Đề tài Mối quan hệ giữa tạo lập, thu hút và sử dụng vốn. Lấy thực trạng tại Việt Nam để chứng minh

Năm là, cần chú trọng công tác đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý và công nhân kỹ thuật, đáp ứng yêu cầu của cách mạng khoa học – công nghệ và của các doanh nghiệp. Đối với cán bộ quản lý cần chú trọng đào tạo cả kiến thức chuyên môn, trình độ ngoại ngữ lẫn phẩm chất đạo đức. Việc nắm vững các kiến thức về luật pháp quốc tế, về thương trườngthế giới cũng cần được lưu tâm. Việc đào tạo và đào tạo lại công nhân kĩ thuật để phù hợp với yêu cầu tuyển dụng của các nhà đầu tư nước ngoài là rất cấp thiết để giải quyết tình trạng thừa lao động phổ thông, thiếu lao động có trình độ. Bộ Kế hoạch và Đầu tư cần chủ động cùng các bộ tổ chức các lớp tập huấn cho đội ngũ cán bộ công chức quản lý nhà nước và cán bộ trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Bộ Giáo dục và Đào tạo cần tổ chức đào tạo chính quy các cán bộ làm công tác quản lý đầu tư nước ngoài, các cán bộ quản lý tại các doanh nghiệp. Cần đa dạng hóa các loại hình đào tạo, mở rộng phạm vi đào tạo dạy nghề cho đội ngũ công nhân kĩ thuật tại các địa phương, đặc biệt là tại các vùng sâu, vùng xa, hoặc những địa phương có thế mạnh về lao động. Việc đào tạo cần được tiến hành đồng thời, có hệ thống cả về chuyên môn nghiệp vụ, văn hoá, ngoại ngữ, luật pháp. Cần cải tiến nội dung chương trình đào tạo theo hướng coi trọng thực hành, thường xuyên kiểm tra phân bậc tay nghề thông qua hình thức thi tay nghề, thi tuyển công nhân tài năng . Cần gắn chặt vịệc đào tạo nghề tại các trường với các doanh nghiệp, có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp tham gia vào quá trình đào tạo và đào tạo lại lực lượng lao động phù hợp với đặc thù doanh nghiệp. Cần nghiên cứu, rút kinh nghiệm và phát triển mô hình liên doanh đào tạo như dự án Trung tâm đào tạo kĩ thuật Việt Nam – Singapore (VSTTC) tại Bình Dương. Tranh thủ tối đa sự hợp tác, đầu tư của nước ngoài, các dự án quốc tế để từng bước đưa cán bộ quản lý và công nhân ra học tập và làm việc ở nước ngoài. Mặt khác, đẩy mạnh việc xã hội hoá trong đào tạo cán bộ quản lý và công nhân kỹ thuật; khuyến khích các tổ chức tập thể, cá nhân tham gia vào quá trình đào tạo lực lượng lao động.

doc60 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1525 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mối quan hệ giữa tạo lập, thu hút và sử dụng vốn. Lấy thực trạng tại Việt Nam để chứng minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chưa đủ thủ tục đầu tư. Chỉ tính riêng các dự án do Trung ương quản lý: năm 2001có 375 dự án thiếu thủ tục đầu tư ; năm 2002 có 598 dự án; năm 2003 có 365 dự án; năm 2004 có 377 dự án; năm 2005 có 380 dự án. Tiến độ thi công chậm trễ, kéo dài mà nguyên nhân là do: Mặt bằng giải phóng chậm trễ chủ yếu do chính sách đền bù giải phóng còn nhiều bất cập gây lãng phí thất thoát, khiếu kiện kéo dài. Bố trí dự án dàn trải, nguồn vốn bố trí không đáp ứng dẫn đến tình trạng mất cân đối giữa nhu cầu và khả năng, mặc dù đã có những cố gắng chấn chỉnh nhưng tình hình nợ đọng còn rất lớn, khối lượng đầu tư dở dang cao. Công trình chậm đưa vào sản xuất sử dụng gây lãng phí lớn: năm 2002 có 67,5% công trình đầu tư dở dang; năm 2003 có 63,1%; năm 2004 có 70,6%; năm 2005 có 61%, ảnh hưởng trực tiếp đến tiến độ xây dựng công trình. Năng lực tài chính của nhà thầu còn hạn chế do đó nhiều doanh nghiệp đang ở trong tình trạng hết sức khó khăn, một số doanh nghiệp bị phá sản.  Tình trạng thất thoát, lãng phí vốn đầu tư diễn ra trong tất cả các giai đoạn của quá trình đầu tư.Qua kết quả kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, qua xét sử nhiều vụ án liên quan đến quá trình thực hiện đầu tư từ nguồn vốn nhà nước cho thấy tình trạng lãng phí, thất thoát xẩy ra ở các ngành, các địa phương và ở tất cả giai đoạn của quá trình đầu tư. Thất thoát lãng phí trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư: Sai lầm trong chủ trương đầu tư, bắt nguồn từ qui hoạch sai hay không có qui hoạch, chất lượng báo cáo tiền khả thi thấp, thường “bỏ qua điều tra xã hội học, môi trường, các công trình hạ tầng hoặc điều tra không kỹ thị trường tiêu thụ và các yếu tố cho sản xuất kinh doanh”. Sai lầm trong quyết định đầu tư bắt nguồn từ chủ trương đầu tư sai: đầu tư theo “phong trào”, theo ý muốn chủ quan, chạy theo thành tích, và còn do sai lầm trong lập và thẩm định báo cáo khả thi dẫn đến sai lầm trong việc chọn địa điểm đầu tư, xác định qui mô đầu tư không phù hợp, không đồng bộ, lựa chọn công nghệ sản xuất không phù hợp hoặc lạc hậu. Các sai lầm thiếu sót trong quyết định đầu tư dẫn đến hậu quả: Công trình xây dựng xong đưa vào sử dụng không đạt hiệu quả kinh tế xã hội, thậm chí không có hiệu quả (nhà máy không có đủ nguyên liệu, chợ không có người họp, cảng không khai thác hết công suất,...) Công trình xây dựng với chi phí quá cao dẫn đến giá thành sản phẩm cao, không đủ sức cạnh tranh hoạt động cầm chừng càng sản xuất càng lỗ. Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế thì thất thoát lãng phí trong chủ trương đầu tư, quyết định đầu tư gây lãng phí lớn nhất chiếm đến 70% tổng số lãng phí thất thoát vốn đầu tư. Thất thoát lãng phí trong giai đoạn thực hiện đầu tư thể hiện ở các khâu: Kế hoạch bố trí vốn đầu tư phân tán, dàn trải, bố trí vốn cho cả công trình không đủ thủ tục đầu tư.Sai lầm và thiếu sót trong khâu khảo sát, thiết kế, lựa chọn thiết bị, công nghệ.Tham nhũng, tiêu cực trong các giai đoạn đầu tư, đấu thầu, tuyển chọn tư vấn nhà thầu, nhà cung ứng.Chất lượng công trình kém gây hư hỏng, giảm tuổi thọ công trình.Năng lực yếu kém của chủ đầu tư, ban quản lý dự án, tư vấn (khảo sát, thiết kế, giám sát), nhà thầu.Thất thoát lãng phí trong giai đoạn quyết toán đưa vào sản xuất và bảo trì thể hiện:Thanh quyết toán chậm, nợ đọng kéo dài chưa có qui định bắt buộc phải kiểm toán đối với nguồn vốn nhà nước trong đầu tư.Năng lực quản lý sử dụng, khai thác không đáp ứng, dẫn đến hiệu quả khai thác thấp.Công tác duy tu, bảo dưỡng kém, không đúng định kỳ, bố trí vốn không đủ dẫn đến công trình xuống cấp nhanh làm giảm hiệu quả đầu tư. 3.3.2. Nguồn vốn ODA Sử dụng: còn nhiều lãng phí, việc coi vốn ODA của nước ngoài, dù là vốn vay, là tiền của người khác cho mình, dù mình sử dụng như thế nào cũng là “quà biếu không” hiện nay vẫn còn tồn tại trong không ít các nhà chức trách quản lý dự án. Vì không coi trọng nguồn vốn này, dẫn tới việc mua sắm tràn lan (như các dự án tại PMU 18) không tiết kiệm, giải ngân cho hết tiền. Chính vì vậy mới có chuyện đến cuối năm một số dự án thi nhau mua sắm máy photo, bàn ghế, thiết bị đắt tiền để giải ngân cho hết. Các dự án nâng cao năng lực trong đó có phần trang thiết bị thường mua hết, cho dù chính các trang thiết bị này cơ sở đó đã có. Trong một bộ có nhiều dự án thì việc chồng chéo trong mua sắm là chuyện bình thường. Chính vì vậy vào các bộ nhiều dự án xe dự án xếp đầy sân, nhiều xe khá đắt tiền và nhập trực tiếp nước ngoài (xe nhập về dự án ODA được ưu đãi thuế). Một thực tế dễ nhận thấy là những dự án ODA giải ngân chậm, kéo dài sẽ dẫn đến một loạt vấn đề bất lợi. Trước hết, người dân chậm được hưởng thụ thành quả của dự án. Bên cạnh đó, giá cả ngày càng tăng cũng đặt ra những khó khăn tài chính đối với các nhà thầu. Còn những dự án sử dụng vốn vay của các tổ chức tài chính quốc tế như WB thì Nhà nước phải trả phí cam kết 0,3 - 0,35%/năm tính theo phần tiền chưa được giải ngân. Thứ nhất, chậm trễ trong quá trình giải ngân, làm giảm hiệu quả sử dụng ODA và làm giảm lòng tin của các nhà tài trợ của ta. Nguyên nhân chủ yếu là quy trình và thủ tục trong nước cũng như của các nhà tài trợ còn phức tạp, lại có sự khác biệt giữa các nhà tài trợ và phía Việt Nam; chậm trễ trong việc di dân tái định cư và giải phóng mặt bằng; công tác đấu thầu; năng lực quản lý và giám sát thực hiện dự án của các Ban quản lý còn hạn chế và bất cập. Thứ hai, thiếu quy hoạch vận động và sử dụng ODA; các văn bản pháp quy về quản lý và sử dụng ODA còn thiếu tính đồng bộ, nhất quán, minh bạch, nhất là trong các vấn đề liên quan tới quản lý đầu tư và xây dựng; thực thi các văn bản pháp luật về quản lý ODA chưa nghiêm. Thứ ba, công tác theo dõi và đánh giá dự án buông lỏng. Nhiều cơ quan chủ quản ở Trung ương và các tỉnh chưa quản lý được các dự án của mình. Kỷ luật báo cáo về tình hình thực hiện các chương trình, dự án ODA thực hiện thiếu nghiêm túc. Thứ tư, năng lực cán bộ ở các cấp còn nhiều bất cập và thiếu tính chuyên nghiệp trong quản lý và sử dụng ODS. Những yếu kém nêu trên còn có nguyên nhân sâu xa là cơ quan thụ hưởng ODA chưa phát huy đầy đủ vai trò làm chủ trong việc khai thác nguồn lực này phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với đặc thù của ODA. Điều này thể hiện trong nhiều khâu như: Công tác quy hoạch, kế hoạch và điều phối ODA, chuẩn bị và tổ chức thực hiện các chương trình, dự án ODA, công tác huấn luyện và đào tạo về ODA chưa được chú ý đúng mức, cũng như trong việc theo dõi và đánh giá dự án. Cam kết và thực hiện ODA thời kỳ 1993-2007 Nguồn:Bộ kế hoạch và đầu tư. 3.3.3. Vốn FDI Kết quả thu hút, sử dụng vốn FDI trong những năm qua chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế của đất nước. Cơ cấu vốn FDI còn chưa hợp lý cả về ngành lẫn vùng lãnh thổ, chủ yếu tập trung vào các vùng phát triển hơn. Tỷ lệ các dự án lớn gắn với chuyển giao công nghệ nguồn còn thấp. Mặc dù vốn FDI thực hiện năm 2006 tăng so với năm 2005, nhưng nhìn chung tỷ trọng trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội lại có xu hướng giảm dần, từ 30,4% năm 1995 xuống 18% năm 2000 và còn 16,3% năm 2006. Hơn nữa, vốn FDI thực hiện tăng chậm so với vốn đăng ký nên khoảng cách giữa vốn FDI thực hiện và đăng ký đang doãng ra. Điều đặc biệt rõ nét trong năm 2006 là các ngành công nghiệp phụ trợ và kết cấu hạ tầng không đáp ứng được yêu cầu phát triển và đầu tư, trong đó có FDI. Hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp FDI chưa cao: Chỉ khoảng hơn 50% số doanh nghiệp có lãi, còn lại là không lãi hoặc lỗ. Mấy năm gần đây, tỷ lệ các doanh nghiệp có lãi đã có chiều hướng tăng lên, tuy nhiên, vẫn chưa tương xứng với mong muốn và tiềm năng của nền kinh tế. Tình trạng này quả là bất lợi vì nó sẽ làm nản lòng các nhà đang đầu tư và sẽ làm nhụt chí những nhà đầu tư đang kiếm tìm cơ hội. Mặt khác, kể từ năm 1997, vốn FDI vào Việt Nam liên tục giảm sút, năm 1997: 4.453 triệu USD, năm 1998: 3.897 triệu USD, năm 1999: 1.612 triệu USD, năm 2000: 1.970 triệu USD, năm 2001 tăng lên 2.450 triệu USD, nhưng năm 2002 chỉ thu hút được 1.379 triệu USD, năm 2003 cũng chỉ hơn 2.700 triệu USD.tuy nhiên năm 2007 đạt 6,2 tỷ. Nguyên nhân khách quan: Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực vào năm 1997 và tiếp đó là sự suy thoái của Hoa Kỳ, Nhật Bản, EU vào các năm 1998 – 2000 làm cho dòng vốn đầu tư từ các nước châu Á và các nước EU, châu Mỹ vào Việt Nam giảm sút. Thêm nữa, việc Trung Quốc gia nhập WTO với môi trường đầu tư quốc tế chú ý nhiều tới thị trường rộng lớn và đầy tiềm năng này hơn. Nguyên nhân chủ quan: Môi trường pháp lý vẫn chưa minh bạch, chưa rõ ràng, thiếu nhất quán làm cho các nhà đầu tư khó khăn khi tiếp xúc với hệ thống pháp lý, làm xáo trộn các phương án kinh doanh của các nhà đầu tư và gây thiệt hại tới lợi ích của các nhà đầu tư.  Môi trường đầu tư và môi trường kinh doanh chưa đồng bộ, thiếu sự kết hợp và thiếu tính ổn định; nhiều công cụ tài chính và nhiều thị trường chưa phát triển đầy đủ và chưa phát huy hiệu quả gây trở ngại cho quá trình thực hiện đầu tư. Việt Nam còn thiếu quy hoạch tổng thể và quy hoạch tổng thể và quy hoạch chi tiết hoặc có quy hoạch nhưng chất lượng chưa cao, dẫn tới tình trạng một số ngành, một số doanh nghiệp FDI cung sản phẩm vượt quá cầu hiện tại (như các dự án khách sạn, sản phẩm điện tử, gia dụng, ô tô ...), dẫn tới tình trạng không lãi. Quy hoạch chi tiết của các địa phương chồng chéo, còn tình trạng cạnh tranh để lấp đầy các khu công nghiệp, khu chế xuất.  Cơ chế quản lý của Nhà nước vừa cồng kềnh, vừa trùng lập, vừa buông lỏng, vừa can thiệp quá sâu vào hoạt động của doanh nghiệp mà vẫn sơ hở như trong các trường hợp chuyển giá, trong các hành vi gian lận thương mại, trốn thuế, đưa thiết bị cũ, lạc hậu vào Việt Nam hoặc lợi dụng độc quyền để đẩy giá sản phẩm lên cao gây thiệt hại cho người tiêu dùng. Các hình thức đầu tư nước ngoài chưa phong phú, hạn chế khả năng góp vốn và hiệu quả sử dụng vốn của các nhà đầu tư nước ngoài. Chất lượng lao động của Việt Nam còn thấp, thiếu lao động lành nghề, lao động có kĩ thuật, có khả năng vận hành các thiết bị hiện đại; vì vậy, đã đánh mất lợi thế về lao động do giá nhân công có kỹ thuật tăng nhanh. Hơn nữa, cán bộ trong các liên doanh, cán bộ quản lý FDI còn thiếu kiến thức về kinh tế thị trường, không nắm vững pháp luật và trình độ ngoại ngữ còn yếu, chưa phát huy hết khả năng trong công việc. Như vậy có thể nhận thấy, ODA và FDI là hai nguồn ngoại lực quý giá đối với các nước đang phát triển. Nhưng hiệu qủa sử dụng hai nguồn tài lực này phụ thuộc nhiều vào việc gắn kết chúng với nhau. Trong thời gian qua, công tác gắn kết hai nguồn lực này của Việt Nam còn chưa được quan tâm đúng mức. Biểu hiện cụ thể là Nhà nước thiếu định hướng kết hợp trong chính sách huy động chúng, công tác sử dụng còn thiếu đồng bộ, và đặc biệt tính hiệu qủa của việc vay và trả nợ vốn ODA chưa được đề cao. Để nâng cao hiệu qủa sử dụng hai nguồn vốn này, nhà nước cần có chính sách kết hợp sử dụng hài hòa hai nguồn vốn này, để chúng bổ sung cho nhau, và cộng hưởng với nhau thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam phát triển. ODA và FDI là hai nguồn ngoại lực quan trọng góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia, đặc biệt đối với các nước chậm và đang phát triển. Tuy nhiên, không có nghĩa là nhịp độ phát triển kinh tế xã hội hoàn toàn tỷ lệ thuận với khối lượng ODA và FDI mà quốc gia đó thu hút được. Mấu chốt của vấn đề là ở chỗ chúng được sử dụng như thế nào. Lý thuyết cũng như thực tiễn chứng minh rằng vốn ODA và FDI sẽ phát huy tối đa sức mạnh nếu như chúng được sử dụng kết hợp và bổ trợ lẫn nhau. Bỡi lẽ, các dự án FDI chỉ có thể được triển khai hiệu qủa trên cơ sở có môi trường cần thiết cho việc tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh, như cơ sở pháp lý, mặt bằng sản xuất, mạng lưới giao thông... Bên cạnh đó, các dự án FDI cũng cần phải có những yếu tố làm “đầu vào” và các yếu tố đảm bảo “đầu ra” cho quá tình sản xuất, như năng lượng, nước, dịch vụ về tín dụng, thanh toán... Nhà đầu tư nước ngoài hầu như không tự mang đến hoặc nhập khẩu được mà chủ yếu nhờ vào sự cung ứng của nước nhận vốn. Bài toán đặt ra cho các nước đang phát triển là muốn thu hút được nhiều vón FDI cần phải đáp ứng được những yếu tố tối cần thiết như trên trong khi điều kiện cơ sở hạ tầng kinh tế kỹ thuật còn yếu kém và nguồn nội lực đầu tư để cải thiện và xây dựng mới rất khan hiếm. Vấn đề chỉ có lời giải khi các quốc gia đang phát triển biết cách khai thác các nguồn lực tài chính bên ngoài, trong đó có vốn ODA. Vốn ODA, với đặc tính là khoản tài trợ có thời gian vay dài, lãi suất thấp hơn nhiều so với vốn vay thương mại, sẽ đáp ứng được một phần nhu cầu vốn để tạo dựng môi trường đầu tư hấp dẫn của các nước đang phát triển. Ngược lại, các dự án FDI hoạt động có hiệu quả, hoạt động xuất khẩu được thúc đẩy, sẽ là nguồn cung ngoại tệ chủ yếu trang trải những khoản ODA đến hạn. Chính vì thế, việc kết hợp sử dụng hai nguồn tài lực này cần thiết được đặt ra, và là yêu cầu đối với các nước đang phát triển. Việt Nam thực hiện mở cửa kêu gọi các nhà đầu tư quốc tế dưới hình thức FDI kể từ năm 1987, và nối lại quan hệ với các tổ chức tài chính quốc tế (WB, IMF, ADB...) cũng như với các nước phát triển nhằm kêu gọi vốn ODA từ năm 1993. Kể từ đó đến nay, chúng ta đã thu hút được hơn 45 tỷ USD vốn FDI cam kết và 26 tỷ vốn ODA. Hai nguồn lực này trong thời gian qua đã giữ một vị trí không nhỏ và đang ngày càng trở nên hết sức quan trọng trong nền kinh tế quóc dân, đóng góp một cách toàn diện vào làm tăng trưởng GDP, tăng nhanh xuất khẩu, tăng thu ngân sách nhà nước, và cải thiện đời sống của nhân dân. Thậm chí, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã được chính thức thừa nhận là một thành phần kinh tế kể từ năm 2001. Đạt được những thành tựu đó, một phần là do hai nguồn vốn này đã được sử dụng kết hợp tương đối hài hòa với nhau. Cụ thể biểu hiện trên một số giác độ sau: Thứ nhất, trong những năm qua, một tỷ trọng lớn vốn ODA (khoảng hơn 50%) đã được ưu tiên đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế (Xem bảng 1). Hàng loạt các công trình kết cấu hạ tầng quan trọng như mạng lưới giao thông, sản xuất và truyền tải điện, thông tin liên lạc, cấp thoát nước… nhờ vốn ODA đã phục hồi, mở rộng và nâng cấp, tạo một bước mới về chất. Từ đó, chúng không những góp phần quan trọng thúc đẩy kinh tế xã hội Việt Nam phát triển mà còn trực tiếp tạo điều kiện thuận lợi cho thu hút nguồn vốn FDI. Thứ hai, khu vực kinh tế FDI có tốc độ tăng trưởng nhanh chóng, lớn hơn so với tốc độ tăng trưởng trung bình của nền kinh tế. Trong giai đoạn đầu, khu vực kinh tế này chủ yếu thực hiện chiến lược “thay thế nhập khẩu” với các sản phẩm sản xuất ra phục vụ nhu cầu tiêu dùng của thị trường nội địa. Nhưng những năm gần đây, có sự chuyển hướng khá tốt sang xuất khẩu. Tỷ lệ xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI trong tổng giá trị tài sản tăng nhanh, đến nay đã chiếm gần 54% (Xem bảng 2). Đồng thời các doanh nghiệp FDI góp phần tích cực thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của cả nước. Đây là dấu hiệu tốt, đúng hướng của khu vực kinh tế FDI, cũng là nguồn đảm bảo cho việc thanh toán và trả các khoản nợ nước ngoài của quốc gia khi đáo hạn, trong đó có vốn ODA. Bảng 1: Tỷ trọng vốn ODA phân theo ngành trong các hiệp định đã ký                                                                                     Đơn vị: Triệu USD Ngành Tỷ lệ (%) 1. Năng lượng điện 27,2 2. Giao thông vận tải 26,8 3. Tín dụng điều chỉnh cơ cấu 14,2 4. Nông gnhiệp 10,2 5. Cấp thoát nước 7,1 6. Lĩnh vực xã hội 6,8 7. Các ngành khác 7,8 Tổng cộng 100                    Nguồn: tổng hợp từ Bộ Kế hoạch & Đầu tư và Bộ Tài chính Thứ ba, ngoài xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, vốn ODA cũng được ưu tiên sử dụng trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo, y tế... Các dự án sử dụng vốn ODA trong lĩnh vực này góp phần đào tạo đội ngũ lao động trong tương lai có năng lực, trình độ và sức khỏe tốt phục vụ cho phát triển kinh tế một cách bền vững và là một yếu tố vô cùng quan trọng cho khu vực kinh tế FDI với các dự án đòi hỏi lao động có trình độ cao. Đây cũng là kinh nghiệm sử dụng hiệu quả vốn ODA mà một số nước đã làm. Thứ tư, cộng đồng quốc tế đã có nhiều đánh giá khá tích cực về công tác quản lý và sử dụng vốn ODA của Chính phủ Việt Nam. Triển vọng vay ODA của Việt Nam trong thời gian tới là khá thuận lợi. Điều này cũng đã tạo dựng được lòng tin của các nhà đầu tư quốc tế về khả năng phát triển của kinht ế Việt Nam, giúp các nhà đầu tư vững tâm hơn khi xác định mục tiêu kinh doanh lâu dài tại Việt Nam. Tuy nhiên, công tác sử dụng kết hợp hai nguồn ngoại lực này trong thực tiễn triển khai vẫn còn bộc lộ một số hạn chế sau: Một là, thiếu định hướng rõ ràng trong việc kết hợp hai nguồn vốn. Sự kết hợp hai nguồn vốn trên chủ yếu vẫn mang tính tự phát, chưa trở thành nhận thức nhất quán của các cơ quan quản lý nhà nước có chức năng và các cán bộ chuyên trách, để từ đó đề ra chủ trương và chính sách hợp lý nhất trong thu hút và sử dụng chúng. Bằng chứng là, hiện nay chưa hề có văn bản pháp luật nào đề cập đến sự cần thiết phải kết hợp hai nguồn vốn này. Đồng thời các bộ phận quản lý ODA và FDI còn hoạt động khá độc lập với nhau. Có nghĩa là, công tác vận động ODA được tiến hành độc lập với thu hút và sử dụng vốn FDI. Hai là, nhiều địa phương không thu hút hoặc thu hút được ít vốn FDI do cơ sở hạ tầng, yếu kém. Mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam là hạn chế sự phát triển mất cân đối giữa các vùng, miền. Chính vì thế, trong công tác thu hút vốn FDI, Chính phủ đã có chủ trương hướng các nhà đầu tư quốc tế đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, vào các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa... Tuy nhiên, các chính sách ưu đãi của Chính phủ chưa phát huy được tính năng tác dụng như mong muốn. Vốn đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực nông nghiệp chiếm tỷ trọng nhỏ bé, chưa đầy 8% tổng vốn FDI. Khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa thu hút được ít dự án FDI, thậm chí một số tỉnh miền núi hiện nay chưa có dự án đầu tư nước ngoài triển khai. Thực tế này tồn tại, theo các nhà đầu tư nước ngoài, chủ yếu là do điều kiện kinh tế xã hội của khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa còn quá khó khăn, không đảm bảo cho các nhà đầu tư tạo lợi nhuận. Hơn bao giờ hết, vốn ODA cần được ưu tiên để cải thiện môi trường kinh tế xã hội của các vùng, miền này. Các công trình xây dựng bằng vốn ODA sẽ là chất “xúc tác” vừa có tác dụng trước mắt, vừa tạo sơ sở lâu dài để thu hút các nhà đầu tư quốc tế nhằm khai thác tiềm năng sẵn có của các địa phương này, vì mục tiêu phát triển kinh tế và nâng cao đời sống nhân dân. Ba là, cơ cấu sử dụng vốn ODA mặc dù đã dành nhiều cho giáo dục, đào tạo nhưng vẫn chưa đủ, hiệu qủa sử dụng chưa cao. Kết quả là chúng ta vẫn thiếu nhiều lao động có trình độ. Bảng 2: Xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI trong tổng kim ngạch cả nước Đơn vị: Triệu USD Năm 2002 2003 2004 2005 2006 Cả nước 16.500 19.980 26.003 32.430 39.600 DN FDI 4.500 10.000 14.267 18.580 22.850 Tỷ lệ % 27,3 50,0 54,8 57,4 57.7 Nguồn: tổng hợp từ Bộ Kế hoạch & Đầu tư và Bộ Thương mại Bốn là, chúng ta đã thực hiện vay vốn ODA của các tổ chức tài chính quốc tế hơn một thập kỷ qua, lượng vốn vay cam kết đã lên đến con số 25 tỷ USD nhưng công tác đánh giá, đúc rút kinh nghiệm sử dụng vốn ODA vẫn chưa được tiến hành một cách tổng thể. Việc đo lường hiệu qủa sử dụng vốn ODA và xác định nguồn trả nợ vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Vấn đề này thực đáng lo ngại đối với Việt Nam khi mà thời gian trả nợ ODA đã bắt đầu. Nguyên nhân của những bất cập trên đây có nhiều, cả về phía chủ quan và phía khách quan. Chương 3: Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tạo lập, thu hút và sử dụng vốn. I. Giải pháp chung Về kinh tế, trong thời gian tới cần tập trung vào việc huy động mọi nguồn lực để đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa… Để làm được điều đó, phải khai thông tất cả mọi nguồn vốn đầu tư, đa dạng hóa các hình thức tạo lập vốn, thực hiện chính sách xã hội hóa đối với hoạt động đầu tư, nhằm huy động tối đa các kênh vốn đầu tư của mọi thành phần kinh tế; mở rộng phương thức đầu tư BOT, BT đối với các dự án đầu tư xây dựng kết cầu hạ tầng kinh tế, kỹ thuật, xã hội có khả năng thu hồi vốn trực tiếp. Tiếp tục thực hiện các chủ trương đổi mới trong đầu tư, tạo môi trường đầu tư kinh doanh, bình đẳng, minh bạch, ổn định, thông thoáng và có tính cạnh tranh cao. Đây là tiền đề quan trọng để các doanh nghiệp thực hiện quyền tự chủ về tài chính, mạnh dạn đầu tư vốn mở rộng sản xuất kinh doanh. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong quản lý đầu tư, cải thiện môi trường đầu tư để thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài; xử lý dứt điểm những vướng mắc trong giải phóng mặt bằng, di dân, tái định cư và bố trí đầy đủ vốn đối ứng để đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn ODA; đồng thời quản lý chặt chẽ nguồn vốn này từ khâu quy hoạch, lựa chọn mục tiêu đầu tư gắn với hiệu quả sử dụng vốn vay và thu hồi vốn. II. Giải pháp nâng cao hiệu quả tạo lập vốn Nhằm thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển, cần phải hoàn thiện hơn nữa các chính sách về đầu tư để tạo môi trường thông thoáng thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước để phát huy hết nội lực và ngoại lực. Không chỉ khắc phục những tồn tại về khuyến khích đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài mà chúng ta cần nghiên cứu kĩ để đưa ra những chính sách hợp lý nhằm tạo một môi trường thuận lợi tức là tạo lập cơ sở để thu hút vốn đầu tư. Tạo một môi trường chính trị ổn định, xã hội công bằng và không có bạo loạn. Tiếp tục ổn định chính sách vĩ mô để tạo môi trường đầu tư: để bảo đảm cho thị trường vốn, thị trường tài chính trong nước phát triển ổn định, Chính phủ tiếp tục ổn định chính sách vĩ mô để tạo môi trường đầu tư, môi trường kinh doanh ngày càng thuận lợi hơn cho mọi thành phần kinh tế, tạo niềm tin của các nhà đầu tư đối với chính sách của Chính phủ. Đồng thời tiếp tục đẩy mạnh quá trình sắp xếp, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt các tổng công ty nhà nước lớn, các tập đoàn, các ngân hàng thương mại và doanh nghiệp bảo hiểm nhà nước để đa dạng hóa hình thức sở hữu, nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động, thúc đẩy sự phát triển của thị trường tài chính. Tạo một môi trường kinh tế trong sạch, minh bạch trong quản lý, thẩm định dự án đầu tư và không có tham nhũng. Cải cách thủ tục hành chính nhằm tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi cho các nhà đầu tư: Cải cách thủ tục xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhà ở, quan tâm hơn tới công tác quy hoạch, xây dựng các khu công nghiệp, xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, giao thông, điện nước, nhà xưởng bến bãi. Chú trọng hơn nữa về mặt chất lượng trong việc nhận đầu tư nước ngoài thu hút vào phát triển các ngành sản xuất tư liệu sản xuất, công nghiệp nặng; với những vùng miền có thế mạnh ở những ngành nhất định thì nên thu hút đầu tư vào những ngành đó để chuyên môn hoá theo từng ngành, từng vùng, từng lãnh thổ. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến đầu tư nước ngoài; xây dựng hệ thống chính sách để cải thiện môi trường kinh doanh; thực hiện thí điểm cổ phần hóa một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; nâng cao năng lực quản lý của nhà nước đối với đầu tư nước ngoài; đơn giản hóa thủ tục hành chính ở mọi khâu, mọi cấp, công khai các qui trình, thời hạn trách nhiệm xử lý các thủ tục, tạo niềm tin cho các nhà đầu tư; tập trung cao công tác điều hành để tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ cho các dự án đầu tư nước ngoài hoạt động có hiệu quả. Nâng cao tỷ lệ nội địa hoá, giảm thời gian nội địa hoá, cần có chính sách chuyển giao công nghệ đối với các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài. Cần ngăn chặn việc biến độc quyền nhà nước thành độc quyền doanh nghiệp đối với các doanh nghiệp nhà nước kinh doanh trong một số lĩnh vực để giảm chi phí đầu vào. Khuyến khích các cơ sở sản xuất kinh doanh áp dụng hình thức thuế, coi đó là một tiêu chuẩn để khuyến khích đầu tư. Phải sớm tổng kết thực tế thi hành Luật doanh nghiệp để có những sửa đổi bổ sung cần thiết và thống nhất áp dụng những quy định của luật này chi việc thành lập và tổ chức hoạt động của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế kể cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài: mối quan hệ giữa Nhà nước với tư cách là chủ sở hữu doanh nghiệp và người quản lý doanh nghiệp. Luật Đầu tư nước ngoài cần được sửa đổi, mở rộng những quy định về hình thức pháp lý của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, chỉ giữ lại các quy định về lĩnh vực, địa bàn đầu tư, khuyến khích và bảo vệ. Sửa đổi, bổ sung cũng như ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật về kinh tế đảm bảo yêu cầu đúng đắn, cụ thể, rõ ràng, minh bạch. Quan tâm tới công tác tuyên truyền, phổ biến, giải thích, hướng dẫn thi hành pháp luật. Đẩy mạnh cải cách hành chính, đơn giản hoá thủ tục đầu tư, nhất là thủ tục sau giấy phép đầu tư đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và sau đăng ký kinh doanh đối với doanh nghiệp trong nước. III. Giải pháp nâng cao hiệu quả thu hút nguồn vốn đầu tư Theo thực trạng thu hút vốn của Việt Nam, kết quả thu hút vốn đầu tư vần còn chưa tương xứng với nhu cầu huy động vốn đáp ứng cho tốc độ tăng trưởng kinh tế, đồng thời chưa tương xứng với tiềm năng của nước ta. Vì vậy cần có những biện pháp để nâng cao hiệu quả thu hút vốn,cụ thể: Tiếp tục thực hiện chủ trương, chính sách đa dạng hóa và đa phương hóa các giải pháp huy động vốn cho đầu tư phát triển. Trong kênh huy động vốn của ngân sách nhà nước, cần tính toán chi tiết hiệu quả sử dụng vốn. Đánh giá về hiệu quả kinh tế của đợt phát hành trái phiếu Chính phủ bằng ngoại tệ đợt cuối năm 2005 và việc phát hành và sử dụng vốn phát hành công trái, trái phiếu Chính phủ để có biện pháp điều chỉnh trong huy động vốn trong thời gian tới. Kho bạc Nhà nước không trực tiếp bán lẻ tín phiếu hay trái phiếu Chính phủ, hay công trái quốc gia mà để tổ chức đấu thầu từng đợt qua Ngân hàng Nhà nước hay trên thị trường chứng khoán dựa trên nhu cầu vốn. Trái phiếu Chính phủ bằng ngoại tệ nên được ưu tiên phát hành trong nước để thu hút mọi nguồn ngoại tệ trong dân cho đầu tư phát triển, lãi suất hấp dẫn trước hết phải để chính người dân được hưởng mà chưa cần phải phát hành trên thị trường quốc tế. Việc nâng cao hiệu quả vốn đầu tư, chống thất thoát và tham nhũng trong các dự án cần tránh đầu tư dàn trải là giải pháp rất quan trọng. Yêu cầu này cần được thực hiện chặt chẽ đối với ngân sách trung ương. Các tỉnh, thành phố cũng cần tránh tình trạng nôn nóng, hay đầu tư theo kiểu phong trào, đầu tư chủ quan duy ý chí. Chấm dứt tình trạng dự án chưa được cấp có thẩm quyền phê duyệt, chưa được bố trí kế hoạch vốn đầu tư, đã giao hay chỉ định thầu cho doanh nghiệp triển khai thi công, vay vốn ngân hàng cho đầu tư, để lại hậu quả nặng nề cho việc cân đối vốn ngân sách, dàn trải về hiệu quả sử dụng vốn. Rà soát, bổ sung và hoàn thiện các quy định về quản lý và sử dụng vốn ODA, trong đó phân định rõ trách nhiệm của từng bộ, ngành trong quản lý nguồn vốn tài trợ này. Vốn ngân sách nhà nước, vốn tài trợ quốc tế và các nguồn vốn khác cho vay xóa đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm, hỗ trợ sinh viên nghèo vay vốn học tập, cho các mục tiêu chính sách xã hội khác,... chủ yếu cần được tập trung qua hệ thống ngân hàng chính sách xã hội để giải ngân cho các đối tượng theo được quy định. Đẩy mạnh việc sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước, thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển, khuyến khích và tạo mọi điều kiện cho các công ty cổ phần niêm yết cổ phiếu và huy động vốn trên thị trường chứng khoán. Đối với các ngân hàng niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán, nên xem xét cho phép các nhà đầu tư nước ngoài mua với tỷ lệ không quá 49% vốn cổ phần của ngân hàng đó và một nhà đầu tư mua không quá 30% vốn cổ phần của một ngân hàng Việt Nam. Việc nâng tỷ lệ này, vẫn đảm bảo tỷ lệ chi phối của phía Việt Nam trong ngân hàng, mặt khác cho phép thu hút vốn đầu tư của các nhà đầu tư lớn vào Việt Nam. Hơn thế nữa, gắn liền với huy động vốn, chúng ta còn thu hút công nghệ ngân hàng hiện đại, trình độ quản trị điều hành ngân hàng tiên tiến, thúc đẩy sự phát triển và nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngân hàng trong nước. Tiếp tục đổi mới lĩnh vực thanh toán, mở rộng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt. Thực hiện mục tiêu này đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ của các đơn vị trong ngành tài chính, như: thực hiện thu thuế và lệ phí, bảo hiểm,... bằng hình thức thanh toán không dùng tiền mặt. Các tổ chức khác, như: thu cước phí bưu chính viễn thông, thu tiền điện nước, phí sử dụng cáp truyền hình, các hoạt động thu phí và thanh toán ổn định khác,... cũng cần chủ động và sẵn sàng phối hợp với ngân hàng trong sử dụng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt. Các tổ chức có khối lượng chi tiền mặt lớn, như: Bảo hiểm xã hội, các doanh nghiệp và tổ chức có đông người lao động,...sử dụng việc chi trả lương qua hệ thống ATM của ngân hàng. Chính phủ cần sớm ban hành Nghị định thanh toán không dùng tiền mặt, quy định mức giá trị của các khoản thanh toán không được sử dụng tiền mặt. Về phía hệ thống ngân hàng cần đẩy mạnh hơn nữa việc đầu tư hiện đại hóa công nghệ, phát triển dịch vụ, phát triển mạng lưới máy rút tiền tự động ATM,... Thực hiện giải pháp này không những huy động được khối lượng vốn rất lớn trong xã hội vào hệ thống ngân hàng mà còn tiết kiệm các khoản chi khổng lồ cho các hoạt động tiền mặt, góp phần hạn chế tham nhũng, tiêu cực trong xã hội. Đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa các ngân hàng thương mại nhà nước. Việc tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, thông thoáng và lành mạnh cho các NHTM và tổ chức tín dụng hoạt động sẽ cho phép huy động khối lượng vốn rất lớn và nâng cao hiệu quả cho vay đầu tư. Đặc biệt là các NHTM cổ phần cũng nâng cao khả năng quản trị kinh doanh vốn, nên thị trường liên ngân hàng, đầu tư vốn trên thị trường tiền gửi của các tổ chức tín dụng phát triển mạnh mẽ hơn. Nhiều NHTM đa dạng hóa danh mục tài sản có, không chỉ cho vay trực tiếp, mà còn phân tán rủi ro bằng cách đầu tư trên thị trường tiền gửi, bán buôn vốn ngắn hạn cho các NHTM khác có điều kiện mở rộng cho vay an toàn, đầu tư vào trái phiếu Chính phủ, công trái và tín phiếu Kho bạc nhà nước, trái phiếu đô thị, trái phiếu doanh nghiệp... Khi cần vốn khả dụng, các ngân hàng có thể giao dịch các loại giấy tờ có giá trên thị trường mở với Ngân hàng Nhà nước, thúc đẩy thị trường tiền tệ phát triển, tăng nhanh tốc độ chu chuyển vốn trong nền kinh tế. Tiếp tục đổi mới xây dựng và điều hành linh hoạt chính sách tiền tệ. Đổi mới các hoạt động khác của Ngân hàng Nhà nước, như: điều hành thị trường mở, thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc, đổi mới thanh toán và mở rộng thanh toán điện tử liên ngân hàng, các hoạt động khác có liên quan trực tiếp đến sự phát triển của thị trường vốn. Việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài, thu hút vốn đầu tư của Việt kiều, vốn đầu tư của người dân trong thành lập và bỏ vốn kinh doanh,... cần được thực hiện theo hướng vừa thúc đẩy các kênh xúc tiến đầu tư, mời gọi đầu tư, vừa cải tiến các quy trình, thủ tục, vừa chống tiêu cực, phiền hà, nhưng phải giám sát chặt chẽ phù hợp với thông lệ quốc tế, chống các hoạt động lừa đảo hay tiêu cực khác. IV. Giải pháp nâng cao sử dụng nguồn vốn đầu tư tại Việt Nam 1. Vốn trong nước Có thể nói, nguồn vốn nhà nước có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế-xã hội, giữ vai trò chủ đạo, dẫn dắt và thu hút các nguồn vốn huy động cho đầu tư và phát triển. Tuy nhiên, việc sử dụng nguồn vốn này trong thời gian qua còn nhiều bất cập và gây lãng phí. Do đó, nâng cao hiệu quả đầu tư từ nguồn vốn nhà nước là vấn đề đang được cả xã hội, các cấp, các ngành quan tâm và đưa ra các giải pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng. Để nâng cao hiệu quả đầu tư, phát huy tối đa ưu thế của vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước trong tạo lập và phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, cần phải triển khai đồng bộ nhiều giải pháp, nhưng trước hết cần tập trung vào các giải pháp sau: Một là, tổ chức, nghiên cứu bổ sung cơ chế, chính sách theo hướng loại bỏ dần tình trạng khép kín, tách chức năng quản lý nhà nước với quản lý kinh doanh trong xây dựng ở từng Bộ, từng tỉnh, thành phố ở tất cả các khâu. áp dụng cơ chế, giải pháp mạnh trong quản lý dự án, quản lý công trình đầu tư xây dựng công trình; phân định rõ quyền và trách nhiệm của cá nhân, của tổ chức trong từng khâu như chủ đầu tư, chủ dự án, tư vấn, thiết kế, nhà thầu, giám định, thẩm định, nghiệm thu, cấp phát, giải ngân, thanh toán, quyết toán và quản lý công trình sau đầu tư. áp dụng rộng rãi cơ chế đấu thầu lựa chọn chủ dự án, chủ đầu tư, lựa chọn tư vấn, nhà thầu, giám sát, thẩm định dự án. Những chủ thể được chọn phải chịu trách nhiệm về pháp lý, về kinh tế từng khâu, từng việc trong quá trình triển khai dự án. Đẩy nhanh việc tổ chức, sắp xếp lại các nhà thầu trong nước đủ mạnh để nâng cao năng lực cạnh tranh trong cơ chế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, khắc phục tình trạng có quá nhiều nhà thầu phụ, mua đi, bán lại công trình, hạng mục công trình đã trúng thầu, thông thầu, móc ngoặc, nội gián trong đấu thầu và việc bỏ giá thầu quá thấp.     Đồng thời siết chặt kỷ cương trong bộ máy nhà nước, nâng cao trách nhiệm và thẩm quyền của chủ đầu tư. Bố trí nhân sự Ban quản lý dự án phải đủ năng lực để quản lý, điều hành dự án. Chú trọng nâng cao phẩm chất của cán bộ, công chức đảm trách từng khâu trong đầu tư xây dựng.     Hai là, nâng cao chất lượng, tầm nhìn dài hạn, tính đồng bộ, tính liên kết pháp lý trong công tác quy hoạch, kế hoạch đầu tư xây dựng.     Tiến hành rà soát toàn bộ quy hoạch đã có, bao gồm quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch  ngành, vùng lãnh thổ, tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, quy hoạch lĩnh vực, quy hoạch sản phẩm chủ yếu để điều chỉnh, bổ sung gắn với mục tiêu, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên cơ sở đó loại bỏ quy hoạch “treo”. Đồng thời phải có tầm nhìn dài hạn, mang tính chiến lược trong công tác quy hoạch, quan tâm và đề cao tính liên vùng, khắc phục tình trạng khép kín trong địa giới hành chính tỉnh, thành phố.     Tăng cường phân cấp, phân quyền, phân công nhiệm vụ cụ thể, rõ ràng; gắn quyền với trách nhiệm trong công tác quy hoạch giữa Bộ Kế hoạch và Đầu tư với các Bộ quản lý ngành, các tỉnh, thành phố. Có quy định pháp lý về việc các Bộ, ngành, địa phương khi xây dựng và quyết định kế hoạch đầu tư phải tuân thủ quy hoạch, kế hoạch đã được cơ quan, cấp có thẩm quyền phê duyệt, bảo đảm mục tiêu ưu tiên; bố trí vốn tập trung; chỉ bố trí kế hoạch đầu tư khi đã xác định chắc chắn khả năng nguồn vốn và chỉ triển khai thực hiện khi có đủ thủ tục đầu tư theo quy định. Quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn của các Bộ, các ngành, các cấp, các cơ quan, đơn vị trong nghiên cứu, lập, thẩm định, tư vấn, tham gia ý kiến, xét duyệt quy hoạch, kế hoạch đầu tư xây dựng.     Ba là, tăng cường hoạt động kiểm tra, kiểm soát, trước hết là các biện pháp giám sát và kiểm soát nội bộ, sau đó là các biện pháp kiểm tra, thanh tra từ bên ngoài. Hình thành, duy trì và nâng cao tính hiệu lực của hệ thống kiểm soát nội bộ bằng chính quy trình đầu tư, quy trình nghiệp vụ quản lý vốn, quản lý đầu tư, bằng các quy tắc tổ chức, bố trí cán bộ, quy định trách nhiệm và quyền hạn từng khâu, từng công việc của quá trình đầu tư, từ chuẩn bị đầu tư đến tổ chức thi công, quyết toán công trình, dự án.     Tăng cường kiểm tra, thanh tra, kiểm toán các dự án công trình, tập trung những khâu yếu kém, dễ xảy ra tiêu cực, phát hiện và làm rõ, xử lý nhanh, dứt điểm nghiêm minh các sai trái, vi phạm. Tăng cường vai trò của cơ quan dân cử, của tổ chức nghề nghiệp, của đoàn thể quần chúng trong giám sát, phát hiện và đánh giá hoạt động đầu tư.     Bốn là, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, đổi mới cơ chế, chính sách đầu tư, trước mắt tập trung triển khai có hiệu quả Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Doanh nghiệp, Luật Chứng khoán... Thực hiện nghiêm các quy định của Luật Ngân sách nhà nước, Luật Đất đai, Luật Xây dựng và sử dụng vốn đầu tư xây dựng, vốn ODA, vốn tín dụng nhà nước và các nguồn vốn công trái, trái phiếu... Sớm có quy định pháp lý về công tác quy hoạch, kế hoạch, về quản lý nợ chính phủ, nợ quốc gia... Đổi mới mạnh mẽ hơn nữa cơ chế phân bổ vốn đầu tư, vốn cho chương trình mục tiêu quốc gia trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc đầu tư, tôn trọng tiêu chí, tiêu chuẩn, định mức theo hướng công khai minh bạch và có chủ định rõ rệt, hạn chế tối đa sự tuỳ tiện trong bố trí, phân bổ vốn, chấm dứt cơ chế xin cho vừa không có hiệu quả vừa làm hư hỏng bộ máy, hư hỏng cán bộ.     Năm là, tiếp tục cải cách hành chính trong đầu tư xây dựng, trước hết tập trung vào cải cách thủ tục hành chính, thủ tục đầu tư, thủ tục xem xét, phê duyệt dự án, phân bổ và bố trí vốn, thủ tục giải ngân và thanh toán... Nâng cao hiệu lực, hiệu quả và tính minh bạch, công khai của bộ máy quản lý đầu tư, quản lý dự án. Tăng cường phối hợp thông tin giữa các Bộ, ngành và địa phương, làm tốt chức năng quản lý ngành trong đầu tư xây dựng, hỗ trợ tích cực cho địa phương trong nâng cao chất lượng và hiệu quả đầu tư, khắc phục yếu kém và lúng túng trong quy hoạch. 2. Vốn nước ngoài Việt Nam đang trên con đường thực hiện đường lối đổi mới, phát triển kinh tế xã hội trong điều kiện đất nước còn nghèo. Nếu chỉ dựa vào nội lực để phát triển thì không đủ và không theo kịp được những bước tiến mạnh của các nước trên thế giới.Giải quyết vấn đề này, Đảng và Nhà nước ta đã và đang có những chủ trương quan trọng trong việc tìm cách thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Để tăng cường thu hút vốn nước ngoài thì điều quan trọng là phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đã thu hút được, làm cho vốn đã thực hiện phát huy cao nhất hiệu quả và mang lại lợi nhuận cho nhà đầu tư cũng như mang lại lợi ích cho quốc gia. Muốn vậy cần thực hiện các giải pháp sau: Một là, tiếp tục giữ vững ổn định về chính trị, xã hội. Giữ vững ổn định về chính trị có ý nghĩa quyết định đến việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, yếu tố này luôn được các nhà đầu tư xem xét đầu tiên, họ chỉ muốn đầu tư ở những khu vực, những quốc gia có sự ổn định về chính trị xã hội, có đủ năng lực và điều kiện thực hiện đầy đủ các cam kết của mình với độ tin cậy cao. Điều này không mới, nhưng có ý nghĩa rất quan trọng trong điều kiện còn những thế lực rắp tâm gây mất ổn định ở Việt Nam. Hai là, nhanh chóng hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế và hệ thống pháp luật có liên quan tới hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài Sau gần 20 năm đổi mới nền kinh tế, Nhà nước ta đã ban hành và sửa đổi rất nhiều văn bản pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ kinh tế cho phù hợp với nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, chúng ta còn phải nhanh chóng ban hành các luật mới như: Luật thương mại, Luật lao động, Luật sở hữu trí tuệ, Luật đất đai, Luật cạnh tranh, Luật phá sản, Luật chống bán phá giá.... để có thể điều chỉnh một cách đồng bộ các mối quan hệ trong nền kinh tế. Đồng thời, cần sớm nghiên cứu và ban hành các luật có liên quan tới lĩnh vực đầu tư nói chung như Luật đầu tư, Luật chống độc quyền, Luật kinh doanh bất động sản, Luật tín dụng, Luật kinh doanh chứng khoán... nhằm tạo mặt bằng pháp lý cho một môi trường đầu tư và kinh doanh bình đẳng, thông thoáng giữa các loại hình doanh nghiệp của các thành phần kinh tế khác nhau. Hơn nữa, phải nhanh chóng ký kết và tham gia các công ước quốc tế, mhư công ước Washington 1965, nhằm giải quyết các tranh chấp với các nhà đầu tư nước ngoài. Xây dựng chiến lược và quy hoạch tổng thể về đầu tư của cả nước, của từng khu vực và địa phương, của từng ngành; công bố danh mục dự án gọi vốn đầu tư nước ngoài; phát triển hệ thống thông tin xúc tiến đầu tư gắn với chương trình đầu tư và các đối tác cụ thể. Ba là, tiếp tục đẩy mạnh việc hoàn thiện các chính sách về tài chính đối với lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài, tạo môi trường thông thoáng về tài chính, đảm bảo tính rõ ràng, đơn giản, ổn định trong chính sách tài chính với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Cần nhanh chóng xóa bỏ những khác biệt về đầu tư trong nước và nước ngoài, ban hành luật khuyến khích đầu tư áp dụng chung cho các loại hình doanh nghiệp. Hoàn thiện các loại thuế thu nhập doanh nghiệp, VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu theo yêu cầu của hội nhập khu vực và quốc tế theo hướng đảm bảo nguồn thu cho NSNN nhưng phải ưu tiên đầu tư, khuyến khích phát triển sản xuất và áp dụng chung cho các loại hình doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Nhanh chóng cải cách giá dịch vụ và xoá bỏ chế độ hai giá. Rà soát và thống nhất mức tiền thuê đất theo từng khu vực, từng địa bàn phù hợp với yêu cầu phát triển và thu hút đầu tư. Giải quyết dứt điểm vấn đề đền bù, giải phóng mặt bằng. Thực hiện việc giao đất đã đền bù giải phóng mặt bằng cho các doanh nghiệp nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp trong nước, tránh việc đẩy giá đất lên cao quá mức như hiện nay. Có các văn bản pháp quy về cầm cố, thế chấp giá trị quyền sử dụng đất, chuyển sang chế độ Nhà nước cho thuê đất. Có các quy định về vay vốn rõ ràng, tạo điều kiện để các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài dễ dàng tiếp cận thị trường vốn, thị trường tín dụng trung và dài hạn. Thí điểm việc cổ phần hóa các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và đa dạng hóa các hình thức đầu tư như cho phép thành lập công ty cổ phần có vốn đấu tư nước ngoài, công ty hợp doanh, thực hiện hình thức mua lại, sáp nhập và cho phép các nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào quá trình sắp xếp lại các DNNN. Giảm dần tỷ lệ kết hối ngoại tệ, tiến tới xoá bỏ việc kết hối bắt buộc khi có điều kiện, từng bước thực hiện mục tiêu hoán chuyển ngoại tệ đối với các giao dịch vãng lai. Có chính sách bổ sung đảm bảo việc bán ngoại tệ cho các doanh nghiệp đã thực hiện nghĩa vụ kết hối để đáp ứng nhu cầu hợp lý của doanh nghiệp. Xây dựng quy chế quản lý hoạt động tài chính doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, ban hành các chuẩn mực kế toán, kiểm toán phù hợp với thông lệ quốc tế. Xây dựng các chuẩn mực về định giá tài sản, đánh giá tài sản đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhằm tạo thuận lợi cho hoạt động của doanh nghiệp, đồng thời đảm bảo sự quản lý của Nhà nước. Bốn là, đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư nước ngoài. Cải cách hành chính có liên quan chặt chẽ đến việc lành mạnh hoá môi trường đầu tư, giảm các thủ tục phiền hà của hệ thống hành chính với quá trình đầu tư, nâng cao hiệu quả đầu tư vốn. Cần thực hiện việc đơn giản hoá các thủ tục cấp phép đầu tư, công khai hoá và minh bạch hoá quá trình cấp phép, giải quyết các thủ tục hành chính; kiên quyết xử lý những trường hợp sách nhiễu, vô trách nhiệm của các cán bộ, cơ quan công quyền. Cần thực hiện tốt sự kết hợp giữa việc chỉ đạo tập trung, thống nhất và kiên quyết của Chính phủ với việc chấp hành nghiêm túc, đúng pháp luật của các bộ, các ngành, các địa phương. Xây dựng quy chế phối hợp, các bộ chủ quản và UBND các địa phương theo đúng thẩm quyền, trách nhiệm của từng đơn vị theo sự phân cấp của Nhà nước để các đơn vị chủ động giải quyết những vấn đề phát sinh trong hoạt động của doanh nghiệp. Cần rà soát và kiên quyết xử lý những văn bản dưới luật của các ngành, các địa phương ban hành trái với quy định chung của nhà nước; dần tiến tới “Xoá bỏ chức năng chủ quản của các bộ, ngành đối với các đơn vị sản xuất kinh doanh”, quán triệt nguyên tắc “một cửa, một dấu”; đồng thời , khắc phục tình trạng quản lý chồng chéo, phân tán, kém hiệu quả của cơ quan quản lý nhà nước. Các cơ quan cấp giấy phép đầu tư phải thường xuyên rà soát, phân loại các dự án đã được cấp giấy phép đầu tư để có những biện pháp thích hợp, kịp thời tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp đã đi vào sản xuất kinh doanh, trong phạm vi thẩm quyền sản xuất kinh doanh của mình, các cơ quan quản lý cần có các biện pháp quản lý và động viên kip thời; đồng thời sẵn sàng tháo gỡ những khó khăn của doanh nghiệp về đầu vào, thị trường tiêu thụ, thuế để doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả. Đối với các dự án đang triển khai thực hiện, các cơ quan quản lý cần cùng các đơn vị tháo gỡ khó khăn về giải phóng mặt bằng, thủ tục nhập máy móc thiết bị, nguyên liệu phục vụ dự án để đẩy nhanh tiến độ thực hiện. Đối với những dự án chưa triển khai, nhưng xét thấy vẫn có khả năng thực hiện, cần thúc đẩy việc triển khai dự án trong một thời gian nhất định; đồng thời, giải quyết các vướng mắc, kể cả việc điều chỉnh mục tiêu và quy mô hoạt động của dự án. Đối với các dự án chưa triển khai hoặc không có khả năng hoạt động cần kiên quyết thu hồi giấy phép, dành địa điểm cho các nhà đầu tư khác. Năm là, cần chú trọng công tác đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý và công nhân kỹ thuật, đáp ứng yêu cầu của cách mạng khoa học – công nghệ và của các doanh nghiệp. Đối với cán bộ quản lý cần chú trọng đào tạo cả kiến thức chuyên môn, trình độ ngoại ngữ lẫn phẩm chất đạo đức. Việc nắm vững các kiến thức về luật pháp quốc tế, về thương trườngthế giới cũng cần được lưu tâm. Việc đào tạo và đào tạo lại công nhân kĩ thuật để phù hợp với yêu cầu tuyển dụng của các nhà đầu tư nước ngoài là rất cấp thiết để giải quyết tình trạng thừa lao động phổ thông, thiếu lao động có trình độ. Bộ Kế hoạch và Đầu tư cần chủ động cùng các bộ tổ chức các lớp tập huấn cho đội ngũ cán bộ công chức quản lý nhà nước và cán bộ trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Bộ Giáo dục và Đào tạo cần tổ chức đào tạo chính quy các cán bộ làm công tác quản lý đầu tư nước ngoài, các cán bộ quản lý tại các doanh nghiệp. Cần đa dạng hóa các loại hình đào tạo, mở rộng phạm vi đào tạo dạy nghề cho đội ngũ công nhân kĩ thuật tại các địa phương, đặc biệt là tại các vùng sâu, vùng xa, hoặc những địa phương có thế mạnh về lao động. Việc đào tạo cần được tiến hành đồng thời, có hệ thống cả về chuyên môn nghiệp vụ, văn hoá, ngoại ngữ, luật pháp... Cần cải tiến nội dung chương trình đào tạo theo hướng coi trọng thực hành, thường xuyên kiểm tra phân bậc tay nghề thông qua hình thức thi tay nghề, thi tuyển công nhân tài năng .... Cần gắn chặt vịệc đào tạo nghề tại các trường với các doanh nghiệp, có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp tham gia vào quá trình đào tạo và đào tạo lại lực lượng lao động phù hợp với đặc thù doanh nghiệp. Cần nghiên cứu, rút kinh nghiệm và phát triển mô hình liên doanh đào tạo như dự án Trung tâm đào tạo kĩ thuật Việt Nam – Singapore (VSTTC) tại Bình Dương. Tranh thủ tối đa sự hợp tác, đầu tư của nước ngoài, các dự án quốc tế để từng bước đưa cán bộ quản lý và công nhân ra học tập và làm việc ở nước ngoài. Mặt khác, đẩy mạnh việc xã hội hoá trong đào tạo cán bộ quản lý và công nhân kỹ thuật; khuyến khích các tổ chức tập thể, cá nhân tham gia vào quá trình đào tạo lực lượng lao động. V. Khuyến nghị chinh sách đầu tư của Việt Nam từ UNCTAD Ngày 18/12/2007 tại Hà Nội, diễn đàn thương mại và phát triển Liên hợp quốc (UNCTAD) đã phối hợp với bộ Kế hoạch và đầu tư tổ chức Hội thảo tham vấn cho báo cáo nghiên cứu về “Chính sách đầu tư của Việt Nam” và đã nêu ra 6 khuyến nghị cho Việt Nam: Một là, Chính phủ Việt Nam cần chuyển từ đường lối “kiểm soát” và chỉ đạo sang “điều tiết, theo dõi và cưỡng chế tuân thủ”. Một số biện pháp cần thực hiện ngay như cụ thể hóa danh sách các hạn chế tiếp nhận đầu tư, xóa bỏ giới hạn về thời gian trong giấy chứng nhận đầu tư… Hai là, thực hiện đầu tư vào một số lĩnh vực quan trọng, khuyến khích các dòng đầu tư mới nhằm đa dạng hóa lĩnh vực chứ không chỉ vào xuất khẩu. Ba là, tạo điều kiện thuận lợi cho việc hấp thu các kĩ năng cần thiết cho nền kinh tế. Việt Nam cần tiếp tục hoàn thiện hơn nữa chính sách phát triển kỹ năng dựa trên giáo dục. Bốn là, phân biệt rõ ràng chức năng sở hữu và chức năng điều tiết của Nhà nước. Trong đó, UNCTAD đề xuất: chuyển giao quyền sở hữu tất cả cho các doanh nghiệp nhà nước cho SCIC và trao cho TCT này chức năng thực hiện ràng buộc ngân sách đối với tất cả các doanh nghiệp quốc doanh và thực hiện cơ chế trợ cấp Nhà nước một cách minh bạch khi cần thiết. Năm là, đơn giản hóa hệ thống thuế và hợp lí hóa cơ cấu ưu đãi thuế nhằm giúp cơ quan quản lý thuế dễ dàng thực thi. Cụ thể, Chính phủ nên tiến hành đánh giá tổng thể các ưu đãi thuế và cải cách hệ thống hiện hành khiến cho hệ thống thuế phổ cập trở nên hấp dẫn và cạnh tranh. Sáu là, hấp thu và thực hiện các thay đổi của pháp luật một cách lành mạnh. Cần có nhiều nỗ lực để trang bị thông tin, giáo dục- đào tạo các thẩm phán và các nhà quản lý. KẾT LUẬN Qua những phân tích trên,có thể thấy đầu tư là một trong những hoạt động cần thiết, không thể thiếu được nhằm đảm bảo sự phát triển nhanh chóng và ổn định của toàn bộ nền kinh tế. Trong đó vốn được coi là chìa khóa, là điều kiện quan trọng hàng đầu quyết định quy mô, tốc độ tăng trưởng và hiệu quả của hoạt động đầu tư.Vì vậy vấn đề tạo lập, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn và mối quan hệ tác động qua lại giữa chúng có liên quan trực tiếp đến việc thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế và ổn định xã hội. Chúng em hi vọng đề tài này có thể góp phần nào cho việc làm rõ về vai trò và mối quan hệ giữa vấn đề tạo lập, thu hút và sử dụng vốn, để từ đó có thể đưa ra một số giải pháp huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn và nhất là việc kết hợp chúng trong nền kinh tế hội nhập của một nước đầy tiềm năng phát triển như Việt Nam. Trong quá trình thực hiện đề án này do hạn chế về trình độ và thời gian, không tránh khỏi những thiếu sót, vì vậy chúng em mong nhận được sự đóng góp chân thành của thầy và toàn thể các bạn để có thể hoàn chỉnh hơn nội dung đề tài. Một lần nữa chúng em xin chân thành cảm ơn thầy Từ Quang Phương và thầy Phạm Văn Hùng đã giúp đỡ chúng em hoàn thành tốt đề tài này. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO. ‘Giáo trình kinh tế đầu tư’. Trường đại học Kinh tế Quốc dân. Trang web bộ kế hoạch đầu tư : www.mpi.gov.vn Trang web tổng cục thống kê : www.gso.gov.vn Trang web cục thống kê thành phố Hồ Chí Minh: www.pso.hochiminhcity.gov.vn Trang web bộ tài chính: www.mof.gov.vn Thời báo kinh tế Việt Nam: www.vneconomy.vn Trang thị trường: www.thitruong.vnn.vn Trang đầu tư: www.vir.com.vn Tạp chí: Nghiên cứu kinh tế. Tạp chí Kinh tế phát triển. Báo Đầu tư. Thời báo kinh tế và dự báo.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc24699.doc
Tài liệu liên quan