Đề tài Mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu

. Quy hoạch chưa phù hợp với cơ chế thị trướng, chưa theo kịp với quá trình thay đổi của các yếu tố khách quan, các dự báo tác động của các yếu tố bên ngoài như thị trướng thế giới, tiến bộ công nghệ. Nhiều quy hoạch còn xuất phát tù ý muốn chủ quan, chưa gắn với nghiên cứu nhu cầu thị trưởng và khả năng của doanh nghiệp; chưa chú ý thu hút sự tham gia của các thành phần kinh tế. . Quy hoạch chưa được thướng xuyên cập nhật, bổ sung và điều chỉnh kịp thời, do đó một số quy hoạch bị lạc hậu với tình hình thực tiễn, không đáp ứng yêu cầu; không là căn cứ để xây dựng kế hoạch. Vì thế trong lâu dài chính phủ cần có những qui hoạch hợp lí tận dụng được sự phát triển đẩu tư theo chiều rộng như hiện nay, tránh lãng phí, thất thoát vốn, đầu tư rất nhiều mà hiệu quả thấp, không phù hợp với nhu cầu xã hội. - Về Đổi mới cơ chế hoạt động và xây dựng lực lượng KHCN. Đổi mới cơ chế và tổ chức hoạt động KHCN ở nước ta trong thời gian tới theo hướng không bao cấp và không hành chính hóa, nhằm chuyển các tổ chức khoa học nghiên cứu triển khai sang hoạt động theo cơ chế doanh nghiệp khoa học. Thực chất là để các tổ chức này thông qua việc cung cấp kết quả nghiên cứu cho xã hội mà tự trang trải và phát triển. Cần xóa bỏ các rào cản đang hạn chế việc ứng dụng KHCN vào sản xuất, thi công. Cần Nghiên cứu gắn kết chặt chẽ hoạt động nghiên cứu với đào tạo, hoạt động của các trường đại học, cao đẳng với viện nghiên cứu, công ty tư vấn cho phù hợp theo hướng phát triển thị trường KHCN.

doc55 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1695 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ệu, thiết bị thay thế. Trong công nghiệp đầu khí… đội ngũ cán bộ khoa học trong nước, đã có khả năng tiếp thu và làm chủ công nghệ mới. CN chế biến nông- lâm- hải sản cũng được đẩy mạnh một bước. Trong lĩnh vực năng lượng, nhiều công trình, nghiên cứu KH- CN đã tập trung vào công tác quy hoạch, sử dụng hợp lý các nguồn năng lượng. Đổi mới CN xây dựng các nhà máy thuỷ điện, nhiệt điện, nghiên cứu các phương pháp giảm tổn thất năng lượng trong truyền tải điện và đổi mới CN. Hệ thống năng lượng đã phát triển nhanh chóng : 80% địa bàn xã ở khu vực nông thôn, hơn 50% hộ gia đình đã có điện sử dụng. Trong giao thông vận tải, KH- CN đã góp phần quan trọng vào việc nâng cấp và phát triển mạng lưới, đường bộ, đường sắt, đường thuỷ, đường sông… đã xây dựng một số công trình quan trọng bằng việc áp dụng các CN mới : đóng tàu biển trọng tải 3.000 tấn, công trình hạ tầng cất cánh sân bay Tân Sơn Nhất, thắng thầu nhiều công trình giao thông ở Lào, Campuchia… với việc áp dụng CN mới trong gia cố nền móng và thi công mặt đường. Trong viễn thông, đã xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng thông tin hiện đại bằng việc áp dụng kỹ thuật số, thông tin vệ tinh, cáp sợi quang… đủ mạnh để hoà nhập mạng thông tin quốc tế và khu vực. Viễn thông nước ta hiện được xếp vào một trong những nước có tốc độ phát triển nhanh nhất thế giới. Bên cạnh mạng lưới hữu tuyến điện phát triển rộng khắp với các loại hình dịch vụ đa dạng, các hệ thống thông tin di động, máy sóng ngắn, cực ngắn, cũng phát triển mạnh, được các tổ chức kinh tế, cơ quan trọng và ngoài nước sử dụng. Thị trường tin học nước ta những năm qua, có tốc độ tăng trưởng trung bình hằng năm khoảng 40-50%. Hiện các cơ quan Đảng, chính phủ đang sử dụng hàng vạn chiếc máy vi tính, trong đó lưu giữ nhiều thông tin, số liệu bí mật quan trọng. Liên quan đến kinh tế, quốc phòng và an ninh quốc gia. Trên đà ấy, việc sử dụng máy vi tính ở nước ta bắt đầu chuyển từ giai đoạn sử dụng riêng lẻ, sang hình thức sử dụng mạng cục bộ và mạng diện rộng. Trong y tế, hàng loạt các thành tựu chăm sóc sức khoẻ ban đầu, miễn dịch học, cắt giảm, tỷ lệ mắc các chứng bệnh nguy hiểm : lao, phong, sốt rét, ho gà, bại liệt, sởi… Kết hợp y học truyển thống với y học hiện đại, sản xuất nhiều mặt hàng thuốc mới. Nâng cao trình độ trong phòng và chuẩn đoán bệnh, ngăn ngừa bệnh truyền nhiễm : viêm gan, viêm não Nhật Bản… Đến nay nước ta đã có đội ngũ cán bộ KH- CN hơn 800.000 người trình độ đại hoc, 8.775 phó tiến sĩ- tiến sĩ, gần 3.000 giáo sư- phó giáo sư, hơn 45.000 cán bộ nghiên cứu triển khai thuộc hơn 300 viện nghiên cứu- trung tâm và hơn 20.000 nhà khoa học vừa nghiên cứu, vừa giảng dạy trong 105 trường đại học, cao đẳng, hơn 80 cơ sở đào tạo sau đại học. Đây thực sự là một vốn quý cho sự nghiệp CNH, HĐH, được đào tạo từ nhiều nguồn khác nhau . - Hạn chế: + Đầu tư cho khoa học công nghệ còn ở mức thấp. Việt Nam chưa có chính sách khoa học dông nghệ nhất quán thể hiện bằng hệ thống pháp luật như các quốc gia khác. Thời gian qua Đảng và Nhà nước đã có nhiều cố gắng tạo nguồn tài chính để đầu tư cho khoa học và công nghệ nhưng chưa thể đáp ứng được nhu cầu phát triển. Theo số liệu thống kê từ năm 1965 đến nay, mức đầu tư tài chính từ ngân sách nhà nước dành cho hoạt đông nghiên cứu và triển khai chiếm từ 0,2% đến 0,82% thu nhập quốc dân. Trong 10 năm đổi mới, nước ta đạt được những thành tựu kinh tế đáng mừng, tổng kinh phí đầu tư cho khoa học và công nghệ được nâng lên dần, nhưng do giá cả hàng hóa tăng cho nên giá trị thực tế của vốn đầu tư không tăng. Theo số liệu của Bộ KH- CN và môi trường thì đầu tư tài chính cho kha học công nghệ chưa vượt quá 1% ngân sách tiêu dùng hằng năm. Chi phí bình quân hằng năm cho một cán bộ khoa học công nghệ từ ngân sách nhà nước khoảng 1.000 USD, rất thấp so với mức bình quân của thế giới hiện là 55.324 USD và kếm các nước trong khu vực châu Á . Mức đầu tư thấp nhưng lại phân tán và không ít trường hợp sử dụng lãng phí. Tuy Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, nghị quyết sáng suốt, nhấn mạnh vai trò của khoa học công nghệ và coi trọng nó không kém gì các quốc gia khác trên thế giới, nhưng mức đầu tư cho khoa học vẫn rất thấp. Có 2 khả năng lý giải tình hình trên. Thứ nhất, nếu huy động gấp đôi vốn cho nghiên cứu khoa học và công nghệ thì việc nghiên cứu khoa học có mang lại hiệu quả thiết thực hay không trong khi trình độ quản lý khoa học hiện tại còn yếu kém. Thứ hai, ngân sách nhà nước trong nhiều năm thâm hụt, phải bảo đảm chi cho nhiều ngành cũng quan trọng, do đó mức đầu tư kinh phí cho khoa học nhiều khi lại phụ thuộc vào quan điểm của người lãnh đạo và các cơ quan quản lý của Nhà nước. Rốt cục quy định trong các văn bản và chỉ thị của Đảng dành 2% ngân sách hằng năm cho hoạt động khoa học và công nghệ vẫn không thực hiện được. Với mức đầu tư như vậy nên chỗ làm việc chật chội, thiết bị lạc hậu, phòng thí nghiệm và cụng cụ thí nghiệm thiếu… cơ quan khoa học và công nghệ chỉ có thể hoạt động cầm chừng, chỉ giải quyết những vấn đề trước mắt mà không thể tạo ra được thành quả khoa học có tầm chiến lược. Nếu không có các chính sách điều chỉnh, các cơ quan nghiên cứu khoa học chắc chắn sẽ rơi vào tình trạng tồi tệ hơn, đội ngũ cán bộ nghiên cứu có thể bị chia xẻ và giã từ những công việc chuyên môn mà lâu nay họ tâm huyết. + Lực lượng cán bộ nòng cố thiếu và già yếu. Kết quả điều tra 233 cơ quan khoa học công nghệ chủ yếu thuộc trung ương cho thấy : trong số 22.313 cán bộ công nhân viên thì số người có trình độ trên đại học là 2.509 người, cao đẳng và đại học 11.447 người và dưới cao đẳng là 8.357. Trong số các cán bộ có trình độ tiến sĩ và phó tiến sĩ chỉ có 15,1% là nữ, cũng trong số các cán bộ có trình độ học vấn cao này chỉ có 19,9% giữ các chức vụ lãnh đạo. So với yêu cầu phát triển thì nhiều ngành còn thiếu lực lượng lao động có trình độ khoa học- kỹ thuật. Trước tình hình mở cửa nhiều công ty có vốn đầu tư nước ngoài, công ty tư nhân đã thu hút số lượng đáng kể lao động có trình độ chuyên môn cao từ các cơ quan khoa học công nghệ của nhà nước. Ở tất cả các đối tượng lao động, số trường hợp ra đi nhiều hơn số trường hợp đến, đặc biệt với số cán bộ khoa học có học vị cao, số ra đi vượt hẳn số đến. Tuổi trung bình của cán bộ khoa học có học vị, học hàm khá cao. Bình quân chung là 57,2 tuổi trong đó giáo sư là 59,5 tuổi và phó giáp sư là 56,4 tuổi. Số cán bộ cán học vị, học hàm cao ở tuổi 50 chỉ chiếm 12% trong khi đó tuổi từ 56 trở lên là 65,7%, riêng giáo sư chiếm tới 77,4% và phó giáo sư chiếm 62%. Khi phân chia theo lứa tuổi các cán bộ khoa học công nghệ có học hàm thì phần đông giáo sư có tuổi trên 60 và phó giáo sư có tuổi từ 56 đến 60. Khi một bộ phận lớn các cán bộ khoa học chủ chốt đang về già và sẽ không có khả năng làm việc thì đội ngũ cán bộ trẻ thay thế lại chưa được chuẩn bị bồi dưỡng đào tạo. Hẫng hụt đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ đầu ngành sẽ diễn ra trong tương lai gần. + Sự phân bố lực lượng lao động khoa học không hợp lý. Có thể nói sự phân bố lực lượng lao động mất cân đối giữa các ngành, các khu vực giữa các vùng, giữa các thành phần kinh tế đã gây ra hậu quả xấu cho quá trình phát triển, càng làm sâu sắc thêm sự chênh lệch và phát triển giữa các vùng, các ngành. Một điều mà nhiều người nhìn thấy rất rõ là trong nhiều năm, đặc biệt sau khi chuyển sang kinh tế thị trường thì các ngành khoa học cơ bản bị xem nhẹ và dường như đang bị bỏ rơi. Đó là một cách nhìn rất thiển cận và hậu quả của nó sau một số năm thấm dần sẽ gây tác hại nghiêm trọng. Khoa học công nghệ là một hệ thống, cũng như một nền kinh tế nếu không có hạ tầng cơ sở tốt thì không thể phát triển được. Trong khoa học nếu chỉ coi trọng những ngành ứng dụng có lãi nhanh mà coi nhẹ khoa học cơ bản rút cục sẽ đưa khoa học đến chỗ bế tắc và không có đủ năng lực tiếp thu làm chủ các lĩnh vực khoa học công nghệ mới. + Những bất cập giữa KH- CN và hoạt động kinh tế ở VN. Mối quan hệ thống nhất giữa hoạt động khoa học công nghệ và hoạt động kinh tế là cơ sở quan trọng bảo đảm cho sự phát triển của một quốc gia. Tuy nhiên, ở VN hiện nay giữa hoạt động khoa học công nghệ và hoạt động kinh tế lại bộc lộ những bất cập rõ rệt. Mặc dù tồn tại số lượng đáng kể các cơ quan nghiên cứu khoa học công nghệ và dưới nhiều dạng thực phong phú, nhưng các viện nghiên cứu, các trường đại học thường mạng nặng tính hàn lâm và ít gắn bó hữu ích với các tổ chức kinh tế. Ngoài mối quan hệ lỏng lẻo giữa cơ quan nghiên cứu và các đơn vị kinh tế còn một khía cạnh nữa là bản thân hệ thống cơ quan nghiên cứu vẫn thiếu phương pháp luận tiếp cận có hiệu quả tới hệ thống kinh tế. Ở đây đòi hỏi sự hợp tác, trao đổi qua lại nhiều vòng giữa các nhà khoa học và đại diện của các khu vực sản xuất. Các hãng luôn được coi như nhân vật trung tâm của đổi mới khoa học công nghệ… Đáng tiếc phương pháp này còn xa lạ đối với Việt Nam. Thiếu những định hướng rõ ràng, cụ thể đã làm cho các chương trình nghiên cứu khoa học công nghệ trở nên kém hiệu quả. Cơ cấu của đội ngũ hoạt động khoa học công nghệ hiện mất cân đối đáng kể so với cơ cấu nền kinh tế. Trong các lĩnh vực công nghệ tiên tiến, việc khắc phục khoảng trống bằng cách chuyển các nhà nghiên cứu khoa học cơ bản sang cũng chưa đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi tối thiểu. Mặt khác, sự phân bố của lực lượng khoa học công nghệ không sát với địa bản hoạt động kinh tế. Trên thực tế, có nhiều vùng kinh tế còn như vùng trắng của hoạt động khoa học công nghệ Thực tế đổi mới vừa qua đã xuất hiện một nghịch lý và mở của mang lại sự khởi sắc cho nền kinh tế thì nó lại làm cho vị thế của các nhà khoa học trong nước giảm xuống tương đối. Một bộ phận không nhỏ đội ngũ các nhà khoa học công nghệ buộc phải làm thêm nghề khác hoặc đổi hẳn nghề. Sự lão hoá của đội ngũ khoa học cũng lý giải một phần cho hiện tượng này. Tuổi trung bình của cán bộ khoa học công nghệ làm việc ở các viện nghiên cứu là 45- 46 tuổi, tuổi trung bình của cán bộ nghiên cứu có trình độ cao vào khoảng 55 và 60… có thể do nhiều lý do, trong đó một lý do quan trọng là : coi giai đoạn hiện nay như là quá độ chuyển đổi từ mô hình nghiên cứu khoa học công nghệ kiểu cũ sang mô hình nghiên cứu kiểu mới. Đối với lớp trẻ, hình mẫu các nhà nghiên cứu thế hệ trước không còn mấy hấp dẫn, họ đang tìm kiếm những con đường khác, những phương thức hoạt động khoa học khác. Chúng ta từng hy vọng có thể thông qua hoạt động đầu tư nước ngoài vào VN để nhận được những công nghệ cần thiết tiến hành CNH, HĐH. Tuy nhiên thực tế diễn ra không như mong muốn. Trước hết, luồng đầu tư nước ngoài đang có xu hướng chững lại sẽ hạn chế khuôn khổ chuyển giao công nghệ. Thứ hai, cơ cấu đầu tư với 18,7% vào khách sạn dụ lịch… là một nhân tố góp phần hạn chế quy mô chuyển giao công nghệ tiên tiến. Thứ ba, ngay trong bản thân lĩnh vực công nghiệp, các chủ đầu tư nước ngoài dường như chẳng hề sốt sắng du nhập các công nghệ tiên tiến vào VN, thay vào đó, họ chú ý nhiều đến các công nghệ thế hệ cũ cho phép thu lại lợi nhuận tức thì từ lao động rẻ, môi trường đầu tư dễ dãi và miền đất đầu tư mới mẻ. II.3, Thực trạng kết hợp đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu ở Việt Nam: Sau những năm có tốc độ tăng trưởng kinh tế rất cao, nền kinh tế Việt Nam bước vào giai đoạn khó khăn do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới. Năm 2005, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 8,43%. Năm 2006 đạt 8,23%. Năm 2007 đạt 8,48%. Đến cuối năm 2008, khủng hoảng kinh tế Mỹ nổ ra kéo cả nền kinh tế thế giới đi xuống, Việt Nam cũng không nằm ngoại lệ và tốc độ tăng trưởng kinh tế sụt giảm, chỉ còn 6,23%. Sang đến năm 2009, khủng hoảng kinh tế vẫn chưa được giải quyết và gây ra những hậu quả nặng nề. Hàng loạt giải pháp, chính sách được chính phủ đưa ra, nổi bật là gói kích cầu trị giá 145000 tỉ đồng nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư, tiếp tục sản xuất, tạo thêm công ăn việc làm, đảm bảo an sinh xã hội… Kết quả là nền kinh tế Việt Nam dần phục hồi vào cuối năm 2009, đưa tốc độ tăng trưởng kinh tế lên 5,32% , vượt mục tiêu tăng 5% của kế hoạch. Trong bối cảnh kinh tế thế giới suy thoái, nhiều nền kinh tế tăng trưởng âm mà nền kinh tế nước ta đạt được tốc độ tăng trưởng dương tương đối cao như vậy là một thành công lớn. Do vậy, chúng ta có thể thấy rằng vai trò của hoạt động đầu tư trong nền kinh tế là vô cùng quan trọng. Khối lượng vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2007 theo giá thực tế ước tính đạt 461,9 nghìn tỉ đồng, bằng 40,4% GDP và tăng 15,8% so với năm 2006. Vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2008 theo giá thực tế đạt 637,3 nghìn tỉ đồng, bằng 43,1% GDP, tăng 22,2% so với năm 2007. Năm 2009, con số này đã lên đến 704,2 nghìn tỉ đồng, tương đương 42,8% GDP, tăng 15,3% so với năm 2008. Khối lượng vốn đầu tư Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 Giá trị thực tế (nghìn tỉ đồng) 461.9 637.3 704.2 So với GDP ( % ) 40.4 43.1 42.8 So với năm liền trước ( % ) 15.8 22.2 15.3 Nguồn vốn ODA cam kết luôn ở mức cao trong những năm gần đây. Năm 2007, mức cam kết tài trợ ODA đạt 5,4 tỉ USD và giải ngân đạt xấp xỉ 50%. Năm 2008 mức cam kết là 5,426 tỉ USD và giải ngân đạt 2,2 tỉ USD. Năm 2009, trong bối cảnh nguồn cung ODA hạn chế và cạnh tranh gay gắt thu hút ODA giữa các nước đang phát triển, con số này vẫn tiếp tục xác lập kỷ lục mới vào khoảng 5,85 tỉ USD, giải ngân ước đạt 3 tỉ USD. Nguồn vốn ODA Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 Mức cam kết (tỉ USD ) 5.4 5.426 5.85 Giải ngân ( tỉ USD ) 2.7 2.2 3 Tính chung cả vốn đăng ký cấp mới và vốn đăng ký tăng thêm, tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đăng ký vào Việt Nam năm 2008 đạt hơn 64 tỉ USD, tăng 222% so với năm 2007. Năm 2009 vốn FDI chỉ đạt 21,48 tỉ USD, vốn thực hiện đạt 10 tỉ USD. Đây là mức suy giảm khá mạnh và chỉ bằng 30% so với năm 2008. Tuy vậy con số đó cũng là khá cao trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế. Nền kinh tế nước ta đạt được những thành công trên là nhờ nhiều yếu tố, trong đó vai trò của đầu tư là vô cùng quan trọng. Có đầu tư sản xuất mới tạo ra sản phẩm cho xã hội. Đầu tư hiệu quả, đúng hướng sẽ thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Đầu tư không hiệu quả, sai hướng sẽ kìm hãm nền kinh tế. Vậy, câu hỏi đặt ra là nguồn vốn dành cho đầu tư đã thực sự được sử dụng hiệu quả trong những năm qua hay chưa? Tăng trưởng kinh tế xét ở đầu vào, có 3 yếu tố đóng góp. Đó là sự đóng góp của yếu tố số lượng vốn đầu tư, sự đóng góp của số lượng lao động và sự đóng góp của yếu tố năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP). Dưới góc nhìn của Tổng cục Thống kê, tuy GDP các năm tăng, năm 2009 đã vượt qua được giai đoạn suy giảm, nhưng tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa vào phát triển theo chiều rộng, tăng khối lượng các nguồn lực, nhất là tăng vốn đầu tư, chưa thực sự dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động xã hội và nâng cao hiệu quả. Tỉ lệ khối lượng vốn đàu tư toàn xã hội so với GDP từ năm 2004 đến nay đều vượt qua mốc 40%. Năm 2008, tỉ lệ này là 43,1% GDP. Đậy là tỉ lệ thuộc loại cao nhất thế giới, chỉ sau Trung Quốc. Cùng với nguồn vốn đầu tư, sự đóng góp của số lượng lao động cũng chiếm vị trí rất quan trọng. Nguồn nhân lực dồi dào này do nguồn lao động hàng năm tăng khoảng 2% ( trên 1 triệu người) và tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị và nông thôn còn cao. Nếu tính cả sự đóng góp của yếu tố số lượng vốn đầu tư và sự đóng góp của yếu tố số lượng lao động, thì hai yếu tố này đã đóng góp trên ba phần tư tổng tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Điều đó chứng tỏ, sự đóng góp của yếu tố TFP đối với tốc độ tăng trưởng kinh tế còn nhỏ, chưa được một phần tư, thấp chỉ bằng hai phần ba tỉ trọng đóng góp của yếu tố này của các nước trong khu vực hiện nay. Tăng trưởng kinh tế dựa chủ yếu vào chiều rộng như vậy chưa thật vững chắc, chất lượng và hiệu quả tăng truởng chưa cao. Khả năng cạnh tranh của nền kinh tế và của nhiều ngành, nhiều sản phẩm còn thấp. Đó là nhận xét của Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, kiêm Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê Nguyễn Đức Hoà. Vụ trưởng Vụ Hệ thống tài khoản Quốc gia Bùi Bá Cường cho biết, năng suất các yếu tố tổng hợp TFP có xu hướng giảm trong những năm gần đây. Theo tính toán của ông, giai đoạn 2004-2009, TFP khoảng 15,1%. Trong khi đó, giai đoạn 2003-2008 là 15,53%. Như vậy là đóng góp vào tăng trưởng có giảm. Năng suất tổng hợp TFP là yếu tố phản ánh sự tăng trưởng theo chiều sâu. Một thước đo khác phản ánh mô hình kinh tế tăng trưởng theo chiều rộng hay chiều sâu là chỉ số ICOR- thước đo hiệu quả đầu tư. Chỉ số này của Việt Nam đang có chiều hướng tăng trong giai đoạn hiện nay. Điều đó có nghĩa để tạo thêm 1 đồng GDP càng ngày chúng ta càng phải bỏ ra nhiều đồng vốn hơn trước. Năm 2008, chỉ số ICOR là 6,66 điểm. Năm 2009 chỉ số ICOR đã tăng lên trên 8 điểm. Như vậy, hiệu quả đầu tư đang bị sụt giảm. Muốn tăng hiệu quả đầu tư thì ngoài những yếu tố khách quan, tăng cường nội lực là đòi hỏi tất yếu. Ở tầm vĩ mô, tăng cường nội lực cho nền kinh tế là nâng cấp cơ sở hạ tầng, cơ chế chính sách rộng mở kích thích được các thành phần kinh tế, thủ tục hành chính thuận lợi, đào tạo nhân lực hiệu quả…Đối với mỗi doanh nghiệp, tăng cường nội lực là tăng đầu tư trang thiết bị, máy móc, quy trình công nghệ hiện đại hơn, hiệu năng lớn hơn; tổ chức quản lý sản xuất tốt hơn, công nhân giỏi… Đó chính là hoạt động đầu tư theo chiều sâu. Do vậy nền kinh tế Việt Nam những năm gần đây dù đạt được tốc độ tăng trưởng cao và đều đặn nhưng chủ yếu mới chỉ do hoạt động đầu tư phát triển theo chiều rộng, đầu tư phát triển theo chiều sâu thực tế vẫn chưa được chú trọng đúng mức, chưa tương xứng với tiềm lực kinh tế đất nước. Đầu tư theo chiều rộng là nền tảng để đầu tư theo chiều sâu. Trong giai đoạn đầu của phát triển kinh tế nên coi trọng đầu tư theo chiều rộng. Tuy nhiên đến một thời điểm nhất định khi cơ sở hạ tầng và công nghệ trở nên lạc hậu, việc tiếp tục đầu tư theo chiều rộng không những ít mang lại hiệu quả tăng trưởng mà còn làm năng suất cả nền kinh tế thấp, trì trệ. Nền kinh tế tất yếu phải chuyển sang phát triển theo chiều sâu. Nền kinh tế Việt Nam đã phát triển đến thời điểm như vậy, và hoàn toàn đủ tiềm lực để thực hiện đầu tư phát triển theo chiều sâu. Đầu tư theo chiều sâu phải được chú trọng, ưu tiên, để dần trở thành đầu tàu dẫn đường cả nền kinh tế phát triển. Tuy xét trên tầm vĩ mô, thực trạng kết hợp giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu ở Việt Nam hiện nay chưa phối hợp hiệu quả, vai trò của đầu tư theo chiều sâu còn ít. Nhiều doanh nghiệp sau khi đã phát triển được quy mô sản xuất lớn, sử dụng nhiều nhân lực, đạt sản lượng cao nhưng vẫn chưa đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao trình độ cho nhân công, nâng cao chất lượng sản phẩm. Vì vậy sức cạnh tranh của sản phẩm còn thấp, đặc biệt là trên thị trường quốc tế. Khi doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu hang hoá sang các nước có yêu cầu cao về tiêu chuẩn chất lượng hàng hoá, thường phải chịu nhiều thua thiệt, đôi khi còn bị trả về. Hơn nữa, với khả năng chế biến sản phẩm kém, giá bán sản phẩm rẻ, chúng ta vô tình đã đánh mất lợi thế to lớn về nguồn nguyên liệu dồi dào trong nước. Nhưng nếu xét ở tầm vi mô mỗi doanh nghiệp, có những tín hiệu tích cực đáng mừng trong thời gian gần đây. Điển hình như dự án nhà máy lọc dầu Dung Quất. Trước đây, dựa vào nguồn tài nguyên dầu mỏ, nước ta khai thác rồi xuất khẩu dầu thô cho nước ngoài. Muốn thu nhiều ngoại tệ hơn, nền kinh tế tăng trưởng nhanh hơn, chúng ta khai thác nhiều hơn, để xuất khẩu nhiều hơn, thu được nhiều ngoại tệ hơn nhờ số lượng dầu thô xuất khẩu tăng thêm. Tài nguyên dầu mỏ thì có hạn, trong khi giá dầu thô xuất khẩu rẻ hơn rất nhiều so với giá xăng dầu chúng ta phải nhập khẩu. Đó là sự lãng phí. Dự án xây dựng nhà máy lọc dầu Dung Quất là một hoạt động đầu tư phát triển theo chiều sâu vô cùng cần thiết. Khi dự án đi vào hoạt động, dầu thô sẽ được chế biến thành các sản phẩm như khí hoá lỏng, xăng A90-92-95, dầu diesel, LPG, xăng máy bay Jet-A1,… Chúng ta sẽ không còn hoàn toàn phụ thuộc vào nguồn nhiên liệu nhập khẩu như trước nữa, hiệu quả kinh tế tăng lên rõ rang. Một ví dụ về đầu tư theo chiều sâu trong lĩnh vực công nghệ thông tin là dịch vụ 3G, do Vinaphone triển khai đầu tiên, sau đó lần lượt các doanh nghiệp khác như Viettel, Mobifone cũng đầu tư phát triển công nghệ này. Và còn nhiều doanh nghiệp thuộc nhiều ngành khác nữa cũng đã và đang chú trọng đầu tư theo chiều sâu. Những doanh nghiệp này là những tế bào tiên phong chuyển mình của nền kinh tế. Thành công của họ sẽ khơi mào, tạo điều kiện và động lực cho các tế bào khác của nền kinh tế cùng chuyển mình hành động, tạo xung lực mới cho nền kinh tế, đưa nền kinh tế phát triển theo chiều sâu. III, Chương III: Giải pháp thúc đẩy đầu tư theo chiều rộng, đầu tư theo chiều sâu và kết hợp hai hình thức một cách hiệu quả. III.1, Một số giải pháp khắc phục những hạn chế trong ngành dệt may: III.1.1, Nâng cao khả năng quản lí điều hành của nhà nước:tập trung vào chiến lược phát triển vùng nguyên liệu. Trong nghành dệt may thì vấn đề nguyên liệu là vấn đề sống còn quyết định phần chi phí lớn trong trong tổng chi phí của ngành.Vì vậy việc nhà nước đưa ra các chính sách khuyến khích đầu tư xây dựng vùng nguyên liệu là hết sức quan trọng.Có thể thông qua việc chủ trương thay đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi chuyển việc trồng các loại cây có giá trị kinh tế kém sang trồng bông – nguyên liệu thô của ngành dệt may.Cung ứng giống ,phân bón, chu trình kĩ thuật ,giải quyết bài toán đầu ra cho nông dân; giúp cho họ yên tâm sản xuất. Phát triển các trung tâm nghiên cứu các loại vải để cho ra đời các loại vải mới vừa bền ,đẹp có thể sản xuất hàng loạt để hạ giá thành. III.1.2, Giải quyết vấn đề thiếu vốn của doanh nghiệp. Đưa ra các khoản vay ưu đãi về lãi suất ,các ưu đãi về thuế giúp cho các doanh nghiệp ngành dệt may có vốn để đầu tư đổi mới máy móc thiết bị nhằm hiện đại hóa dây chuyền công nghệ giúp tăng năng suất ,theo kịp với sự phát triển của thế giới. Tăng cường vay trong nước thông qua các nguồn tiết kiệm,huy động vốn trong nhân dân thông qua cổ phiếu trái phiếu ,vay tín dụng… Đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài nhờ việc lập các xí nghiệp liên doanh với nước ngoài và lập xí nghiệp 100% vốn nước ngoài. III.1.3,Xây dựng nguồn nhân lực. Đầu tư vào nguồn nhân lực có chất lượng đó là đội ngũ công nhân lành nghề,đội ngũ thiết kế về mẫu mã ,kiểu dáng sản phẩm . Đầu tư cơ sở vật chất cho các trường đào tạo công nhân công nghệ cùng với việc thay đổi nội dung và chương trình đào tạo để theo kịp với các nước công nghiệp phát triển. Xây dựng tiêu chuẩn chất lượng ,các chứng chỉ của ngành nhằm chuẩn hóa nhằm nâng cao năng lực sản xuất của ngành đệt may. III.2, Giải pháp thúc đẩy đầu tư theo chiều sâu: III.2.1, Giải pháp đầu tư phát triển nguồn nhân lực: - Phải xác định cho rõ nguồn nhân lực là tài nguyên quý giá nhất của Việt Nam trong công cuộc đổi mới và phát triển đất nước. Một đất nước rất ít tài nguyên thiên nhiên như ở Việt Nam, cần phải lấy nguồn nhân lực làm tài nguyên thay thế, gọi là tài nguyên nguồn nhân lực, hoặc tài nguyên con người. - Nâng cao hơn nữa đến chất lượng con người và chất lượng cuộc sống. Chất lượng con người, trước hết, phải tính đến vấn đề chất lượng sinh nở. Ngành y tế phải có những quy định cụ thể về chất lượng sinh nở như kiểm tra sức khỏe, bệnh tật, tính di truyền,… trước khi đăng ký giá thú và vợ chồng quan hệ để sinh con. Hiện nay, tại Việt Nam, đang có tình trạng đẻ vô tội vạ, đẻ không tính toán, cân nhắc, nhất là ở nông thôn, làm cho những đứa con sinh ra bị còi cọc, không phát triển được trí tuệ. Thậm chí có những người bị nhiễm chất độc da cam mà vẫn đẻ ra những đứa con dị tật. Có người tính rằng, tại Việt Nam, cứ 10 đứa trẻ sinh ra, có 1 đứa bị dị tật bẩm sinh. Vì vậy, phải tăng cường chất lượng hoạt động của các cơ quan chức năng. Khi có chất lượng con người, phải tính đến chất lượng cuộc sống, có nghĩa là phải nuôi dưỡng về vật chất và tinh thần của con người sinh ra, bảo đảm cho họ có thể lực dồi dào, có trí tuệ minh mẫn. Về vấn đề này, Việt Nam còn kém xa so với nhiều nước.  - Nhà nước xây dựng chiến lược nguồn nhân lực gắn với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế; xác định thật rõ xây dựng nguồn nhân lực là trách nhiệm của các nhà hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách, trách nhiệm của cả hệ thống chính trị.  - Chính phủ và các cơ quan chức năng của Chính phủ có biện pháp giải quyết hiệu quả những vấn đề vừa cấp bách, vừa lâu dài của nguồn nhân lực, trong đó có vấn đề khai thác, đào tạo, sử dụng nguồn nhân lực, tạo một chuyển biến thật sự mạnh mẽ trong việc khai thác, đào tạo, sử dụng từ nguồn nhân lực trong công nhân, nông dân, trí thức, doanh nhân, dịch vụ,…  - Nhà nước phải có kế hoạch phối hợp tạo nguồn nhân lực từ nông dân, công nhân, trí thức; có kế hoạch khai thác, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng các nguồn nhân lực cho đúng.  - Không ngừng nâng cao trình độ học vấn. Hiện nay, nhìn chung, trình độ học vấn bình quân của cả nước mới khoảng lớp 6/ đầu người (có người tính là lớp 7). Tỷ lệ biết chữ mới đạt khoảng 93% (có người tính là 94 - 95%). Vì vậy, vấn đề đặt ra một cách gay gắt là phải bằng mọi biện pháp và đầu tư để nâng cao trình độ học vấn của cả nước lên, bằng không, sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Thực hiện toàn xã hội học tập và làm việc. - Đảng và Nhà nước cần có chính sách rõ ràng, minh bạch, đúng đắn đối với việc việc sử dụng, trọng dụng nhân tài, nhất là trọng dụng các nhà khoa học và chuyên gia thật sự có tài năng cống hiến. Phải có sự phân biệt rành mạch giữa tài thật và tài giả, giữa những người cơ hội và những người chân chính trong các cơ quan công quyền. Không giải quyết được vấn đề này một cách rõ ràng, thì nhân tài của đất nước sẽ lại "rơi lả tả như lá mùa thu", "vàng thau lẫn lộn", làm cho những người thật sự có tài năng không phát triển được, trong khi đó, những người cơ hội, “ăn theo nói leo”, xu nịnh, bợ đỡ lại tồn tại trong các cơ quan công quyền. - Chính phủ cần có những quyết định đúng đắn về việc được phép đầu tư vào cái gì trong nguồn nhân lực; cải thiện chính sách tiền tệ và tài chính, phát triển cơ sở hạ tầng, hiện đại hóa giáo dục là những vấn đề quan trọng vào thời điểm hiện nay. - Cải thiện thông tin về nguồn nhân lực theo hướng rộng rãi và dân chủ, làm cho mọi người thấy được tầm quan trọng của phát triển nguồn nhân lực của nước ta và trên thế giới. Mở những đợt tuyên truyền rộng rãi, thấm sâu vào lòng người về nguồn nhân lực, chất lượng sinh, sống, thông tin về học tập, giáo dục ngành nghề trong các tầng lớp nhân dân, nhất là trong thanh niên, học sinh.  - Hằng năm, Nhà nước cần tổng kết về lý luận và thực tiễn về nguồn nhân lực ở Việt Nam, đánh giá đúng mặt được, mặt chưa được, kịp thời rút ra những kinh nghiệm, trên cơ sở đó mà xây dựng chính sách mới và điều chỉnh chính sách đã có về nguồn nhân lực ở Việt Nam, như chính sách hướng nghiệp, chính sách dạy nghề, học nghề, chính sách quản lý nhà nước về dạy nghề, học nghề; chính sách dự báo nhu cầu lao động và cân đối lao động theo ngành nghề, cấp trình độ; chính sách thu hút các thành phần kinh tế tích cực tham gia vào lĩnh vực tạo nguồn nhân lực cho đất nước; chính sách chi ngân sách để đào tạo nguồn nhân lực; chính sách đối với các tổ chức NGO có liên quan đến vấn đề nhân tài, nhân lực; chính sách đối với lao động đi làm việc ở nước ngoài và thu hút các thành phần kinh tế tham gia đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài; chính sách bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của nông dân, công nhân, trí thức, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho người lao động. Bên cạnh đó, Chính phủ và các cơ quan chức năng phải có chính sách, biện pháp kết hợp thật tốt giữa đào tạo và sử dụng trong tổng thể phát triển kinh tế của đất nước, đáp ứng có hiệu quả nguồn lao động có chất lượng cao cho yêu cầu phát triển của nền kinh tế.  Tóm lại, nếu vấn đề phát triển nguồn nhân lực không được chú trọng, thì việc đầu tư phát triển theo chiều sâu sẽ khó lòng đạt được, từ đó việc kết hợp với đầu tư phát triển theo chiều rộng sẽ càng khó khăn hơn, dẫn đến việc đất nước sẽ không thể phát triển để trở thành một nước công nghiệp mà mãi mãi chỉ là một nước nông nghiệp lạc hậu. Và trên thực tế, có nhiều quốc gia đang phát triển, trở thành nước có thu nhập trung bình, nhưng rất ít nước tiếp tục đi lên được để trở thành một nước công nghiệp, vì những nước này, không có chính sách hiệu quả để phát triển nguồn nhân lực. III.2.2, Giải pháp đầu tư nâng cấp khoa học công nghệ: - Tạo lập môi trường thể chế gắn kết các hoạt động Khoa học và Công nghệ với các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. -Tạo lập các thể chế gắn kết các hoạt động Khoa học và Công nghệ với sản xuất kinh doanh. Rà soát các quy định có liên quan đến quản lý đầu tư, thuế, tín dụng cho các hoạt động Khoa học và Công nghệ nhằm tạo ra cơ chế đồng bộ khuyến khích đầu tư đúng mức cho các hoạt động nghiên cứu - phát triển. Thông qua cơ chế khuyến khích, tạo dựng môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp đầu tư nghiên cứu khoa học và đổi mới công nghệ. Hỗ trợ các doanh nghiệp áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế ISO 9000, ISO 14000, HACCP, SA, TQM...; Các cơ quan quản lý nhà nước áp dụng ISO 9000. Hỗ trợ từ ngân sách tỉnh cho các dự án nghiên cứu - phát triển và thiết kế thử nghiệm của các doanh nghiệp có tầm quan trọng đối với nền kinh tế của tỉnh. Nâng tỷ lệ đầu tư của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh cho nghiên cứu, phát triển và thiết kế thử nghiệm lên mức 30%. Áp dụng cơ chế đấu thầu ký kết hợp đồng khoán gọn trong việc thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu, phát triển công nghệ có tầm quan trọng đối với nền kinh tế - xã hội của tỉnh. Có cơ chế khuyến khích thành lập các doanh nghiệp nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ dưới nhiều hình thức khác nhau (công ty cổ phần, trách nhiệm hữu hạn hoặc liên doanh...) để đưa nhanh các kết quả nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ vào sản xuất. - Tạo lập thị trường công nghệ. Triển khai các chợ phiên và chợ ảo “Công nghệ và Thiết bị”; hình thành cơ chế vận hành thị trường công nghệ ngay trên địa bàn của tỉnh. Hình thành cơ quan tư vấn thị trường công nghệ, đăng ký hoạt động Khoa học và Công nghệ, sỡ hữu trí tuệ, thẩm định các dự án và hợp đồng chuyển giao công nghệ độc lập với các cơ quan quản lý nhà nước để áp dụng các yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tạo lập thị trường lao động Khoa học và Công nghệ thông qua việc áp dụng chế độ khuyến khích và ưu đãi, áp dụng chế độ biên chế linh hoạt để phát triển nguồn nhân lực cho Khoa học và Công nghệ. Khuyến khích phát triển các dịch vụ tư vấn về đầu tư và chuyển giao công nghệ gắn liền với dịch vụ tài chính – tín dụng để đầy nhanh và mở rộng áp dụng các kỹ thuật tiến bộ trong nông nghiệp và phát triển nông thôn, đổi mới công nghệ và đưa nhanh các công nghệ hiện đại vào các ngành công nghiệp và dịch vụ của tỉnh. Thể chế hóa việc cung cấp thông tin thống kê, thông tin kinh tế - xã hội như một loại dịch vụ hành chính công cho các đối tượng cần thông tin. - Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống quản lý Khoa học và Công nghệ. Chủ động tiến hành là đổi mới, hoàn thiện hệ thống quản lý Khoa học và Công nghệ bao gồm: đổi mới cơ chế quản lý, cơ chế tài chính, cơ chế lập kế hoạch và tổ chức lại bộ máy quản lý Khoa học và Công nghệ. - Về cơ chế quản lý Khoa học và Công nghệ. Thực hiện quản lý Khoa học và Công nghệ bằng pháp luật, chính sách, chiến lược và kế hoạch phát triển Khoa học và Công nghệ gắn với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội uzcr tỉnh; bằng phân bố các nguồn lực theo kế hoạch đầu tư, theo hợp đồng thông qua đấu thầu; bằng tổ chức kiểm tra, đánh giá kết quả thực hiện. Phân cấp quản lý nha nước về Khoa học và Công nghệ và nâng cao trách nhiệm cho các Sở, Ban, ngành và các huyện thị trong tỉnh. Đồng thời có cơ chế quản lý Khoa học và Công nghệ tập trung thông qua Sở Khoa học và Công nghệ, khắc phục tình trạng mâu thuẫn, cản trở, chồng chéo lẫn nhau trong hoạt động khoa học và công nghệ. Liên kết, phối hợp chặt chẽ các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, phát triển các ngành với chính sách phát triển Khoa học và Công nghệ trên địa bàn tỉnh. Tăng cường vai trò tư vấn, tham mưu của Hội đồng Khoa học và Công nghệ các cấp, nhằm hỗ trợ cho việc lựa chọn các định hướng ưu tiên, tuyển chọn các đề tài, dự án đầu tư; tư vấn, thẩm định và đánh giá các hoạt động Khoa học và Công nghệ và các hoạt động kinh tế - xã hội. - Về cơ chế tài chính cho hoạt động Khoa học và Công nghệ. Đa dạng hóa nguồn kinh phí cho các hoạt động Khoa học và Công nghệ, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư cho hoạt động Khoa học và Công nghệ thông qua công cụ thuế, tín dụng ưu đãi. Cho phép các doanh nghiệp có điều kiện khấu hao nhanh đối với các công nghệ thuộc hướng ưu tiên và trọng điểm của tỉnh, được sử dụng lợi nhuận trước thuế để chi cho các hoạt động đổi mới công nghệ, cấp một phần kinh phí cho nghiên cứu, triển khai và thử nghiệm để đổi mới sản phẩm. Có chính sách ưu đãi đối với các doanh nghiệp mới được thành lập dựa trên các kết quả nghiên cứu, triển khai, thử nghiệm để nhanh chóng đưa Khoa học và Công nghệ vào sản xuất. Thành lập Quỹ phát triển Khoa học và Công nghệ, hoạt động theo nguyên tắc tài trợ không hoàn lại hoặc có hoàn lại một phần, cho vay với lãi suất thấp, đóng góp cổ phần vào các doanh nghiệp mới được thành lập dựa trên các kết quả nghiên cứu Khoa học và Công nghệ, đầu tư mạo hiểm vào các lĩnh vực công nghệ cao.Nâng cao hiệu quả sử dụng tài chính cho hoạt động Khoa học và Công nghệ thông qua các nguyên tắc: cạnh tranh bình đẳng; đầu tư theo hiệu quả công việc; mở rộng quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm về tài chính (khoán gọn). - Về cơ chế lập và triển khai kế hoạch Khoa học và Công nghệ. Chuyển từ kế hoạch pháp lệnh sang kế hoạch hướng dẫn, kế hoạch hành chính sang kế hoạch “thị trường”, mở rộng tối đa đối tượng và quyền tự chủ cho các cở sở lập kế hoạch. Phân cấp rõ ràng trong lập kế hoạch phát triển Khoa học và Công nghệ trên địa bàn tỉnh. Sở Khoa học và Công nghệ tập trung xây dựng kế hoạch định hướng để thực hiện các nhiệm vụ ưu tiên liên ngành thông qua các chương trình mục tiêu, sử dụng hệ thống kiểm tra, đánh giá và các công cụ tài chính để điều tiết quá trình thực hiện. Công khai việc lập, triển khai, giám sát kế hoạch Khoa học và Công nghệ. Thể chế hóa việc tổ chức đánh giá kết quả thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, lấy kết quả ứng dụng vào thực tiễn sản xuất, đời sống và quản lý xã hội làm chỉ số đánh giá quan trọng nhất. - Kiện toàn bộ máy quản lý khoa học – công nghệ. Kiện toàn Hội đồng Khoa học Kỹ thuật của tỉnh theo hướng nâng cao vai trò tư vấn và phản biện, thẩm định những nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Củng cố hệ thống các Hội đồng Khoa học Kỹ thuật chuyên ngành. Thực hiện biên chế chuyên trách quản lý Khoa học và Công nghệ ở cấp huyện. Củng cố các mặt hoạt động của Liên hiệp các Hội khoa học kỹ thuật tỉnh. - Giải pháp phát triển tiềm lực Khoa học và Công nghệ. Quán triệt quan điểm“ trí thức, đội ngũ Khoa học và Công nghệ là nguồn lực quan trọng nhất cho sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa”. Đa dạng hóa các hình thức đào tạo đồng thời nâng cao chất lượng, đổi mới cơ cấu đào tạo, phương thức đào tạo nguồn nhân lực Khoa học và Công nghệ; Phát huy cao độ tiềm năng của đội ngũ Khoa học và Công nghệ hiện có; Đảm bảo thu nhập và quyền sở hữu trí tuệ cho cán bộ Khoa học và Công nghệ. Xây dựng chính sách đào tạo, thu hút nhân tài cho những ngành khoa học công nghệ ưu tiên và thực sự có nhu cầu. - Tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho Khoa học và Công nghệ. Xây dựng và củng cố hệ thống các trạm trại, Trung tâm ứng dụng chuyển giao công nghệ, Trung tâm giống cây trồng vật nuôi, các Trung tâm công nghệ thông tin, Trung tâm y tế dự phòng. Đầu tư nâng cấp trang thiết bị và cơ sở hạ tầng cho các phòng thí nghiệm hiện có. Có chính sách ưu đãi thu hút đầu tư Khoa học và Công nghệ từ ngoài tỉnh. Tin học hóa các cở sở dữ liệu Khoa học và Công nghệ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Khai thác, tận dụng các năng lực Khoa học và Công nghệ trong nước và quốc tế. Đa dạng hóa các mối quan hệ và các hình thức hợp tác nghiên cứu khoa học và triển khai công nghệ. Chú trọng hợp tác Khoa học và Công nghệ với các tổ chức trong nước và quốc tế. Đầu tư đúng mức cho việc hợp tác nghiên cứu – phát triển để thích ứng các công nghệ mới được nhập vào trên địa bàn tỉnh. Tạo điều kiện thuận lợi cho các cán bộ Khoa học và Công nghệ nâng cao kiến thức và trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Đồng thời, tạo môi trường thể chế và các chính sách thích hợp để thu hút cán bộ Khoa học và Công nghệ trẻ, các chuyên gia ngoài tỉnh đến công tác ở tỉnh. III.3, Giải pháp kết hợp hiệu quả đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu. Tại kỳ họp thứ sáu, Ủy ban Kinh tế của Quốc hội đánh giá cao kết quả điều hành của Chính phủ khi tạo ra sự phục hồi ấn tượng cho nền kinh tế. Tuy nhiên, Ủy ban nhận định, nền kinh tế vẫn tăng trưởng theo quy mô chiều rộng. Đây là hạn chế đáng kể nhất của nền kinh tế Việt Nam hiện nay, cũng là điều mà Chính phủ đang cố gắng điều chỉnh. Nhưng để thành công, cùng với Chính phủ, cần có sự chuyển mình trong từng "tế bào" của nền kinh tế. Để có thể kết hợp đầu tư chiều rộng và chiều sâu không thể thực hiện một sớm một chiều mà cần một phương hướng, giải pháp cụ thể cho các doanh nghiệp Việt Nam. Sau đây, Nhóm xin trình bày một số nhứng giải pháp cụ thể như sau: III.3.1, Thứ nhất là nhóm giải pháp cho doanh nghiệp. Những tháng đầu năm 2010, tình hình sản xuất, kinh doanh gặp nhiều khó khăn. Nguyên nhân là đầu ra sản phẩm tiêu thụ chậm do tiêu dùng sụt giảm. Mặt khác, nhiều mặt hàng còn phải chịu sức ép giảm giá vì cạnh tranh trên thị trường. Ngoài ra, chi phí sản xuất và lao động tăng cao so với trước cũng gây nhiều khó khăn hơn trong việc sản xuất, kinh doanh. Chính vì vậy, doanh nghiệp phải nỗ lực thường xuyên, trong đó tập trung đẩy mạnh việc tái cấu trúc tổ chức sản xuất như sắp xếp lại lao động, máy móc. Loại bỏ những máy móc lỗi thời, thay vào đó là đầu tư máy móc công nghệ mới, nhỏ gọn ít chiếm diện tích. Phối hợp chặt chẽ với khách hàng, nhà cung cấp nguyên vật liệu, máy móc. Mặt khác, định hướng ra cách làm cụ thể, đặt ra mục tiêu rõ ràng từng lĩnh vực và công bố rộng rãi cho toàn bộ CB-CNV biết. Từ đó, tùy từng vị trí công việc mà giao cho mỗi CB-CNV tự giác hoàn thành nhiệm vụ, nâng cao trách nhiệm cá nhân.  Có hai vấn đề cần đặc biệt chú ý với doanh nghiệp Việt Nam. Đó là sự lãng phí về nguồn nhân lực và lãng phí vốn đầu tư vào khoa học kĩ thuật kém hiệu quả. Để kết hợp giữa tăng số lượng lao động và tàng hiệu quả lao động doanh nghiệp cần chú ý những điểm sau: - Năng suất lao động của các doanh nghiệp hạn chế có nguyên nhân việc cung ứng các đầu vào còn nhiều trở ngại, đặc biệt là lao động có trình độ. Thực tế cho thấy, cơ cấu đào tạo giữa các cấp học mất cân đối "thừa thầy, thiếu thợ". Tỷ lệ đào tạo ở nước ta hiện nay giữa đại học, cao đẳng - trung cấp chuyên nghiệp - học nghề là 10 : 9,8 : 30,3 (so với các nước là 1 : 4 : 10). Doanh nghiệp cần phải tìm cho mình một cơ cấu lao động hợp lí, tránh để chi phí quản lí quá cao, cần tập trung nâng cao trình độ của “thợ” để tăng năng suất lao động. - Rà soát lại từ tổ chức quản lí, tổ chức sản xuất, thiết bị, công nghệ, lao động, vật tư, nguyên liệu... đánh giá những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức (theo phương pháp SWOT) đối với từng khâu, từng bộ phận, từng vấn đề quan trọng trong doanh nghiệp và toàn bộ doanh nghiệp. Trên cơ sở đó để tìm biện pháp khắc phục cho từng vấn đề cụ thể, từ khâu và từng bộ phận cụ thể cũng như tổng thể doanh nghiệp. - Đổi mới tổ chức quản lí doanh nghiệp cho phù hợp với điều kiện hiện nay, bao gồm đổi mới hình thức doanh nghiệp, bộ máy quản lí doanh nghiệp và tổ chức sản xuất - kinh doanh trong doanh nghiệp. - Sử dụng nhân lực có hiệu quả, chú trọng từ khâu tuyển chọn, bố trí, sử dụng lao động, bảo đảm lao động có trình độ, năng lực phù hợp; đồng thời, tăng cường đào tạo và đạo tạo lại đến nâng cao trình độ, kỹ năng của người quản lí và lao động; tạo môi trường làm việc thân mật, cởi mở nhằm làm cho nhân viên gắn bó hơn với doanh nghiệp, phát huy sáng kiến, tăng khả năng làm việc theo nhóm. - Áp dụng các công cụ quản lí năng suất trong doanh nghiệp hiện đang được áp dụng tại nhiều doanh nghiệp trên thế giới, trong đó có các mô hình, quy trình, hệ thống quản lí như công cụ quản lí lãng phí (7W), mô hình Kaizen của Nhật Bản (5S), hệ thống quản lí chất lượng ISO, TQM... Để tăng hiệu quả vốn đầu tư vào công nghệ doanh nghiệp cần chú ý: - Đánh giá lại năng lực thực tế, sức cạnh tranh và khả năng phát triển của đơn vị mình, có tính đến thị trường khu vực và thế giới, xây dựng chiến lược đầu tư Công nghệ mới, hoàn thiện hệ thống quản lý phù hợp cho từng giai đoạn từ nay đến năm 2010 và 2020. - Xây dựng chiến lược và tổ chức thực hiện kế hoạch đào tạo, phát triển đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ đầu đàn, quản trị doanh nghiệp, quản lý dự án đạt trình độ ngang tầm khu vực và thế giới. Những cán bộ này phải được trang bị ngoại ngữ và am hiểu sâu về công nghệ sản xuất, công nghệ quản lý, các Tiêu chuẩn kỹ thuật, Quy chuẩn xây dựng và luật pháp quốc tế. Đào tạo và nâng cao trình độ chuyên môn để ổn định đội ngũ thợ có tay nghề bậc cao, tăng năng suất lao động, sản phẩm làm ra có uy tín về chất lượng và được Công nhận trình độ quốc tế. - Các đơn vị phải chủ động nắm bắt và vận dụng các quy luật của kinh tế thị trường trong quản lý và điều hành sản xuất kinh doanh. Tăng cường công tác tiếp thị, thông tin thị trường, nâng cao năng lực cạnh tranh, trong đó đặc biệt coi trọng việc xây dựng, quảng bá thương hiệu sản phẩm, thương hiệu doanh nghiệp; tăng cường sự hợp tác, liên kết giữa các đơn vị sản xuất với các hộ tiêu thụ lớn. - Tăng cường công tác thông tin khoa học công nghệ, các kiến thức về kinh tế, thị trường quốc tế; đầu tư trang thiết bị đủ mạnh đặc biệt là các thiết bị chuyên ngành, có Chương trình Phần mềm ở trình độ cao, được quản lý chặt chẽ. III.3.2, Thứ hai là nhóm giải pháp vĩ mô cho chính phủ. Về vấn đề quy hoạch.           Đây là một trong những vấn đề rất khoa học, rất chiến lược và có ảnh hưởng lâu dài đến chính sách phát triển chung của quốc gia. Trong báo cáo của Chính phủ tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XI đã nêu những yếu kém cần được khắc phục. Đó là . Chất lượng một số dự án quy hoạch chưa cao, chưa có tầm nhìn xa. Quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng hệ thống giao thông, hệ thống cảng còn mang tính tình thế, nhu cầu đến đâu phát triển đến đó; hệ thống các cảng biển, cảng sông, hệ thống sân bay chưa tính hết sự gắn kết trong việc khai thác kết cấu hạ tầng hiện có và khả năng huy động vốn nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng, tiết kiệm vốn đầu tư.           . Quy hoạch chưa phù hợp với cơ chế thị trướng, chưa theo kịp với quá trình thay đổi của các yếu tố khách quan, các dự báo tác động của các yếu tố bên ngoài như thị trướng thế giới, tiến bộ công nghệ. Nhiều quy hoạch còn xuất phát tù ý muốn chủ quan, chưa gắn với nghiên cứu nhu cầu thị trưởng và khả năng của doanh nghiệp; chưa chú ý thu hút sự tham gia của các thành phần kinh tế.           . Quy hoạch chưa được thướng xuyên cập nhật, bổ sung và điều chỉnh kịp thời, do đó một số quy hoạch bị lạc hậu với tình hình thực tiễn, không đáp ứng yêu cầu; không là căn cứ để xây dựng kế hoạch. Vì thế trong lâu dài chính phủ cần có những qui hoạch hợp lí tận dụng được sự phát triển đẩu tư theo chiều rộng như hiện nay, tránh lãng phí, thất thoát vốn, đầu tư rất nhiều mà hiệu quả thấp, không phù hợp với nhu cầu xã hội. Về Đổi mới cơ chế hoạt động và xây dựng lực lượng KHCN.           Đổi mới cơ chế và tổ chức hoạt động KHCN ở nước ta trong thời gian tới theo hướng không bao cấp và không hành chính hóa, nhằm chuyển các tổ chức khoa học nghiên cứu triển khai sang hoạt động theo cơ chế doanh nghiệp khoa học. Thực chất là để các tổ chức này thông qua việc cung cấp kết quả nghiên cứu cho xã hội mà tự trang trải và phát triển. Cần xóa bỏ các rào cản đang hạn chế việc ứng dụng KHCN vào sản xuất, thi công.           Cần Nghiên cứu gắn kết chặt chẽ hoạt động nghiên cứu với đào tạo, hoạt động của các trường đại học, cao đẳng với viện nghiên cứu, công ty tư vấn cho phù hợp theo hướng phát triển thị trường KHCN.           Cần ưu tiên thúc đẩy chuyển giao công nghệ, nâng cao năng lực để làm chủ công nghệ, tiến tới đổi mới công nghệ; đi xa hơn là sáng tạo công nghệ.           Nâng cao năng lực quản lý và nghiên cứu ứng dụng KHCN.           Nghiên cứu đào tạo, bồi dưỡng, bổ sung đội ngũ Kỹ sư trưởng, xác định chức danh, phương hướng đào tạo loại cán bộ này - những người giỏi cả lý thuyết lẫn thực tế. Chú trọng công tác đào tạo cán bộ KHCN chủ chốt, đầu ngành trong ứng dụng và chuyển giao công nghệ trên từng lĩnh vực. Kết hợp thu hút đầu tư vào Việt Nam với tăng hiệu quả vốn. Có thể thấy,  hiện nay, khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu vẫn là nguyên nhân chính khiến vốn FDI vào nước ta thấp so với cùng kỳ và không được như mong muốn. Tuy nhiên, cũng không thể không kể đến những nguyên nhân chủ quan làm hạn chế luồng vốn FDI đăng ký cũng như vốn FDI thực hiện tại Việt Nam như:  thủ tục hành chính rườm rà; hạ tầng yếu kém, nhất là khả năng cung cấp điện, cấp thoát nước, hệ thống đường giao thông, cảng biển... phục vụ sản xuất và xuất nhập khẩu hàng hóa; nguồn nhân lực chất lượng cao còn thiếu;  công tác xúc tiến đầu tư chưa thật sự hiệu quả và thiếu tính chuyên nghiệp. Nhưng, bên cạnh những hạn chế, thách thức, chúng ta có những cơ hội để nâng cao khả năng thu hút FDI vào nước ta. Theo kết quả nghiên cứu mới nhất của Hội nghị Liên hợp quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD), Việt Nam nằm trong 15 nước được đánh giá cao về môi trường đầu tư nước ngoài và là điểm đến hấp dẫn cho nguồn vốn FDI trong năm 2010.   Ðể tận dụng những lợi thế và biến thách thức thành thời cơ trong thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI, nhiều chuyên gia cho rằng, cần tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư thông thoáng, hấp dẫn, và đẩy mạnh giải ngân, trong đó chú trọng đến các địa phương có tiềm năng, song chưa tạo được bước đột phá trong thu hút FDI. Tập trung giải quyết những yếu kém về kết cấu hạ tầng giao thông, điện nước; về nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng; về năng lực của bộ máy quản lý nhà nước; tháo gỡ những khó khăn về thủ tục hành chính, giải phóng mặt bằng, tạo điều kiện thuận lợi để đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn FDI đăng ký. Cần rà soát chặt chẽ và kiên quyết xử lý những dự án "treo" kéo dài, chủ đầu tư không có khả năng thu xếp vốn, dự án chuyển đổi mục đích... tạo cơ hội cho các đối tác khác vào đầu tư, tránh lãng phí về cơ sở hạ tầng, mặt bằng sản xuất, kinh doanh.  Xây dựng những quy định cụ thể, chặt chẽ để ngăn chặn các hoạt động huy động vốn đầu tư trong nước của các nhà đầu tư nước ngoài ở nhiều dự án, nhất là các dự án bất động sản xây dựng căn hộ và văn phòng cho thuê. Hình thức này đang gây ra tình trạng thu hút vốn của các doanh nghiệp trong nước, tạo thêm trở ngại cho việc phát triển khu vực kinh tế trong nước trong điều kiện khó khăn hiện nay. Ðặc biệt, các cơ quan quản lý cần chú trọng hơn nữa đến những ảnh hưởng về môi trường và các thiệt hại về tài nguyên trong việc cấp phép các dự án FDI; giám sát chặt chẽ việc thực hiện các cam kết không gây ô nhiễm môi trường của các dự án đầu tư; nghiêm khắc xử lý những hành vi gây ảnh hưởng đến môi trường, làm thiệt hại lợi ích của nhân dân. Việt Nam có dự án sử dụng vốn hỗ trợ phát triển chính thức của nhóm 5 ngân hàng: NH Phát triển Châu Á, Cơ quan phát triển Pháp, NH Hợp tác quốc tế Nhật Bản, NH Tái thiết Đức, NH Thế giới. Phối hợp với nhóm 5 ngân hàng này để thực hiện các giải pháp cấp bách và kế hoạch hành động cụ thể cải thiện tình hình thực hiện các chương trình, dự án ODA. Tổ chức khung theo dõi và đánh giá các chương trình, dự án ODA để có những đánh giá, điều chỉnh kịp thời nhằm hạn chế tình trạng chậm giải ngân và để xây dựng kế hoạch cho những dự án tiếp theo. Nguồn vốn của chúng ta khê đọng quá nhiều, quá lâu, phải biết cách để sử dụng vốn cho hợp lí, giảm độ trễ vốn đầu tư, phải biết giải ngân có hiệu quả, đúng lúc, đúng chỗ. Chúng ta cần thi hành luật chặt chẽ hơn, đưa ra các điều lệ để tránh việc có những người dựa vào những kẽ hở để lách luật, để trục lợi cho cá nhân mình. Cần thường xuyên rà soát, bổ sung, hoàn thiện những quy định, quy chế, cơ chế phòng, chống lãng phí, thực hành tiết kiệm. Thẩm định kĩ những dự án đang và sẽ đầu tư, bảo đảm khách quan, khoa học, hiệu quả. Cúng cố tổ chức, bộ máy, cán bộ các cấp, các ngành, cơ quan đầu tư. IV, Kết luận: Đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu có mối quan hệ mật thiết với nhau. Đầu tư theo chiều rộng là nền tảng để đầu tư theo chiều sâu. Sau đó, đầu tư theo chiều sâu lại tạo điều kiện để đầu tư theo chiều rộng ở cả những khía cạnh cũ và mới. Hai hình thức đầu tư này luôn đan xen, bổ sung lẫn nhau trong hoạt động đầu tư. Hiểu được mối quan hệ này là cơ sở để chúng ta kết hợp hai hình thức đầu tư một cách có hiệu quả. Có như vậy, nguồn vốn đầu tư mới đem lại nhiều lợi ích nhất. Hiệu quả đầu tư được nâng cao. Trong giai đoạn hiện nay, khi Việt Nam hội nhập với nền kinh tế thế giới, song song với những những thuận lợi là những khó khăn không hề dễ giải quyết mà chúng ta phải vượt qua. Người ta thường nói đến “bẫy thu nhập trung bình”. Thuật ngữ này dùng để chỉ tình trạng mắc kẹt của nhiều quốc gia đã thoát nghèo, song không giàu nổi do nhiều nguyên nhân. Để thoát ra khỏi cái bẫy này, nền kinh tế Việt Nam cần phải tự tạo ra được những sản phẩm nội địa có giá trị cao nhằm đảm bảo tăng trưởng bền vững. Muốn vậy, hiệu quả của hoạt động đầu tư phải càng ngày càng được nâng cao. Kết hợp hiệu quả hai hình thức đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu là một trong những chìa khoá để giải quyết nhiệm vụ này, đưa nền kinh tế Việt Nam lên một tầm cao mới. C, Tài liệu tham khảo: 1. Giáo trình Kinh tế Đầu tư, Nhà Xuất bản Đại học Kinh tế Quốc dân năm 2007. 2. Website của Tổng cục Thống kê Việt Nam: 3. Website Cổng thông tin điện tử của Bộ Kế hoạch và Đầu tư: 4. Website của báo Thanh niên: 5. Báo điện tử Văn hoá doanh nhân: 6. Đề án môn học của Trần Hoài Việt CN43B, đề tài: “Ngành dệt may Việt Nam trên con đường hội nhập”.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc25618.doc
Tài liệu liên quan