Đề tài Mối quan hệ giữa vốn đầu tư, tạo lập, huy động và sử dụng vốn đầu tư

- Cần rà soát lại các quy định hiện tại, xem có những quy định nào còn chưa phù hợp với điều kiện tình hình thực tế để sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện dần. Nhưng quá trình sửa đổi và hoàn thiện này phải diễn ra nhanh chóng không thì sẽ dẫn đến tình trạng quy định vừa mới sửa đổi, bổ sung thì đã lỗi thời, không còn phù hợp nữa - Cần quy định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền hạn của từng người khi tham gia vào một dự án để tránh tình trạng khi có sai phạm xảy ra thì đổ lỗi quy kết trách nhiệm lẫn nhau giữa các bên liên quan, không ai chịu đứng ra chịu trách nhiệm. Cần phải đưa ra các chế tài nghiêm khắc về xử phạt, cưỡng chế khi có các sai phạm để xử lý các cá nhân tham gia dự án: chủ đầu tư, tổ chức tư vấn, nhà thầu. - Cần đảm bảo sự nhất quán và tránh tình trạng thay đổi thường xuyên của các quy định chính sách làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của các công ty trong và ngoài nước. Để đưa ra quyết định thay đổi một chính sách nào đó cần phải báo trước một khoảng thời gian đủ dài cho các nhà đầu tư. - Ngoài ra cần đơn giản hóa và đảm bảo minh bạch của các thủ tục hành chính. Đẩy mạnh thực hiện cơ chế “một cửa – một dấu”

doc38 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1617 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mối quan hệ giữa vốn đầu tư, tạo lập, huy động và sử dụng vốn đầu tư, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
. Hệ số ICOR : là tỷ số giữa quy mô đầu tư tăng thêm với mức gia tăng sản lượng hay là suất đầu tư cần thiết để tạo ra một đơn vị sản lượng ( GDP ) tăng thêm. ICOR = Vốn đầu tư tăng thêm = Đầu tư trong kỳ GDP tăng thêm GDP tăng thêm. = Tỷ lệ vốn đầu tư / GDP Tốc độ tăng trưởng kinh tế. - Đầu tư phát triển tác động đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Đầu tư có tác động quan trọng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đầu tư góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp quy luật và chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của quốc dân và giữa các ngành, vùng. - Tác động của đầu tư phát triển khoa học và công nghệ: Dù nhập hay tự nghiên cứu để có công nghệ cũng đều đòi hỏi lượng vốn đàu tư lớn. Mỗi doanh nghiệp, mỗi nước khác nhau cần phảI có bước đi phù hợp để lựa chọn công nghệ thích hợp. Trên cơ sở đó, đầu tư có hiệu quả để phát huy lợi thế so sánh của từng đơn vị cũng như toàn nền kinh tế quốc dân. B. Để sử dụng vốn đầu tư hiệu quả cần tuân theo một số nguyên tắc. - Mục tiêu của đầu tư, của dự án cần tuân theo định hướng mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội của nền kinh tế. Sự thay đổi của cơ cấu đầu tư phải phù hợp với mục tiêu đã xác định của toàn bộ nền kinh tế trong từng thời kỳ phát triển. - Đầu tư phải xuất phát từ tình hình cung – cầu của thị trường, trên cơ sở nghiên cứu thị trường để quyết định phương hướng đầu tư mới nâng cao được hiệu quả trong đầu tư. - Hoạt động đầu tư cần đảm bảo tiết kiệm, hiệu quả. Trong đầu tư tiết kiệm và hiệu quả thể hiện ở chỗ: với một lượng vốn đầu tư nhất định phải đem lại hiệu quả kinh tế- xã hội đã dự kiến với chi phí đầu tư thấp nhất. Biểu hiện tập trung nhất của nguyên tắc tiết kiệm hiệu quả là đạt được lợi nhuận cao, tăng sản phẩm quốc nội, tăng giá trị gia tăng, tăng thu nhập, bảo vệ môI trường, phát triển văn hoá- giáo dục… - Kết hợp hài hoà các lợi ích trong đầu tư: Trong hoạt động đầu tư, kết hợp hài hoà các loại lợi ích thể hiện sự kết hợp giữa lợi ích của xã hội với lợi ích cá nhân và tập thể; giữa lợi ích chủ đầu tư, nhà thầu và lợi các thành viên có thể mâu thuẫn. Vì vậy vần có sự kết hợp hài hoà theo luật định. - Cần có các bước lập kế hoạch cho các dự án, các hoạt động đầu tư. Kế hoạch đầu tư sẽ giúp nhà đầu tư phối hợp tốt các nguồn lực, điều chỉnh và hạn chế những khuyết tật, tránh thất thoát, lãng phí. - Cần có những ban ngành, quản lý giám sát chặt chẽ các hoạt động đầu tư V. Mối quan hệ giữa tạo lập , huy động và sử dụng vốn đầu tư. 1. Tính tất yếu khách quan phải tạo lập huy động và sử dụng vốn đầu tư. Tạo lập, huy động là nguồn gốc , cơ sở của sử dụng vốn đầu tư. Chỉ có thông qua tự tích luỹ và huy động tích luỹ các đầu tư mới có thể có được nguồn lực nguồn vốn để đầu tư. Theo Adam Smith thì : " Tiết kiệm là nguyên nhân trực tiếp gia tăng vốn. Lao động tạo ra sản phẩm để tích luỹ cho quá trình tiết kiệm. Nhưng dù có tạo ra bao nhiêu đi chăng nữa , nhưng không có tiết kiệm thì vốn không bao giờ tăng lên". Chính vì vậy tất yếu cần phải có tạo lập và huy động vốn trong bất kỳ một nền kinh tế nào. Chỉ khi đã thực hiện được qua trình tạo lập và huy động thì mới có thể có được nguồn vốn để tham gia vào hoạt động đầu tư duy trì và tái sản xuất mở rộng nền kinh tế. Đối với tạo lập thì đó là nguồn vốn ban đầu, tiềm lực khả năng tự tích luỹ. Đối với huy động vốn đó là nguồn đóng góp bên ngoài, là nguồn vốn cực kỳ quan trọng, động lực thúc đẩy hoạt động đầu tư. Đối với các nước đang phát triển thì khả năng tích luỹ còn kém cần thiết phải có nguồn hỗ trợ từ nước ngoài. Mặt khác do đòi hỏi giao lưu quốc tế hiện nay các nước công nghiệp phát triển cần có sự kết hợp nguồn vốn đầu tư trong nước và nước ngoài phục vụ công cuộc phát triển kinh tế. Khi nền kinh tế phát triển thì khả năng tích luỹ, tạo lập và huy động vốn lại càng nâng cao. Sử dụng vốn đầu tư là kết quả, mục tiêu tạo lập và huy động vốn. Khi đã có sự tích tụ và tập trung vốn đến một mức nhất định thông qua quá trình tạo lập và huy động thì nhà đầu tư đã có được " nguyên liệu " trong tay để tiến hành đầu tư. Mỗi cá nhân, tập thể hay một chính phủ đều có những mục tiêu, những kế hoạch khác nhau. Chủ đầu tư cá nhân và doanh nghiệp thì mong muốn thu được lợi nhuận; Nhà nước có mục tiêu tăng trưởng kinh tế nâng cấp cơ sở hạ tầng,cải tiến phúc lợi...Dù cho có mục đích khác nhau, nhưng để đạt được nhưng mục đích này thì đều cần phải sử dụng vốn đầu tư thông qua hoạt động đầu tư. Bất kể là đầu tư phát triển, đầu tư tài chính hay đầu tư thương mại thì đó đều là thành quả từ việc tập trung nguồn lực qua hoạt động tạo lập và huy động. Tuy nhiên nếu không có hoạt động đầu tư, hoạt động sử dụng vốn đầu tư thì sẽ không còn cần thiết phải tạo lập và huy động vốn đầu tư. Vì vậy tạo lập, huy động vốn đầu tư có mối quan hệ mật thiết, khăng khít là những điều kiện cần và thiết yếu cho hoạt động duy trì và tái sản xuất. Nếu thiếu đi bất kỳ một bước một hoạt động nào thì sẽ không thể có sự tăng trưởng kinh tế. Nhất thiết cần có tạo lập và huy động vốn để sử dụng vốn đầu tư thông qua hoạt động đầu tư để duy trì và phát triển nền kinh tế của một quốc gia. Trong quá trình vận hành của nền kinh tế thì tất yếu phải có hoạt động đầu tư, để phục hồi năng lực sản xuất cũ và tạo thêm năng lực sản xuất mới. Do sự hao mòn của tài sản cố định và sự tham gia một lần của tài sản lưu động vào quá trình sản xuất, vì vậy cần phải tiến hành đầu tư để bù đắp giá trị tài sản cố định bị hao mòn và duy trì dự trữ nguyên vật liệu cho quá trình sản xuất tiếp theo. Do nhu cầu quy mô sản xuất xã hội ngày càng mở rộng đòi hỏi phải tiến hành đầu tư tăng thêm tài sản cố định mới và tăng thêm dự trữ tài sản lưu động. Do ngày nay,tiến bộ công nghệ diễn ra khá mạnh mẽ, nhiều máy móc, thiết bị...nhanh chóng bị rơi vào trạng thái lạc hậu công nghệ. Nên cần phải tiến hành đầu tư mới nhằm thay thế các tài sản sản xuất đã bị hao mòn vô hình. Qua đây, ta nhìn rõ vai trò của hoạt động đầu tư là hết sức cần thiết, từ đó thấy được tầm quan trọng vai trò quyết định của vốn đầu tư trong quá trình duy trì và phát triển nền kinh tế. 2. Phân tích tác động của tạo lập, huy động đến việc sử dụng vốn đầu tư. Tạo lập, huy động vốn là đầu vào là nguồn cung cung của vốn đầu tư. Chỉ khi tạo lập và huy động có hiệu quả thì mới có thể tich tụ tập trung được nguồn vốn để sử dụng. Tạo lập và huy động được đủ vốn cho yêu cầu của nền kinh tế thì quá trình đầu tư có thể mở rộng thực hiện đồng bộ, đa dạng cả về chiều dọc lẫn chiều sâu. Nếu tạo lập và huy động vốn kém sẽ dẫn tới thiếu vốn, khi đó nguồn vốn sẽ trở nên khan hiếm, hoạt động đầu tư trỏ nên khó khăn làm cho nền kinh tế trở nên trì trệ. Tạo lập và huy động vốn rất cần thiết cho hoạt động đầu tư, nếu tạo lập và huy động được ít vốn sẽ làm cho hoạt động đầu tư khó thực hiện. Tuy nhiên tạo lập và huy động được nguồn vốn quá nhiều vượt quá nhu cầu hiện tại thì vừa làm giảm đi tiêu dùng trong nền kinh tế, gây tác động xấu cho tăng trưởng kinh tế, vừa gây khó khăn trong việc sử dụng, hấp thụ, giải ngân nguồn vốn. Khi đó việc kiểm soát vốn đầu tư và hoạt động vốn đầu tư rất khó khăn, hoạt động đầu tư tràn lan thiếu hiệu quả dễ gây ra thất thoát lãng phí. 3. Phân tích tác động ngược lại giữa sử dụng đối với tạo lập và huy động vốn đầu tư. Nhu cầu về sử dụng vốn đầu tư đòi hỏi cần có lượng vốn đầu tư như thế nào giúp chúng ta xác định được nhiệm vụ, khối lượng vốn cần tạo lập và huy động. Khi nhu cầu sử dụng vốn lớn thì cần có những chính sách khuyến khích để tăng cường tạo lập và huy động vốn đáp ứng đủ yêu cầu. Tuỳ từng quốc gia với nền tảng phát triển, cơ cấu sử dụng vốn khác nhau mà việc tạo lập và huy động vốn có sự khác nhau. Trong mỗi nứơc thì hệ số ICOR của từng ngành , từng vùng, từng nền kinh tế có sự khác nhau. Và qua đó thì tỷ trọng vốn đầu tư của từng ngành từng khu vực là khác nhau. Theo công thức dự báo : Tổng nhu cầu vốn đầu tư. Tổng nhu cầu vốn đầu tư = GDP tăng thêm x Hệ số ICOR do đầu tư mới. Khác với nước phát triển thường thì các nước đang phát triển có hệ số ICOR ngành nông nghiệp thấp hơn công nghiệp. Tuỳ theo hệ số ICOR và chính sách kinh tế của mỗi ngành mỗi nước mà nhu cầu vốn đầu tư là khác nhau, nên việc tạo lập và huy động vốn quá nhiều vốn vào một ngành đã bão hoà thiếu hiệu quả trong khi đó những ngành khác lại khan hiếm vốn. Khi việc sử dụng vốn đạt hiệu quả sẽ làm tăng thêm niềm tin của nhà đầu tư về khả năng sinh lời của số vốn họ bỏ ra. Có nghĩa khi vốn đầu tư được sử dụng càng hiệu quả thì khả năng thu hút của nó càng lớn.Do đó đối với các nguồn vốn đầu tư phải xác định yếu tố hiệu quả là yêu cầu về mặt chất lượng của việc huy động vốn trong lâu dài. Tuy nhiên, nếu việc sử dụng vốn thiếu hợp lý không chỉ gây thất thoát, lãng phí, thiếu niềm tin ở nhà đầu tư mà còn là nguyên nhân lớn thúc đẩy lạm phát trong nước.Dễ đưa nền kinh tế vào tình trạng khó khăn ảnh hưởng lớn tới việc thu hút, tạo lập nguồn vốn Chương II- Thực trạng tạo lập, thu hút và sử dụng vốn đầu tư ở Việt Nam 1. Tạo lập vốn đầu tư Đứng trên quan điểm doanh nghiệp thì tạo lập vốn được chia thành hai thời kì: Trước khi doanh nghiệp được thành lập nguồn tạo lập vốn là từ nguồn vốn chủ sở hữu và nguồn đi vay. Nguồn vốn doanh nghiệp được hình thành từ: Vốn chủ sở hữu: đối với doanh nghiệp nhà nước thì nguồn vốn này có được do Nhà nước.Nguồn vốn này được tài trợ từ ngân sách nhà nước và nguồn thu ngân sách không gì khác ngoài thuế. Hiện nay, vốn Nhà nước trong các doanh nghiệp chỉ vào khoảng trên 200.000 tỷ đồng, nhưng nếu được định giá theo thị trường và bán ra bên ngoài thì có thể sẽ lên tới 300.000 - 400.000 tỷ đồng. Cụ thể, số lượng doanh nghiệp Nhà nước hiện chỉ còn chiếm 3.61% tổng số doanh nghiệp trong cả nhà nước . - Lợi nhuận giữ lại có xu hướng tăng.Trong giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2005 doanh thu tăng bình quân 11.2%/năm. Đây la tín hiệu tốt của doanh nghiệp vì lợi nhuận giữ lại là một phần của lợi nhuận doanh nghiệp sau khi trừ đi phần thuế nộp cho nhà nước và chi cổ tức chô các cổ đông.Nó trực tiếp làm tăng nguồn vốn chủ sở hữu trong doanh nghiệp tạo sự chủ động và an toàn cho các mục tiêu đầu tư trong tương lai của doanh nghiệp. - Vốn vay từ các ngân hàng thương mại đây là phần quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng lượng vốn má doanh nghiệp hiện nay đang thu hút. Nó chiếm khoảng trên 20% nguồn vốn của doanh nghiệp và ngày càng tăng. Hiện nay doanh nghiệp nhá nước vẫn là khách hàng thường xuyên của các ngân hàng thương mại chiếm 30% tổng số vốn cho vay. Sau khi doanh nghiệp thành lập thi tạo lập vốn được hình thành từ vốn chủ sở hữu và vốn từ quỹ đầu tư phát triển được trích từ lợi nhuận sau thuế được giữ lại. Nếu nhà nước đánh thuế quá cao sẽ dẫn dến khả năng tạo lập vốn của các doanh nghiệp bị thu hẹp. 2. Huy động vốn đầu tư Việc thực hiện hoạt động thu hút vốn đầu tư đã đạt được một số kết quả tích cực về bốn mặt: - Tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP liên tục tăng qua các năm và đến nay đã đạt 38,7%, thuộc loại cao nhất thế giới, có chăng chỉ thấp thua tỷ lệ trên 40% của Trung Quốc. Đối với nước có điểm xuất phát còn thấp,  muốn tăng trưởng cao và chống tụt hậu xa hơn thì đòi hỏi phải có một lượng vốn lớn là rất có ý nghĩa. - Cơ cấu nguồn vốn huy động đã có bước chuyển dịch quan trọng. Điểm nổi bật nhất là sự tăng lên mạnh mẽ của đầu tư từ khu vực kinh tế tư nhân, với tỷ trọng trong tổng số vốn đã lên đến 32,4%, cao hơn mười điểm phần trăm so với cách đây 5 năm. Đó là kết quả của việc thực hiện Luật Doanh nghiệp. Một điểm nổi bật khác là đã có trên 70 nước và vùng lãnh thổ đầu tư trực tiếp (FDI) với tổng số vốn đăng ký mới và bổ sung tính từ năm 1988 đến nay đạt trên 66 tỉ USD,  với số vốn thực hiện đạt được một nửa. Nguồn vốn này đã góp phần tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm, tăng kim ngạch xuất khẩu, đóng góp ngân sách... Đã có 45 nước và định chế tài chính quốc tế đã cam kết với số vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) lên đến 30 tỉ USD và số vốn giải ngân đạt khoảng 16 tỉ USD. Nguồn vốn này đã được ưu tiên sử dụng để hỗ trợ phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội, góp phần tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo. Nhiều công trình quan trọng trong các lĩnh vực giao thông vận tải, năng lượng, thủy lợi quy mô lớn, giáo dục đào tạo, khoa học - công nghệ, y tế, chăm sóc sức khỏe... đã được xây dựng và nâng cấp. Nguồn vốn này đã góp phần tăng cường năng lực và thể chế thông qua các chương trình, dự án hỗ trợ xây dựng pháp luật, cải cách hành chính, xây dựng chính sách và cơ chế quản lý, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực... Tỷ trọng nguồn vốn Nhà nước tuy đã giảm nhưng vẫn còn chiếm quá nửa tổng vốn đầu tư, có tác dụng hình thành các công trình trọng điểm của quốc gia, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đầu tư vào những ngành, lĩnh vực, vùng mà các nguồn vốn khác không muốn đầu tư, có tác động là vốn mồi để thu hút các nguồn vốn khác... - Cơ cấu đầu tư đã chuyển dịch theo hướng tích cực, tập trung cho những mục tiêu quan trọng về phát triển kinh tế- xã hội; vừa tập trung cho tăng trưởng kinh tế, vừa quan tâm đến phát triển xã hội và xây dựng cơ sở hạ tầng; vừa tập trung cho vùng động lực, vừa tăng cho vùng nghèo, xã nghèo. - Cơ chế quản lý đầu tư xây dựng và công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ đã có những đổi mới trong việc phân cấp, trong công tác giám sát 2.1.Thu hút vốn đầu tư trong nước Vốn đầu tư trong nước dự kiến huy động khoảng 21-22% GDP, khoảng 560 nghìn tỷ đồng, chiếm khoảng 2/3 tổng vốn đầu tư toàn xã hội, tương đương khoảng 40 tỷ USD. Các nhà kinh tế cho rằng vốn nhàn rỗi trong dân cư là 60.000 tỷ đồng có thể huy động được còn con số thực sự có thể còn cao hơn nhiều. Hơn nữa, con số này cũng sẽ gia tăng theo từng năm. Vì vậy, các doanh nghiệp, kể cả các tổng công ty nhà nước, các công ty cổ phần trong tất cả các lĩnh vực: thủy điện, xi măng, bưu chính - viễn thông, công nghệ thông tin... đều có thể lập dự án để phát hành trái phiếu, cổ phiếu, nhằm huy động vốn trong dân. Tuy nhiên, không dễ để huy động nguồn vốn đầy tiềm năng trong dân cư nếu như các doanh nghiệp chưa tạo đựơc niềm tin cho dân cư. Một trong những giải pháp cần thiết là phải tạo được sự công khai, minh bạch. Đặc biệt, đối với các doanh nghiệp cổ phần hóa, việc định giá doanh nghiệp theo thị trường là rất quan trọng. Nếu được đánh giá đúng và mọi thông tin trước khi bán cổ phần ra bên ngoài được công khai, minh bạch thì chắc chắn là hiệu quả thu hút vốn từ công chúng sẽ cao hơn nhiều. Chẳng hạn, cổ phần của Công ty Bảo Minh khi bán ra bên ngoài đã gấp 2,16 lần so với giá ban đầu. Hay như Ngân hàng Ngoại thương cũng vậy. Nếu mà đem đấu giá ngân hàng này, hay mời các nhà đầu tư quốc tế vào đánh giá thì giá trị của nó sẽ không chỉ là 5.000 tỷ đồng theo vốn điều lệ nữa, mà chắc chắn sẽ cao hơn nhiều. 2.2.Thu hút vốn đầu tư nước ngoài Qua tính toán sơ bộ của các Bộ, địa phương, qua các chương trình, dự án, và các cam kết hợp tác đầu tư với nước ngoài, dự kiến vốn đầu tư toàn xã hội trong 5 năm tới có thể huy động (tương đối khả thi) là 840 nghìn tỷ đồng. Huy động nguồn vốn từ bên ngoài: Dự kiến khoảng 20 tỷ USD, trong đó vốn đăng ký các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) được cấp phép và các dự án tăng vốn khoảng trên 15 tỷ USD, (vốn đăng ký của các dự án cấp mới là 12 tỷ USD, các dự án tăng vốn đạt trên 3 tỷ USD). Ước tính vốn đưa vào thực hiện có thể đạt khoảng 11 tỷ USD và vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) dự kiến đưa vào khoảng 9 tỷ USD (vốn vay khoảng 7,5 tỷ USD, vốn viện trợ không hoàn lại khoảng 1,5 tỷ USD). Trong tổng vốn nêu trên, khả năng huy động của khu vực Nhà nước (đầu tư công cộng) đạt 467 nghìn tỷ đồng, chiếm 55,5%, trong đó vốn Ngân sách (không kể ODA) khoảng 123 nghìn tỷ đồng, chiếm 14,7%, tín dụng nhà nước (không kể ODA cho vay lại) gần 56 nghìn tỷ đồng, chiếm 6,6%, doanh nghiệp nhà nước 162 nghìn tỷ đồng, chiếm 19,3%; vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA đạt 126 nghìn tỷ đồng, chiếm 15%; khu vực tư nhân trong nước khoảng 220 nghìn tỷ đồng, chiếm 26,2%; khu vực vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) khoảng 153 nghìn tỷ đồng, chiếm 18,2% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Như vậy, khu vực nhà nước vẫn chiếm tỷ lệ lớn (55,5%), khu vực tư nhân trong nước tuy tỷ lệ có tăng từ 21,9% (1996-2000) lên 26,2% (2001-2005), nhưng vẫn còn rất thấp, mới chiếm khoảng 1/4 vốn đầu tư toàn xã hội. Đây là khu vực còn nhiều tiềm năng, Chính phủ sẽ chỉ đạo các Bộ, ngành và địa phương tiếp tục nghiên cứu, tháo gỡ khó khăn, tìm các biện pháp hữu hiệu hơn để huy động thêm vốn đầu tư cho Chiến lược này. Vốn FD: Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI thời gian qua đã đạt được 5 thành tựu sau: Thứ nhất, dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam ngày càng gia tăng, góp phần bổ sung nguồn vốn đầu tư phát triển kinh tế-xã hội. Tính từ năm 1988 đến nay, Việt Nam đã thu hút 9.500 dự án đầu tư nước ngoài với tổng vốn đăng ký khoảng 98 tỷ USD. Đặc biệt, năm 2007 thu hút đầu tư nước ngoài vượt ngưỡng hơn 20 tỷ USD, tăng gần 70% so với năm 2006, chiếm trên 20% tổng vốn đầu tư nước ngoài trong 20 năm qua Thứ hai, quá trình thu hút đầu tư nước ngoài đóng góp tích cực vào thành công của công cuộc đổi mới trong 21 năm qua. Hiện khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 16% GDP, đóng góp vào ngân sách Nhà nước vượt 1,5 tỷ USD trong năm 2007; đồng thời thu hút 1,2 triệu lao động trực tiếp và hàng triệu lao động gián tiếp. Thứ ba, đầu tư nước ngoài đã góp phần tích cực thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Về cơ cấu, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 37% giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước. Về cơ cấu vùng, đầu tư nước ngoài tập trung chủ yếu ở các vùng kinh tế trọng điểm đã góp phần làm cho các vùng này thực sự là vùng kinh tế động lực để lôi kéo sự phát triển chung và các vùng phụ cận. Thứ tư, đầu tư nước ngoài là cầu nối quan trọng giữa kinh tế Việt Nam với nền kinh tế thế giới, thúc đẩy phát triển thương mại, du lịch và tạo điều kiện quan trọng để Việt Nam hội nhập ngày càng chủ động và sâu hơn vào đời sống kinh tế thế giới. Thứ năm, đầu tư nước ngoài có tác động đến kinh tế trong nước, thúc đẩy các doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh, đổi mới phương thức quản trị doanh nghiệp cũng như phương thức kinh doanh; đồng thời nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế thế giới. Thông qua đầu tư nước ngoài, nhiều nguồn lực trong nước như lao động, đất đai, lợi thế địa kinh tế, tài nguyên được khai thác và sử dụng có hiệu quả hơn. Bên cạnh những kết quả đã đạt được, lãnh đạo Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng nhìn nhận vẫn còn một số tồn tại cần tiếp tục giải quyết như: vốn thực hiện tăng qua các năm nhưng chậm nên khoảng cách giữa vốn đăng ký và vốn thực hiện ngày càng giãn ra; đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực nông, lâm, ngư, nghiệp còn thấp; đầu tư từ những nước phát triển có thế mạnh về công nghệ như Hoa Kỳ, một số quốc gia thuộc EU tăng chậm; việc cung cấp nguyên liệu, phụ tùng của các doanh nghiệp trong nước cho các doanh nghiệp nước ngoài còn chậm... Vốn ODA Vốn cam kết trong những năm gần đây(đơn vị nghìn tỷ) Tính đến năm 2007, tổng cộng đã có khoảng 37 tỷ USD vốn ODA tài trợ cho Việt Nam, trong đó vốn thực hiện đạt 47%. Xu hướng của chính sách phân cấp quản lý ODA của WB cũng như các nhà tài trợ khác đã tác động rất lớn đối với các quốc gia thụ hưởng nguồn vốn này. Ở Việt Nam, chính sách này được tiến hành từng bước và được đẩy mạnh từ cuối năm 2006, khi Nghị định số 131/2006/NĐ-CP của Chính phủ ra đời với nội dung cốt lõi là Thủ tướng chỉ phê duyệt các chương trình quan trọng quốc gia, khung chính sách và các dự án liên quan đến an ninh quốc phòng. Khung pháp lý liên quan như Luật Ngân sách nhà nước, Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu, Luật Xây dựng,... cũng thay đổi theo hướng đồng bộ hóa và phân cấp mạnh các dòng vốn cho địa phương. Theo đánh giá, chính sách phân cấp thời gian qua đã tạo ra hàng loạt ưu điểm như mở rộng đối tượng tham gia quản lý, giảm các rào cản trong việc ra các quyết định hoạt động kinh tế - xã hội quan trọng ở địa phương. Địa phương cũng dễ dàng tiếp cận các dịch vụ do bộ, ngành cung cấp hơn, đồng thời điều phối hiệu quả hơn các chương trình quốc gia, tỉnh, huyện, tạo cơ hội tốt hơn cho người dân tham gia quyết định. Nhưng ngược lại, thực tế phân cấp ở Việt Nam cũng đã cho thấy một loạt các hạn chế: năng lực quản lý và chuyên môn yếu kém đã làm cho các dự án ODA ở địa phương kém hiệu quả đi, việc chuyển giao trách nhiệm trong khi không đủ nguồn lực cần thiết đã làm cho việc phân phối công bằng dịch vụ dịch vụ hoặc cung cấp dịch vụ khó khăn hơn. Đặc biệt, việc chưa gắn kết giữa các cấp quản lý đã làm cho sự phối hợp thực hiện chính sách trở nên phức tạp và không đảm bảo tính thông suốt xuống cơ sở. Một vấn đề tồn tại mang tính tổng quát hơn cũng được chỉ rõ: Đó là tình trạng khung pháp lý dù đã thay đổi theo hướng đồng bộ hóa, phân cấp mạnh hơn nhưng vẫn lệch pha, chưa đồng bộ, nội dung phân cấp quản lý ODA thể hiện trong rất nhiều văn bản khác nhau. Việc hài hòa chính sách, thủ tục và quy trình giữa Việt Nam và nhà tài trợ cũng còn chậm, khoảng cách của sự cách biệt còn lớn. 3. Thực trạng sử dụng vốn Vốn đầu tư là yếu tố vật chất trực tiếp quyết định tốc độ tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ, cải thiện môi trường. Nhận thức được tầm quan trọng này, nên trong chiến lược 10 năm cũng như kế hoạch 5 năm, Đảng và Nhà nước đều đưa ra mục tiêu này và được coi là một trong mười mục tiêu tổng quát nhất. Về lĩnh vực này việc thực hiện đã đạt được những thành tựu tích cực về bốn mặt. Tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP liên tục tăng qua các năm và đến nay đã đạt 38,7%, thuộc loại cao nhất thế giới, có chăng chỉ thấp thua tỷ lệ trên 40% của Trung Quốc. Đối với nước có điểm xuất phát còn thấp, muốn tăng trưởng cao và chống tụt hậu xa hơn thì đòi hỏi phải có một lượng vốn lớn là rất có ý nghĩa. Cơ cấu nguồn vốn huy động đã có bước chuyển dịch quan trọng. Điểm nổi bật nhất là sự tăng lên mạnh mẽ của đầu tư từ khu vực kinh tế tư nhân, với tỷ trọng trong tổng số vốn đã lên đến 32,4%, cao hơn mười điểm phần trăm so với cách đây 5 năm. Đó là kết quả của việc thực hiện Luật Doanh nghiệp. Một điểm nổi bật khác là đã có trên 70 nước và vùng lãnh thổ đầu tư trực tiếp (FDI) với tổng số vốn đăng ký mới và bổ sung tính từ năm 1988 đến nay đạt trên 66 tỉ USD, với số vốn thực hiện đạt được một nửa. Nguồn vốn này đã góp phần tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm, tăng kim ngạch xuất khẩu, đóng góp ngân sách... Đã có 45 nước và định chế tài chính quốc tế đã cam kết với số vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) lên đến 30 tỉ USD và số vốn giải ngân đạt khoảng 16 tỉ USD. Nguồn vốn này đã được ưu tiên sử dụng để hỗ trợ phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội, góp phần tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo. Nhiều công trình quan trọng trong các lĩnh vực giao thông vận tải, năng lượng, thủy lợi quy mô lớn, giáo dục đào tạo, khoa học - công nghệ, y tế, chăm sóc sức khỏe... đã được xây dựng và nâng cấp. Nguồn vốn này đã góp phần tăng cường năng lực và thể chế thông qua các chương trình, dự án hỗ trợ xây dựng pháp luật, cải cách hành chính, xây dựng chính sách và cơ chế quản lý, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực... Tỷ trọng nguồn vốn Nhà nước tuy đã giảm nhưng vẫn còn chiếm quá nửa tổng vốn đầu tư, có tác dụng hình thành các công trình trọng điểm của quốc gia, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đầu tư vào những ngành, lĩnh vực, vùng mà các nguồn vốn khác không muốn đầu tư. Cơ cấu đầu tư đã chuyển dịch theo hướng tích cực, tập trung cho những mục tiêu quan trọng về phát triển kinh tế- xã hội; vừa tập trung cho tăng trưởng kinh tế, vừa quan tâm đến phát triển xã hội và xây dựng cơ sở hạ tầng; vừa tập trung cho vùng động lực, vừa tăng cho vùng nghèo, xã nghèo. Cơ chế quản lý đầu tư xây dựng và công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ đã có những đổi mới trong việc phân cấp, trong công tác giám sát. Nhờ những kết quả trên mà tăng trưởng kinh tế đạt tốc độ cao, năm sau cao hơn năm trước; cơ cấu kinh tế bước đầu chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; cơ sở hạ tầng được xây dựng, nâng cấp 4. Thực trạng mối quan hệ tạo lập thu hút và sử dụng vốn ở Việt Nam 4.1. Tác động của tạo lập, huy động đến việc sử dụng vốn đầu tư. Vốn đầu tư là yếu tố vật chất trực tiếp quyết định tốc độ tăng trưởng kinh tế. Nhưng đó là nói về đầu tư có hiệu quả. Năm 2007 tăng trưởng kinh tế đạt 8.48% cao nhất trong 11 năm qua. Còn nếu đầu tư không có hiệu quả, thì chẳng những tăng trưởng kinh tế phải tốn nhiều vốn đầu tư hơn, mà còn gây ra lạm phát, xét trên nhiều mặt lạm phát do 'chi phí đẩy' và lạm phát do 'cầu kéo'. Bản thân vốn đầu tư sẽ làm cho lạm phát 'cầu kéo'; còn đầu tư kém hiệu quả sẽ làm cho lạm phát do 'chi phí đẩy'. Lạm phát do quan hệ cung - cầu, quan hệ tiền - hàng mất cân đối thường có bề nổi, dễ nhận thấy, nhưng lạm phát do đầu tư không có hiệu quả thì thường là lạm phát ngầm, lúc đầu rất khó nhận thấy, nhưng khi nó bộc phát thì rất cao, rất khó trị và việc trị nó thường phải kèm theo cái giá phải trả không nhỏ, thậm chí còn có thể rơi vào cuộc khủng hoảng Mặc dù tỷ lệ huy động vốn từ các nguồn là tốt nhưng ở Việt Nam hiện nay vẫn tồn tại nhiều vấn đề trong việc sử dụng vốn nếu không muốn nói là lãng phí đó là đối với những dự án có vốn đầu tư của nhà nước. Chúng ta chưa quan tâm đầy đủ việc sử dụng hiệu quả các nguồn vốn đầu tư kể cả ngân sách, nguồn đầu tư trong nước cũng như nước ngoài và ODA.  Việc thất thoát ngân sách đã được Chính phủ thừa nhận, Quốc hội bàn thảo, và khiến người dân xót xa. Còn đối với những dự án của tư nhân họ có lợi ích,vốn do họ bỏ ra nên họ có động lực thúc đẩy hiệu quả sử dụng vốn tốt hơn.Tuy nhiên hiệu quả sử dụng vốn trong nước vẫn bị hạn chế do tác động chung của các nguồn lực khác: Cơ chế chính sách, vấn đề cơ sở hạ tầng và cả những ưu đãi lớn dành cho doanh nghiệp nhà nước. Đáng ra, tư nhân có thể sử dụng nguồn vốn hiệu quả hơn rất nhiều. Tất nhiên, không phủ nhận sự yếu kém của DN tư nhân trong nước, nhưng một yếu tố quan trọng chính là môi trường kinh doanh còn quá nhiều nhân tố bất ổn, do chính nhà nước tạo ra. Về vốn bên ngoài, chúng ta đã nhận được rất nhiều cam kết, nhưng tốc độ giải ngân còn quá thấp. Cam kết FDI 10-16 tỷ USD nhưng thực tế tỉ lệ giải ngân thấp hơn đáng kể, chỉ 4,1 tỷ USD năm ngoái. Các nhà đầu tư vào nhưng chưa đưa được tiền vào. Về cơ sở hạ tầng, nhiều nhà đầu tư nước ngoài mong đầu tư nhưng bản thân Việt Nam lại chưa tạo điều kiện đầy đủ. Hình thức BOT đã được luật hóa nhưng chưa có hướng dẫn thực sự để DN nước ngoài tham gia. Cách đây chưa lâu, Phần Lan đã mất 5-7 năm để đàm phán tham gia xây dựng hạ tầng, đạt đến kí kết. Họ lại phải mất thêm 2 năm đàm phán về giá cung cấp điện nhưng không có kết quả. Nước này đã rút dự án khỏi Việt Nam. Đối với vốn ODA, Việt Nam chưa thực hiện tốt tất cả các công việc cần thiết để giải ngân tốt hơn. Một phần do phức tạp thủ tục, một phần do quy định khác nhau giữa nhà tài trợ và chính phủ Việt Nam nên khó thống nhất.  Sau khi chọn được dự án ODA đã khó, việc chuẩn bị của Việt Nam khi có vốn ODA còn chậm, rõ nhất là chuẩn bị mặt bằng, và không có sẵn vốn đối ứng trong các dự án. Điều kiện con người và kinh tế kỹ thuật đã làm chậm quá trình giải ngân. Trong khi đó, mỗi nguồn ODA có thời gian ân hạn nhất định. Nếu không làm việc, chúng ta đã tự tước bỏ đi thời gian ưu đãi ấy. Ví dụ, một dự án ODA quy định trong 10 năm được hưởng lãi suất thấp, hoặc không phải trả lãi. Nhưng vì quá trình giải ngân chậm, khi dự án bắt đầu đi vào sử dụng chỉ còn 2-3 năm. Chúng ta đã tự đánh mất 7-8 năm quý giá. Và cái giá của ODA trở nên đắt đỏ hơn. Chưa kể nó sẽ kìm hãm sự phát triển của khu vực, lĩnh vực đưa ODA vào. Đây là lãng phí kép: tiền của, gánh nợ, thời gian cho phát triển. Đặc biệt, mất thời gian đồng nghĩa với mất đi các cơ hội. Tạo lập, huy động vốn vượt quá nhu cầu hiện tại sẽ dẫn đến lãng phí thất thoát Năm Số DA đã thanh tra Tổng vốn ĐT (tỷ đồng) Sai phạm về TC (tỷ đồng) Tỷ lệ (%) 2002 17 9.385 871 13.6 2003 14 8.193 1235 19 2004 64 6.000 1134 18.9 2005 84 2054.2 402 19.6 Nguồn: Báo cáo của Chính phủ về đầu tư xây dựng cơ bản trước QH 16/11/2005 4.2.Tác động ngược lại giữa sử dụng đối với tạo lập và huy động vốn đầu tư. Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng vừa ký QĐ 290 phê duyệt Đề án định hướng thu hút và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) thời kỳ 2006-2010. Theo đó, từ nay đến 2010, Việt Nam cần tới 19-21 tỷ USD vốn ODA cam kết từ các nhà tài trợ Theo Đề án này, để thực hiện mục tiêu kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010 và đạt mức tăng trưởng bình quân 7,5-8%/năm, Việt Nam cần huy động tổng vốn đầu tư khoảng 2.200 nghìn tỷ đồng (theo tỷ giá năm 2005), tương đương gần 140 tỷ USD (theo tỷ giá hiện hành là 160 tỷ USD). Trong đó, 65% huy động từ các nguồn vốn trong nước và 35% từ các nguồn vốn ngoài. Riêng nhu cầu về vốn ODA, trong 5 năm tới, cần thực hiện được khoảng 11 tỷ USD vốn ODA . Để thực hiện được nguồn vốn trên, cần phải có vốn ODA cam kết khoảng 19-21 tỷ USD. Chương III – Một số tồn tại và giải pháp nhằm nâng cao khả năng tạo lập,thu hút và hiệu quả sử dụng vốn đầu tư Một số tồn tại. Như đã trình bày ở trên, việc tạo lập, thu hút và sử dụng vốn đầu tư ở Việt Nam trong những năm qua đã đạt được rất nhiều tiến bộ. Tuy nhiên vẫn tồn tại những khuyết điểm cần phải khắc phục ngay để góp phần đẩy mạnh phát triển kinh tế đất nước. Sau đây là một số tồn tại cơ bản: Khả năng hấp thụ vốn đầu tư Có thể nói chưa bao giờ Việt Nam lại dồi dào vốn đầu tư như thời điểm hiện nay. Cả vốn đầu tư thuộc ngân sách Nhà nước, vốn huy động từ nguồn tiết kiệm trong dân cư, vốn đầu tư nước ngoài… đều tăng liên tiếp qua các năm. Nhưng trong thực tế chúng ta có thể dễ dàng bắt gặp những công trình xây dựng như cầu, đường… được thi công dở dang, những nhà máy đã xây dựng xong nhưng không được đưa vào hoạt động… Vậy tại sao lại có hiện tượng đó? Tất cả đều được trả lời là do thiếu vốn. Khả năng hấp thụ vốn đầu tư của Việt Nam hiện nay là rất kém, được thể hiện rõ nhất qua luồng vốn đầu tư nước ngoài. Trong năm 2007, tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI của Việt Nam đạt mức kỷ lục 20,3 tỷ USD - tăng tới 67,93% so với năm 2006 và vượt 53% kế hoạch của cả năm (dự kiến 13 tỷ USD). Tuy nhiên chỉ có 4,6 tỷ USD được giải ngân trong năm 2007, tức chỉ đạt xấp xỉ 23% tổng vốn đăng ký. Tỷ lệ này là quá nhỏ. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này như cơ chế chính sách chưa hợp lý, còn vướng mắc nhiều thủ tục, cơ sở hạ tầng còn yếu kém…. Nếu không được giải quyết sớm, hiện tượng này sẽ gây hậu quả rất lớn cả trong hiện tại lẫn tương lại. Nguồn vốn đầu tư bị ứ đọng sẽ gây thiệt hại cho chủ đầu tư, không giúp phát triển kinh tế đất nước, gây lãng phí nguồn lực. Và trong tương lại nước ta sẽ mất uy tín trong con mắt các nhà đầu tư nước ngoài, gây khó khăn cho việc thu hút vốn đầu tư Vấn đề tiêu cực, lãng phí và thiếu hiệu quả trong sử dụng vốn đầu tư Thu hút vốn đầu tư đã khó và quan trọng, nhưng việc sử dụng vốn đầu tư sao cho hiệu quả lại càng khó hơn. Tiêu cưc, lãng phí trong sử dụng vốn đầu tư đang là vấn đề nhức nhối ở nước ta. Đặc biệt là trong sử dụng vốn ngân sách nhà nước và vốn viện trợ ODA. Như đề án 112 nhằm tin học hóa hệ thông quản lý hành chính nhà nước đã gây lãng phí hàng trăm tỷ đồng. Các công trình xây dựng như đường xá, trường học, bệnh viện thì bị ăn bơt, cắt xén vật liệu; hoặc chậm tiến độ làm tăng chi phí đầu tư…. Bộ trưởng Bộ kế hoạch đầu tư Võ Hồng Phúc trong Hội nghị toàn quốc về Quản lý đầu tư và Xây dựng Cơ bản diễn ra vào ngày 17/2/2004 đã phát biểu: ''Lãng phí, thất thoát trong đầu tư và xây dựng vẫn còn là vấn đề nổi cộm hiện nay. Còn có những biểu hiện tiêu cực trong quản lý đầu tư và thi công công trình. Chất lượng ở một số công trình còn thấp, gây lãng phí và kém hiệu quả trong đầu tư'' Cụ thể, kết quả kiểm tra năm 2002 của 995 dự án với tổng vốn đầu tư 20.736 tỷ đồng, đã phát hiện sai phạm về tài chính và sử dụng vốn đầu tư là 1.151 tỷ đồng, bằng khoảng 5,5% tổng vốn đầu tư các công trình được kiểm tra. Riêng 17 công trình do Thanh tra Nhà nước thực hiện kiểm tra phát hiện sai phạm tài chính lên tới 13%. Đó là chưa kể đến các lãng phí lớn do chậm triển khai công trình và nhất là do sai sót trong chủ trương đầu tư mà hiện chưa có cách đánh giá thống nhất. Năm 2003, hoạt động thanh tra được siết chặt hơn, trong tổng số vốn 8.235 tỷ đồng đầu tư cho các công trình xây dựng cơ bản thì sai phạm tài chính lên tới trên 1.200 tỷ đồng, chiếm trên 14% tổng số vốn. Nếu chúng ta không có biện pháp nhằm ngăn ngừa những việc làm sai trái này, thì những đồng vốn quý báu mà chúng ta đã cố gắng có được sẽ chỉ làm giàu cho túi tiền của những cá nhân, tổ chức phi pháp mà không giúp ích được gì cho đất nước Cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng yêu cầu đầu tư Một doanh nghiệp khi quyết định đầu tư luôn cố gắng lựa chọn 1 quốc gia, 1 địa điểm có cơ sở hạ tầng tốt. Điều đó là rất quan trọng vì nó giúp cho quá trình triển khai, hoạt động sau này của doanh nghiệp diễn ra suôn sẻ, nhanh chóng; đem lại lợi nhuận lớn cho họ. Những yếu tố đó là: khả năng cung cấp điện, nước tốt; giao thông đi lại thuận tiện, nhanh chóng, đa dạng về hì2nh thức như đường bộ, đường biển, đường không…; có các khu công nghiệp, nhu cầu về nhà ở của người lao động phải được đáp ứng đầy đủ….. Hiểu được điều đó, từ sau khi độc lập đến nay, Nhà nước ta đã luôn chú trọng đến việc đâu tư cho cơ sở hạ tầng và đã thu được một số thành tựu. Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới (WB) tại diễn đàn doanh nghiệp diễn ra trong năm 2000, trong vòng 10 nǎm từ 1990-2000, hạ tầng cơ sở của Việt Nam đã được cải thiện đáng kể, nhờ có sự đầu tư và tài trợ của Nhà nước Việt Nam cũng như nhiều quốc gia, tổ chức tài chính quốc tế. Bên cạnh đó chính sách mở cửa để thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam cũng đã góp một phần không nhỏ vào việc nâng cấp một số lĩnh vực hạ tầng cơ sở quan trọng. Mười nǎm qua, sản lượng điện Việt nǎm đã tǎng gấp 4 lần, hệ thống đường giao thông và các cảng biển chính được nâng cấp và mở rộng, hàng không đã được hiện đại hoá, đặc biệt là bưu chính viễn thông, từ một mạng lưới nhỏ và lạc hậu trước nǎm 1990, đến nay, Việt Nam đã có mạng viễn thông hiện đại, mức tǎng trưởng đứng thứ hai sau Trung Quốc, sự tiếp cận dịch vụ mới của quốc tế nhanh, trung bình chỉ sau tám tháng kể từ khi dịch vụ mới được tung ra thị trường quốc tế thì ở Việt Nam đã có loại hình dịch vụ này. Nhưng với tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm từ 7-10%, hiện nay cơ sở hạ tầng đã không theo kịp được tăng trưởng kinh tế. Trước tiên và quan trọng nhất phải kể đến là ngành điện, hàng năm sản lượng điện thiếu hụt ngày càng tăng. Trong khi các nhà máy điện được xây dựng rất chậm, không kịp đưa vào sử dụng theo đúng kế hoạch dẫn tới việc phải cắt điện. Ảnh hưởng tới hoạt động của các doanh nghiệp cũng như đời sống của người dân. Tiếp theo là hệ thống hạ tầng giao thông: mạng lưới đường bộ không thuận tiện, ngày càng xuống cấp, chất lượng thấp; ở các thành phố lớn thì luôn quá tải, ách tắc. Hệ thống cảng biển thì còn nhỏ, không đón được các tầu hàng có trọng tải lớn….. Những điểm yếu này sẽ gây rất nhiều khó khăn cho Việt Nam trong việc thu hút và sử dùng hiệu quả vốn đâu tư Do đặc thù của việc đầu tư cho cơ sỏ hạ tầng là cần nguồn vốn lớn, thời gian triển khai dài, lợi nhuận thấp không hấp dẫn các doanh nghiệp…. nên ngay từ bây giờ chúng ta phải có các giải pháp, chính sách hỗ trợ nhằm khuyến khích, đây mạnh việc đầu tư cho cơ sở hạ tầng. Có một hạ tầng tốt là chúng ta đã có một nền móng vững chắc để tiếp tục phát triển kinh tế đât nước. 1.4. Môi trường đầu tư chưa thông thoáng Môi trường đầu tư là một khái niệm khá rộng. Nó bao gồm rất nhiều yếu tố như: cơ chế chính sách, sự ổn định về kinh tế - chính trị - xã hội, các chính sách khuyến khích, hỗ trợ đầu tư như chính sách miễn giảm tiền thuê đất, thuế thu nhập…. Ở đây chúng ta sẽ chỉ đề cập đến một số yếu tố còn chưa tốt, chưa hoàn thiện dẫn đến ảnh hưởng xấu tời việc thu hút và sử dụng vốn đầu tư ở Việt Nam. Sự phân biệt giữa nhà đầu tư nước ngoài với nhà đầu tư trong nước. Thực tế là một mặt chúng ta luôn tìm mọi cách thu hút các nguồn vốn đầu tư nước ngoài như đầu tư trực tiếp FDI, đầu tư gián tiếp FPI….nhưng mặt khác chúng ta lại tạo nên các rào cản đối với họ. Như việc các nhà đầu tư nước ngoài phải chịu giá thuê đất, giá điện cao hơn nhà đầu tư trong nước; áp đặt các yêu cầu khi tham gia liên doanh với các doanh nghiệp trong nước. Tiếp theo là những quy định nhằm loại trừ hoặc nếu không thì điều chặt chẽ hơn sự tham gia của nước ngoài vào những khu vực được coi là đặc biệt “nhạy cảm” như cơ sở hạ tầng, và truyền thông. Về mảng đầu tư gián tiếp, chúng ta mới chỉ cho phép các nhà đầu tư nước ngoài được sở hữu tối đa 30% cổ phần của các ngân hàng thương mại và 49% cổ phần ở các doanh nghiệp khác. Những việc làm này đều có tác dụng tốt của nó như bảo đảm an nịnh, ổn định quốc gia, bảo hộ cho các doanh nghiệp trong nước có thời gian phát triển…..nhưng nó cũng đã vô tình cản trở các nhà đầu tư nước ngoài tham gia đầu tư vào Việt Nam. Việc chúng ta cần làm bây giờ là phải điều chỉnh các cơ chế chính sách sao cho cân đối, hài hòa, thỏa mãn được lợi ích của các đối tượng tham gia đầu tư Sự thiếu ổn định của cơ chế chính sách, các chiến lược dài hạn và hệ thống luật pháp còn chưa chặt chẽ. Các doanh nghiệp khi xây dựng phương án đầu tư luôn phải tìm hiểu kĩ về các cơ chế chính sách của Nhà nước, các chiến lược phát triển dài hạn của từng ngành, từng địa phương để đưa ra phương án đầu tư tối ưu nhất. Nhưng trong thực tế, các doanh nghiệp luôn bị bất ngờ, bị đưa vào thế bị động khi các chính sách, chiến lược của Nhà nước thường xuyên bị thay đổi. Ví dụ như trong ngành công nghiệp ô tô, chúng ta luôn bảo hộ cho các doanh nghiệp sản xuất trong nước bằng việc đánh thuế rất cao đối với ô tô nhập khẩu và khuyến khích đầu tư vào ngành công nghiệp phụ trợ. Chiến lược đó như một cam kết của Chính phủ với các doanh nghiệp sản xuất và lắp ráp xe trong nước để họ bỏ vốn đầu tư cho việc sản xuất. Nhưng chỉ trong vòng 3 năm từ 2005 – 2007, để thực hiện các cam kết về thuế quan của Việt Nam khi gia nhập tổ chưc thương mại thế giới WTO chúng ta đã liên tiếp cắt giảm các dòng thuế đối với xe ô tô nhập khẩu. Đầu tiên là giảm thuế nhập khẩu đối với xe đã qua sử dụng. Sau đó là 2 lần liên tiếp giảm thuế từ 90% xuống 80% và từ 80% xuống 70% đối với xe ô tô mới nguyên chiếc nhập khẩu. Việc làm này khiến cho các doanh nghiệp sản xuất và lắp ráp xe trong nước lo ngại về khoản đầu tư mà họ đã thực hiện và phải xem xét lại kế hoạch đầu tư trong tương lai. Về hệ thống pháp luật, việc soạn thảo luật của chúng ta còn chưa tốt, luật pháp còn nhiều kẽ hớ và thương xuyên phải sủa chữa, thay đổi. Nguyên nhân. Yếu tố khách quan Nước ta đi lên từ chiến tranh: Trải qua 2 cuộc chiến tranh ác liệt, chúng ta gần như phải đi lên từ 2 bàn tay trắng. Cơ sở hạ tầng bị phá hủy nặng nề: hệ thống đường xá, cầu cống bị đánh bom ác liệt, những cái còn lại thì chất lương thấp và bị gián đoạn. Các nhà máy, xí nghiệp thì công nghệ lạc hậu, quy mô nhỏ và cũng bị phá hủy khá nhiều trong chiến tranh. Trên cả nước chỉ có một vài nhà máy điện với công suất rất nhỏ. Đời sống nhân dân thì khổ cực. Chúng ta phải mất nhiều năm mới diệt được giặc đói, giặc dốt. Ngoài ra sau chiến tranh, chúng ta còn phải chịu lệnh cấm vận của Mỹ và các nước phương tây khiến cho việc thu hút đầu tư và viện trợ nước ngoài gặp nhiều khó khăn. Với những khó khăn như vậy nên trong quá trình hội nhập và phát triển đất nước tất yếu chúng ta phải mắc phải những sai lầm, những tồn tại không đáng có. Nhưng quan trọng hơn là chúng ta đã nhận thức được và rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu để sửa chữa và tiếp tục phát triển. Nước ta mới bước vào quá trình hội nhập quốc tế: nước ta mới chỉ bắt đầu hội nhập quốc tế mạnh mẽ và sâu rộng tư năm 1990 đến giờ. Sự non nớt về kinh nghiệm trong những ngày đầu khiến nước ta gặp nhiều khó khăn, thua thiệt trên trường quốc tế. Do điều kiện trong nước còn nhiều khó khăn nên chúng ta luôn quý trọng từng đồng vốn đầu tư it ỏi của nước ngoài trong những năm đầu. Nhưng trải qua năm tháng, chúng ta đã tự học hỏi và trưởng thành lên rất nhiều. Việt Nam hiện giờ đã trở thành một trong những điểm đến hấp dấn nhất thế giới đối với các nhà đầu tư quốc tế. Điều đó cho thấy sự mở cửa và hòa nhập của Việt Nam đối với thế giới là rất tốt. Các yếu tố chủ quan Các thủ tục pháp lý trong đầu tư còn nhiều vướng mắc. Đây là một khuyết điểm lớn trong công tác điêu hành của Chính phủ. Việc các doanh nghiệp muốn đầu tư nhưng gặp phải nhiều vướng mắc hoặc thậm trí phải từ bỏ đã trở nên phổ biến. Họ phải đi lại làm việc rất nhiều lần với nhiều cơ quan quản lý khác nhau để có thế xin được giấy phép đầu tư. Có được giấy phép đầu tư rồi nhưng công việc triển khai cũng rất khó khăn, gặp nhiều vướng mắc làm chậm tiến độ, tăng chi phí đầu tư. Những việc đó sẽ gây khó khăn cho thu hút và sử dụng hiệu quả vốn đầu tư. Hiện nay nước ta đã triển khai thử nghiêm cơ chế 1 cửa 1 dấu ở một số địa phương và đã thu được kết quả khả quan. Trong tương lai cơ chế đó sẽ được nhân rộng ra cả nươc để tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư. Vấn đề tham nhũng: Như đã đề cập ở trên, vấn đề tham nhũng đang trong đâu tư đang ngày càng nghiêm trọng và trở thành vấn đề bức xúc của xã hội. Các vụ án về tham ô tham nhũng liên tiếp được đưa ra ánh sáng và xử lý thích đáng. Nếu không được giai quyết sớm nó sẽ gây hậu quả rất lơn cho quá trình phát triển đất nước. II - Giải pháp nhằm nâng cao khả năng tạo lập,thu hút và hiệu quả sử dụng vốn đầu tư A – NHÓM GIẢI PHÁP CHUNG 1. Hoàn thiện hệ thống luật pháp nói chung và pháp luật về đầu tư nói riêng - Cần rà soát lại các quy định hiện tại, xem có những quy định nào còn chưa phù hợp với điều kiện tình hình thực tế để sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện dần. Nhưng quá trình sửa đổi và hoàn thiện này phải diễn ra nhanh chóng không thì sẽ dẫn đến tình trạng quy định vừa mới sửa đổi, bổ sung thì đã lỗi thời, không còn phù hợp nữa - Cần quy định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền hạn của từng người khi tham gia vào một dự án để tránh tình trạng khi có sai phạm xảy ra thì đổ lỗi quy kết trách nhiệm lẫn nhau giữa các bên liên quan, không ai chịu đứng ra chịu trách nhiệm. Cần phải đưa ra các chế tài nghiêm khắc về xử phạt, cưỡng chế khi có các sai phạm để xử lý các cá nhân tham gia dự án: chủ đầu tư, tổ chức tư vấn, nhà thầu.... - Cần đảm bảo sự nhất quán và tránh tình trạng thay đổi thường xuyên của các quy định chính sách làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của các công ty trong và ngoài nước. Để đưa ra quyết định thay đổi một chính sách nào đó cần phải báo trước một khoảng thời gian đủ dài cho các nhà đầu tư. - Ngoài ra cần đơn giản hóa và đảm bảo minh bạch của các thủ tục hành chính. Đẩy mạnh thực hiện cơ chế “một cửa – một dấu” 2. Ổn định tình hình chính trị, an ninh xã hội Sự ổn định về kinh tế, chính trị, xã hội là yêu cầu trước hết để các nhà kinh doanh yên tâm bỏ vốn đầu tư, có thể dự kiến và thực thi những dự án đầu tư dài hạn, giảm bớt rủi ro trong quá trình đầu tư, đồng thời tạo ra sức hấp dẫn đầu tư đặc biệt là đầu tư nước ngoài. Nhận thức rõ được bài toán trên, Việt Nam đã và đang không ngừng cải thiện để tạo nên một môi trường đầu tư tốt, nhất là những nỗ lực trong việc ổn định an ninh chính trị. Theo GES (Growth Evironment Score- điểm số môi trường tăng trưởng) gồm 5 tiêu chí thì Việt Nam đứng thứ 1 về tiêu chí ổn định chính trị, đó là một tín hiệu đáng mừng. Tuy nhiên, môi trường đầu tư tại Việt Nam còn chưa thông thoáng và còn nhiều rủi ro. 3. Nâng cao trình độ của cán bộ quản lý, cải cách thủ tục hành chính - Cần tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ có năng lực, nghề nghiệp, phẩm chất đạo đức cho phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế. Đào tạo kiến thức cơ bản và tạo điều kiện để cán bộ quản lý nghiên cứu thị trường và các kiến thức liên quan như thị trường xây dựng, thị trường bất động sản. Đào tạo để quản lý trở thành một nghề mang tính chuyên nghiệp. - Cần đơn giản hóa và đảm bảo minh bạch của các thủ tục hành chính. Đẩy mạnh thực hiện cơ chế “một cửa – một dấu”, tránh gây phiền hà cho các nhà đầu tư B - NHÓM GIẢI PHÁP RIÊNG 1. Tạo lập vốn Sử dụng tốt nguồn vốn rất lớn từ ngân sách nhà nước. Điều hành chính sách thuế phù hợp, linh hoạt vì thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước Khuyến khích việc thành lập các doanh nghiệp tư nhân nhằm tận dụng nguồn vốn nhàn rỗi trong dân Huy động vốn 2.1. Vốn trong nước. Tiếp tục thực hiện chủ trương, chính sách đa dạng hóa và đa phương hóa các giải pháp huy động vốn cho đầu tư. Trong kênh huy động vốn của ngân sách nhà nước, cần tính toán chi tiết hiệu quả sử dụng vốn. Đánh giá về hiệu quả kinh tế của đợt phát hành trái phiếu Chính phủ bằng ngoại tệ và việc phát hành và sử dụng vốn phát hành công trái, trái phiếu Chính phủ để có biện pháp điều chỉnh trong huy động vốn trong thời gian tới. Kho bạc Nhà nước không trực tiếp bán lẻ tín phiếu hay trái phiếu Chính phủ, hay công trái quốc gia mà để tổ chức đấu thầu từng đợt qua Ngân hàng Nhà nước hay trên thị trường chứng khoán dựa trên nhu cầu vốn. Trái phiếu Chính phủ bằng ngoại tệ nên được ưu tiên phát hành trong nước để thu hút mọi nguồn ngoại tệ trong dân cho đầu tư phát triển, lãi suất hấp dẫn trước hết phải để chính người dân được hưởng mà chưa cần phải phát hành trên thị trường quốc tế. Các chính sách và giải pháp huy động vốn cho đầu tư phải gắn liền với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn và phải thực hiện các nhiệm vụ của chính sách tài chính quốc gia Đẩy mạnh việc sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước, thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển, khuyến khích và tạo mọi điều kiện cho các công ty cổ phần niêm yết cổ phiếu và huy động vốn trên thị trường chứng khoán. Mở rộng tỉ lệ sở hữu vốn của nhà đầu tư nước ngoài trong các công ty cổ phần. Đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa các ngân hàng thương mại nhà nước. Việc tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, thông thoáng và lành mạnh cho các NHTM và tổ chức tín dụng hoạt động sẽ cho phép huy động khối lượng vốn rất lớn và nâng cao hiệu quả cho vay đầu tư. Đặc biệt là các NHTM cổ phần cũng nâng cao khả năng quản trị kinh doanh vốn, nên thị trường liên ngân hàng, đầu tư vốn trên thị trường tiền gửi của các tổ chức tín dụng phát triển mạnh mẽ hơn. Nhiều NHTM đa dạng hóa danh mục tài sản có, không chỉ cho vay trực tiếp, mà còn phân tán rủi ro bằng cách đầu tư trên thị trường tiền gửi, bán buôn vốn ngắn hạn cho các NHTM khác có điều kiện mở rộng cho vay an toàn, đầu tư vào trái phiếu Chính phủ, công trái và tín phiếu Kho bạc nhà nước, trái phiếu đô thị, trái phiếu doanh nghiệp... Khi cần vốn khả dụng, các ngân hàng có thể giao dịch các loại giấy tờ có giá trên thị trường mở với Ngân hàng Nhà nước, thúc đẩy thị trường tiền tệ phát triển, tăng nhanh tốc độ chu chuyển vốn trong nền kinh tế. Tiếp tục đổi mới lĩnh vực thanh toán, mở rộng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt. Thực hiện mục tiêu này đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ của các đơn vị trong ngành tài chính, như: thực hiện thu thuế và lệ phí, bảo hiểm,... bằng hình thức thanh toán không dùng tiền mặt. Thực hiện giải pháp này không những huy động được khối lượng vốn rất lớn trong xã hội vào hệ thống ngân hàng mà còn tiết kiệm các khoản chi khổng lồ cho các hoạt động tiền mặt, góp phần hạn chế tham nhũng, tiêu cực trong xã hội. 2.2. Vốn nước ngoài Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến đầu tư, gắn kết hoạt động xúc tiến đầu tư của các Bộ, ngành và địa phương trên cả nước trong một chương trình tổng thể thống nhất; gắn kết với hoạt động xúc tiến thương mại, du lịch và lĩnh vực liên quan khác. Tăng cường quảng bá hình ảnh Việt Nam ra thế giới Hoàn thiện hệ thống thuế xuất nhập khẩu, khuyến khích các doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu, nâng cao năng lực sản xuất trong nước, cải thiện tính cạnh trang của hàng hóa Việt Nam trên thị trường trong nước và quốc tế. Duy trì các ưu đãi về thuế xuất và khuyến khích đầu tư nước ngoài Các nguyên tắc chống phân biệt đối xử và cam kết WTO cần được xem xét. Hiện tại đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài vẫn được điều chỉnh bởi hai luật riêng. Điều này dẫn đến tình trạng có sự đối xử khác nhau đối với hai khu vực Còn có những thiên vị đối với các doanh nghiệp nhà nước trong cơ hội tiếp cận nguồn vốn của Nhà nước cũng như các dự án lớn. Những bất bình đẳng khác còn tồn tại như Ưu đãi đầu tư (ƯĐĐT) thiên lệch về các đầu tư mới so với các đầu tư mở rộng; chênh lệch lớn về ƯĐĐT giữa các doanh nghiệp trong và ngoài khu chế xuất v.v. Những ƯĐĐT hiện hành nào không phù hợp với WTO (như những yêu cầu về tỷ lệ nội địa hóa, yêu cầu liên quan đến xuất khẩu) cần phải được thay đổi hoặc bãi bỏ để đáp ứng những đòi hỏi của việc gia nhập tổ chức này. Để tăng cường tính hiệu quả của nền kinh tế, cần phải tạo môi trường hoạt động bình đẳng cho tất cả các nguồn vốn đầu tư: đầu tư trong nước, đầu tư nước ngoài, đầu tư của nhà nước và đầu tư từ khu vực kinh tế tư nhân. Xây dựng một hệ thống luật pháp thống nhất và bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Phải lấy hiệu quả kinh tế làm thước đo cho các hoạt động đầu tư Đối với các nguồn vốn viện trợ (ODA), vốn vay ưu đãi của các tổ chức tín dụng nước ngoài (WB. IMF) thì chính phủ phải trực tiếp đứng ra kêu gọi vốn, thương lượng và cam kết sử dụng có hiệu quả và đảm bảo hoàn trả. Khuyến khich người dân tham gia vào việc quản lý và sử dụng vốn ODA Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư Cần đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động đâu tư, phát hiện và xử lý kịp thời các sai phạm. Cần có nhận thức và hiểu đúng đắn về vốn ODA. Không nên coi đó là nguồn viện trợ thuần túy, dẫn đến sử dụng lãng phí, kém hiệu quả. Xây dựng hệ thống luật pháp chặt chẽ, không có các kẽ hở dẫn tới việc tham ô, tham nhũng, vụ lợi cá nhân Đầu tư theo trọng tâm, phù hợp với chiến lược phát triển của ngành, của địa phương. Tránh đầu tư dàn trải gây lãng phí nguồn lực Phải triển khai các dự án nhanh chóng theo đúng tiến độ đề ra. Tránh để kéo dài quá thời hạn, làm tăng chi phí đầu tư Hoàn thiện quy chế đấu thầu trong các dự án. Phải đảm bảo việc đấu thầu được tổ chức công khai, minh bạch, đúng đắn. Tránh xảy ra tình trạng đấu thầu khép kín, thông thầu, chỉ định thầu, quân xanh – quân đỏ.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc24914.doc
Tài liệu liên quan