Đề tài Mối quan hệ tác động qua lại giữa đầu tư với tăng trưởng và phát triển kinh tế

Thứ nhất, xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Các bộ, ngành, địa phương cần tiếp tục, tập trung rà soát lại các thị trường, bảo đảm môi trường hợp tác, cạnh tranh bình đẳng trog kinh doanh của các thành phần kinh tế, bảo đảm sự phù hợp với luật phápvà tập quán quốc tế trong tiến trình hội nhập với khu vực và thế giới, không gây phiền hà, nhũng nhiễu nhân dân Thứ hai,tiếp tục đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế, bảo đảm nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế, sớm đưa nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển. Đồng thời, đảm bảo vững chắc an ninh, quốc phòng, thực hiện công bằng xã hội. Các bộ, ngành, địa phương phải xây dựng các đề án, dự án cụ thể và chú trọng thu hút mạnh mẽ đầu tư của các tầng lớp nhân dân và của các nhà đầu tư nước ngoài Thứ ba, tiếp tục thực hiện tốt các chính sách xã hội, văn hoá, giáo dục-đào tạo, xoá đói giảm nghèo, chăm lo cho đồng bào các dân tộc, nhất là ở vùng sâu, vùng xa. Tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đang được triển khai mạnh mẽ, do vậy phải có đề án và giải pháp cụ thể đào tạo nguồn nhân lực. Thứ tư, đẩy mạnh cải cách hành chính,nâng cao hiệu quả,hiệu lực quản lý của bộ máy Nhà nước. Thứ năm, ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng tham nhũng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; nâng cao ý thức, trách nhiệm.Nhanh chóng thiết lập chế độ quản lý tiền tệ và thanh toán qua hệ thống ngân hàng nhằm mục đích kiểm soát và minh bạch hóa thu nhập và tài sản của cán bộ, công chức. Từ đó thực hiện nghiêm, triệt để chế độ kê khai tài sản đối với cán bộ, công chức Tăng cường công tác kiểm tra của Đảng, thanh tra của Nhà nước đối với đội ngũ đảng viên, cán bộ công chức. Xử lý thật nghiêm những vụ việc tham nhũng, xem đó là sự răn đe cho những kẻ lợi dụng chức vụ, quyền hạn mưu đồ lợi ích cá nhân. Thứ sáu:tăng trưởng và phát triển phải đi đôi với bảo vệ tài nguyên và môi trường.Tài nguyên có hạn đến 1 lúc nào đó sẽ can kiệt vì vậy chúng ta phải sử dụng hơp lý nguồn tài nguyên hiện có để không ảnh hưởng đến tới thế hệ tương lai .tăng trưởng cũng đi đôi với ô nhiễm môi trường do đố để đảm bảo cho cuọc sống hôm nay và mai sau cần sử dung công nghệ giảm ô nhiễm co các biện pháp xử lý chất thải cho từng DN. Nhà nước cũng có biện pháp xử lý đối với các DN gây ô nhiễm quá mưc cho phép như đánh thuế,phạt hành chính

doc44 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1783 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mối quan hệ tác động qua lại giữa đầu tư với tăng trưởng và phát triển kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trăm; công nghiệp, xây dựng đóng góp 2,65 điểm phần trăm và dịch vụ đóng góp 2,9 điểm phần trăm. Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước năm nay tuy thấp hơn tốc độ tăng 8,48% của năm 2007 và mục tiêu kế hoạch điều chỉnh là tăng 7,0%, nhưng trong bối cảnh tài chính thế giới khủng hoảng, kinh tế của nhiều nước suy giảm mà nền kinh tế nước ta vẫn đạt tốc độ tăng tương đối cao như trên là một cố gắng rất lớn. II. Mối quan hệ tác động qua lại giữa đầu tư với tăng trưởng & phát triển kinh tế Việt Nam trong những năm qua. 1. Tác động của đầu tư đến tăng trưởng và phát triển kinh tế. 1.1. Tác động của đầu tư đến tổng cung & tổng cầu của nền kinh tế Việt Nam. Tác động của đầu tư tới tổng cung,tổng cầu được thể hiện khá rõ qua giá trị sản xuất của các ngành cũng như giá trị tiêu dùng của người dân.Sau đây là những nét sơ lược về kết quả của những tác động đó. Nông,lâm,thủy sản Trong những năm qua,dù không được đầu tư mạnh như ngành công nghiệp nhưng ngành nông,lâm thủy sản vẫn là một ngành quan trọng trong nền kinh tế quốc dân,đóng góp tới hơn 20% trong GDP.Do xu hướng phát triển của xã hội nền ngành nông nghiệp dù có tăng trưởng đều hàng năm xong tỷ trọng đóng góp của nó vào nền kinh tế quốc dân ngày càng giảm.Đã có những thời điểm,nông nghiệp là ngành kinh tế chủ lực,chiếm tới 46,3% đóng góp cho GDP1998) thì cho tới nay-năm 2008,ngành này chỉ còn chiếm khoảng 16%.Trong tương lai,tỷ trọng của ngành Nông,lâm thủy sản trong nền kinh tế sẽ tiếp tục giảm và giảm mạnh. Năm 2008,gía trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản theo giá so sánh 1994 ước tính đạt 212,0 nghìn tỷ đồng, tăng 5,6% so với năm 2007, bao gồm giá trị sản xuất nông nghiệp đạt 155,2 nghìn tỷ đồng, tăng 5,4%; giá trị sản xuất lâm nghiệp đạt 6,7 nghìn tỷ đồng, tăng 2,2% ; giá trị sản xuất thuỷ sản đạt 50,1 nghìn tỷ đồng, tăng 6,7%. Tốc độ tăng giá trị sản xuất Nông,Lâm,Ngư nghiệp(%) 2004 2005 2006 2007 2008 I.Vốn đtư toàn ngành (tỷđ) 22963 25749 29842 33354 34412 II.Tăng giá trị toàn ngành (%) 5,6 4,9 4,4 4,6 5,6 Trong đó 1.NNghiệp 2.LNghiệp 3.TSản 4,1 1,1 12,5 3,2 1,2 12,5 3,6 1,2 7,7 2,9 1 11 5,4 2,2 6,7 Đầu tư và tăng trưởng trong ngành nông nghiệp Công nghiệp Thời gian qua,ngành công nghiệp luôn là ngành sản xuất được chú ý và đầu tư mạnh mẽ nhất.Trong tổng số vốn đầu tư phát triển toàn xã hội hơn 10 năm qua,riêng ngành công nghiệp luôn chiếm trên dưới 40%.Do đó,ngành công nghiệp luôn đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn tốc độ tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế,tỷ trọng đóng góp ngày càng lớn và bỏ rất xa ngành nông nghiệp là điều dễ hiểu. Năm 2008,giá trị sản xuất công nghiệp theo giá so sánh 1994 ước tính tăng 14,6% so với năm 2007, bao gồm khu vực kinh tế Nhà nước tăng 4%; khu vực kinh tế ngoài Nhà nước tăng 18,8%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 18,6%, trong đó dầu khí giảm 4,3%(do ảnh hưởng của việc giá dầu trên thế giới xuống giá thảm hại). Trong các ngành công nghiệp, giá trị sản xuất ngành công nghiệp chế biến năm 2008 ước tính đạt 580,2 nghìn tỷ đồng, tăng 16% so với năm 2007, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng giá trị sản xuất toàn ngành với 88,9%; ngành công nghiệp điện, ga và nước đạt 37 nghìn tỷ đồng, tăng 13,4%, chiếm 5,7%; giá trị sản xuất của toàn ngành công nghiệp khai thác đạt 35,6 nghìn tỷ đồng, giảm 3,5% do lượng dầu thô khai thác giảm, chiếm tỷ trọng 5,4%. Tốc độ tăng giá trị sản xuất ngành Công nghiệp Năm 2003 2004 2005 2006 2007 2008 I.Vốn đầu tư toàn ngành (tỷ đồng) 98794 124352 146104 163831 223428 219614 II.Tăng giá trị toàn ngành (%) 16,8 16,6 17,1 17 17,3 14,6 1.DNNN 11,9 11,9 7,2 9,3 10,3 4 -TW 16,2 14,8 12,4 11,9 13,3 6,2 -Địa phương 3,5 5,6 -5,2 2 3 1,3 2.DN Ngoài quốc doanh 23,3 22,3 25,4 23,9 20,9 18,8 3.DN có vốn ĐTNN 18 17,4 21,2 18,8 18,2 18,6 Dịch vụ Các ngành sản xuất tăng mạnh về sản lượng và giá trị cho nên hoạt động thương mại dịch vụ trong những năm qua cũng tăng mạnh.Trong năm 2008,tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá thực tế năm 2008 ước tính đạt 968,1 nghìn tỷ đồng, tăng 31% so với năm 2007 (nếu loại trừ yếu tố tăng giá, mức tăng chỉ đạt 6,5%), trong đó khu vực kinh tế Nhà nước đạt 112,9 nghìn tỷ đồng, tăng 20,4%; kinh tế cá thể đạt 538,1 nghìn tỷ đồng, tăng 32,2%; kinh tế tư nhân đạt 284,5 nghìn tỷ đồng, tăng 34,3%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt 22,7 nghìn tỷ đồng, tăng 20,9%. Trong tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng nêu trên, kinh doanh thương nghiệp đạt 798,1 nghìn tỷ đồng, tăng 31,5%; khách sạn, nhà hàng đạt 109,3 nghìn tỷ đồng, tăng 26,2%; dịch vụ đạt 48,4 nghìn tỷ đồng, tăng 31,3%; du lịch đạt 12,2 nghìn tỷ đồng, tăng 41,8%.Kim ngạch hàng hoá xuất khẩu ước tính đạt 62,9 tỷ USD, tăng 29,5% so với năm 2007. Năm Tổng mức (Tỷ đồng) Tỷ trọng theo thành phần kinh tế(%) KTNN Ngoài quốc doanh Có vốn ĐTNN 2001 245315 16,7 81,7 1,6 2002 280,884 16,2 79,9 3,9 2003 333,809 15,7 80,2 4,1 2004 398,525 15,0 81,2 3.8 2005 480,294 12,9 83,3 3.8 2006 588,900 13,6 83,3 3.1 2007 726,113 10,9 86 3.1 2008 968,1 11.5 84.9 3.6 Tổng mức bán lẻ và dịch vụ 1.2. Đầu tư tác động đến tăng trưởng Trong thời gian gần đây,hoạt động đầu tư,thu hút vốn diễn ra mạnh mẽ khiến kinh tế Việt Nam đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế khá ấn tượng.Cả ba khu vực nông,lâm,ngư nghiệp;Công nghiệp-xây dựng và dịch vụ đều có tốc độ tăng trưởng khá,đạt hoặc vượt chỉ tiêu kế hoạch đề ra.Những điều đó được thể hiện dưới bảng và đồ thị sau: Tốc độ tăng trưởng của các ngành trong nền kinh tế Năm 2004 2005 2006 2007 2008 1.Vốn đtư xã hội(tỷđ) 290927 343135 398900 521700 637300 2.Tăng trưởng(%) 7,79 8,44 8,17 8,48 6,23 Nông, lâm,thuỷ sản 4,36 4,00 3,69 3,40 3,79 Công nghiệp,xây dựng 10,21 10,68 10,38 10,60 6,33 Dịch vụ 7,26 8,48 8,29 8,68 7,20 Với những kết quả đạt được trong giai đoạn 2000-2008 Việt Nam được đánh giá là một trong những nước tăng trưởng nhanh trên thế giới song quỹ đạo tăng trưởng của Việt Nam hiện vẫn đang nằm giữa hai nhóm phát triển thấp và trung bình.Dù tăng trưởng nhanh nhưng không phải là nền kinh tế nước ta không có vấn đề gì về tăng trưởng.Hai vấn đề nổi cộm nhất hiện nay đó là:tại sao mặc dù xuất phát điểm của Việt Nam thấp hơn, đồng thời tỷ lệ đầu tư trên GDP lại rất cao so với các nước trong khu vực nhưng tốc độ tăng trưởng của Việt Nam chỉ ở mức trung bình của khu vực? Và tăng trưởng của Việt Nam có ổn định và bền vững hay không?Cả hai vấn đề này đã đặt ra những câu hỏi không hề dễ giải đáp. Về vấn đề thứ nhất,tốc độ tăng trưởng của Việt Nam không cao vì hiệu quả đầu tư của nền kinh tế thấp, được thể hiện qua hệ số ICOR – là hệ số cho biết số đơn vị đầu tư (tính theo % của GDP) cần thiết để đạt được 1% đơn vị tăng trưởng GDP, nghĩa là nếu chỉ số này càng cao thì hoạt động đầu tư càng kém hiệu quả và chỉ tiêu năng suất các yếu tố tổng hợp(TFP). Nhìn vào bảng sau thấy ICOR của Việt Nam hiện đang rất cao so với Hàn Quốc và Đài Loan trong những giai đoạn phát triển tương đương. Chẳng hạn như Đài Loan đã duy trì được tốc độ tăng trưởng 9,7% trong suốt 20 năm mà chỉ cần đầu tư 26,2% GDP, trong khi đó Việt Nam đầu tư tới 33,5% GDP nhưng tốc độ tăng trưởng trung bình cũng chỉ đạt 7,6%. Nói cách khác, cái giá phải trả cho tăng trưởng của Việt Nam cao gần gấp đôi so với Đài Loan. Hệ số ICOR của Việt Nam so với một số nước trong khu vực Nước Giai đoạn Tăng trưởng GDP(%/năm) Tổng đầu tư(% của GDP/năm) ICOR Hàn Quốc 1961-1980 7,9 23,3 3,0 Đài Loan 1961-1980 9,7 26,2 2,7 Inđônêsia 1981-1995 6,9 25,7 3,7 Malaysia 1981-1995 7,2 32,9 4,6 Thái Lan 1981-1995 8,1 33,3 4,1 Trung Quốc 2001-2006 9,7 38,8 4,0 Việt Nam 2001-2008 7,6 33,5 5,0 Mặc dù đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế khá ấn tượng trong thời gian qua nhưng tăng trưởng của Việt Nam chủ yếu dựa vào những nhân tố theo chiều rộng.Chất lượng tăng trưởng đã được cải thiện thể hiện qua sự tăng lên của năng suất các yếu tố tổng hợp(TFP) trong tăng trưởng GDP hàng năm,từ 22,6% năm 2000 lên 28,2% trong giai đoạn 2000-2008,tuy nhiên tăng trưởng do yếu tố vốn chiếm tới 52,7% và lao động chiếm 19,1%,tức cả hai yếu tố này còn chiếm tới 71,8% trong tác động đến tăng trưởng.So với các nước khác thì tỷ lệ này là quá cao,gần gấp đối các nước trong khu vực(Thái Lan là 34%,Philippin là 41%,Indonesia là 43%) Tỷ trọng đóng góp của các yếu tố đầu vào cơ bản cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam Đơn vị : % Năm Vốn đầu tư Lao động Năng suất nhân tố tổng hợp 2000 48,5 21,5 22,6 2001 49,3 26,9 23,8 2002 48,7 27,3 24 2003 49,6 27,1 23,3 2004 47,2 28,3 24,5 ….. 2008 52,7 19,1 27,3 Vấn đề thứ hai đưa chúng ta trở về với bối cảnh chính sách kinh tế vĩ mô của Việt Nam trong mấy năm trở lại đây, trong đó một vấn đề nổi lên hàng đầu là lạm phát. Mặc dù tốc độ tăng trưởng không có sự cải thiện đáng kể nhưng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) lại tăng đột biến, từ mức 3-4% vào đầu những năm 2000 lên tới 12,6% năm 2007 và gần 24% năm 2008.Không thể phủ nhận việc giá xăng dầu và một số nguyên liệu sản xuất trên thị trường thế giới tăng nhanh trong thời gian qua là nguyên nhân khách quan dẫn tới việc tăng giá nhiều mặt hàng tiêu dùng hiện nay. Tuy nhiên, vấn đề lạm phát ở Việt Nam không đơn thuần chỉ là do yếu tố khách quan, mà quan trọng hơn chính là do các yếu tố chủ quan, có tính nội tại của nền kinh tế. Cụ thể là, thứ nhất, nếu lạm phát có nguyên nhân chủ yếu từ việc tăng giá thế giới thì các nước khác như Trung Quốc, Thái Lan, Malayxia... cũng đều phải chịu cú sốc tương tự. Tuy nhiên, lạm phát ở các nước này tính đến thời điểm hiện nay lại thấp hơn đáng kể so với Việt Nam (Hình 2). Nguyên nhân chính là cả Việt Nam và Trung Quốc đều có tỷ lệ đầu tư/GDP cao kỷ lục, tín dụng tăng trưởng rất nhanh, trong đó một tỷ lệ rất lớn được dành cho các DN nhà nước kém hiệu quả. Đồng thời, tính không độc lập của Ngân hàng Nhà nước làm xói mòn khả năng điều hành chính sách tiền tệ và chống lạm phát của cơ quan này. Thứ hai, tuy đã nhìn thấy và đưa ra một số chính sách kiềm chế lạm phát nhưng điều quan trọng là Chính Phủ chưa nhận thức đúng hoặc cố tình phủ nhận những nguyên nhân rất cơ bản dẫn đến lạm phát. Đầu tiên, ở lĩnh vực tiền tệ, đó là tăng cung tiền và tín dụng. Trong giai đoạn vừa qua, VN tiếp nhận khá nhiều nguồn vốn FDI, đầu tư gián tiếp, ODA, kiều hối... từ nước ngoài. Dòng ngoại tệ chảy vào VN rất lớn gây sức ép tăng giá VND, và do vậy có nguy cơ làm giảm xuất khẩu, tăng nhập khẩu, và làm cho tình trạng thâm hụt cán cân thương mại thêm nghiêm trọng. Do lo ngại điều này, Chính phủ đã cố giữ tỷgiá USD/VND ổn định bằng cách tung tiền đồng ra để mua vào khoảng 9 tỉ USD. Ở lĩnh vực tín dụng, nhằm đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế 8-8,5%/năm, Chính phủ liên tục thúc đẩy tăng tín dụng, đặc biệt là tín dụng cho các doanh nghiệp nhà nước là nơi sử dụng đồng vốn hiệu quả thấp. Tính trung bình, tốc độ tăng trưởng tín dụng của VN trong 5 năm trở lại đây vào khoảng 30%/năm (năm 2007, con số này tăng đột biến, lên tới hơn 40%). Với tốc độ tăng tín dụng cao trong nhiều năm liền, đồng thời cung tiền tăng đột biến, lạm phát xảy ra là điều tất yếu. Chỉ số giá tiêu dùng ở Việt Nam và một số nước trong khu vực (2007) Lạm phát cao gây nên nhiều tác động tiêu cực, trong đó có ba vấn đề đặc biệt đáng lo ngại. Thứ nhất, CPI tăng nhanh là một thứ “thuế lạm phát” làm giảm mức sống của đại bộ phận người tiêu dùng, đặc biệt là những người hưởng lương cố định và có thu nhập thấp. Thứ hai, vì mức lạm phát cao hơn lãi suất tiết kiệm (tức là lãi suất thực bị âm) nên tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế phải chạy đi tìm những cơ hội đầu tư có suất sinh lời cao hơn như địa ốc hay chứng khoán. Việc đầu cơ quá mức vào bất động sản và chứng khoán làm xuất hiện hiện tượng bong bóng tài sản; và sớm hay muộn thì hiện tượng này cũng sẽ dẫn tới sự bất ổn định cho nền kinh tế. Thứ ba, hiện nay tỉ lệ dư nợ cho vay mua bất động sản ở hệ thống ngân hàng thương mại là khoảng 10%, một tỉ lệ khá cao. Đáng lo ngại hơn, rất nhiều các khoản vay ngân hàng được bảo đảm bằng bất động sản với giá bong bóng. Điều này có nghĩa là, nếu bong bóng vỡ, bất động sản rớt giá thì tài sản bảo đảm này không còn đảm bảo nữa. Hệ quả là nhiều khoản vay sẽ trở thành nợ xấu, ảnh hưởng trực tiếp tới sự an toàn của hệ thống ngân hàng. Như vậy,nhờ đầu tư lớn,nền kinh tế Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng cao nhưng chính bản thân nó đã xuất hiện những dấu hiệu bất ổn về kinh tế vĩ mô. 1.3.Tác động đến khoa học công nghệ. Trong nền kinh tế thị trường,công nghệ được coi là vũ khí cạnh tranh chính.Công nghệ tiên tiến sẽ tạo ra sản phẩm có chất lượng cao hơn,năng suất cao hơn,chi phí giá thành giảm,tạo ưu thế cạnh tranh trên thị trường.Hiểu rõ được điều đó,những năm qua,đất nước ta rất chú trọng phát triển khoa học công nghệ.Một lượng vốn không nhỏ đã được đầu tư vào lĩnh vực này. Trong đầu tư của nhà nước,chi cho khoa học công nghệ chiếm gần 2% trong tổng vốn đầu tư.Cụ thể như năm 2005,nhà nước chi 1900 tỷ,2006 là 2404 tỷ và 2007 là 2735 tỷ.Tuy chỉ chiếm gần 2% nhưng những tác động của nó tới tình hình tăng trưởng và phát triển là hết sức to lớn,tạo cho nước ta một bước tiến dài trên con đường tiếp cận và làm chủ công nghệ.Sự đầu tư của nhà nước đã thúc đẩy nhiều công trình nghiên cứu,hàng loạt viện,trung tâm nghiên cứu ra đời góp phần nâng cao năng lực công nghệ của cả nước. Theo số liệu của Viện Khoa học Lao động - Xã hội Bộ LĐTB&XH, đến cuối năm 2008, tổng số lao động trong lĩnh vực KH-CN, bao gồm những người làm việc trực tiếp trong lĩnh vực nghiên cứu và triển khai, các viện, trung tâm nghiên cứu và triển khai ứng dụng KH-CN của cả nước là gần 40.000 người,tỉ lệ cán bộ có trình độ đại học trở lên chiếm 94,7% tổng số lao động trong lĩnh vực KH-CN, trong đó thạc sĩ là 35,5%, tiến sĩ là 30,5%. Xét về mặt học vị, Việt Nam ở mức cao so với mức trung bình của khu vực. Tuy nhiên, ngoại ngữ và tin học là nguyên nhân cản trở quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của đội ngũ cán bộ KH-CN.Cả nước có nhiều khu công nghệ cao,trong đó lớn nhất và hiện đại nhất là hai khu công nghệ cao Láng Hòa Lạc và Thành phố Hồ Chí Minh.. Bên cạnh các hoạt động đầu tư của nhà nước cho lĩnh vực khoa học công nghệ,tư nhân,các doanh nghiệp cũng rất chú trọng đầu tư phát triển,nghiên cứu,tìm tòi,sáng tạo công nghệ hay mua sắm,chuyển giao các công nghệ hiện đại từ nước ngoài về nước.Tuy nhiên cho đến nay,Việt Nam mới chỉ có 11 đơn đăng ký sáng chế ở nước ngoài, trong khi đó Indonesia có 36, Thái Lan 39, Philipin có 85, Hàn Quốc có 15.000, Nhật Bản 87.620 Mỹ 206.710. Nếu căn cứ vào số lượng các công trình nghiên cứu khoa học được đăng trên tạp chí quốc tế và bằng sáng chế được quốc tế công  nhận thuộc 27 môn khoa học, thì Việt Nam chưa lọt vào danh sách của 50 nước được tính đến. Trong khi đó, Singapo, Malaisia và Thái Lan đã có tên trong danh sách này. Điều đó có nghĩa là, trình độ nguồn nhân lực KHCN nước ta còn rất thấp.Ngoài ra,tình trạng công nghệ của các doanh nghiêp Việt Nam cũng rất đáng lo. Kết quả điều tra cho thấy mức độ hiện đại của các doanh nghiệp như sau: 39% thuộc về những năm 1980 57% thuộc về những năm 1990 10% thuộc về thời kì 1970 Trong đó, 70% công nghệ chỉ đạt mức đồng bộ trung bình, 7% là chắp vá.Điều này hết sức đáng lo ngại vì nó ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh,quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. 1.4.Tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế 1.4.1.Cơ cấu ngành kinh tế Trong thời gian qua,cơ cấu kinh tế,đặc biệt là cơ cấu ngành đã chuyển dịch mạnh mẽ theo hướng CNH-HĐH,phát huy lợi thế so sánh trong từng ngành,làm tăng hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cũng như chất lượng phát triển kinh tế.Đến nay,tỷ trọng các ngành kinh tế đã có nhiều thay đổi đáng kể. -Tỷ trọng của nông,lâm ngư nghiệp giảm từ 27,2%(1995) xuống còn 20%(2007) -Tỷ trọng của Công nghiệp và xây dựng tăng khá nhanh,từ 28,7%(1995) lên 41,8%(2007) -Tỷ trọng khu vực dịch vụ tăng lên 38,2%(2007) Trong nội bộ ngành nông,lâm ngư nghiệp,cơ cấu giữa các ngành cũng có nhiều chuyển biến.Tỷ trọng nông nghiệp giảm dần nhưng giá trị sản xuất vẫn tăng trưởng(khoảng 4,5%/năm).Tỷ trọng ngành lâm nghiệp giảm nhẹ,phù hợp với chủ trương,chính sách bảo vệ môi trường của chính phủ.Đặc biệt,tỷ trọng của ngành thủy sản tăng rất mạnh,lên đến gàn 21% năm 2007 và dần khẳng định vị trí của mình. Tương phản với ngành nông,lâm,ngư nghiệp là ngành công nghiệp,xây dựng.Trong thời gian qua,nhờ có được nguồn vốn đầu tư lớn,hai ngành này đã đã được tốc độ tăng trưởng khá nhanh và ổn định.Sản xuất công nghiệp có niều chuyển biến theo hướng tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp chế tác,hướng tới xuất khẩu tuy nhiên,sự chuyển dịch cơ cấu giữa các khôi,ngành trong nội bộ ngành công nghiệp hầu như không có sự thay đổi đáng kể nào:Ngành công nghiệp chế biến chiếm tỷ trọng chủ yếu(trên 80%),công nghiệp khai thác chiếm trên 10%.... Những năm gần đây,tỷ trọng của ngành dịch vụ đang có xu hướng tăng lên.Phân tích tương quan giữa tốc độ tăng trưởng của ngành và vốn đầu tư cho thấy tốc độ tăng trưởng của ngành những năm tới vẫn sẽ cao,cao hơn tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế. 1.4.2.Cơ cấu vùng kinh tế. Cả nước có hơn 60 tỉnh thành phố song chỉ có khoảng 50 tỉnh thành thu hút được vốn đầu tư trong và ngoài nước.Trong 50 tỉnh thành đó,vốn đầu tư cũng được phân bố không đồng đều.Chỉ tính riêng 3 tỉnh,thành phố là Hà Nội,thành phố Hồ CHí Minh,Bà Rịa-Vũng Tàu đã chiếm hơn 30% tổng vốn đầu tư của cả nước.Chính vì lẽ đó,đã có sự chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu vùng kinh tế theo hướng tích cực.Trên bình diện quốc gia, đã hình thành 6 vùng kinh tế: vùng trung du miền núi phía Bắc, vùng đồng bằng sông Hồng, vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung, vùng Tây Nguyên, vùng Đông Nam bộ và vùng đồng bằng sông Cửu Long. Trong đó, có 3 vùng kinh tế trọng điểm là động lực cho tăng trưởng kinh tế cả nước. Cơ cấu địa bàn đầu tư thay đổi sẽ tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu thành thị-nông thôn.Các khu công nghiệp sẽ được chuyển dần ra ngoại thành,ngoại thị để tạn dụng nguồn lao động dồi dào,nhà xưởng,đất đai rộng,chi phí xử lý môi trường ít…trong khi đó có thể phát triển công nghiệp kĩ thuật cao ở khu vực thành thị.Sự phát triển của các khu công nghiệp ở ngoại thành sẽ đẩy nhanh quá trình CNH khu vực nông thôn,góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động nông nghiệp,giảm sức ép cho các đô thị trước hiện tượng di cư lao động ồ ạt về thành thị.. 2. Tác động ngược của tăng trưởng và phát triển đến đầu tư 2.1Tăng trưởng và phát triển góp phần cải thiện môi trường đầu tư. Trong hơn 20 năm thực hiện công cuộc Đổi mới đất nước, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội. Vai trò và vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế  không ngừng được củng cố và tăng cường. Ngay trong năm 2007, năm thứ hai thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010, Việt Nam đã đạt được những kết quả tích cực trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội, môi trường và phát triển bền vững. Chính sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế đã tạo ra hành lang pháp lý và môi trường đầu tư thuận lợi, mở cửa cho các hoạt động đầu tư mới ở Việt Nam. Điều này thể hiện trên một số khía cạnh sau : 2.1.1Tăng trưởng kinh tế góp phần xây dựng,hoàn thiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật. Trước xu thế hội nhập và phát triển, Đảng và Nhà nước ta luôn đề cao chiến lược và chính sách phát triển đất nước theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá, trong đó khoa học và công nghệ là nền tảng của quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá, là động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước. Việc xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thụât, xây dựng các khu công nghệ cao là một trong những giải pháp đột phá, nhằm nâng cao năng lực công nghệ nội sinh của Quốc gia, góp phần nhanh chóng đưa Việt Nam hội nhập hiệu quả vào nền kinh tế toàn cầu hoá đầy thách thức hiện nay. Trong những năm gần đây,Việt Nam đã đạt được những kết quả đáng khen ngợi trong chiến lược phát triển cơ sở hạ tầng hiện tại của Việt Nam. Theo đó, tổng đầu tư cho cơ sở hạ tầng của Việt Nam trong những năm gần đây giữ ở mức 10% GDP, cao hơn nhiều so với tiêu chuẩn quốc tế. Theo đánh giá của WB, nhờ sự đầu tư này mà mạng lưới đường bộ Việt Nam đã tăng hơn gấp đôi chiều dài so với năm 1990. Chất lượng các con đường cũng cải thiện rõ rệt. Tất cả các khu vực đô thị và 88% các hộ gia đình nông thôn có điện. Số người được dùng nước sạch tăng từ 26% dân số năm 1993 lên đến 49% dân số năm 2002, và trong cùng khoảng thời gian, số người có hố xí vệ sinh tăng từ 10% lến 25% dân số… Tuy nhiên,có khá nhiều thách thức mới đang nổi lên cần có một chiến lược cơ sở hạ tầng thay đổi. Đó là việc vai trò của các nhà tài trợ quốc tế rất lớn với gần 40% tổng đầu tư cơ sở hạ tầng. Khi Việt Nam thoát khỏi nhóm các nước nghèo trên thế giới, hỗ trợ từ các nhà tài trợ sẽ giảm và việc tìm kiếm nguồn tài chính thay thế là rất cần thiết. Thách thức nữa là mỗi năm có khoảng một triệu người từ các vùng nông thôn chuyển đến các thành phố của Việt Nam. Do đó, cần phải nâng cao việc quản lý và lập kế hoạch đô thị. Đặc biệt cần phải kiểm soát tốt hơn những nhu cầu xây dựng nhà ở không theo qui hoạch và cung cấp cơ sở hạ tầng cơ bản trước khi tiến hành xây dựng. WB cũng cảnh báo Việt Nam cần đẩy mạnh cải cách điều hành, giải quyết vấn đề động cơ doanh nghiệp và tham nhũng. Bên cạnh đó, khoảng cách giữa những người có thu nhập cao nhất và thu nhập thấp nhất lại tăng lên cũng là vấn đề. Vì vậy cần tập trung nguồn hỗ trợ tài chính của chính phủ cho cơ sở hạ tầng để mang lại lợi ích cho những người dân nghèo nhất. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng trước hết là xây dựng giao thông.Có hệ thống giao thông đồng bộ sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sự giao lưu kinh tế, thương mại, trao đổi hàng hoá giữa cộng đồng dân cư vùng nghèo nông thông miền núi với dân cư vùng thành thị. Từ đó cũng tạo điều kiện dễ dàng cung cấp các dịch vụ văn hoá, y tế, giáo dục, thông tin liên lạc đối với dân cư vùng nghèo, vùng khó khăn. Tiếp theo việc đầu tư xây dựng hệ thống đường giao thông là đầu tư xây dựng một số cơ sở hạ tầng quan trọng khác như: cơ sở y tế khám chữa bệnh; cơ sở giáo dục dạy nghề; hệ thống cung cấp điện, nước sinh hoạt, các công trình thuỷ lợi, phục vụ sản xuất cho cộng đồng dân cư các vùng nghèo. 2.1.2Tăng trưởng kinh tế góp phần nâng cao năng lực công nghệ. Nhờ kinh tế tăng trưởng khá,ổn định mà Việt Nam có thêm nhiều nguồn lực để nâng cao năng lực công nghệ.Trong các nguồn lực đó,tăng vốn đầu tư là yếu tố quan trọng nhất vì như ta cũng biết,đầu tư vào khoa học công nghệ là hết sức tốn kém.đầu tư vào khoa học công nghệ đòi hỏi một lượng vốn rất lớn và lâu dài.Chính vì vậy,năng lực công nghệ của nước ta đã được cải thiện một cách đáng kể..Các kết quả về khoa học công nghệ được trình bày ở trên có sự đóng góp không nhỏ từ tình hình tăng trưởng kinh tế.Ví dụ như đầu tư xây dựng các khu công nghệ cao,đầu tư nghiên cứu,đầu tư cho giáo dục đào tọa…. Các tác động chủ yếu của tăng trưởng kinh tế tới năng lực công nghệ: -Khả năng đào tạo nguồn nhân lực: -Khả năng tiến hành nghiên cứu cơ bản -Khả năng thử nghiệm các phương tiện kĩ thuật -Khả năng tiếp nhận và thích nghi các công nghệ -Khả năng cung cấp và xử lý thông tin. 2.1.3Tăng trưởng góp phần ổn định kinh tế,xã hội từ đó ổn định môi trường đầu tư. Trong bối cảnh tình hình kinh tế, chính trị thế giới có nhiều biến động, Việt Nam vẫn được đánh giá là một trong những quốc gia nền kinh tế chính trị ổn định. Mặc dù các thế lực thù địch vẫn luôn chờ cơ hội để chống phá cách mạng Việt Nam, nhưng với sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc và các chính sách tôn giáo mềm dẻo, linh hoạt, Việt Nam vẫn giữ vững ổn định chính trị xã hội, tạo môi trường hoà bình, thuận lợi cho hoạt động đầu tư nói riêng và các hoạt động kinh tế nói chung. Nhờ tăng trưởng kinh tế,nước ta có nguồn lực để giải quyết các vấn đề xã hội như:an sinh xã hội,xóa đói giảm nghèo,thất nghiệp…,từ đó làm yên lòng dân,tạo sự ổn định cho kinh tế xã hội. Về xoá đói giảm nghèo Việt Nam được Ngân hàng Thế giới đánh giá là một trong những điển hình về xoá đói giảm nghèo trên thế giới. Tỷ lệ hộ nghèo phân theo thành thị, nông thôn & phân theo vùng Đơn vị : % Năm 2004 2006 2007 Cả nước 18,1 15,5 14,8 Phân theo thành thị - nông thôn Thành thị 8,6 7,7 7,4 Nông thôn 21,2 18 17,7 Phân theo vùng lãnh thổ Đồng bằng sông Hồng 12,9 10,1 9,6 Đông Bắc 23,2 22,2 21,4 Tây Bắc 46,1 39,4 38,1 Duyên hải Nam Trung Bộ 21,3 17,2 16,3 Tây Nguyên 29,2 24,0 23,0 Đông Nam Bộ 6,1 4,6 4,1 Đồng bằng sông Cửu Long 15,3 13 12,4 Về thất nghiệp Trong giai đoạn 2001-2006, giai đoạn tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng mạnh với sự ra đời của hàng loạt các khu công nghiệp, các nhà hàng, khách sạn, khu vui chơi giải trí... tỷ lệ thất nghiệp của Việt Nam đã giảm từ 6,42% xuống chỉ còn 4,82%. Tỷ lệ thất nghiệp của Việt Nam trong giai đoạn 2001 - 2007 Năm Vốn đầu tư (Ngàn tỷ) Tỷ lệ thất nghiệp (%) 2001 170,5 6,28 2002 200,1 6,01 2003 239,2 5,78 2004 290,9 5,60 2005 343,1 5,31 2006 404,7 4,82 2007 521,7 4,64 Mặc dù tỷ lệ thất nghiệp đã giảm xuống đáng kể, nhưng nhìn chung vẫn còn cao. Tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến nghèo đói của một bộ phận dân cư và sau đó phân hoá giàu nghèo trong xã hội. Với thành quả tăng trưởng kinh tế từ khi thực hiện đổi mới, mỗi năm hàng triệu việc làm mới được tạo ra. Tuy nhiên, do tăng trưởng chủ yếu về mặt số lượng nên chưa đáp ứng được yêu cầu, cơ cấu lao động mới vẫn chưa chuyển dịch theo hướng tiến bộ. Lao động trong lĩnh vực nông nghiệp (bao gồm cả nông, lâm, ngư nghiệp) chiếm đến 66,1 %, mới giảm được 7 % so với thời kỳ đầu đổi mới, bình quân mỗi năm chỉ giảm được khoảng 0,6 %. Với tốc độ này, đến năm 2010 tỷ lệ lao động trong nông nghiệp vẫn chiếm khoảng trên 60% (mục tiêu đặt ra cho năm 2010 là 60 %). Tỷ lệ lao động trong khu vực công nghiệp và xây dựng mới chỉ chiếm 12,9 %, chỉ tăng khoảng 1,7% so với năm 1990. 2.1.4.Tăng trưởng và phát triển kinh tế góp phần hoàn thiện các chính sách,pháp luật. Đứng trước yêu cầu của tăng trưởng,để thu hút được nguồn vốn đầu tư,nước ta đã thực hiện hàng loạt giải pháp,cải cách,đổi mới về chính sách,pháp luật để làm hấp dẫn,thu hút các nhà đầu tư. Thứ nhất là chuyển từ "kiểm soát và chỉ đạo" sang "điều tiết, theo dõi và cưỡng chế tuân thủ".Các chính sách và các quy định về đầu tư của nhà nước đã chuyển sang mô hình “đầu tư,theo dõi và cưỡng chế”,điều đó thể hiện rõ trong các đổi mới ở Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp.Các cơ quan chức năng đã có cách nhìn nhận khác về vai trò của mình,không còn định hướng đầu tư tư nhân vào các lĩnh vực mà họ cho là cần thiết cũng như kiểm soát chặt chẽ những gì mà các nhà đầu tư được phép làm.Nước ta đã cụ thể hoá danh sách các hạn chế tiếp nhận đầu tư, xây dựng cơ chế một cửa và tăng cường năng lực của các cơ quan hỗ trợ và chăm sóc đầu tư tại các cơ quan xúc tiến đầu tư, xoá bỏ giới hạn về thời gian trong giấy chứng nhận đầu tư… Hai là, cho phép thực hiện FDI tiềm năng trong các lĩnh vực quan trọng, khuyến khích các dòng FDI mới và năng động. Theo đó, Chính phủ Việt Nam đã mở cửa các lĩnh vực: viễn thông; điện lực; giao thông vận tải; và giáo dục. Chính phủ cũng cho phép nhà đầu tư nước ngoài tham gia nhiều hơn vào tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước, kể cả các doanh nghiệp nhà nước có quy mô lớn. Tất cả các lĩnh vực này đều có tiềm năng thu hút FDI rất lớn và các nhà đầu tư nước ngoài đang đóng góp không nhỏ vào việc phát triển của Việt Nam. Ba là, tạo điều kiện thuận lợi cho việc hấp thu các kỹ năng cần thiết cho nền kinh tế đang phát triển nhanh chóng. Một trong các lợi thế hấp dẫn nhà đầu tư nước ngoài của Việt Nam là chi phí lao động rẻ cùng với một lực lượng lao động có thể đào tạo, chăm chỉ và có năng suất. Điều này cho phép Việt Nam thu hút được một số lượng lớn nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các lĩnh vực có hàm lượng lao động cao và kỹ năng thấp. Mới đây, Việt Nam đã thu hút thành công đầu tư nước ngoài vào các lĩnh vực đòi hỏi lao động có kỹ năng cao hơn, mặc dù phạm vi đầu tư vào các lĩnh vực này vẫn còn nhiều hạn chế. Việt Nam ngày càng cần nhiều lao động có kỹ năng trong nhiều lĩnh vực. Vì vậy, giáo dục sẽ là nền tảng để phát triển những kỹ năng này, song Việt Nam vẫn có thể thu được nhiều lợi ích nếu áp dụng một chính sách nhập cư cởi mở để khuyến khích tiếp nhận người lao động nước ngoài có kỹ năng nhằm bù đắp sự thiếu hụt về nguồn cung cấp lao động kỹ năng mà nền kinh tế Việt Nam hiện đang rất cần để phát triển. Bốn là, phân biệt giữa chức năng sở hữu và chức năng điều tiết của nhà nước. Hiện nay, các doanh nghiệp nhà nước vẫn đang chiếm tỷ lệ lớn về sản lượng, tham gia chủ yếu vào các hoạt động thương mại và cạnh tranh với các doanh nghiệp tư nhân trong nước và nước ngoài. Tuy nhiên,dù các cơ quan chức năng có mong muốn duy trì sự tham gia của các doanh nghiệp quốc doanh vào các hoạt động kinh tế ở mức độ nào đi chăng nữa thì điều quan trọng là phải có sự phân biệt rạch ròi giữa chức năng sở hữu với chức năng điều tiết của Nhà nước nhằm bảo đảm tính hiệu suất và tránh các xung đột về lợi ích.Nước ta đang cố gắng cải thiện tình hình này:Việt Nam đã xây dựng và công bố kết quả điều tra thống kê về tất cả các doanh nghiệp quốc doanh, đồng thời tiến hành kiểm toán tài sản, nợ và cấu trúc sở hữu; chuyển giao quyền sở hữu tất cả các doanh nghiệp nhà nước cho Tổng Công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước (SCIC); thu hẹp danh sách các doanh nghiệp nhà nước trong đó Nhà nước sẽ nắm giữ 100% và 50% quyền sở hữu… Năm là, đơn giản hoá hệ thống thuế, hợp lý hoá cơ cấu ưu đãi thuế. Hiện Việt Nam đã xây dựng một hệ thống ưu đãi thuế vô cùng phức tạp với mục tiêu thúc đẩy đầu tư nói chung và tại các khu vực, các lĩnh vực và các hoạt động khuyến khích đầu tư nói riêng. Việt Nam đang tiến hành đánh giá tổng thể các ưu đãi thuế và cải cách hệ thống hiện hành nhằm làm cho cho hệ thống thuế phổ cập trở nên hấp dẫn và cạnh tranh; rút ngắn và đơn giản hóa một số ưu đãi thuế và chỉ duy trì một số ít các loại hình ưu đãi nhằm phục vụ một vài mục đích cụ thể. Các hình thức ưu đãi chỉ nên hạn chế trong một số hình thức như giảm tạm thời thuế thu nhập doanh nghiệp cho một số vùng đặc biệt khó khăn và một số lĩnh vực mang tính chiến lược. Đơn giản hoá hệ thống thuế và giảm gánh nặng hành chính đối với các nhà đầu tư và các cơ quan quản lý thuế. Và cuối cùng là hấp thu và thực hiện các thay đổi quy định gần đây. Việt Nam đã thực hiện một số thay đổi pháp luật quan trọng trong thập kỷ qua.Nhiều điểm mới đã được hấp thu và thực hiện vào Luật Đầu tư; Luật Doanh nghiệp; Luật Cạnh tranh; Luật Sở hữu Trí tuệ…Trong đó quan trọng nhất là cải cách luật pháp tạo ra một sân chơi bình đẳng,cạnh tranh lành mạnh cho mọi thành phần kinh tế.Cụ thể là Việt Nam đã xây dựng các bộ luật áp dụng chung cho cả đầu tư trong nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài(Luật đầu tư 2005,Luật Doanh nghiệp 2005..).Việt Nam cho phép nhà đầu tư có thể bỏ vốn vào bất kỳ lĩnh vực nào mà luật pháp không cấm. Hình thức đầu tư đã không ngừng đuợc cải thiện từ hình thức liên doanh là chủ yếu, nay đã có thêm nhiều hình thức mới như mua lại và sáp nhập (M&A), mua cổ phần, góp vốn để tham gia quản lý xí nghiệp hoặc đầu tư gián tiếp. Loại hình doanh nghiệp cũng đuợc mở rộng đáng kể, không chỉ giới hạn ở hình thức thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn mà có thể áp dụng các hình thức khác như công ty cổ phần, công ty hợp doanh,... Có thể nói chưa bao giờ nhà đầu tư ở Việt Nam đứng trước những cơ hội rộng lớn như hiện nay để thực hiện ý tưởng chiến lược và kế hoạch đầu tư của mình. 2.2. Tăng trưởng và phát triển kinh tế làm tăng tỷ lệ tích luỹ, cung cấp thêm vốn cho đầu tư Khi nền kinh tế phát triển thì nó sẽ tác động đến tất cả các mặt của đời sống xã hội, trong đó nhân tố chịu ảnh hưởng rất lớn và trực tiếp từ sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế là vốn đầu tư. Nguồn vốn đầu tư là nhân tố quan trọng hàng đầu quyết đến hiệu quả của hoạt động đầu tư ở mỗi một quốc gia. Nguồn vốn đầu tư có dồi dào thì hoạt động đầu tư mới đạt được hiệu quả cao và ngược lại. Đứng trên góc độ toàn bộ nền kinh tế, thì ngồn vốn đầu tư được chia thành nguồn vốn đầu tư trong nước và vốn đầu tư nước ngoài. Trong phần dưới đây chúng ta chúng ta sẽ đi nghiên cứu những tác động của sự tăng trưởng & phát triển kinh tế đến các nguồn vốn này. Trong những năm gần đây, cùng với sự tăng trưởng chung của nền kinh tế thì quy mô tổng thu ngân sách nhà nước không ngừng gia tăng nhờ mở rộng nhiều nguồn thu khác nhau (huy động qua thuế, phí, bán tài nguyên…). Đi cùng với nó thì mức chi cho đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước cũng gia tăng đáng kể. Trong giai đoạn 2001 – 2005, tổng chi ngân sách nhà nước tăng bình quân 14,9%. Tỷ lệ chi ngân sách nhà nước bình quân bằng 28% GDP. Trong đó chi cho đầu tư phát triển đạt bình quân 30,2% tổng chi ngân sách nhà nước. Tính chung cho giai đoạn 2001 – 2005, tổng vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước chiếm khoảng 22,3% tổng vốn đầu tư của toàn xã hội. Tăng trưởng & Phát triển kinh tế góp phần mở rộng quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam với các nước trong khu vực và trên toàn thế giới. Từ đó, nó tạo điều kiện để thu hút các nguồn vốn từ bên ngoài. Trong các dòng lưu chuyển vốn quốc tế, dòng chảy từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển thường được các nước có thu nhập thấp đặc biệt quan tâm. Đối với Việt Nam, sau 20 năm thực hiện chính sách đổi mới và mở cửa, nguồn vốn đầu tư nước ngoài đã góp phần quan trọng cho hoạt động đầu tư phát triển, tăng cường tiềm lực để khai thác và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong nước như dầu khí, điện lực, bưu chính viễn thông…Tính từ năm 1988 đến giữa năm 2008, trên phạm vi cả nước đã có hàng ngàn dự án được cấp phép với tổng số vốn đăng ký hơn 160 tỷ USD. Trong giai đoạn 2001-2006, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trung bình khoảng 16,2% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Cho đến nay, Việt Nam đã thu hút được khoảng 70 quốc gia và vùng lãnh thổ đưa vốn đầu tư dưới các hình thức khác nhau. Chương 3: Giải pháp của nhóm I. Mục tiêu, phương hướng phát triển kinh tế xã hội,huy động vốn đầu tư đến năm 2010. Mục tiêu tổng quát của kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2006-2010 như sau: Đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, đạt được những chuyển biến quan trọng theo hướng phát triển nhanh và bền vững. Cải thiện rõ rệt đời sống vật chất , văn hóa và tinh thần của nhân dân. Tạo được nền tảng để đẩy nhanh công nghiệp hóa,hiện đại hóa và từng bước phát triển kinh tế tri thức. Giữ ổn định chính trị và trật tự, an toàn xã hội. Bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia. Nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế. 1. Mục tiêu phát triển kinh tế xã hội đến năm 2010. 1.1.Về kinh tế: Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2010 theo giá so sánh gấp 2,1 lần sao với năm 2000. Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm thời kì 2006-2010 đạt 7,5-8%, trong đó nông lâm ngư ngiệp tăng 3-3,2%, công nghiệp và xây dựng tăng 10-10,2%, dịch vụ tăng 7,7-8,2% Quy mô GDP đến năm 2010đạt khoảng 1.530-1.600 nghìn tỷ đồng ( theo giá hiện hành) tương đương 85-89 tỷ USD và GDP bình quân đầu người khoảng 950-1.000 USD. Tỷ lệ huy động vào ngân sách nhà nước đạt khoảng 21-22% GDP. Cơ cấu các ngành kinh tế trong GDP đến năm 2010 dự kiến : nông nghiệp , lâm nghiệp và thủy sản khoảng 15-16%; công nghiệp và xây dựng khoảng 42-43%; các ngành dịch vụ khoảng 41-42%. Tổng kim ngạch xuất khẩu 14-16%/năm. Tổng đầu tư toàn xã hội khoảng 1.850-1.960 nghìn tỷ đồng ( theo giá năm 2005), tương đương 117-124, chiếm khoảng 37-38% GDP. 1.2.Về vấn đề việc làm : Tạo việc làm , giải quyết thêm việc làm cho thêm trên 8 triệu lao động, bình quân mỗi năm trên 1.6 triệu lao động nâng tỷ lệ lao động nữ trong tổng số việc làm mới lên 50% vào năm 2010; dạy nghề cho 7,5 triệu lao động, trong đó 25-30% dài hạn. Tỷ lệ thất nghiệp thành thị dưới 5%. Nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo lên 40% vào năm 2010. Năm 2010 , lao động nông nghiệp chiếm 50% lao động xã hội. 2. Mục tiêu và kế hoạch huy động vốn đầu tư đến năm 2010. 2.1. Kế hoạch huy động nguồn lực: Để thực hiện được mục tiêu phát triên kinh tế xã hội trên và đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế 7,5-8%, tỷ lệ đầu tư trên GDP trong kế hoạch 5 năm 2006-2010 phải tăng so với 5 năm 2001-2005 , từ 35% lên 37-38%. Tổng số vốn đầu tư toàn xã hội trong kế hoạch 5 năm 2006-2010 theo giá năm 2005 đạt khoảng 1.850-1.960 nghìn tỷ đồng, tương đương với 117-124 tỷ USD, tăng khoảng 8%/ năm, đảm bảo được tốc độ tăng trưởng kinh tế đề ra. Trong tổng số nguồn vốn đầu tư toàn xã hội, khả năng huy động vốn theo từng nguồn vốn như sau: Ước TH 2001-2005 Kế hoạch 2006-2010 Tốc độ tăng ( lần) Tổng sổ Cơ cấu(%) Tổng số Cơ cấu(%) Tổng số 1.235 100 1.850-1.960 100 1,5-1,6 1.Vốn ngân sách nhà nước 277,9 22,5 409-417 21,3-22,1 1,47-1,5 2.Vốn tín dụng nhà nước 164,3 13,3 166,1-176,2 9,0 1,01-1,07 3.Vốn đầu tư của DNNN 226.0 18,3 336,5-356,0 18,2 1,49-1,58 4.Vốn ĐT của dân cư và tư nhân 328,5 26,6 568,0-607,1 30,7-31,0 1,73-1,85 5.Vốn ĐT trực tiếp nước ngoài 206,0 16,6 252,7-277,5 13,7-14,2 1,23-1,35 6.Nguồn vốn khác 33,3 2,7 117,7-126,2 6,4 3,53-3,79 Trong nguồn vốn đầu tư toàn xã hội, dự kiến nguồn vốn trong nước chiếm khoảng 72%, nguồn vốn nước ngoài chiếm khoảng 28%. Đầu tư cho lĩnh vực kinh tế dự kiến chiếm khoảng 70% tổng vốn đầu tư toàn xã hội Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA): đến năm 2010 dự kiến huy động được 17 tỷ USD vốn cam kết. Nguồn vốn ODA giải ngân tính trong ngân sách dự kiến tăng từ 1,7 tỷ USD năm 2005 lên 2,3 tỷ USD năm 2010; tính chung tổng nguồn vốn ODA giải ngân thực hiện trong 5 năm 2006-2010 khoảng 10,9 tỷ USD. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): dự kiến thực hiện nguồn vốn này tới năm 2010 đạt từ 17,5-19,5 tỷ USD, trong đó công nghiệp chiếm 72-75%, nông, lâm ngư nghiệp chiếm 5-6,5% và dịch vụ chiếm khoảng 20-21,5%. Ngoài hai nguồn vốn nước ngoài kể trên, còn có thể huy động thêm một số loại vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài thông qua phát hành trái phiếu , cổ phiếu ra nước ngoài, huy động qua thị trường chứng khoán và các nguồn vay khác để đầu tư trung và dài hạn; vay dự kiến có thể huy động được khoảng 4,3 tỷ USD trong cả 5 năm 2006-1010. 2.2. Mục tiêu đầu tư xã hội: Với mục tiêu tiếp tục tập trung đầu tư nhằm chuyển đổi mạnh cơ cấu sản xuất theo hướng hiệu quả, phát huy được lợi thế từng ngành, từng vùng, từng sản phẩm; tăng cường trang thiết bị có công nghệ tiên tiến, hiện đại hóa từng phần các ngành sản xuất công nghiệp, trước hết tập trung các ngành và sản phẩm công nghiệp có lợi thế cạnh tranh. Chú trọng đầu tư cơ sở hạ tầng các ngành kinh tế- xã hội, tập trung lĩnh vực giao thông, viễn thông, phát triển nguồn năng lực, phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, gắn đầu tư mở rộng sản xuất nông nghiệp đồng bộ hóa với phát triển công nghiệp chế biến. Đầu tư phát triển hạ tầng du lịch, bảo vệ môi trường sinh thái, phát triển hạ tầng đô thị. Tăng cường đầu tư phát triển nguồn nhân lực; hoàn thiện , nâng cấp và tăng cường đầu tư thiết bị giáo dục. II. Giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư nhằm tác động đến tăng trưởng và phát triển. Từ cơ sở lý thuyết và thực trạng của nền kinh tế Việt Nam,cộng với quá trình tìm kiếm,tham khảo,các thành viên trong nhóm 3 xin đưa ra một số kiến nghị,giải pháp cho những vấn đề còn bất cập,chưa hợp lý mà trong đề tài đã đề cập đến. 1. Cải thiện môi trường đầu tư Trong những năm gần đây Việt Nam luôn được đánh giá là một môi trường hấp dẫn đối với các nhà đầu tư,đặc biệt với các nhà đầu tư nước ngoài.Tuy vậy,môi trường đầu tư của Việt Nam đã thực sự tốt?Hiện,chất lượng nguồn nhân lực của chúng ta chưa cao. Tỷ lệ lao động qua đào tạo mới đạt 30%, cán bộ, kỹ sư lành nghề phục vụ cho công nghệ cao còn yếu; cơ sở hạ tầng chưa đồng bộ,còn thiếu và yếu;chi phí chi phí để có mặt bằng trong đầu tư phát triển rất cao,thủ tục hành chính còn rườm rà….đó chính là một phần thực trạng môi trường đầu tư của Việt Nam.Theo báo cáo của ngân hàng thế giới đầu năm 2007 về môi trường kinh doanh Việt Nam xếp 104/175 nền kinh tế giảm 6 bậc so với năm 2005 và sang đến đầu năm 2009,Việt Nam xếp 113.Như vậy,những năm qua,môi trường đầu tư của Việt Nam vẫn chưa được cải thiện đáng kể. Một số giải pháp: - Tăng cường sự ổn định và an ninh:ổn định kinh tế,an ninh chính trị xã hội là yêu cầu trước hết để các nhà đầu tư yên tâm bỏ vốn đầu tư,có thể dự kiến và thực thi những dự án dài hạn,giảm bớt rủi ro trong đầu tư. Trong đó ổn định về giá cả ổn định về lạm phát cũng sẽ tạo ra môi trường hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư,vì lạm phát có liên quan đến giá trị của đồng tiền sau này họ thu được từ vốn đầu tư hiện nay vì nếu lạm phát cao thì để đạt được kết quả như ban đầu đề ra thi doanh nghiệp phải có kết quả cao hơn nhiều như vậy là khó khả thi.Do vậy sẽ không hấp dẫn đối với các nhà đầu tư.Bởi vậy để thu hút đầu tư thì chính phủ phải có những chính sách hạn chế lam phát ổn định giá cả. -Hoàn thiện hệ thống chính sách,pháp luật: Xuất phát từ trình độ phát triển kinh tế thấp, lại trải qua nhiều năm trong cơ chế kế hoạch tập trung, bao cấp, Việt Nam phải vượt qua nhiều khó khăn để thắng sức ỳ của thói quen và tâm lý trong quá trình cải cách hành chính trong lĩnh vực đầu tư nói chung và đầu tư trực tiếp nước ngoài nói riêng. Hiện nay, cơ chế một cửa đã được thiết lập ở hầu hết các cơ quan Trung ương, các tỉnh và thành phố trong việc giải quyết các thủ tục hành chính như thủ tục gia nhập thị trường đã được tinh giản đáng kể, cho phép doanh nghiệp đa dự án và mở rộng diện áp dụng chế độ đăng ký thay cho cấp phép và ứng dụng công nghệ thông tin để cải tiến mạnh mẽ quy trình và thủ tục này. Trong quá trình thực hiện đầu tư, những tranh chấp giữa các bên có thể xảy ra, tuy không mong muốn song không thể loại trừ…Tuy nhiên,các cơ chế,thủ tục ở Việt Nam vẫn còn quá rườm ra,cồng kềnh so với nhiều nước.Vì vậy muốn tạo điều kiện thuận lợi để thu hút các nhà đầu tư cần phải cải cách theo hướng đơn giản hoá các thủ tục hành chính. -Xây dựng,nâng cấp,đồng bộ cơ sở hạ tầng: Cơ sở hạ tầng có thể bao gồm nhiều vấn đề,tuy nhiên 4 vấn đề lớn nhất chính là:điện,nước,thông tin liên lạc và hệ thống giao thông vận tải.Cả 4 vấn đề này ở nước ta vẫn còn yếu,thiếu nên cần đầu tư gấp để hoàn thiện cơ sở hạ tầng,đáp ứng được yêu cầu của nhà đầu tư. -Nâng cao trình độ,năng lực của nguồn nhân lực:hiên nay chỉ có khoảng 30%lao động qua đào tạo.Đó là con số rất ít đối với đất nước đông dân như nước ta.Một thực tế đang diễn ra là các doanh nghiệp vẫn thiếu lao động trong khi đó người lao động lại không tìm được việc do không có trình độ không đáp ứng yêu cầu.Do đó,cần đầu tư tích cực để đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. 2. Sử dụng vốn đầu tư có hiệu quả Trước hết, đối với DNNN, kiên quyết xóa bỏ các loại bảo hộ bất hợp lý như khoanh nợ, giãn nợ, xóa nợ cấp vốn tín dụng ưu đãi tràn lan đối với các hoạt động kinh doanh của DNNN. Thực hiện đầu tư vốn thông qua các Công ty đầu tư tài chính của Nhà nước. Từ thực tế hiện nay, vẫn còn nhiều vướng mắc về cơ chế chính sách trong quá trình thực hiện chưa được tháo gỡ, tiến độ thực hiện chậm, hiệu quả hoạt động của nhiều DNNN còn thấp, tình trạng thất thoát, lãng phí và tham nhũng chưa được khắc phục.Nhiều doanh nghiêp nhà nước hoạt động chưa hiệu quả.Bên cạnh đó,tham nhũng là 1 rào cản đối với sự phat triển của đát nước .Một khi còn tham nhũng thi đất nước không thể phát triển nhanh được .Vì vậy cần chống tham nhũng từ tất cả các cấp các ngành và coi đó là việc cấp bách hiên nay nhăm đưa đat nước thoát khỏi tình trạng đói nghèo. Thứ hai, đối với các DNNN đã, đang và sẽ sắp xếp lại để cổ phần hóa, các ngân hàng thương mại chủ động tham gia xây dựng và quyết định phương án sắp xếp lại DNNN với vai trò là chủ nợ, phù hợp với chính sách và giải pháp tiếp tục đổi mới DNNN. Đồng thời, tiếp tục mở rộng đầu tư vốn tín dụng để giúp cho các DN đổi mới công nghệ bằng nguồn vốn trung dài hạn để mua sắm các loại máy móc thiết bị, dây chuyền sản xuất và xây dựng nhà xưởng để DN có đủ sức cạnh tranh cao, phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững trong quá trình hội nhập quốc tế. Thứ ba, đối với tín dụng ngân hàng cần tập trung đầu tư vốn vào các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả, có dự án khả thi và có khả năng trả nợ.đòi hỏi các ngân hàng phải nghiên cứu xem xét phân tích kĩ từng dự án những điều kiện thuận lợi khó khăn mà các doanh nghiềp có thể gặp phải cũng như các rủi ro khi ngan hàng cháp nhận cho vay Thứ tư, tăng cường đôn đốc thu hồi nhanh vốn nhanh, thực hiện phương thức "tiền vào hàng ra, tiền trao cháo múc" hạn chế tối đa nhất các khoản vốn đi chiếm dụng và vốn bị chiếm dụng trong thanh toán. Tiếp tục đầu tư đổi mới công nghệ nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm .đổi mới công nghệ vừa nâng cao năng suất vừa nâng cao chất lượng ,chi phí sản xuất giảm vì vậy giá thành sản phẩm giảm nâng cao sức canh tranh của doanh nghiểp trên cơ sở đó tạo ra lợi nhuận trong DN, nâng cao đời sống của người lao động Thứ năm là phát triển mạnh các DN vừa và nhỏ, khuyến khích đầu tư cho các DN tư nhân, Công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, cần phát triển mạnh mẽ các mô hình DN tư nhân, mô hình này rất thích hợp với nền kinh tế thị trường ở nước ta. Tuyên truyền, vận động để thống nhất quan điểm chỉ đạo; nâng cao năng lực hoạt động của các đơn vị kinh tế tư nhân hiện có; tạo môi trường thuận lợi cho sự hình thành, phát triển những đơn vị kinh tế tư nhân mới; thực hiện các chủ trương, chính sách giúp các doanh nghiệp tư nhân liên doanh, liên kết, hỗ trợ nhau cùng tồn tại và phát triển; tăng cường vai trò quản lí Nhà nước và vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội đối với thành phần kinh tế tư nhân trong thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước 3. Tăng trưởng bền vững. Thứ nhất,  xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Các bộ, ngành, địa phương cần tiếp tục, tập trung rà soát lại các thị trường, bảo đảm môi trường hợp tác, cạnh tranh bình đẳng trog kinh doanh của các thành phần kinh tế, bảo đảm sự phù hợp với luật phápvà tập quán quốc tế trong tiến trình hội nhập với khu vực và thế giới, không gây phiền hà, nhũng nhiễu nhân dân Thứ hai,tiếp tục đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế, bảo đảm nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế, sớm đưa nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển. Đồng thời, đảm bảo vững chắc an ninh, quốc phòng, thực hiện công bằng xã hội. Các bộ, ngành, địa phương phải xây dựng các đề án, dự án cụ thể và chú trọng thu hút mạnh mẽ đầu tư của các tầng lớp nhân dân và của các nhà đầu tư nước ngoài Thứ ba, tiếp tục thực hiện tốt các chính sách xã hội, văn hoá, giáo dục-đào tạo, xoá đói giảm nghèo, chăm lo cho đồng bào các dân tộc, nhất là ở vùng sâu, vùng xa. Tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đang được triển khai mạnh mẽ, do vậy phải có đề án và giải  pháp cụ thể đào tạo nguồn nhân lực. Thứ tư, đẩy mạnh cải cách hành chính,nâng cao hiệu quả,hiệu lực quản lý của bộ máy Nhà nước. Thứ năm, ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng tham nhũng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; nâng cao ý thức, trách nhiệm.Nhanh chóng thiết lập chế độ quản lý tiền tệ và thanh toán qua hệ thống ngân hàng nhằm mục đích kiểm soát và minh bạch hóa thu nhập và tài sản của cán bộ, công chức. Từ đó thực hiện nghiêm, triệt để chế độ kê khai tài sản đối với cán bộ, công chức Tăng cường công tác kiểm tra của Đảng, thanh tra của Nhà nước đối với đội ngũ đảng viên, cán bộ công chức. Xử lý thật nghiêm những vụ việc tham nhũng, xem đó là sự răn đe cho những kẻ lợi dụng chức vụ, quyền hạn mưu đồ lợi ích cá nhân. Thứ sáu:tăng trưởng và phát triển phải đi đôi với bảo vệ tài nguyên và môi trường.Tài nguyên có hạn đến 1 lúc nào đó sẽ can kiệt vì vậy chúng ta phải sử dụng hơp lý nguồn tài nguyên hiện có để không ảnh hưởng đến tới thế hệ tương lai .tăng trưởng cũng đi đôi với ô nhiễm môi trường do đố để đảm bảo cho cuọc sống hôm nay và mai sau cần sử dung công nghệ giảm ô nhiễm co các biện pháp xử lý chất thải cho từng DN. Nhà nước cũng có biện pháp xử lý đối với các DN gây ô nhiễm quá mưc cho phép như đánh thuế,phạt hành chính… KẾT LUẬN Trong thời gian qua, với việc thực hiện những mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế -xã hội, Việt Nam đã dẫn tạo được chỗ đứng của mình trong trên trường quốc tế và trong lòng bạn bè năm châu. Tốc độ tăng trưởng ngày càng tăng, ổn định trong thời gian dài hướng đất nước đến mục tiêu phát triển bền vững. Tình hình thu hút đầu tư , và kết quả của hoạt động đầu tư cũng bước đầu đạt được những thành tựu như : vốn đầu tư cam kết , số vốn thực hiện trên đầu tư cam kết ngày càng tăng, đồng thời thông qua hoạt động đầu tư cơ sở hạ tầng giao thông vận tải được xây mới, cải tạo; nguồn nhân lực được đào tạo có bài bản, chất lượng ngày càng cao;tiếp nhận khoa học kĩ thuật, công nghệ mới.Cơ chế quản lý hoạt động đầu tư cũng được đổi mới liên tục, tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư , thúc đẩy hoạt động đầu tư phát triển nhiều hơn nữa. Tuy nhiên mối quan hệ giữa đầu tư với tăng trưởng và phát triển hiện nay vẫn còn nhiều vấn đề hạn chế, làm cho việc sử dụng vốn đầu tư không được hiệu quả, dàn trải, thiếu hệ thống…gây lãng phí thất thoát. Vì thế trong tương lai chúng ta cần quan tâm hơn đến vấn đề này nhắm đưa ra những giải pháp phù hợp và hiệu quả. Đề tài còn nhiều thiếu sót trong vấn đề lý luận, cách thức trình bày, diễn đạt, tập thể nhóm chúng tôi rất mong nhận được sự đóng góp, xây dựng nhằm hoàn thiện đề tài từ phía giáo viên và toàn thể các bạn. Xin chân thành cảm ơn. TÀI LIỆU THAM KHẢO Các Giáo trình của NXB Đại học Kinh tế Quốc dân -Kinh Tế Đầu Tư – PGS.TS. Nguyễn Bạch Nguyệt, TS. Từ Quang PhươngGiáo -Lập dự án đầu tư-PGS.TS NGuyễn Bạch Nguyệt NXB Đại học Kinh tế Quốc dân. -Quản lý công nghệ -Kinh tế phát triển -Kinh tế Vĩ mô Văn kiện Đại hội Đảng X Niên giám thống kê 2007 – NXB Thống kê Dụ báo tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2009 NXB Hà Nội. Tài liệu từ một số trang web: www.mpi.gov.vn www.gso.gov.vn www.neu.edu.vn www.mofa.gov.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc22470.doc
Tài liệu liên quan