Đề tài Mở rộng thị trường xuất khẩu tại Tổng công ty Dệt - May Việt Nam (Vinatex)

- Về thiết bị: Vinatex có gần 1.000.000 cọc kéo sợi, 10.000 máy dệt vải, 300 máy dệt kim, và 100.000 máy may. Kể từ khi thành lập tới nay (1995) tới nay cơ sở vật chất và thiết bị máy móc, trang thiết bị của các đơn vị thành viên của Vinatex đã được đầu tư đổi mới và hiện đại hoá rất nhiều, bước đầu đáp ứng được yêu cầu của thị trường thế giới về sản xuất các sản phẩm dệt may. - Về nhân công: Vinatex có lợi thế về nhân công rất lớn, thu hút được hàng triệu lao động. Tuy năng suất lao động của công nhân làm việc trong Vinatex chưa cao nhưng bù lại họ là những người có tay nghề cao, khéo léo, cần cù, có trình độ văn hoá và có khả năng tiếp thu nhanh khoa học kỹ thuật hiện đại. - Về thu hút đầu tư nước ngoài: Hiện nay Vinatex có 180 dự án còn hiệu lực với tổng số vốn đăng ký gần 1,85 tỷ USD, có 30 dự án đã được đưa vào hoạt động tạo thêm công ăn việc làm cho hàng chục nghìn lao động trực tiếp và hàng triệu lao động gián tiếp. Các doanh nghiệp này chiếm 30,6% về số lượng và 28% về giá trị kim ngạch xuất khẩu và chiếm 6,3% lao động toàn ngành dệt may. Tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài sẽ làm cho lực lượng sản xuất phát triển nhanh chóng hơn, đây là một trong những yếu tố quan trọng để đẩy mạnh xuất khẩu.

doc112 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1258 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mở rộng thị trường xuất khẩu tại Tổng công ty Dệt - May Việt Nam (Vinatex), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
doanh xuất khẩu. Việc nghiên cứu và phát triển thị trường luôn được các doanh nghiệp luôn được các doanh nghiệp đặt lên vị trí hàng đầu bởi vì nếu không có thị trường thì doanh nghiệp khó có thể tồn tại và đứng vững được trong môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt hiện nay. Thông qua việc nghiên cứu thị trường Vinatex sẽ nắm bắt được những đặc điểm chủ yếu của thị trường như: qui mô của thị trường, các loại sản phẩm được bán trên thị trường, văn hoá kinh doanh, các đối thủ cạnh tranh của mình…, đồng thời cũng nắm bắt được những yêu cầu của khách hàng đối với sản phẩm như những yêu cầu về mẫu mã, chất lượng, chất liệu, giá cả sản phẩm, các thói quen và tập quán tiêu dùng của khách hàng…Khi đó Vinatex sẽ tìm được những cơ hội kinh doanh trên thị trường, xác định được thị trường mục tiêu và nhóm khách hàng mục tiêu, khối lượng sản phẩm của mình có thể bán được trên thị trường phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng. Nhờ những thông tin này Vinatex xây dựng phương hướng tổ chức sản xuất kinh doanh để đưa sản phẩm của mình vào thị trường có hiệu quả. Nếu việc nghiên cứu thị trường đưa ra những kết quả chính xác thì sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho Vinatex trong việc đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu và mở rộng thị trường xuất khẩu. Để việc nghiên cứu thị trường và phát triển thị trường đạt được kết quả tốt thì mỗi doanh nghiệp cần có sự quan tâm và đầu tư thích đáng vào lĩnh vực này. Hiện nay Vinatex đã có trung tâm xúc tiến xuất khẩu để tham mưu cho cơ quan Tổng giám đốc về những hoạt động có liên quan tới xuất khẩu: giải quyết các thủ tục trong kinh doanh xuất khẩu, nghiên cứu thị trường nước ngoài, trực tiếp tìm kiếm và thực hiện công tác kinh doanh xuất khẩu và cập nhật các tin tức liên quan tới sự thay đổi trên thị trường. Ban lãnh đạo của Vinatex và trung tâm xúc tiến xuất khẩu cần xây dựng cho mình một phương pháp nghiên cứu thị trường vừa khoa học, vừa đạt được hiệu quả cao và phù hợp với mình như: phương pháp thu thập ý kiến khách hàng thông qua hệ thống phân phối và người tiêu dùng, tổ chức cho các nhân viên của trung tâm thường xuyên được đào tạo và tập huấn để nâng cao nghiệp vụ và chuyên môn; tổ chức các đợt nghiên cứu thị trường với quy mô nhỏ, trung bình hay lớn tuỳ theo chiến lược xuất khẩu cụ thể của Vinatex trong từng giai đoạn phát triển. Trung tâm xúc tiến xuất khẩu cần quan tâm và hướng việc nghiên cứu và phát triển thị trường của mình tới các thị trường mục tiêu đầy tiềm năng như Mỹ La Tinh, Châu Phi… Trung tâm cần chủ động tiếp cận với các nguồn thông tin về thị trường chung quốc tế cũng như thị trường của các nước cụ thể thông qua các Phòng Thương mại, tham tán thương mại…của các nước tại Việt Nam, qua Bộ Thương mại, các tổ chức kinh tế quốc tế, các tài liệu về thương mại quốc tế và qua mạng Internet…Ban lãnh đạo của Vinatex cũng cần tăng sự đầu tư cả về sức người và sức của cho trung tâm này để nó hoạt động có hiệu quả hơn. Khi tiến hành hoạt động nghiên cứu và phát triển thị trường cũng cần lưu ý tới sự khác biệt nhau giữa các thị trường như về quy mô thị trường, về phong tục tập quán và thị hiếu của người tiêu dùng, phong cách kinh doanh của các nhà nhập khẩu… để có được chiến lược thâm nhập sản phẩm và mở rộng thị trường phù hợp với từng thị trường cụ thể. Ví dụ như: Thị trường EU: là một khối liên minh thống nhất gồm 25 nền kinh tế thành viên, trong vấn đề thương mại quốc tế thì EU là một thực thể thống nhất. Các doanh nghiệp làm ăn ở EU phải tuân theo các quy tắc, hướng dẫn và chịu sự giám sát của Uỷ ban cộng đồng Châu Âu (EEC). Ta có thể thấy rằng EU là một bức tranh kinh tế đẹp, tuy nhiên giữa các nước thành viên của EU lại rất khác nhau về văn hoá, ngôn ngữ…dẫn đến sự khác nhau về tập quán tiêu dùng và yêu cầu đối với các sản phẩm dệt may. Vì vậy khi xuất khẩu vào thị trường này Vinatex cần đảm bảo chất lượng sản phẩm, đa dạng hoá sản phẩm. Thị trường Nhật Bản: là một thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn nhưng người tiêu dùng Nhật Bản lại rất khó tính và rất quan tâm tới mốt thời trang. Các nhà nhập khẩu ở đây cho rằng chất lượng là yêu cầu cơ bản của hàng hoá và họ kiểm soát rất nghiêm ngặt các chỉ tiêu về chất lượng sản phẩm. Do đó khi xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản Vinatex luôn phải đảm bảo chất lượng sản phẩm và luôn cải tiến thay đổi mẫu mã. Thị trường Nga và các nước SNG: các khách hàng trên thị trường này lại khá dễ tính, ít có sự đòi hỏi về mẫu mã sản phẩm và thị trường này đã rất quen thuộc với Việt Nam cũng như với Vinatex. Tiến hành xuất khẩu vào thị trường này Vinatex cần nâng cao chất lượng sản phẩm đồng thời cố gắng hạ giá thành sản phẩm. Thị trường Mỹ: thị trường này rất lớn và mới mở ra cho Vinatex vào năm 2000, người tiêu dùng thích tính độc đáo của từng sản phẩm. Chính vì vậy để thâm nhập thành công vào thị trường này Vinatex cần tạo ra những sản phẩm độc đáo, có tính cá biệt cao và có chất lượng cao, đồng thời tích cực giới thiệu các sản phẩm của mình tới thị trường này thông qua các hội chợ quốc tế, trưng bày sản phẩm thông qua các cuộc triển lãm hàng dệt may để người tiêu dùng Mỹ biết đến các sản phẩm của Vinatex. Như vậy việc nghiên cứu và phát triển thị trường xuất khẩu của Vinatex không chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu và mở ra những thị trường mới mà nó còn là việc nghiên cứu các thị trường hiện tại để doanh nghiệp có thể hiểu sâu hơn về thị trường, trên cơ sở đó giúp cho Vinatex củng cố và giữ vững được thị trường hiện tại, đồng thời thâm nhập vào các thị trường mới thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Vinatex ngày càng phát triển. Vinatex cần nâng cao tính cạnh tranh cho sản phẩm của mình và cho các doanh nghiệp thành viên trên thị trường quốc tế. Để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu và mở rộng thị trường xuất khẩu thì việc nâng cao tính cạnh tranh cho sản phẩm và cho các doanh nghiệp thành viên của mình trên thị trường quốc tế là việc làm hết sức cần thiết đối với Vinatex. Nâng cao chất lượng sản phẩm và đa dạng hoá sản phẩm xuất khẩu. Hầu hết các khách hàng khi sử dụng bất kỳ sản phẩm nào đều có những yêu cầu nhất định đối với những sản phẩm đó như về chất lượng, màu sắc, kiểu dáng, kích cỡ, chất liệu…Vì vậy nâng cao chất lượng sản phẩm và đa dạng hoá sản phẩm sẽ góp phần làm tăng tính cạnh tranh cho sản phẩm trên thị trường. Để nâng cao chất lượng sản phẩm và đa dạng hoá các loại sản phẩm xuất khẩu Vinatex và các doanh nghiệp thành viên cần: Có những có những biện pháp tổ chức đào tạo nâng cao tay nghề cho người lao động, có những chính sách thi đua khen thưởng để khuyến khích người lao động không ngừng học hỏi các phương pháp sản xuất mới nhằm làm tăng năng suất lao động, đồng thời tạo ra các sản phẩm có chất lượng cao đáp ứng cho nhu cầu xuất khẩu. Bên cạnh đó Vinatex và các đơn vị thành viên cũng cần có những chính sách ưu đãi nhất định để giữ những người lao động lâu năm, có tay nghề cao và thu hút được những lao động giỏi có kinh nghiệm vào làm việc cho mình. Trang thiết bị máy móc cũng có ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng sản phẩm, vì vậy mà Vinatex cần đầu tư hơn nữa vào việc đổi mới trang thiết bị máy móc và công nghệ sản xuất. Để đa dạng hoá sản phẩm Vinatex phải có sự quan tâm thoả đáng tới công nghiệp thiết kế thời trang, có sự đầu tư thích hợp và đưa ra các chính sách hỗ trợ khuyến khích cho các doanh nghiệp thành viên đầu tư vào các trang thiết bị hiện đại phục vụ cho thiết kế và sản xuất. Việc sử dụng các công cụ thiết kế hiện đại sẽ giúp cho các doanh nghiệp tạo ra được nhiều mẫu mã đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trường quốc tế. Trong quá trình thiết kế thì cần chú ý tạo sự độc đáo trong các sản phẩm thông qua việc sử dụng kết hợp các loại chất liệu trong sản phẩm, từ đó tạo được ấn tượng tốt và hấp dẫn khách hàng. Cần tăng cường sử dụng các loại chất liệu truyền thống như thổ cẩm, sản phẩm thêu tay, đan, ren… Hiện nay Vinatex đã có vịên mẫu thời trang Fadin chuyên phụ trách khâu thiết kế mẫu mã sản phẩm. Viện mẫu thời trang Fadin cần có sự hoà nhập vào khu vực và quốc tế, đồng thời vẫn mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc để tạo ra cho các sản phẩm dệt may của Việt Nam vừa có tính hiện đại, vừa có tính truyền thống mà vẫn không bị lạc lõng trong khu vực và trên thế giới và được các khách hàng khó tính ở các thị trường mục tiêu chấp nhận. Các kỹ sư thiết kế thời trang cần được đưa đi đào tạo một cách bài bản ở cả trong và ngoài nước, có như vậy họ mới có khả năng thiết kế ra những sản phẩm đi sát vào cuộc sống, đáp ứng được những yêu cầu đòi hỏi của người tiêu dùng. Mặt khác Vinatex cần đầu tư hơn nữa về cơ sở vật chất cho viện mẫu thời trang Fadin để họ có thể được sử dụng các thiết bị chuyên dùng trong thiết kế thời trang như máy vi tính, thiết bị điện tử…để tạo ra những sản phẩm phù hợp với dáng vóc của người tiêu dùng trên từng thị trường. Các kỹ sư của viện mẫu cũng cần được thường xuyên học tập kinh nghiệm của các hãng thời trang quốc tế trong việc thiết kế mẫu, như vậy họ sẽ thiết kế ra những mẫu thời trang vừa hiện đại, vừa tiện dụng và theo sát với thị hiếu thời trang thế giới, đồng thời tập trung vào các sản phẩm sản xuất mang tính công nghiệp để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng. Các mẫu thiết kế ra phải mang nhãn hiệu, tên của Vinatex và các đơn vị thành viên; nhãn hiệu này phải được Nhà nước Việt Nam cấp và bảo vệ để chống nhãn hiệu hàng giả. Bên cạnh đó Vinatex và các đơn vị thành viên cần có sự đầu tư thoả đáng vào công nghệ sản xuất bao bì cho các sản phẩm của mình vì bao bì không chỉ là phương tiện bảo vệ cho sản phẩm mà nó còn cho khách hàng biết những thông tin cần thiết về sản phẩm như: chất liệu sản xuất ra sản phẩm, các thông số kỹ thuật, nơi sản xuất…Thiết kế bao bì phải tạo được sự hấp dẫn, lôi cuốn khách hàng, đồng thời phải phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế về bao bì. Bao bì phải gọn gàng để giảm các chi phí trung gian trong quá trình xuất khẩu, nếu bao bì được làm tốt và có chất lượng cao thì thì sẽ giảm được rất nhiều tổn thất trong quá trình vận chuyển, bảo quản và bán hàng, giúp doanh nghiệp giảm được giá hàng xuất khẩu. Về quản lý chất lượng sản phẩm, Vinatex và các đơn vị thành viên nên tiêu chuẩn hoá chất lượng sản phẩm của mình theo các tiêu chuẩn quốc tế như thực hiện tiêu chuẩn quản lý chất lượng ISO 9000:2000. Ban lãnh đạo Tổng công ty chỉ đạo cho các doanh nghiệp thành viên nhanh chóng xây dựng và áp dụng chương trình quản lý chất lượng. Từ đó tạo niềm tin cho khách hàng đối với sản phẩm của Vinatex. Hoàn thiện hệ thống phân phối sản phẩm tại các thị trường xuất khẩu. Để sản phẩm thâm nhập sâu hơn vào thị trường Vinatex và các đơn vị thành viên cần phải thiết lập một hệ thống phân phối phù hợp với thị trường đó. Việc thiết kế hệ thống phân phối cho sản phẩm phải căn cứ vào mật độ dân cư, sự phân bố những người có nhu cầu trên thị trường, kênh phân phối của các đối thủ cạnh tranh, yêu cầu chiếm lĩnh thị trường của Vinatex và các chi phí gắn liền với từng hình thức phân phối. Khi lựa chọn các trung gian tham gia vào kênh phân phối sản phẩm của mình tại các thị trường xuất khẩu, Vinatex cần soạn thảo các tiêu chuẩn đối với các trung gian, trong đó đặc biệt quan tâm đên tiêu chuẩn về mức độ trung thành của họ đối với việc phân phối sản phẩm cho mình. Sau đó Vinatex cần xây dựng một hệ thống chính sách đối với các trung gian, hệ thống chính sách này phải được dựa trên những kỳ vọng của những trung gian khi tham gia vào kênh phân phối và những yêu cầu của Vinatex đặt ra cho kênh phân phối. Hệ thống phân phối mà Vinatex xây dựng cần hướng vào các đối tượng khách hàng sau đây trên thị trường: Các cửa hàng bán lẻ trên thị trường: Vinatex bán sản phẩm cho các cửa hàng bán lẻ thông qua các đại lý của mình trên thị trường đó. Các nhà phân phối của Vinatex: đây là những nhà nhập khẩu chính tại thị trường mà Vinatex xuất khẩu hàng hoá sang đó. Vinatex và các đơn vị thành viên phải đẩy mạnh việc bán hàng cho họ vì họ có sẵn một hệ thống phân phối rộng khắp thị trường. Tuy nhiên khi đó Vinatex phải chấp nhận chia sẻ lợi nhuận với các nhà phân phối. Các nhà bán buôn qua đường bưu điện: được áp dụng đối với một số loại sản phẩm nhỏ và không đắt lắm, Vinatex có thể bán theo phương thức này thông qua một số trung gian bán buôn. Hệ thống các trung gian bán buôn qua đường bưu điện là rất lớn, khi bán hàng cho họ Vinatex không phải thông qua các nhà phân phối hay các nhà bán buôn. Trong việc xây dựng và phát triển các kênh phân phối trên thị trường xuất khẩu, văn phòng Tổng công ty phải thể hiện được vai trò đứng đầu của mình và đầu mối cho các doanh nghiệp thành viên. Vinatex nên tiến hành liên doanh, liên kết với các hãng thời trang nước ngoài để tận dụng được cơ sở vật chất kỹ thuật và kinh nghiệm phân phối sản phẩm của họ, nhờ vậy mà Vinatex có thể nhanh chóng có được một mạng lưới phân phối sản phẩm rộng khắp và hoạt động có hiệu quả. Nâng cao tính cạnh tranh cho sản phẩm thông qua yếu tố giá và nguồn lực. Khi xuất khẩu sang thị trường thế giới, giá cả là một trong những công cụ cạnh tranh rất hữu hiệu của doanh nghiệp. Hiện nay Vinatex và các doanh nghiệp thành viên vẫn chưa xây dựng được thương hiệu trên thị trường thế giới nên Vinatex vẫn duy trì chính sách định giá thấp để thoả mãn nhu cầu của các khách hàng có thu nhập trung bình và những thị trường bình dân ở một số nước. Tuy nhiên những sản phẩm có giá rẻ nhất chưa chắc đã có khả năng cạnh tranh nhất trên thị trường bởi vì nhiều nhà nhập khẩu không chỉ quan tâm tới yếu tố giá mà họ còn rất quan tâm và coi trọng các yếu tố khác như các yếu tố tạo nên tính đáng tin cậy cho sản phẩm cũng như cho các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu (sự thay đổi mẫu mã sản phẩm, đảm bảo chất lượng sản phẩm, đảm bảo thời hạn giao hàng…). Như vậy Vinatex nên định giá các sản phẩm của mình phù hợp với sự công nhận của khách hàng đối với sản phẩm đó, về các dịch vụ kèm theo sản phẩm và về hình ảnh của doanh nghiệp. Để nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm thông qua yếu tố giá Vinatex và các doanh nghiệp thành viên cần: Đưa ra các chính sách khuyến khích người lao động không ngừng sáng tạo trau dồi kinh nghiệm đồng thời tích cực đổi mới công nghệ để nâng cao năng suất lao động, qua đó giúp doanh nghiệp giảm chi phí nhân công trên mỗi đơn vị sản phẩm sản xuất ra Vinatex và các đơn vị thành viên cần xây dựng và tăng cường áp dụng các mô hình quản lý chất lượng tiên tiến theo tiêu chuẩn ISO 9000, ISO 14000, SA 8000 vì sự hợp lý hoá trong quá trình sản xuất sẽ góp phần làm giảm các sản phẩm hư hỏng và các lỗi trong quá trình sản xuất. Bắt buộc giảm tối đa các loại chi phí trung gian có thể. Tích cực tìm kiếm các nguồn nguyên liệu chất lượng cao phục vụ cho sản xuất xuất khẩu để hạ giá thành sản phẩm. Xây dựng các chiến lược, kế hoạch các phương án sản xuất và tự cung cấp nguyên phụ liệu cho các doanh nghiệp dệt may để thay thế cho các nguyên phụ liệu nhập khẩu hiện nay nhằm làm tăng tỷ lệ nội địa hoá trong hàng xuất khẩu. Nhờ vậy sẽ làm tăng giá trị gia tăng của sản phẩm, góp phần làm tăng sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường trong nước và quốc tế. Liên kết với các hãng thời trang nổi tiếng nước ngoài để có thể sử dụng thương hiệu sản phẩm của họ. Theo cách này Vinatex sẽ bán được sản phẩm với giá cao mà giá của sản phẩm vẫn mang tính cạnh tranh so với giá sản phẩm của hãng gốc sản xuất. Khi tiến hành xuất khẩu các sản phẩm của mình, Vinatex và các doanh nghiệp thành viên cần chú ý không nên định giá sản phẩm quá thấp mặc dù với mức giá đó mình vẫn có lợi nhuận cao. Vì nếu làm như vậy rất có thể doanh nghiệp sẽ được xem là bán phá giá (đặc biệt là vào thị trường Mỹ), khi đó các sản phẩm của doanh nghiệp sẽ bị đánh thuế chống bán phá giá và chịu nhiều thiêt thòi. Đối với mỗi doanh nghiệp tham gia xuất khẩu hàng hoá, giá cả không phải là yếu tố duy nhất quyết định tính cạnh tranh mà còn có yếu tố nguồn lực. Đối với Vinatex cũng vậy, nguồn lực rất quan trọng vì nguồn lực thể hiện sự mạnh yếu của doanh nghiệp trong cạnh tranh. Một doanh nghiệp có nguồn lực dồi dào sẽ được các bạn hàng tin tưởng hơn vì doanh nghiệp đó sẽ có khả năng thích nghi nhanh với những biến đổi của môi trường, đặc biệt là yếu tố con người trong doanh nghiệp. Vì vậy Vinatex cần thực hiện chiến lược tăng tốc đầu tư theo cả chiều sâu và chiều rộng, trong đầu tư cần tính tới yếu tố liên hoàn để có thể khai thác được hết tiềm năng nội bộ của Vinatex; thực hiện sự phối hợp giữa các doanh nghiệp thành viên để gắn chặt các khâu sản xuất: sợi-dệt-may trong sản xuất hàng xuất khẩu. Trên cơ sở đó Vinatex sẽ chủ động hơn trong khâu cung cấp nguyên liệu cho các doanh nghiệp thành viên, không bị phụ thuộc vào nguồn nguyên phụ liệu nhập khẩu, đồng thời nâng cao năng suất của toàn Tổng công ty, góp phần hạ giá thành sản phẩm và cho ra những sản phẩm có chất lượng ổn định. Vinatex và các doanh nghiệp thành viên phải tổ chức đào tạo một đội ngũ nhân viên nhanh nhạy, có đủ năng lực kinh doanh, giàu kinh nghiệm để tiến hành giao dịch với khách hàng. Nâng cao hiệu quả của hoạt động chiêu thị. Để hoạt động chiêu thị đạt kết quả cao Vinatex và các doanh nghiệp thành viên cần làm tốt các công việc sau: Đẩy mạnh đầu tư cho hoạt động quảng cáo để thu hút sự chú ý của khách hàng đối với Vinatex và đối với các sản phẩm của Vinatex. Việc quảng cáo phải được thực hiện bằng chính các sản phẩm mũi nhọn có gắn nhãn mác Vinatex và tên doanh nghiệp thành viên sản xuất ra sản phẩm đó. Các chương trình quảng cáo phải chân thật và tạo được cảm giác tốt cho những người xem nó, như vậy tên và nhãn hiệu của sản phẩm và của doanh nghiệp mới dần trở nên quen thuộc với các khách hàng trên thế giới. Vinatex nên tận dụng mọi hình thức quảng cáo bằng mọi phương tiện như quảng cáo trên các tạp chí chuyên ngành, báo ảnh, lịch, tờ rơi, cataloge đặt tại các cửa hàng bán và giới thiệu sản phẩm, lập các trang Web trên mạng Internet, quảng cáo trên truyền hình…Hoạt động quảng cáo phải được thực hiện thống nhất từ Tổng công ty cho tới các doanh nghiệp thành viên và phải phù hợp với luật pháp tại nơi mà Vinatex tiến hành các hoạt động quảng cáo cho sản phẩm của mình. Có như vậy mới nâng cao hiệu quả của việc truyền đạt hình ảnh của Vinatex, của các doanh nghiệp thành viên và của các sản phẩm trên thị trường quốc tế. Cùng với việc đẩy mạnh hoạt động quảng cáo, Vinatex cần tích cực tham gia các hoạt động quốc tế về mốt thời trang, tham gia vào các hội chợ quốc tế, chủ động tổ chức các cuộc triển lãm sản phẩm dệt may tại Việt Nam cũng như ở các nước khác, nhờ vậy uy tín của Vinatex sẽ được nâng cao rất nhiều. Vinatex nên mở nhiều hơn nữa các văn phòng đại diện thương mại, các chi nhánh, các trung tâm giới thiệu sản phẩm, các siêu thị, các shop thời trang có tên Vinatex tại các thị trường lớn như EU, Mỹ, Nhật Bản…để có thể chủ động trong việc tìm kiếm khách hàng nhập khẩu trực tiếp, đồng thời có thể trực tiếp bán hàng và giới thiệu sản phẩm của mình tới người tiêu dùng quốc tế, thông qua đó quảng cáo trực tiếp cho các sản phẩm của mình. Khi đó Vinatex và các doanh nghiệp thành viên phải tiến hành đào tạo một đội ngũ nhân viên bán hàng lành nghề, thông thạo ngoại ngữ và hiểu rõ phong tục tập quán của thị trường đó. Vinatex cũng có thể sử dụng chính sách bán hàng tự phục vụ để giảm bớt các chi phí về nhân viên bán hàng. Bên cạnh việc chào hàng bằng các phương tiện truyền thống như : gửi trực tiếp tờ rơi, cataloge, thư chào… cho các khách hàng, Vinatex nên áp dụng các phương tiện hiện đại như: gửi e-mail qua mạng Internet, fax…Tất cả các loại công cụ trên đều phải được làm theo mẫu nhất định và mang tính nhất quán từ Tổng công ty cho tới các doanh nghiệp thành viên. Mặt khác Vinatex và các doanh nghiệp thành viên cũng cần quan tâm xây dựng và hoàn thiện các dịch vụ sau bán hàng và hỗ trợ khách hàng như dịch vụ sửa chữa các sản phẩm may mặc, chiết khấu cho các khách hàng thường xuyên… Trong quá trình mở rộng thị trường xuất khẩu, Vinatex nên tranh thủ tối đa sự ủng hộ của các cơ quan ngoại giao của Việt Nam tại các thị trường mục tiêu , phát huy vai trò tích cực của mối quan hệ với công chúng trên thị trường đó. Đảm bảo thực hiện đúng thời hạn các điều khoản trong hợp đồng. Sự đúng hạn cũng được coi là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh và uy tín của doanh nghiệp trên thị trường trong việc xuất khẩu hàng hoá. Chỉ có việc thực hiện các đơn hàng đúng hạn thì Vinatex mới cạnh tranh được với các nhà cung ứng khác mà đặc biệt là Trung Quốc. Để làm được việc này Vinatex phải tăng cường sự liên kết giữa các doanh nghiệp thành viên. Văn phòng Tổng công ty phải là đầu mối đưa ra các khuyến cáo về đầu tư, xu hướng tiêu dùng, hợp tác sản xuất giữa các doanh nghiệp thành viên…để đảm bảo cho nhiều doanh nghiệp cùng sản xuất một lô hàng dệt may lớn mà vẫn đạt được các tiêu chuẩn xuất khẩu đồng nhất và có chất lượng cao. Tiếp tục tăng cường đổi mới và hiện đại hoá công nghệ sản xuất (24,tr338-339). . Theo như đánh giá của các chuyên gia thì công nghệ sản xuất của ngành dệt may Việt Nam nói chung và của Vinatex nói riêng là lạc hậu 10 năm so với các nước khác trong khu vực và trên thế giới. Trong khi đó công nghệ sản xuất ngày càng có ý nghĩa quyết định hơn đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường quốc tế. Điều đó buộc Vinatex và các đơn vị thành viên cần nhanh chóng hiện đại hoá công nghệ của mình với chi phí thấp nhất và phù hợp với điều kiện sản xuất của Việt Nam. Để làm được điều đó Vinatex cần: Nhập khẩu các thiết bị dệt may hiện đại, sau đó học tập các nguyên tắc thiết kế để tự thiết kế lại và cải tiến cho phù hợp với điều kiện sản xuất của Vinatex. Những bộ phận nào mà trong nước chưa sản xuất được thì có thể tiến hành nhập khẩu. Cuối cùng phổ biến và nhân rộng thiết bị vừa cải tiến cho các doanh nghiệp thành viên. Nhập các thiết bị dệt may tương đối hiện đại nhưng mức độ tự động hoá còn thấp, sau đó Vinatex sẽ tiến hành nghiên cứu để nâng cấp mức tự động hoá của thiết bị vừa nhập. Ban kỹ thuật và đầu tư của Vinatex cần phối hợp với các cơ quan tiến hành nghiên cứu chế tạo các thiết bị phục vụ cho công nghiệp dệt may trong việc thiết kế và chế tạo các loại máy móc, thiết bị quá đắt không thể nhập khẩu được. Khai thác các thông tin qua mạng Internet; tăng cường liên doanh liên kết và hợp tác với các doanh nghiệp dệt may tiên tiến và hiện đại của nước ngoài để tìm kiếm và đổi mới công nghệ hiện đại, tìm kiếm sự trợ giúp của các chuyên gia kỹ thuật trong và ngoài nước trong lĩnh vực dệt may. Coi hiện đại hoá công nghệ sản xuất là một quá trình phát triển từ thấp tới cao, xác định được mức công nghệ sản xuất phù hợp với mình. Từ đó để lựa chọn công nghệ sản xuất và hiện đại hoá dần dần từng bước. Vinatex cần chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để củng cố và thiết lập nhiều mối quan hệ liên doanh, liên kết với các bạn hàng. Trong xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế quốc tế hiện nay doanh nghiệp nào không chủ động hội nhập thì sẽ bị tụt hậu và có khả năng sẽ bị đào thải ra khỏi nền kinh tế. Quá trình toàn cầu hoá đang làm nảy sinh nhiều thách thức cho nhiều công ty khác nhau và những thách thức này không ngừng thay đổi mà: “Việc thích ứng với những thách thức về kinh doanh mà quá trình toàn cầu hoá đang đặt ra cũng như môn lướt ván trên biển. Một người lướt ván giỏi sẽ không thể tiến bộ hơn khi đại dương lặng sóng-giống như những thị trường phát triển dự kiến sẽ được thành lập trong những năm sắp tới. Chế ngự những con sóng lớn-đó là những thị trường đang nổi lên-có thể sẽ gặp nhiều rủi ro lớn, nhưng cuối cùng sẽ đạt nhiều thành quả hơn” (14,tr264). . Hơn thế trong kinh doanh, doanh nghiệp không tồn tại một cách độc lập mà nó tồn tại trong rất nhiều các mối quan hệ và chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố, đặc biệt là trong kinh doanh xuất khẩu. Vinatex và các doanh nghiệp thành viên không phải là một ngoại lệ. Tăng cường liên doanh liên kết sẽ giúp cho Vinatex và các đơn vị thành viên nhanh chóng đổ mới công nghệ sản xuất, thu hút được một lượng vốn đầu tư lớn, tận dụng được cơ sở vật chất của các đối tác ở nước ngoài. Vì vậy chi phí để xuất khẩu hàng hoá của Vinatex sẽ giảm đi rất nhiều, hơn thế Vinatex còn có thể nhanh chóng thâm nhập và mở rộng thị trường qua việc sử dụng các kênh phân phối đã được hình thành sẵn của các đối tác. Để đạt được kết quả cao trong công tác mở rộng thị trường xuất khẩu Vinatex cần chủ động hội nhập với nền kinh tế thế giới. Tích cực tham gia và chủ động tổ chức các buổi triển lãm, hội chợ quốc tế vì đó là những cơ hội tốt để thâm nhập vào thị trường nước ngoài, tìm kiếm các đối tác trong kinh doanh và qua đó Vinatex thấy rõ được vị thế của mình giữa các đối thủ cạnh tranh. Mặt khác Vinatex cần thúc đẩy việc mở các văn phòng đại diện, các cửa hàng bán lẻ, thiết lập hệ thống phân phối của mình tại các nước nhập khẩu, tạo cơ hội hiểu rõ hơn về thị trường và khai thác thị trường có hiệu quả hơn. Chủ động tìm kiếm khách hàng thông qua các biện pháp xúc tiến xuất khẩu như Internet, các mối quan hệ với Việt kiều, thông qua các đại lý… Trong giao dịch đàm phán với các khách hàng nước ngoài, Vinatex cần xây dựng cho mình đội ngũ những người thông thạo ngoại ngữ, thông thạo nghiệp vụ chuyên môn, hiểu biết và có khả năng phản ứng nhanh. Vinatex không nên quá phụ thuộc vào việc giao dịch qua e-mail để thiết lập các quan hệ đối tác, nên tiếp tục giao dịch với các khách hàng của mình qua điện thoại hay các cuộc viếng thăm trực tiếp. Khi đã thiết lập được các mối quan hệ với khách hàng thì việc duy trì các mối quan hệ đó sẽ giúp Vinatex rất nhiều trong việc khắc phục các bất lợi về khoảng cách với thị trường dệt may thế giới. Xây dựng và phát triển thương hiệu. Thương hiệu có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của doanh nghiệp trong tương lai. “Một thương hiệu có tiềm lực mạnh và có sức cuốn hút đối với khách hàng và công chúng nói chung có thể được coi là biểu tượng về chuẩn mực và đường lối của công ty” (13,tr48) . Thương hiệu của sản phẩm và của doanh nghiệp sẽ giúp Vinatex và các đơn vị thành viên thâm nhập và mở rộng thị trường dễ dàng hơn, vì vậy mà Vinatex cần đầu tư ưu tiên cho việc xây dựng và phát triển thương hiệu. Để tạo ra thương doanh nghiệp dệt may có uy tín, mỗi doanh nghiệp thành viên của Vinatex có thể một vài thương hiệu sản phẩm với đẳng cấp và chất lượng khác nhau cho các nhóm khách hàng mục tiêu khác nhau. Tuy nhiên hiện nay trên thị trường thế giới có khá nhiều các thương hiệu may mặc đã nổi tiếng của các trung tâm thời trang lớn của nước ngoài, vì vậy thương hiệu thời trang Việt Nam rất khó có thể thâm nhập được vào. Các thương hiệu may mặc nổi tiếng đó đã tồn tại trong rất nhiều năm, đã được các nhà sản xuất đầu tư với một chi phí khổng lồ. Do đó trước mắt Vinatex nên tập trung nguồn lực để xây dựng thương hiệu doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu có uy tín về quản lý chất lượng sản phẩm, giao hàng đúng hạn và có trách nhiệm cao với cộng đồng nhằm thu hút các đơn đặt hàng lớn, ổn định và có giá cả phù hợp từ phía các nhà nhập khẩu đã có thương hiệu nổi tiếng và thuộc đẳng cấp cao. Thực tế cho thấy một số doanh nghiệp thành viên của Vinatex đã có hướng đầu tư vào xây dựng và phát triển thương hiệu và bước đầu đã có những thành công như May Việt Tiến, May Nhà Bè, May 10, May Thăng Long…với thương hiệu doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu uy tín nên họ luôn nhận được các đơn hàng lớn, ổn định và giá cao hơn hẳn so với các doanh nghiệp khác. Như vậy để có được những kết quả cao hơn trong việc mở rộng thị trường xuất khẩu thì xây dựng và quảng bá thương hiệu của sản phẩm cũng như của doanh nghiệp là bước đi phù hợp nhất cho Vinatex và các doanh nghiệp thành viên trong giai đoạn hiện nay. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. James L.Hages đã viết: “Không còn là vấn đề chúng ta muốn hay chúng ta nên phát triển tài nguyên nhân sự... Phát triển tài nguyên nhân sự là vấn đề sống còn của xã hội chúng ta”. Như vậy, nếu có một đội ngũ công nhân lành nghề và một đội ngũ cán bộ quản lý giỏi sẽ đảm bảo cho Vinatex một sự phát triển lâu dài và bền vững. Hiện nay Vinatex cũng đang phải đối mặt với vấn đề lao động, để đáp ứng được nguồn lao động chất lượng cao cho tương lai Vinatex và các đơn vị thành viên cần: Đầu tư hơn nữa vào các trường dạy nghề của mình như đầu tư vào cơ sở vật chất, đổi mới trang thiết bị giảng dạy cho phù hợp với trình độ của công nghiệp sản xuất may mặc đang được sử dụng trong các doanh nghiệp để sau khi được đào tạo các học viên có thể thích nghi ngay với môi trường làm việc thực tế. Tăng cường hợp tác đào tạo với các trường đại học có đào tạo về kỹ thuật dệt may như đại học Bách Khoa, đại học Mỹ thuật Công nghiệp, đại học kiến trúc… để đào tạo một đội ngũ kỹ sư thực hành, các nhà thiết kế thới trang chất lượng cao. Đồng thời tổ chức cho họ được đi đào tạo ở nước ngoài để tiếp thu, học hỏi kinh nghiệm về công nghiệp thời trang của các nước trên thế giới. Kết hợp chặt chẽ giữa các doanh nghiệp với các trường đại học khối kinh tế như đại học Kinh Tế Quốc Dân, đại học Thương Mại, Đại học Ngoại Thương…trong việc đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý và các cán bộ kinh tế cho Vinatex và các đơn vị thành viên. Sau mỗi khoá học hay tập huấn nên cấp chứng chỉ tốt nghiệp và có thể coi đó như là một trong những tiêu chuẩn để trẻ hoá đội ngũ cán bộ quản lý. Trong việc trẻ hoá đội ngũ cán bộ quản lý cần có sự kết hợp hợp lý giữa các lớp cán bộ để đảm bảo cho Vinatex có được một đội ngũ cán bộ vừa năng động sáng tạo, vừa giàu kinh nghiệm. Thường xuyên tổ chức đào tạo lại cho các cán bộ công nhân viên của Tổng công ty để họ nâng cao trình độ năng lực của mình và đồng thời cập nhật kịp thời khoa học kỹ thuật hiện đại để ứng dụng vào trong sản xuất. Trên cơ sở đó làm tăng hiệu quả quản lý và làm tăng năng suất lao động. Đa dạng hoá kỹ năng của người lao động để đảm bảo cho họ có khả năng thích ứng nhanh với các khâu sản xuất khi có sự điều chỉnh dây truyền sản xuất trong doanh nghiệp, làm cho cơ cấu lao động không bị ảnh hưởng khi doanh nghiệp có những biến đổi. Đồng thời nó cũng giúp cho doanh nghiệp giảm được các chi phí phát sinh do những thay đổi trong sản xuất dẫn tới sự chuyển dịch lao động trong doanh nghiệp. Hàng năm Vinatex và các doanh nghiệp thành viên nên mở các cuộc thi tay nghề giỏi cgo người lao động để họ có thể được học những kinh nghiệm trong hoạt động sản xuất thực tiễn của nhau. Mặt khác nó giúp cho Vinatex có thể phát hiện ra những nhân tài trong nội bộ Tổng công ty, từ đó có những kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng kịp thời và cụ thể đối với từng lao động. Khi đó Vinatex sẽ có một đội ngũ công nhân sản xuất trực tiếp lành nghề, có khả năng tạo ra các sản phẩm có chất lượng cao, ít bị sai sót nên sản phẩm sẽ có tính cạnh tranh hơn trên thị trường và dễ thâm nhập vào các thị trường hơn. Một đội ngũ quản lý giỏi, linh hoạt, năng động, sáng tạo và giàu kinh nghiệm sẽ giúp cho Vinatex có những chiến lược cụ thể và những bước đi vững chắc trong công tác mở rộng thị trường xuất khẩu. Một số kiến nghị đối với Nhà nước nhằm hỗ trợ cho công tác mở rộng thị trường xuất khẩu của Vinatex. Hoàn thiện, đổi mới và xây dựng đồng bộ hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm tạo hành lang pháp lý chặt chẽ cho hoạt động xuất khẩu và mở rộng thị trường xuất khẩu. Dựa trên đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước nên rà soát lại hệ thống luật điều chỉnh, các quy định…tỏ ra còn nhiều thiếu sót hoặc không còn phù hợp nữa để bổ sung, đổi mới cho phù hợp với điều kiện bên trong và bên ngoài hiện nay. Nhờ vậy tạo ra một sân chơi công bằng, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, nâng cao khả năng cạnh tranh của các sản phẩm xuất khẩu trên thị trường quốc tế. Nhà nước cần đổi mới cơ chế quản lý theo quan điểm tự do. Chính phủ cần kết hợp chặt chẽ với các bộ ngành để xây dựng chiến lược thị trường xuất khẩu trong tổng thể chiến lược chung của nền kinh tế quốc dân. Tiến hành nghiên cứu thị trường để có hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm đảm bảo nguồn hàng xuất khẩu ổn định và có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường quốc tế. Trong quá trình xây dựng chính sách Nhà nước cần phải xuất phát từ định hướng chung nhưng cũng cần phải nghiên cứu thực tiễn để nâng cao hiệu lực và ý nghĩa thực tiến của chính sách được đưa ra. Các chính sách được đưa ra phải đảm bảo kết hợp lợi ích của các thành phần kinh tế. Nhà nước cần hoàn thiện, đổi mới căn bản nội dung cơ chế chính sách như sau: Chính sách thị trường xuất khẩu (2,tr296-302) . Nhà nước cần đa dạng hoá, đa phương hoá các hoạt động kinh tế đối ngoại, thực hiện thị trường mở và tự do hoá thị trường, khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động xuất khẩu hàng hoá. Cân bằng các mối quan hệ với các đối tác chủ yếu, tránh tình trạng bị lệ thuộc quá nhiều vào một đối tác nào đó. Tuy nhiên Chính phủ không nên mở rộng thị trường một cách quá mức vì hiện nay cục diện của nền kinh tế thế giới đang chứa đựng quá nhiều yếu tố bất định. Trong việc phát triển thị trường xuất khẩu cần thực hiện theo nguyên tắc có đi có lại để tạo mối quan hệ gắn bó giữa thị trường xuất khẩu và thị trường nhập khẩu. Khuyến khích các doanh nghiệp tạo ra các sản phẩm có chất lượng cao, có sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế; đồng thời tạo các điều kiện cần thiết cho các doanh nghiệp đổi mới công nghệ, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh để thực hiện chiến lược hướng về xuất khẩu của Nhà nước. Nhà nước tiếp tục đẩy mạnh chính sách kinh tế nhiều thành phần để có thể khai thác thế mạnh của mọi thành phần kinh tế, nhờ đó tăng cường tính năng động trong việc phát triển thị trường xuất khẩu. Tăng cường khai thác thị trường ngách, đó là những khe nhỏ trên thị trường mà trong đó có xuất hiện nhu cầu về một loại hàng hoá nào đó nhưng chưa được các nhà kinh doanh khai thác, phát hiện hoặc phát hiện ra nhưng họ không có lợi thế để đầu tư vào hoặc không muốn đầu tư. Thị trường ngách được xem là một thị trường cạnh tranh không hoàn hảo, do đó tại thị trường ngách không có quá nhiều đối thủ cạnh tranh nên sản phẩm của Việt Nam rất dễ thâm nhập vào thị trường này. Hơn thế quy mô sản xuất để phục vụ cho nhu cầu trên thị trường này thường nhỏ, rất phù hợp với điều kiện sản xuất của nước ta. Chính sách mặt hàng xuất khẩu (2,tr303-306) . Nhà nước cần chuyển nhanh sang việc xuất khẩu các mặt hàng chế biến sâu, giảm tới mức tối đa việc xuất khẩu các mặt hàng nguyên liệu thô và hàng sơ chế. Khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư phát triển tìm ra và xuất khẩu các mặt hàng mới mà hiện nay chưa có nhưng lại có đầy tiềm năng và phù hợp với xu thế quốc tế. Nhà nước cần tăng cường hợp tác liên doanh, liên kết với các nước tiên tiến, các nước công nghiệp phát triển trên thế giới để có cơ hội đổi mới công nghệ cho sản xuất trong nước. Chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài. Chính sách khuyến khích đẩu tư nước ngoài có ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động sản xuất các hàng hoá xuất khẩu. Do vậy chủ trương khuyến khích đầu tư nước ngoài cần được thực hiện một cách triệt để và nhất quán theo nguyên tắc sản xuất hàng xuất khẩu phải được ưu tiên hàng đầu và các ưu đãi cho sản xuất hàng xuất khẩu được đề cập đên trong luật đầu tư nước ngoài. Đồng thời xoá bỏ ngay các thủ tục xét duyệt rườm rà đối với việc đầu tư nước ngoài, đặc biệt là việc nhập khẩu máy móc, công nghệ sản xuất. Mặt khác Nhà nước cũng cần rà soát lại danh mục ngành nghề khuyến khích đầu tư để tránh tình trạng đầu tư một cách tràn lan, không có kế hoạch gây lãng phí. Chính sách này cần được xây dựng dựa trên các tiêu chí như tính chất thủ tục, cấp độ chế biến để tránh tình trạng đầu tư dàn đều, không có định hướng Luật thương mại. Cần mở rộng phạm vi điều chỉnh của luật sao cho phù hợp với các quy định của WTO nhằm góp phần đẩy nhanh tiến độ đàm phán gia nhập WTO của Việt Nam. Quy định cụ thể và chặt chẽ hơn về mọi hoạt động thương mại và các hoạt động có liên quan tới thương mại quốc tế sao cho nó phù hợp với xu hướng mở cửa thị trường của Việt Nam và xu hướng hội nhập với nền kinh tế quốc tế để khuyến khích xuất khẩu và mở rộng thị trường xuất khẩu của các doanh nghiệp. Đẩy mạnh cải cách hành chính, xoá bỏ các rào cản bất hợp lý đang cản trở hoạt động xuất khẩu (24,tr325-329) . Nhà nước cần công khai hoá và pháp luật hoá trong công tác quản lý để các doanh nghiệp có thể nắm bắt các thông tin về quy định của Nhà nước đối với các hoạt động kinh doanh của họ. Đồng thời nhanh chóng ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh những mảng trống trong kinh doanh xuất khẩu. Hoàn thiện cơ chế quản lý xuất khẩu bằng việc đơn giản hoá các thủ tục giấy phép trong lĩnh vực quản lý xuất khẩu. Bãi bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế quan nếu thấy cần thiết. Mặt khác cần ổn định môi trường pháp lý để tạo tâm lý tin tưởng cho các doanh nghiệp. Đổi mới theo hướng đơn giản hoá, công khai hoá và hiện đại hoá các thủ tục hành chính, các thủ tục hải quan, chế độ hoàn thuế…để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tham gia vào hoạt động xuất khẩu. Nhanh chóng ban hành các chú giải biểu thuế để tránh tranh chấp trong việc áp mã tính thuế các mặt hàng xuất khẩu của các doanh nghiệp. Chính sách vốn-tài chính-tiền tệ-tín dụng (24,tr300-309) . Chính phủ nên thay đổi cơ cấu nguồn thu ngân sách: giảm dần số thu từ thuế xuất khẩu sang tăng thu thuế nhập khẩu. Tiếp tục thu hút vốn đầu tư nước ngoài để tạo tiền đề cho việc đa dạng hoá các nguồn vốn, khuyến khích đầu tư vào lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu, đồng thời thúc đẩy sự hoạt động của Quỹ hỗ trợ xuất khẩu. Tăng cường sử dụng các công cụ của chính sách tài chính-tiền tệ như tỷ giá hối đoái, cho vay theo thành tích xuất khẩu, bảo lãnh bán hàng trả chậm… để hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu. Chính phủ cần tiếp tục cho các doanh nghiệp dệt may vay vốn với lãi suất ưu đãi để làm tăng khả năng của các sản phẩm xuất khẩu. Hỗ trợ cho các doanh nghiệp cạnh tranh lành mạnh để tiếp sức cho ngành dệt may tăng tốc. Để ngành dệt may tiếp tục tăng tốc nhằm thực hiện các mục tiêu đề ra tới năm 2010 thì ngành này rất cần sự quan tâm, ủng hộ nhiệt tình của Nhà nước và các ban ngành hữu quan có liên quan. Đề nghị Chính phủ chỉ đạo cho các ban ngành hữu quan tiếp tục thực hiện một cách chặt chẽ và nghiêm túc các cơ chế, chính sách hỗ trợ cho chiến lược phát triển tăng tốc của ngành dệt may từ nay đến năm 2010. Về việc phân bổ hạn ngạch vào các thị trường hạn ngạch: Chính phủ cần tiến hành phân bổ trực tiếp cho các doanh nghiệp mà không nên phân bổ qua các khâu trung gian để tiết kiệm thời gian và chi phí cho các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu. Chính Phủ cần nhanh chóng đưa ra các giải pháp để khắc phục những bất cập trong việc phân giao hạn ngạch, đặc biệt là phân bổ hạn ngạch vào thị trường Mỹ để tạo sự công bằng và hợp lý trong phân bổ hạn ngạch nhằm tận dụng tối đa khả năng sản xuất và xuất khẩu của các doanh nghiệp dệt may Nhà nước nên có chính sách để bảo vệ cho các sản phẩm dệt may trong nước như cấm nhập khẩu “hàng thùng, hàng second hand…”, tích cực chống và đẩy lùi hoạt động nhập lậu các sản phẩm dệt may, đánh thuế cao hơn vào các sản phẩm dệt may ngoại nhập được bày bán trên thị trường…Như vậy sẽ khuyến khích người tiêu dùng trong nước sử dụng các sản phẩm dệt may nội địa, góp phần làm tăng khả năng cạnh tranh cho các sản phẩm dệt may của Việt Nam. Kết luận Sau thời gian thực tập tại Tổng công ty Dệt-May Việt Nam (Vinatex) em nhận thấy hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu là một hoạt động không thể thiếu đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào có tham gia hoạt động kinh doanh xuất khẩu. Trong nền kinh tế thị trường và xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế, mỗi doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì không thể chỉ có chiếm lĩnh thị trường trong nước mà họ cần phải tìm được chỗ đứng cho mình trên thị trường quốc tế và chiếm lĩnh thị trường quốc tế. Cùng với sự phát triển của đất nước, Vinatex đã có những bước tiến quan trọng trong mọi lĩnh vực, đặc biệt là trong hoạt động xuất khẩu và mở rộng thị trường xuất khẩu. Nhờ vậy Vinatex đã tạo thêm công ăn việc làm cho hàng triệu lao động, vươn lên là một trong những doanh nghiệp có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất Việt Nam và là đơn vị dẫn đầu về xuất khẩu trong lĩnh vực dệt may, đồng thời góp phần đẩy nhanh tiến trình gia nhập vào các tổ chức kinh tế quốc tế của Việt Nam như WTO, AFTA… Trước xu thế hội nhập , phân công lao động quốc tế và chuyên môn hoá sản xuất diễn ra mạnh mẽ, các đối thủ cạnh tranh ngày càng lớn mạnh đã mở ra cho Vinatex rất nhiều cơ hội nhưng đồng thời cũng đặt Vinatex đứng trước rất nhiều khó khăn thử thách. Do đó Vinatex cần có một giải pháp, chiến lược phát triển đồng bộ để có thể đứng vững trên thị trường quốc tế. Lúc này vai trò của công tác mở rộng thị trường xuất khẩu càng trở nên quan trọng hơn vì nó sẽ giúp cho Vinatex đạt được những thành công trong hoạt động xuất khẩu hàng hoá. Để tham gia vào thị trường quốc tế, Vinatex phải có sự chuẩn bị thật kỹ lưỡng về mọi mặt, đặc biệt cần tăng cường đầu tư vào hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu nhằm làm cho thương hiệu của Vinatex ngày càng được nhiều người tiêu dùng biết đến và dần trở nên quen thuộc trên thị trường quốc tế Luận văn tốt nghiệp của em đã đi sâu nghiên cứu công tác mở rộng thị trường xuất khẩu tại Vinatex. Đề tài đã đưa ra những căn cứ khoa học cho Vinatex trong việc mở rộng thị trường xuất khẩu; đồng thời cũng đưa ra những ý kiến phân tích, đánh giá thực trạng mở rộng thị trường xuất khẩu của Vinatex. Trên cơ sở đó, cùng với việc phân tích mô hình SWOT em thấy rằng Vinatex hoàn toàn có khả năng mở rộng thị trường xuất khẩu hơn nữa sang tất cả các nước trên thế giới. Qua đây em xin mạnh dạn đưa ra một số chiến lược Marketing, một số giải pháp và kiến nghị để giúp Vinatex thâm nhập vào thị trường quốc tế, làm cho công tác mở rộng thị trường xuất khẩu của Vinatex đạt được kết quả cao hơn. Danh mục tài liệu tham khảo Lê Quốc Ân (2003), Ngành dệt may Việt Nam cạnh tranh bằng giá trị gia tăng, tạp chí Thương Mại số 32/2003. Nguyễn Duy Bột (2003), Thương mại quốc tế và phát triển thị trường xuất khẩu, Nhà xuất bản Thống Kê, Hà Nội. Chu Văn Cấp (2003), Nâng cao sức cạnh tranh cho nền kinh tế nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội. Vũ Thị Hồng Chuyên (2004), Một số ý kiến đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam, tạp chí Kinh tế và Phát triển số 85/2004. Nguyễn Thị Kim Dung (2004), Chiến lược xúc tiến hỗn hợp sản phẩm may mặc của Vinatex trong nền kinh tế thị trường, luận án tiến sĩ kinh tế, Hà Nội. Đoàn Thu Hà & Nguyễn Thị Ngọc Huyền (2001), Giáo trình Khoa học quản lý tập 1, Nhà xuất bản Khoa học kỹ thuật, Hà Nội. Đoàn Thu Hà & Nguyễn Thị Ngọc Huyền (2002), Giáo trình Khoa học quản lý tập 2, Nhà xuất bản Khoa học kỹ thuật, Hà Nội. Kim Hiền (2004), Ngành dệt may Việt Nam chuẩn bị cho thời kỳ hậu Quota?, tạp chí Thương Mại 3+4+5/2004. Hồ Sỹ Hưng & Nguyễn Việt Hưng (2003), Cẩm nang về xâm nhập thị trường Mỹ, Nhà xuất bản Thống Kê, Hà Nội. Dương Hương (2004), Xuất khẩu hàng dệt may-câu hỏi cần giải đáp, tạp chí Thương Mại số 27/2004. Trịnh Lan Hương (2004), Các doanh nghiệp Việt Nam cần quan tâm tới thị trường Mỹ La Tinh, tạp chí Thương Mại số 35/2004. Jack Trout & Steve Rivkin (2004),Định vị thương hiệu, Nhà xuất bản Thống Kê, Thành phố Hồ Chí Minh. Nhà xuất bản Lao Động-Xã Hội (2003), Tạo dựng và quản trị thương hiệu-danh tiếng lợi nhuận, Hà Nội. Niall Fitzgerald (2000), Khai thác tiềm năng toàn cầu hoá cho người dân và người tiêu dùng, trích Khu vực hoá và toàn cầu hoá-hai mặt của quá trình hội nhập quốc tế, Viện thông tin khoa học xã hội, Hà Nội. Trần Chí Thành (2000), Giáo trình Quản trị kinh doanh xuất nhập khẩu, Nhà xuất bản Thống Kê, Hà Nội. Trần Chí Thành, Thị trường EU và khả năng xuất khẩu của Việt Nam, Võ Thanh Thu (2001), Chiến lược xâm nhập thị trường Mỹ, Nhà xuất bản Thống Kê, Hà Nội. Đỗ Hoàng Toàn & Nguyễn Kim Truy (2003), Marketing, Nhà xuất bản Thống Kê, Hà Nội. Tổng công ty Dệt-May Việt Nam (2003), Báo cáo tình hình hoạt động của Tổng công ty Dệt-May Việt Nam, Hà Nội. Tổng công ty dệt may Việt Nam (1995), Điều lệ hoạt động và quyết định thành lập Tổng công ty Dệt-May Việt Nam, Hà Nội. Nguyễn Anh Tuấn (2004), Một số rào cản đối với hàng may mặc xuất khẩu Việt Nam sang thị trường EU sau ngày 1/1/2005, tạp chí Kinh tế và Phát triển số 89/2004. Phan Tư (2003), Phân bổ hạn ngạch dệt may sang Hoa Kỳ-các doanh nghiệp còn nhiều bức xúc, tạp chí Thương Mại số 26/2003. Trung tâm hội chợ triển lãm Việt Nam (2003), Việt Nam với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, Nhà xuất bản Thống Kê, Hà Nội. Lê Thị Anh Vân (2003), Đổi mới chính sách nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Nhà xuất bản Lao Động, Hà Nội. Mục lục Bảng kê các chữ viết tắt 1 Mở đầu 2 Chương I: Lý luận chung về thị trường và xuất khẩu 4 I. Những vấn đề cơ bản về thị trường 4 1. Khái niệm thị trường 4 2. Chức năng và vai trò của thị trường 4 2.1. Chức năng của thị trường 4 2.2. Vai trò của thị trường 5 3. Phân loại thị trường 5 4. Phân đoạn thị trường 7 5. Các nhân tố ảnh hưởng tới thị trường 7 II. Những lý luận chung về xuất khẩu 8 1. Các khái niệm 8 1.1. Khái niệm về hàng hoá xuất khẩu 8 1.2. Khái niệm hoạt động xuất khẩu hàng hoá 9 1.3. Khái niệm thị trường xuất khẩu hàng hoá 9 1.4. Phân loại thị trường xuất khẩu hàng hoá 10 2. Các hình thức xuất khẩu hàng dệt may của nước ta 11 2.1. Xuất khẩu trực tiếp 11 2.2. Xuất khẩu uỷ thác 12 2.3. Tái xuất khẩu (tạm nhập, tái xuất) 12 2.4. Gia công xuất khẩu 13 3. Các phương thức thanh toán trong xuất khẩu hàng dệt may ở nước ta 13 3.1. Phương thức chuyển tiền (TTR) 13 3.2. Phương thức nhờ thu 14 3.3. Phương thức tín dụng chứng từ 15 4. Vấn đề mở rộng thị trường xuất khẩu 15 4.1. Một số khả năng mở rộng thị trường xuất khẩu 16 4.2. Các phương pháp để mở rộng thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp 17 4.3. Các nguyên tắc cần tuân thủ khi mở rộng thị trường xuất khẩu 21 5. Các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu và mở rộng thị trường xuất khẩu sản phẩm dệt may 21 5.1. Các yếu tố bên trong doanh nghiệp 21 5.2. Các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp 22 6. Các bước tiến hành hoạt động xuất khẩu dệt may ở nước ta 26 6.1. Nghiên cứu thị trường và tìm kiếm cơ hội xuất khẩu 26 6.2. Giao dịch và đàm phán chuẩn bị ký kết hợp đồng xuất khẩu 30 6.3. Ký kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu 32 III. Khái quát về xuất khẩu hàng dệt may ở Việt Nam và vai trò của nó đối với nền kinh tế 34 1. Tình hình sản xuất và xuất khẩu sản phẩm của ngành dệt may Việt Nam 34 2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu và mở rộng thị trường xuất khẩu 36 Chương 2: Thực trạng công tác mở rộng thị trường xuất khẩu của Tổng công ty Dệt - May Việt Nam (VINATEX) 38 I. Tổng quan về Tổng công ty Dệt - May Việt Nam (VINATEX) 38 1. Cơ cấu tổ chức 38 2. Năng lực của Vinatex 41 2.1. Năng lực sản xuất 41 2.2. Năng lực thiết kế 41 2.3. Khả năng cung cấp nguyên phụ liệu của Vinatex 41 2.4. Nhãn hiệu sản phẩm của Vinatex 42 2.5. Khả năng lưu thông phân phối sản phẩm 42 2.6. Cơ sở vật chất kỹ thuật và lao động 42 3. Chức năng nhiệm vụ của Vinatex 43 4. Khái quát tình hình hoạt động của Vinatex trong những năm qua 43 4.1. Việc thực hiện các chỉ tiêu 43 4.2. Kết quả đầu tư phát triển 45 4.3. Kết quả trong quản lý và điều hành của Vinatex 46 II. Thực trạng thị trường xuất khẩu của Vinatex 50 1. Thực trạng hoạt động xuất khẩu của Vinatex 50 2. Tình hình thị trường xuất khẩu của Vinatex 54 2.1. Thị trường EU 55 2.2. Thị trường Nhật Bản 58 2.3. Thị trường Nga và các nước SNG 60 2.4. Thị trường Mỹ 62 III. Những đánh giá chung về công tác mở rộng thị trường xuất khẩu của Vinatex 65 1. Những thành tựu đạt được 65 2. Những tồn tại và nguyên nhân 67 Chương III: Mục tiêu, tầm nhìn của Vinatex và một số giải pháp mở rộng thị trường xuất khẩu 72 I. Mục tiêu của Vinatex trong những năm tới 72 1. Mục tiêu sản xuất kinh doanh của Vinatex đến năm 2010 72 1.1. Mục tiêu tổng quát 72 1.2. Mục tiêu sản xuất và xuất khẩu của Vinatex 72 2. Định hướng phát triển của Vinatex 73 II. Mô hình SWOT của Vinatex và chiến lược Marketing để mở rộng thị trường xuất khẩu cho Vinatex 76 1. Mô hình SWOT 76 1.1. Điểm mạnh (Strength-S) 77 1.2. Điểm yếu (Weakness-W) 78 1.3. Cơ hội (Opportunity-O) 79 1.4. Thách thức (Threat-T) 82 2. Chiến lược Marketing để mở rộng thị trường xuất khẩu cho Vinatex 83 2.1. Chiến lược Marketing: dùng những điểm mạnh để tận dụng các cơ hội của Vinatex 84 2.2. Chiến lược Marketing: dùng điểm mạnh để hạn chế những thách thức đối với Vinatex 84 2.3. Chiến lược Marketing: tận dụng những cơ hội để khắc phục những điểm yếu, trên cơ sở đó phần nào khắc phục được những thách thức mà Vinatex sẽ phải đương đầu 84 III. Một số giải pháp mở rộng thị trường xuất khẩu cho Vinatex 85 1. Vinatex cần tăng cường nghiên cứu và phát triển thị trường 85 2. Vinatex cần nâng cao tính cạnh tranh cho sản phẩm của mình và cho các doanh nghiệp thành viên trên thị trường quốc tế 88 2.1. Nâng cao chất lượng sản phẩm và đa dạng hoá sản phẩm xuất khẩu 88 2.2. Hoàn thiện hệ thống phân phối sản phẩm tại các thị trường xuất khẩu 90 2.3. Nâng cao tính cạnh tranh cho sản phẩm thông qua yếu tố giá và nguồn lực 91 2.4. Nâng cao hiệu quả của hoạt động siêu thị 93 2.5. Đảm bảo thực hiện đúng thời hạn các điều khoản trong hợp đồng 94 2.6. Tiếp tục tăng cường đổi mới và hiện đại hoá công nghệ sản xuất 95 3. Vinatex cần chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để củng cố và thiết lập nhiều mối quan hệ liên doanh, liên kết với các bạn hàng 96 4. Xây dựng và phát triển thương hiệu 97 5. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực 98 IV. Một số kiến nghị đối với nhà nước nhằm hỗ trợ cho công tác mở rộng thị trường xuất khẩu của Vinatex 99 1. Hoàn thiện, đổi mới và xây dựng đồng bộ hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm tạo hành lang pháp lý chặt chẽ cho hoạt động xuất khẩu và mở rộng thị trường xuất khẩu 99 1.1. Chính sách thị trường xuất khẩu 100 1.2. Chính sách mặt hàng xuất khẩu 101 1.3. Chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài 101 1.4. Luật thương mại 102 1.5. Đẩy mạnh cải cách hành chính, xoá bỏ các rào cản bất hợp lý đang cản trở hoạt động xuất khẩu 102 1.6. Chính sách vốn - tài chính - tiền tệ - tín dụng 102 2. Hỗ trợ cho các doanh nghiệp cạnh tranh lành mạnh để tiếp sức cho ngành Dệt- May tăng tốc 103 Kết luận 105 Danh mục tài liệu tham khảo 107 Phụ lục 109

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docM0522.doc
Tài liệu liên quan