanh toán có nhiều ưu điểm đối với người bán: có thể thu tiền ngay thay vì đợi kỳ hạn trả chậm, tiết kiệm thời gian chi phí theo dõi thu hồi khoản phải thu, được hỗ trợ trong việc đánh giá tình hình sản xuất khách hàng của bên mua hàng. Hoạt động này thường không yêu cầu đảm bảo vì khoản nợ tự thanh toán qua các chứng từ bán hàng và chứng từ liên quan đến khoản phải thu. Dịch vụ mà các doanh nghiệp nói chung, các doanh nghiệp nhỏ và vừa nói riêng quan tâm nhiều nhất là dịch vụ thanh toán. Dịch vụ thanh toán của ngân hàng phải đáp ứng được yêu cầu nhanh chóng, chính xác, an toàn. Để đảm bảo được nhu cầu của khách hàng, Ngân hàng cần phải đầu tư công nghệ thông tin, mở rộng mạng lưới chi nhánh, thiết lập thêm nhiều mối quan hệ với các ngân hàng đại lý trên thế giới. Các dịch vụ thanh toán xuất nhập khẩu như: thanh toán L/C, thanh toán T/T, nhờ thu…được nâng cao chất lượng, tăng uy tín trên thị trường. Hiện nay, dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt ngày càng phổ biến trên cả thế giới và Việt Nam. Phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt được biết đến và quan tâm sử dụng nhiều nhất là thẻ. Sản phẩm thẻ của Ngân hàng Quân Đội (ATM Active Plus) mới thâm nhập vào thị trường năm 2004 đã tạo ra nhiều lợi ích như quảng bá rộng rãi hình ảnh Ngân hàng Quân Đội, tạo thêm một kênh huy động vốn, các dịch vụ trả lương, thanh toán các loại phí qua thẻ... Tuy nhiên, các lợi ích của dịch vụ này vẫn không có gì khác biệt so với các ngân hàng khác, chưa thu hút được sự quan tâm của các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Ngân hàng Quân Đội phải liên kết với các Ngân hàng khác sử dụng chung máy ATM, xây dựng hệ thống chấp nhận thẻ tại các trung tâm thương mại, siêu thị,... liên kết với nhà cung cấp để thanh toán các phí dịch vụ ngoài dịch vụ thu cước điện thoại Viettel. Ngân hàng Quân Đội phát triển và mở rộng các sản phẩm mới, áp dụng rộng rãi các công cụ tín dụng phái sinh (hợp đồng Swap, Options, Forward) để bảo vệ người thụ hưởng trong trường hợp khoản nợ không thể thanh toán, và hạn chế được rủi ro tín dụng và rủi ro lãi suất. Một số sản phẩm truyền thống cần tăng thêm lợi ích, tính thuận lợi cho khách hàng thông qua dịch vụ chăm sóc khách hàng, các dịch vụ tư vấn tài chính. 3.2.2.2 Xây dựng các chương trình marketing quảng bá rộng rãi hình ảnh ngân hàng TMCP Quân Đội trên thị trường Hiện nay, các ngân hàng Việt Nam đã nhận thức rõ ràng và quan tâm nhiều đến vấn đề thương hiệu và giá trị thương hiệu của ngân hàng mình. Ngân hàng Quân Đội cũng cần chú trọng xây dựng và tăng thêm giá trị thương hiệu thông qua các chương trình marketing cụ thể. Để đạt được mục đích marketing hiệu quả thì Ngân hàng cần sử dụng phối hợp các chính sách: chính sách giá cả, chính sách sản phẩm, chính sách quảng cáo khuếch trương. Chính sách giá cả chính là chính sách lãi suất và phí dịch vụ cho khách hàng. Hiện nay các ngân hàng Việt Nam đang thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận tiến tới tự do hóa lãi suất với những cơ hội và thách thức khác nhau. Tính cạnh tranh giữa các ngân hàng tăng lên, các ngân hàng khó khăn trong việc định giá vì có nhiều mức lãi suất khác nhau và mức lãi suất hợp lý cũng khó xác định sao cho tương xứng với rủi ro lãi suất. Nhưng các ngân hàng đã linh hoạt và chủ động hơn tùy thuộc vào khách hàng để ngân hàng điều chỉnh mức lãi suất hợp lý. Với cơ chế lãi suất thỏa thuận thì cạnh tranh về giá giữa các ngân hàng là không hiệu quả mà các ngân hàng thường cạnh tranh phi giá. Do đó, để đạt được hiệu quả trong chiến lược marketing, Ngân hàng Quân Đội phải tạo được các giá trị tăng thêm khi cung cấp các dịch vụ chẳng hạn sự thuận tiện trong giao dịch. áp dụng mô hình “giao dịch một cửa”, có các chương trình khuyến mãi hấp dẫn… Trong điều kiện khoa học công nghệ kỹ thuật phát triển nhanh, các sản phẩm của Ngân hàng cũng không ngừng được tăng thêm cả về số lượng và chất lượng. Vòng đời của sản phẩm dịch vụ ngân hàng rất dài vì để cho ra đời một sản phẩm mới là rất khó, thường thông qua cải tiến đưa vào những đặc tính mới. Các ngân hàng luôn mong muốn tạo ra được nhiều sản phẩm độc đáo, thỏa mãn được các nhu cầu khách hàng vì chính sách sản phẩm đóng vai trò hàng đầu. Khi xây dựng được chính sách sản phẩm đúng thì chính sách giá cả và chính sách quảng cáo khuếch trương mới có điều kiện thực hiện. Ngân hàng Quân Đội phải xác định sản phẩm dịch vụ cho từng loại thị trường, sản phẩm phải có sự đa dạng hóa và cá thể hóa. Chẳng hạn hình thức tiết kiệm phục vụ các cá nhân, tổ chức trong nền kinh tế nhưng với mỗi đối tượng khách hàng có nhiều loại khác nhau có thể lựa chọn phù hợp, cung cấp nhiều kỳ hạn khác nhau, các hình thức trả lãi khác nhau... Ngân hàng Quân Đội cũng có thể cung cấp dịch vụ tiết kiệm tại nhà đối với những khách hàng là người già, Ngân hàng có thể áp dụng tiết kiệm tích lũy với nhân viên của các doanh nghiệp sử dụng dịch vụ trả lương bằng cách hàng tháng tự động trích một phần tiền lương theo yêu cầu của khách hàng vào tài khoản tiền gửi tiết kiệm... Một vài năm trở lại đây, Ngân hàng Quân Đội mới mở rộng thị trường và quan tâm đến chính sách quảng cáo khuếch trương. Phát triển mạng lưới chi nhánh, phòng giao dịch, quan tâm mở rộng phạm vi hoạt động ra các tỉnh, thành phố có nhu cầu sử dụng dịch vụ ngân hàng, cũng là một biện pháp làm tăng cường hoạt động quảng bá hình ảnh Ngân hàng. Bên cạnh đó Ngân hàng cũng chú trọng đến các hoạt động quảng cáo trên nhiều kênh khác nhau: trực tiếp, thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, băng rôn biển hiệu, tài trợ các chương trình văn hóa, thể thao... Ngân hàng Quân Đội cũng nên việc tổ chức các buổi hội nghị khách hàng định kỳ không chỉ dành riêng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa mà dành cho tất cả các đối tượng khách hàng. Qua những hội nghị này, Ngân hàng cần giới thiệu về hoạt động Ngân hàng, các sản phẩm dịch vụ và giới thiệu rõ hơn các quy trình và cách thức tiếp cận các sản phẩm dịch vụ được nhiều khách hàng quan tâm. Đây là cơ hội để quảng bá hình ảnh Ngân hàng, giới thiệu các sản phẩm dịch vụ để khách hàng biết đến. Đồng thời, Ngân hàng cũng hiểu rõ hơn những thông tin phản hồi từ phía khách hàng đối với hoạt động, cũng như sản phẩm dịch vụ đang cung ứng để có những điều chỉnh kịp thời. 3.2.2.3 Đầu tư phát triển công nghệ thông tin Công nghệ là một trong những điều kiện tiên quyết đảm bảo sự thành công của ngân hàng. Với hệ thống công nghệ như hiện nay, Ngân hàng Quân Đội không đủ sức cạnh tranh với các ngân hàng khác đặc biệt trong xu thế mở cửa các ngân hàng nước ngoài được phép hoạt động ngày càng nhiều. Ngân hàng Quân Đội cần xây dựng và triển khai nhanh chóng hệ thống công nghệ hiện đại với tính bảo mật cao. Với sự phát triển của thương mại điện tử, trong tương lai Ngân hàng phải cung cấp các nghiệp vụ ngân hàng điện tử, các giao dịch giữa Ngân hàng và khách hàng có thể thực hiện trực tuyến. Hệ thống thanh toán được kết nối với toàn hệ thống, đảm bảo chi trả điện tử kịp thời, đúng lúc. Hệ thống công nghệ thông tin hiện đại là điều kiện tốt để ngân hàng khai thác và phát triển các sản phẩm mới, đa dạng hóa hoạt động kinh doanh, trở thành một ngân hàng thương mại cổ phần đa năng liên kết cung cấp các dịch vụ tài chính. Ngân hàng Quân Đội phải hoàn thiện dự án công nghệ thông tin cho phép thu thập và xử lý thông tin khách hàng nhanh chóng, hệ thống IBANK kết nối được thông tin khách hàng của các chi nhánh đáp ứng nhu cầu quản lý, tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng đến giao dịch. Hệ thống phần mền về thẩm định dự án, và quản trị rủi ro cũng cần sớm được xây dựng, nâng cao năng lực quản trị rủi ro ngân hàng. 3.3 Một số kiến nghị 3.3.1 Đối với Nhà nước 3.3.1.1 Tăng cường chức năng quản lý, hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa Chức năng quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa chủ yếu được thực hiện ở tầm vĩ mô: xây dựng những vấn đề về chiến lược phát triển, ban hành các chính sách kinh tế và cơ chế quản lý nhằm khuyến khích hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa, tạo khuôn khổ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa hoạt động thuận lợi. Hiện nay, cơ chế quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa còn nhiều bất cập ảnh hưởng đến hoạt động cũng như việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng của các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Nhà nước đã có những chính sách khuyến khích phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa thông qua Nghị định 90/CP nhưng chưa xây dựng được kế hoạch, chiến lược cụ thể phù hợp với mục tiêu phát triển trong từng giai đoạn, từng ngành, lĩnh vực, từng vùng. Thứ nhất: Nhà nước phải tạo sân chơi bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế, trong đó xem xét đến chính sách thuế đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa. Mức độ ưu đãi thuế đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa cần tăng lên nhất là những doanh nghiệp mới thành lập, doanh nghiệp xuất khẩu, doanh nghiệp đang đầu tư công nghệ hiện đại, đầu tư vào các dự án sản xuất sản phẩm mới. Tiếp tục cải cách hành chính về hệ thống thuế nói chung theo hướng cụ thể, đơn giản, dễ hiểu, dễ thi hành. Thứ hai: Nhà nước cần ban hành, hướng dẫn và tổ chức thực hiện các quy chế về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp nhỏ và vừa, tổ chức cung cấp thông tin trong và ngoài nước ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp nhỏ và vừa. Các trung tâm hỗ trợ, các hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa trong các địa phương, ngành nghề cần được xây dựng và hoạt động hiệu quả. Đây là đầu mối và là cầu nối để cung cấp, tiếp nhận thông tin từ cơ quan quản lý Nhà nước, các nguồn hỗ trợ từ bên ngoài và phân phối cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa trung thực, công bằng. Thứ ba: Mở rộng quyền của doanh nghiệp trong việc chuyển nhượng, thế chấp và những quyền khác về sử dụng đất thuộc quyền quản lý của doanh nghiệp. Nhà nước cần quy hoạch chi tiết sử dụng đất và công bố công khai để đảm bảo cơ sở chắc chắn cho việc giao đất, thuê đất để các doanh nghiệp nhỏ và vừa…Đẩy nhanh tiến độ cấp quyền sử dụng đất, hoặc quyền thuê đất cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa để yên tâm đầu tư lâu dài, tạo thuận lợi trong việc đăng ký tài sản đảm bảo. Đồng thời thu hồi đất sử dụng không hiệu quả, không đúng mục đích để bố trí cho các cơ sở sản xuất kinh doanh. Thứ tư: Nhà nước yêu cầu các cơ quan, ban ngành liên quan thực hiện các chức năng thanh tra, kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Cơ quan quản lý doanh nghiệp nhỏ và vừa trong từng ngành, lĩnh vực thường xuyên tổng hợp và báo cáo tình hình hoạt động, những khó khăn, vướng mắc để đúc rút kinh nghiệm, kịp thời khắc phục tránh những tiêu cực xảy ra. Thứ tư: Thúc đẩy hoạt động của quỹ bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa, hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa có điều kiện tiếp cận nguồn vốn ngân hàng. Nguồn vốn của Quỹ cần được huy động rộng rãi không chỉ dựa vào vốn của các hiệp hội, ngân sách địa phương. Nhà nước có những biện pháp cụ thể, khuyến khích các ngân hàng thương mại tham gia góp vốn theo thông tư 01/2006/TT-NHNN. Bên cạnh đó, huy động thêm các nguồn vốn từ các tổ chức quốc tế trợ giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển: Quỹ viện trợ chính thức ODA, Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ thế giới (IMF),... 3.3.1.2 Hoàn thiện một số chính sách ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng Chính phủ cần mở rộng đối tượng được vay vốn không có tài sản đảm bảo của tổ chức tín dụng. Đơn giản hóa và chuyên môn hóa các thủ tục công chứng, đăng ký giao dịch đảm bảo. Cơ quan công chứng có thể tách riêng một bộ phận phục vụ công chứng các giấy tờ liên quan đến thế chấp, cần cố tài sản cho các ngân hàng. Hoạt động của cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm cần được đẩy mạnh, trở thành một cơ quan cung cấp đầy đủ, chính xác các thông tin liên quan đến các tài sản thế chấp, cầm cố của các doanh nghiệp cũng như cá nhân vay vốn. Nhà nước cần có quy định bắt buộc kiểm toán hằng năm đối với những đơn vị hoạt động sản xuất kinh doanh. Những quy định về hạch toán kế toán, lập các báo cáo tài chính cũng cần được áp dụng thống nhất. Đây là cơ sở để Ngân hàng đánh giá chính xác tình hình tài chính và hoạt động của doanh nghiệp thông qua các báo cáo tài chính. Số lượng nợ đọng trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản số lượng nợ đọng rất lớn, ảnh hưởng đến tâm lý cho vay của các ngân hàng. Chính phủ sớm ban hành những quy định thể chế về pháp lý đối với lĩnh vực này. Trong đó, quy định rõ trách nhiệm của các chủ đầu tư, người quyết định đầu tư phê duyệt dự án. Kiểm soát hoạt động các dự án chặt chẽ hơn, đảm bảo đủ vốn mới thực hiện dự án, tránh đầu tư tràn lan, kém hiệu quả. 3.3.2 Đối với Ngân hàng Nhà Nước 3.3.2.1 Nâng cao chất lượng hệ thống thông tin tín dụng Hệ thống thông tin tín dụng hình thành và phát triển là tất yếu khách quan phù hợp với tiến trình phát triển và đáp ứng đòi hỏi của hoạt động tiền tiền tệ nói chung và tín dụng nói riêng trong nền kinh tế thị trường. Hệ thống thông tin tín dụng góp phần giảm sự không cân xứng về thông tin giữa người vay và người cho vay, cho phép người cho vay đánh giá rủi ro chính xác hơn, nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng. Đặc biệt, với hệ thống thông tin này giúp các tổ chức tín dụng mở rộng tín dụng đến doanh nghiệp nhỏ và vừa nhờ việc ngăn chặn những khách hàng xấu, giúp các khách hàng tốt tiếp cận tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng với chi phí thấp do giảm chi phí điều tra thông tin. Trong thời gian qua, hệ thống thông tin tín dụng ngân hàng Việt Nam mà nòng cốt là trung tâm thông tin tín dụng (CIC) đã hoạt động khá hiệu quả, thu thập được tương đối đầy đủ thông tin về hoạt động tín dụng trong nền kinh tế góp phần giảm thiểu rủi ro tín dụng, giúp Ngân hàng Nhà nước quản lý các tổ chức tín dụng... Để nâng cao năng lực quản lý rủi ro, cũng như mở rộng hoạt động tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa, thì cần thúc đẩy tiếp tục hoàn thiện và phát triển hơn nữa hoạt động của hệ thống thông tín dụng. Ngân hàng Nhà nước cần có quy định đối với các tổ chức tín dụng về việc báo cáo và khai thác thông tin tín dụng từ trung tâm thông tin tín dụng (CIC). Khi xét cấp tín dụng đối với khách hàng, đặc biệt là đối với doanh nghiệp, tổ chức tín dụng phải khai báo ngay và sử dụng báo cáo của trung tâm thông tin tín dụng như một tài liệu bắt buộc trong quá trình thẩm định. Trung tâm thông tin tín dụng cũng cần nhanh chóng củng cố cán bộ, áp dụng công nghệ mới, hiện đại hóa và tự động hóa các công đoạn để đẩy mạnh việc thu thập, xử lý, và cung cấp thông tin đáp ứng kịp thời nhu cầu của các tổ chức tín dụng. Bên cạnh đó, trung tâm cũng nên đi sâu, phân tích, đánh giá, kịp thời dự báo, cảnh báo nhằm hạn chế rủi ro tín dụng, cung cấp thêm nhiều sản phẩm thông tin tín dụng. 3.3.2.2 Tăng cường thanh tra, kiểm soát hoạt động tín dụng tại các ngân hàng Ngân hàng Nhà nước là cơ quan chủ quản, trực tiếp phụ trách chỉ đạo hoạt động của các ngân hàng thương mại. Hoạt động thanh tra, kiểm soát hoạt động tín dụng đối với các ngân hàng cần được thực hiện chặt chẽ thường xuyên đặc biệt là chất lượng danh mục cho vay nghiêm túc sẽ hạn chế, phòng ngừa rủi ro tín dụng xảy ra ảnh hưởng tiêu cực đến toàn bộ hoạt động của nền kinh tế. Ngân hàng Nhà nước phải quản lý tốc độ tăng trưởng tín dụng. Tốc độ tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng phải đi kèm với chất lượng tín dụng. Xem xét kiểm tra việc thực hiện quy chế cho vay, quy chế bảo lãnh, các quy trình tín dụng, cũng như hồ sơ tín dụng tại các ngân hàng thương mại có thực hiện đúng pháp luật đảm bảo các nguyên tắc tín dụng hay không? Đối với các lĩnh vực có nhiều biến động, tiềm ẩn nhiều rủi ro cần có biện pháp hạn chế tốc độ tăng trưởng tín dụng. Yêu cầu các ngân hàng thương mại thường xuyên ra soát, đánh giá chất lượng tín dụng đối với các khoản tín dụng đặc biệt là những khoản tín dụng có rủi ro cao để có biện pháp thích hợp để xử lý, thu hồi nợ vay đúng hạn. Hiện nay, Ngân hàng Nhà nước cần chú ý đến các khoản cho vay bất động sản. Trong thời gian qua, số vốn và dự án cho vay bất động sản tăng, chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng dư nợ cho vay trung và dài hạn của các ngân hàng thương mại. Ngân hàng Nhà nước cần có những biện pháp kiểm soát, cảnh báo các ngân hàng thương mại đối với các khoản vay này, vì thị trường nhà đất chưa ổn định, giá trị đảm bảo chủ yếu là quyền sử dụng đất và tài sản hình thành trên đất tiềm ẩn rủi ro tín dụng rất lớn. Hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng phải được cải thiện cả về nội dung và chất lượng. Hoạt động này phải đảm bảo khả năng kiểm soát toàn bộ thị trường tiền tệ, Kết luận Trong bối cảnh hội nhập với nền kinh tế và khu vực, môi trường cạnh tranh giữa các định chế tài chính trong và ngoài nước ngày càng gay gắt. Ngân hàng Quân Đội đã không ngừng đổi mới và phát triển, đáp ứng nhu cầu của các khách hàng thuộc mọi thành phần kinh tế. Chất lượng phục vụ và uy tín của Ngân hàng Quân Đội đã được khẳng định, trở thành một thương hiệu mạnh trên thị trường. Đến nay, đối tượng khách hàng doanh nghiệp của Ngân hàng Quân Đội không chỉ tập trung vào các doanh nghiệp quân đội, mà còn phục vụ có hiệu quả đối với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Chiến lược phát triển năm 2004 - 2008 đã xác định phấn đấu đưa Ngân hàng Quân Đội trở thành một trong những Ngân hàng thương mại cổ phần hàng đầu Việt Nam trong mảng thị trường đã lựa chọn, trong đó có thị trường các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Để đạt được mục tiêu này, Ngân hàng Quân Đội cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp về xây dựng chính sách tín dụng, phát triển nguồn nhân lực, nâng cao chất lượng phân tích tín dụng, đầu tư hệ thống công nghệ thông tin... Bên cạnh đó, Nhà nước cần có những cơ chế, chính sách hợp lý, đồng bộ tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận được nguồn vốn tín dụng ngân hàng.  MỤC LỤC Danh mục tài liệu tham khảo TS. Phan Thị Thu Hà, Ngân hàng thương mại - NXB Thống kê - 2002 TS. Tô Ngọc Hưng, Nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng - NXB Thống kê PTS. Nguyễn Thị Mùi, Quản lý và kinh doanh tiền tệ, NXB Tài chính - 1999 Feredric S. miskin, Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính, NXB Khoa học và kỹ thuật - 2001 Peter Rose, Quản trị ngân hàng thương mại, NXB Tài chính - 2004 PGS. TS Nguyễn Cúc, Đổi mới cơ chế và chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam đến năm 2005, NXB Chính trị quốc gia - 2000 Đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. NXB Thống kê Báo cáo thường niên của Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân Đội năm 2003, 2004 Website Ngân hàng Quân Đội: Website Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Website Bộ Kế hoạch đầu tư: Website Bộ Tài Chính: Website báo điện tử thời báo kinh tế: Website Nam Các văn bản luật liên quan đến hoạt động tín dụng: Luật các tổ chức tín dụng số 07/1997/QHX và số 0/2004/QH11 Quy chế bảo đảm tiền vay của tổ chức tín dụng Đ178/1999/NĐ-CP và NĐ/85/CP Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng QĐ/1627/2001/QĐ - NHNN và QĐ/127 /QĐ-NHNN Quy chế bảo lãnh ngân hàng QĐ/283/2000/QĐ - NHNN và QĐ/112/2003/QĐ - NHNN Quy chế hoạt động bao thanh toán QĐ/1096/2004/QĐ - NHNN Các văn bản liên quan đến doanh nghiệp nhỏ và vừa: Nghị định 90/2001/NĐ-CP của Chính Phủ về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa Chỉ thị số 27/2003/CT-TTg về việc tiếp tục đẩy mạnh thực hiện luật Doanh nghiệp, khuyến khích phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa. Quyết định số 193/2001/QĐ-TTg về việc ban hành quy chế thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa Thông tư số 01/2006/TT-NHNN hướng dẫn một số nội dung về góp vốn thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa 

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc1919.doc
Tài liệu liên quan