Đề tài Một số biện pháp góp phần đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước

+ Trường hợp DN CPH mà Nhà nước vẫn tiếp tục giữ vốn Nhà nước trong Cty CP (không phải cổ phần chi phối), khi chỉ có một nhà đầu tư nước ngoài đăng ký mua cổ phần của Cty, thì nhà đầu tư đó cũng được mua tối đa 30% vốn điều lệ; trong khi cá nhân và pháp nhân trong nước chỉ được mua tối đa 10-20%. +Theo Thông tư 132/1999/TT-BTC ngày 15/11/1999 của Bộ tài chính: "Kết quả xác định giá trị DN do cơ quan tài chính công bố"; vậy trong trường hợp này do cơ quan tài chính địa phương công bố hay trình Bộ tài chính quyết định? Như vậy có khác gì thủ tục công bố giá trị DNNN CPH?

doc49 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1270 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số biện pháp góp phần đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
các tổ chức kinh tế, xã hội. # Thiếu một hệ thống hỗ trợ, tư vấn cho các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá. Công ty cổ phần đối với nước ta là một dạng công ty mới mẻ hơn nữa doanh nghiệp nhà nước đang từ sự bảo trợ của nhà nước chuyển sang kinh doanh một cách độc lập, chịu sự chi phối của nền kinh tế thị trường sẽ gặp phải những vướng mắc. Thiếu đi sự hỗ trợ, tư vấn của các cấp có thẩm quyền sẽ là một khó khăn lớn cho tâm lý của những doanh nghiệp chuẩn bị cổ phần hoá.Tuy nhiên tháng 4 năm 1999…………………….. # Thiếu một hệ thống văn bản pháp quy có tính pháp lý cao như luật, pháp lệnh về cổ phần hoá. Tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là một giải pháp mang tính chất triệt để nhất, cương quyết nhất. Do đó rất cần phải có văn bản pháp lý cao làm cơ sở vững chắc cho việc triển khai thực hiện. # Vấn đề bán cổ phần cho người nước ngoài tuy trên thực tế đã phát sinh nhu cầu nhưng chưa có hướng dẫn cụ thể và chưa đượcthi hành sâu và rộng nên hạn chế rất nhiều việc huy động vốn từ nước ngoài. 3. Công tác tổ chức bộ máy chỉ đạo. Thứ nhất, việc tổ chức thực hiện cổ phần hoá chưa đồng đều và rộng khắp các ngành, địa phương và các tổng công ty nhà nước. Thứ hai, đội ngũ cán bộ chỉ đạo đổi mới doanh nghiệp nhà nước chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Số lượng cán bộ kiêm nhiệm còn nhiều nên chưa chú trọng, thiếu chủ động và kiên quyết trong tổ chức triển khai và đẩy nhanh cổ phần hoá. Thực tế cho thấy trong những điều kiện khó khăn, nơi nào được cấp uỷ, chính quyền quan tâm chỉ đạo thì nơi đó triển khai tốt và ngược lại. Thứ ba, công tác giám sát và đôn đốc của ban chỉ đạo TW đối với công tác cổ phần hoá ở các cấp cơ sở chưa có sự khen thưởng động viên cũng như kỷ luật kịp thời. Thứ tư, công tác phối hợp giữa các cấp chưa nhịp nhàng dẫn đến thiếu thống nhất trong triển khai cổ phần hoá ở các địa phương. Việc xác định giá trị doanh nghiệp là một khó khăn lớn đối với các cơ quan có thẩm quyền. Hơn nữa, việc tính tỷ suất lợi nhuận trên vốn kinh doanh bình quân 3 năm trước khi cổ phần hoá thì rất khó đánh giá được sát sao tình hình thực tế của doanh nghiệp. 4. Những khó khăn về ngân hàng, tài chính. - Lệ phí đăng ký kinh doanh: Hiện nay, việc cấp đăng ký kinh doanh phải trả lệ phí 0,1% trên vốn thực có lúc đăng ký. Một số doanh nghiệp phản ánh mức thu này là quá cao trong tình hình hiện nay. Bên cạnh đó việc thực hiện thuế GTGT làm ảnh hưởng đến tình hình tài chính của doanh nghiệp, làm đảo lộn các phương án sản xuất kinh doanh đã được xây dựng, hiệu quả không cao, không hấp dẫn cổ đông, nên rất khó bán cổ phần, ngay cả với CBCNV trong doanh nghiệp. Như vậy có nghĩa là không khuyến khích được sự tham gia tích cực của các doanh nghiệp vào công cuộc cổ phần hoá. - Mục tiêu cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là thu hút vốn trong các thành phần kinh tế, nhưng số tiền bán cổ phần vẫn chưa được sử dụng ngay. Đây là một hạn chế lớn bởi tình trạng thiếu vốn trong các doanh nghiệp nhà nước rất nhiều, nhu cầu được đầu tư vốn để đổi mới trang thiết bị là rất bức bách, trong khi đó số tiền bán cổ phiếu lại được lưu giữ tại kho bạc. -Việc thành lập hội đồng thẩm định giá trị doanh nghiệp của Bộ Tài chính bị kéo dài và hoạt động chậm trễ ảnh hưởng đến tiến trình cổ phần hoá. - Một số doanh nghiệp có tài sản cố định được hình thành từ nguồn vốn vay, do đó phải khấu hao nhanh để có nguồn trả nợ. Khi xác định giá trị doanh nghiệp để cổ phần hoá, số tài sản này thường được đánh giá cao hơn nhiều so với sổ sách kế toán. Việc đánh giá tăng nguồn vốn ở một DNNN là đúng, tuy nhiên vấn đề này khó khuyến khích được những người đầu tư khi quyết định mua cổ phần ở doanh nghiệp đó. - Trong các doanh nghiệp Nhà nước hiện nay, việc quản lý sổ sách và các chế độ báo cáo kế toán thống kế theo Pháp lệnh kế toán thông kê của Nhà nước ban hành là một trong những vấn đề cần chấn chỉnh và đặc biệt là việc thực hiện quyết toán của năm tài chính. Sớm nhất là hết 6 tháng của năm sau thì mới hoàn thành báo cáo của năm trước và điều này ảnh hưởng không nhỏ đến tiến độ CPH. - Công việc mất nhiều thời gian nhất trong công tác CPH là các căn cứ để lập phương án CPH phụ thuộc rất nhiều vào báo cáo tài chính. Do đó nếu các chế độ báo cáo, thống kê không thực hiện nghiêm túc và đúng thời gian qui định thì sẽ ảnh hưởng nhiều đến thời gian để xác định giá trị các công trình xây dựng cơ bản cũng là một vướng mắc. Nhiều công trình đã hoàn thành và đưa vào sử dụng những vẫn chưa được quyết toán cũng là những thực tế không phải là hiếm hiện nay. 5. Khó khăn trong việc định giá doanh nghiệp. Chính vì tính hình thức và tương đối của việc xác định giá trị doanh nghiệp mà gây ra nhiều khó khăn trong quá trình CPH. Tình trạng xác định giá trị doanh nghiệp một cách chủ quan ở các địa phương như đánh giá cao giá trị doanh nghiệp nhằm thu hồi vốn hay đánh giá thấp giá trị doanh nghiệp để đẩy nhanh cổ phần hoá nhằm lấy thành tích thường xảy ra. Do đó, làm chậm tốc độ cổ phần hoá hoặc gây thất thoát tài sản quốc gia. Xác định giá trị doanh nghiệp là một khâu quan trọng của cổ phần hoá, sự khó khăn của công việc này có ảnh hưởng lớn tới tình hình thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước của các bộ, ngành, địa phương. Thủ tục xác định giá trị DN nói chung khá rườm rà, thường bị kéo dài, nhất là đối với các DN thuộc các bộ và Tcty 91. Riêng việc thành lập hội đồng thẩm định giá trị DN phải mất 1-3 tháng, và quá trình hội đồng làm việc cho đến khi có được quyết định giá trị DN của Bộ tài chính cũng phải mất đến 15-20 ngày. Thậm chí, có trường hợp kéo dài gần 4 tháng như Công ty công nghệ cao, tin học và môi trường thuộc Tcty than VN, hay 10 tháng như Công ty Savimex (Tp.HCM)... Các văn bản hướng dẫn (như Thông tư số 13 của liên bộ Xây dựng-Tài chính-Vật giá ngày 18/8/1994) có nội dung chưa đầy đủ và rõ ràng về phương pháp xác định giá trị còn lại, do đó khi vận dụng đã có ý kiến khác nhau, tranh cãi kéo dài. Mặt khác, khi thực hiện thường tuỳ tiện, không đúng quy trình, thẩm quyền và trách nhiệm thiếu rõ ràng (Ví dụ: để các chuyên gia tư vấn can thiệp quá sâu vào công việc của HĐ thẩm định tài sản DN, hoặc ngược lại HĐ thẩm định ít lắng nghe ý kiến tham vấn). Chẳng hạn một trường hợp phức tạp ở Công ty Transimex Saigon, khi xác định giá trị còn lại của phần kiến trúc bao quanh đã tranh cãi hơn một năm chưa kết luận được, trong đó có phương án xác định còn 65%, có phương án lại là 85%. ở một doanh nghiệp vận tải thuộc Hà Nội, khi định giá một ôtô tải cũ, cơ quan đăng kiểm xác định còn 50% giá trị mới, nhưng đem bán chỉ được tối đa 30%. 6. Những khó khăn liên quan đến người lao động và quyền lợi của người laođộng. Khi DNNN thực hiện cổ phần hoá, do sự tác động của quy luật kinh tế thị trường, doanh nghiệp buộc phải giảm biên chế; một bộ phận người lao động đã từng làm việc trong doanh nghiệp nay buộc phải thôi việc.Việc đó thực sự đã gây ra một gánh nặng cho toàn xã hội. Chưa nói đến những trường hợp đó, ngay với người lao động còn ở lại doanh nghiệp cũng có rất nhiều băn khoăn về tâm lý. Bên cạnh các quyền lợi trực tiếp như tiền lương, tiền thưởng thì các quyền lợi khác như chế độ đãi ngộ,bảo hiểm…có được như cũ hay không ? Một vấn đề khác là cán bộ công nhân viên chức nhiều năm làm việc trong biên chế nhà nước,có cấp bậc hay vị trí chính trị và có nhiều cống hiến , khi chuyển sang cổ phần hoá các quyền lợi sẽ ra sao ? 7. Khó khăn trong việc tạo cung hàng hoá cho thị trường chứng khoán : Hiện nay là hầu hết các doanh nghiệp CPH là các doanh nghiệp nhỏ, vốn điều lệ thấp. Trong số 660 công ty cổ phần (CTCP) có khoảng 80 công ty có vốn điều lệ trên 10 tỷ đồng, còn lại là các công ty có vốn điều lệ đưới 10 tỷ đồng. Việc đăng ký niêm yết cổ phiếu của các CTCP tuỳ thuộc vào quyết định của bản thân công ty. Hiện mới có 5 công ty niêm yết tại TTGDCK trong số 80 công ty có đủ tiêu chuẩn tham gia niêm yết. Nguyên nhân là các công ty chưa nhận thức được đầy đủ lợi ích của việc niêm yết CK, mặc dù Nhà nước đã có chính sách ưu đãi về thuế, phí, nhưng các công ty còn e ngại kiểm toán và công bố thông tin...; mặt khác muốn chờ cho TTCK hoạt động một thời gian rồi mới xem xét quyết định việc niêm yết. Trong cổ phần hoá hiện nay, cổ phiếu các doanh nghiệp nhà nước(DNNN)cổ phần hoá được bán đúng theo mệnh giá. Quyết định số 529 TC-QĐ-TCDN ngày 31-7-1997 của Bộ trưởng Bộ tài chính đã ghi rõ trong mục 3 phần II những quy định cụ thể “tổng mệnh giá các cổ phiếu phải bằng số tiền đã góp vào công ty theo tờ phiếu góp tiền ghi tại điểm 4 điều 32 Luật công ty và số cổ đông”.Quy luật thị trường nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng là trao đổi ngang giá, có nghĩa là giá gửi vốn vào Công ty cổ phần (lãi cổ phần ) và giá gửi vốn vào ngân hàng (lãi suất tiền gửi) phải tương đương với nhau. Quy luật này đòi hỏi cổ phiếu của các công ty cổ phần được chia lãi khác nhau thì phải bán cổ phiếu theo giá khác nhau. Nói cách khác là phải bán cổ phiếu theo giá đấu thầu, không thể theo lối mọi cổ phiếu đều bán theo mệnh giá làm cho người mua được chia lãi 2%/tháng gấp 4 lần so với người mua loại cổ phiếu chỉ ghi loại 0,5%/ tháng hay người gửi tiền vào ngân hàng. Cách chỉ đạo bán cổ phiếu chỉ theo mệnh giá đã theo tư duy của thời bao cấp không tính đến quy luật của kinh tế thị trường. Vì vậy nó sinh ra cái hại trước mắt là tiêu cực trong bán cổ phiếu. ở những DNNN cổ phần hoá mà mức chia cổ tức đã từng đạt 1-2% / tháng đã nảy sinh tiêu cực là chỉ những người thân quen ở ngoài DNNN mới có thể mua cổ phiếu theo giá lời gấp 2 đến 4 lần so với gửi tiền ngân hàng. Cái hại tương lai của nó đến thị trương chứng khoán là khi mở hai trung tâm giao dịch chứng khoán,cung sẽ thấp hơn cầu,khó thăng bằng lệnh mua bán cách xa nhau quá nhiều để ổn định thị trường Người nắm giữ cổ phiếu được chia cổ tức cao, ví dụ 2%/tháng , sẽ không muốn bán dù giá tăng gấp đôi vì số tiền bán được nếu đem gửi tiết kiệm vẫn chỉ thu được số tiền lời bằng số cổ tức được chia. Chỉ khi nào giá cổ phiếu của họ tăng gấp 4 lần họ mới chịu bán vì khi đó đem gửi ngân hàng lãI suất 0,6% lời hơn.Ta hãy thử hình dung hai trung tâm giao dịch chứng khoán mở ra mà ít người mua bán vì người mua kẻ bán chưa gặp nhau ở mức độ ngang giá. Thị trường thứ cấp sẽ hoạt động ít sôI nổi vì người mua thì nhiều mà người bán không muốn bán vì còn chờ ngang giá. Chỉ có một số người chưa quen tính toán thấy giá lên tưởng rằng sẽ lời vội bán. Chỉ khi giá llên khoảng gấp đôI thì cổ phiếu có mức cổ tức1%/ tháng mới bán ra mạnh. Đối với cổ phiếu có mức cổ tức 2%/ tháng thì phải đợi đến lúc giá cổ phiếu tăng gáp 4 lần mới ở thế ngang giá và thị trường mới hoạt động mạnh. Diễn biến bất thường và dao động mạnh như vậy sẽ khó cho việc điều hành,việc thực hiện các lệnh mua bán. Điều đáng buồn là khi giá chứng khoán tăng lên nhiều lần như vậy thì số chênh lệch tăng giá hoàn toàn chạy vào túi người bán cổ phiếu. DNNN cổ phần hoá không tăng được một đồng vốn nào. Như vậy mục tiêu cổ phần hoá và mở rộng thị trường chứng khoán để tăng vốn cho DNNN cổ phần hoá sẽ chỉ thực hiện được một phần nhỏ (1/4 đối với các doanh ngiệp có mức chia cổ tức 2%/ tháng). Số chênh lệch giữa giá bán cao hơn cổ phần là do uy tín sẵn có của ngân hàng và mức chia cổ tức của các năm trước khá cao. Sự chênh lệch đó đều là vốn cổ phần của họ. Còn DNNN cổ phần hoá vẫn bị ràng buộc không bán ra được theo giá thị trường dù uy tín cao và họat động tốt. Họ sẽ cũng như DNNN chưa tốt khi cổ phần bán theo mệnh giá mà ít người mua và giá cổ phiếu cao hơn mệnh giá do uy tín của họ tạo ra không được hưởng . Mong rằng quy định chỉ được bán cổ phiếu DNNN đã được CPH theo đúng mệnh giá sẽ được đIều chỉnh lạI theo quy luật kinh tế thị trường. Theo kinh tế thị trường mà quy định trong văn bản thì không theo quy luật thị trường làm trôI tuột một phần khá lớn vốn của DNNN đã CPH ,trách nhiệm đó thuộc về ai hay lạI đổ lỗi cho trình độ còn non,chưa theo kịp tình hình.Hãy chịu khó lắng nghe,nâng cao trình độ cho đất nước khỏi mất đi số vốn cổ phần dôI ra do uy tín của họ tạo nên. 4. Đánh giá chung về tiến trình cổ phần hoá DN . Xét 3 giai đoạn CPH với các cơ chế đặc thù và các kết quả khác nhau : Giai đoạn thí điểm từ 6/1992 đến 4/1996. Trong giai đoạn này , 4 năm chỉ cổ phần hoá được 5 DN gồm 3 DN TƯ và 2 DN địa phương. Tốc độ CPH trong thời kỳ này được đánh giá là rất chậm chạp. Giai đoạn hai là giai đoạn đầu của thời kì mở rộng công tác cổ phần hoá từ tháng 5/1996 đến 6/1998. Chính phủ ban hành Nghị định số 28/CP , lần đầu tiên quy định một cách có hệ thống từ mục đích yêu cầu , đối tượng đến phương thức tiến hành , các chế độ với DN và người lao động trong DN cổ phần hoá . Vì vậy tốc độ cổ phần hoá đã tăng nhanh hơn .Trong hai năm đã cổ phần hoá được 25 DN , bằng 5 lần giai đoạn thí điểm .Diện cổ phần hoá cũng rộng hơn : 3 bộ và 9 tỉnh thành phố có DN cổ phần hoá . Quy mô DN cũng lớn hơn , có DN vốn trên 120 tỷ đồng , 5 DN có vốn trên 10 tỷ đồng. Tiến độ CPH giai đoạn này cũng được đánh giá là chậm , do sự hoạt động khá trì trệ của các cấp, các ngành liên quan và bản thân các DN cộng với cơ chế chính sách chưa phù hợp với tình hình thực tế. Tuy nhiên một số kết quả bước đầu tại các doanh nghiệp đã CPH là hết sức khả quan.Việc cổ phần hoá DNNN có tầm ảnh hưởng rộng hơn, bắt đầu được xã hội thúc đẩy như là một giải pháp giúp cho nền kinh tế thoát khỏi sự trì trệ. Giai đoạn ba từ tháng 7/1998 đến nay, nhằm đẩy nhanh cổ phần hoá , rút kinh nghiệm từ giai đoạn đầu cổ phần hoá, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 44/CP ngày 29/6/1998 về vấn đề cổ phần hoá DN nhà nước thay thế cho các nghị định trước đây. Nghị định này đã xác định rõ và giảm thiểu danh mục ngành nghề Nhà nước cần giữ 100% vốn hay Nhà nước cần nắm giữ cổ phần đặc biệt , cổ phần chi phối. Bên cạnh đó là việc không hạn chế quy mô DN.Do đó chỉ trong 6 tháng đến 31/12/1998 đã cổ phần hoá được số DN gấp hai giai đoạn trước đây. Việc định giá DN cũng cần được cải tiến , vấn đề công khai việc bán cổ phần chưa rộng rãi nên chưa thu hút được đông đảo nhà đầu tư . Trong số DN đã cổ phần hoá trong các giai đoạn I và II có khoảng 40% số DN không có cổ phần ngoài xã hội tham gia. Hơn nữa , hình thức cổ phần hoá trong thời gian vừa qua chủ yếu là bán phần vốn nhà nước nên chưa có tác động trong việc đổi mới công nghệ , thiết bị , mở rộng quy mô kinh doanh của DN. Vì thế việc ban hành các văn bản về cổ phần hoá trong tháng 4/99 của chính phủ là cơ sở pháp lí quan trọng cho việc hoàn thành các chỉ tiêu cổ phần hoá sau này. Các văn bản được chính phủ ban hành bao gồm quyết định thành lập Quỹ hỗ trợ cổ phần hoá , Quy chế bán cổ phần cho nhà nước ngoài , nghị định về giao , bán khoán cho thuê DN nhà nước . Với các văn bản này , công tác cổ phần hoá DN nhà nước ở Việt Nam thực sự đã chuyển sang một giai đoạn mới . Đây có thể coi là giai đoạn thứ tư của tiến trình cổ phần hoá ở Việt Nam . Đối tượng DN nhà nước được cổ phần hoá từ đầu giai đoạn III đến nay có quy mô lớn hơn và diện cổ phần hoá là hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế , chỉ trừ các lĩnh vực và một số DN đã được quy định trước (như an ninh quốc phòng , công ích , các DN hoạt động thương mại miền núi ). Ngoài Quỹ hỗ trợ sắp xếp và cổ phần hoá DN nhà nước, quy chế bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài đã và đang tạo động lực mạnh mẽ cho tiến trình cổ phần hoá . Với quy chế này sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài sẽ mở đường ra thị trường mới cho các DN được cổ phần hoá , thêm nguồn vốn đầu tư , theo đó có thể thêm phương thức quản lí mới cho các DN này. Một câu hỏi đặt ra là các nhà đầu tư nước ngoài có hưởng ứng hay không ? Có một điều chắc chắn là họ sẽ hưởng ứng tuy nhiên chúng ta sẽ không thể thoả mãn toàn bộ những đòi hỏi của họ. Lí do là hiện Chính phủ chỉ được phép quy định người ngoài được mua số cổ phiếu tối đa bằng 30 % vốn điều lệ của DN cổ phần hoá . Số vốn này có thể chưa thoả mãn khả năng tham gia của các nhà đầu tư . Hiện nay đã có 4 DN bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài là Công ty đồ hộp Hạ Long , Công ty may Ninh Bình , Công ty chế biến hạt điều Long An và Công ty cổ phần cơ điện lạnh ( chuyển vốn vay thành vốn cổ phần ). Nhìn chung trong thời gian trừ một số địa phương như Hà Nội, Tp.HCM, Nam Định, Thanh Hoá..., các bộ NN và PTNT, Giao thông vận tải, Xây dựng; các tổng công ty xi măng, hàng hải, cà phê... là nơi thực hiện tốt kế hoạch cổ phần hóa, các ngành, địa phương khác cũng sẽ đẩy mạnh việc thực hiện CPH. Cổ phần hoá doanh nghiệp giờ đây không còn là điều mới lạ đối với các cấp ,các ngành , với từng doanh nghiệp và mồi người lao động. Chúng ta tin tưởng rằng trong thời gian sắp tới quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước sẽ thực sự tạo ra động lực mạnh mẽ, làm thay đổi cơ cấu và thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế phát triển. Nhằm thực hiện chủ trương công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng , văn minh . Phần III Một số biện pháp góp phần đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá DN nhà nước Tạo sự thống nhất về nhận thức, quan điểm, chủ trương cổ phần hoá Theo như thông báo 63/TB/TƯ của Bộ chính trị đã chỉ thị : “ Các cấp uỷ đảng và chính quyền phải quán triệt và tuyên truyền , giải thích trong nhân dân chủ trương ,chính sách của đảng về cổ phần hoá DNNN.Cổ phần hoấ phải xuất phát từ yêu cầu phát triển của DNNN nhằm huy động vốn của bên trong và bên ngoài DN để đầu tư mở rộng ngành nghề, hiện đại hóa công nghệ, tạo thêm việc làm,phân công lại lao động, phát triển sản xuất, tăng tích luỹ cho DN, tăng thu nhập cho người lao động và đóng góp cho ngân sách ”.Việc cổ phần hoá không phải là giải pháp tình thế mà là một phương thức đổi mới cơ chế quản lý cho thích nghi với sự vận động của cơ chế thị trường. Do đó, chủ trương CPH phải được giải quyết bằng sự chủ động từ phía nhà nước, không thể chỉ dựa vào sự tự nguyện của các DN. “Tổ chức đảng tại DN được CPH phải nắm vững chủ trương của đảng về CPH, vươn lên làm tốt vai trò lãnh đạo của mình. Các cấp uỷ đảng phải xem xét các vấn đề quan trọng khi đưa ra Hội đồng quản trị thảo luận và quyết định, đặc biệt là lĩnh vực đầu tư và hợp tác với bên ngoài ”. 2. Đối với công tác xây dựng cơ chế chính sách . - Chính phủ cần ban hành những quy chế nhằm tạo môi trường thuận lợi và đẩy nhanh việc bán cổ phần cho người nước ngoài. Các quy chế phải đảm bảo tạo điều kiện cho nhà đầu tư thuận lợi trong việc đầu tư cũng như tham gia vào điều hành doanh nghiệp. - Đẩy mạnh hoạt động của quỹ hỗ trợ cổ phần hoá theo hướng quỹ sẽ tư vấn kỹ thuật, trợ giúp tài chính cho các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá. Chức năng của quỹ sẽ tập trung vào giải quyết việc làm và trợ cấp tài chính cho số lao động dôi dư, hỗ trợ doanh nghiệp giải quyết những tồn đọng tài chính trước khi cổ phần hoá … Những nguồn vốn có khả năng dùng cho việc thành lập quỹ hỗ trợ là: + Nguồn tiền mặt của doanh nghiệp. + Nguồn tiền thu được từ cổ phần hoá . + Quỹ phúc lợi, khen thưởng. + Nguồn vốn đi vay. + Nguồn tài chính từ các tổ chức hỗ trợ quốc tế. - Cần sớm ban hành những văn bản có tính pháp lý cao như luật, pháp lệnh trong việc cổ phần hoá DNNN. - Hoàn thiện phương pháp định giá doanh nghiệp. Từ trước đến nay việc định giá dựa vào sổ sách kế toán của doanh nghiệp cộng thêm yếu tố thị trường (uy tín, vị thế của doanh nghiệp trên thị trường ...) để dự toán một khung giá. Sau đó các doanh nghiệp đệ trình dự toán này lên cho các cơ quan chức năng để xin ý kiến và chờ phê duyệt. Nếu có một phương pháp mới hợp lý sẽ tránh được thủ tục xét quyệt rườm rà gây ra tình trạng chậm chạp cho việc cổ phần hoá. Phương pháp này cũng là một cách thức để khuyến khích cho những nhà đầu tư. # Một số điểm cần bổ sung sửa đổi trong văn bản CPH: - Về giá trị lợi thế, nên qui định rõ các điều kiện cần và đủ để xét DN có lợi thế hay không, sau đó mới cho tính giá trị lợi thế. - Cần hướng dẫn chi tiết, cụ thể hơn việc định giá trị đối với phần vốn góp liên doanh của DN CPH. - Cần hướng dẫn bổ sung việc định giá trị các tài sản là nhà ở xây bán, có liên quan đến quyền sử dụng đất, tạm gọi là "hàng hóa" thuộc tài sản lưu động, của các Cty phát triển nhà. Ban ĐMQL còn kiến nghị: - Chính phủ có hướng dẫn bổ sung hoặc có qui định rõ về việc xác định giá trị đất đai (có hay không tính giá trị đất đai vào giá trị DN để CPH). - Về rút khoản tiền tăng vốn điều lệ (ngoài khoản hoàn vốn cho ngân sách) của Cty CP gởi kho bạc, đề nghị: Bộ tài chính có hướng dẫn cụ thể việc nộp tiền bán cổ phần vào tài khoản phong tỏa tại kho bạc có nộp khoản tăng vốn điều lệ hay không? Nếu có thì thủ tục rút thế nào? Vì hiện nay, tại các Cty CP có phát hành thêm cổ phần tăng vốn điều lệ, kho bạc yêu cầu phải có xác nhận của cơ quan tài chính về quyết toán chi phí CPH... thì mới giải quyết cho rút khoản này về tài khoản Cty CP. 3. Về công tác tổ chức thực hiện . Cùng với việc khẩn trương đổi mới một số cơ chế chính sách nhất là cơ chế tài chính liên quan đến cổ phần hoá DN nhà nước , chính phủ đã và đang triển khai các biện pháp chủ yếu sau đây : 1. Tổ chức chỉ đạo, quyết định phê duyệt danh sách các DN cổ phần hoá và tập trung chỉ đạo các đơn vị trong diện CPH. Đồng thời hướng dẫn cổ phần hoá cho các Bộ, các địa phương khác nhằm triển khai đồng đều trong cả nước. Đẩy mạnh hoạt động của Quỹ hộ trợ sắp xếp DN nhà nước mà trọng tâm là hỗ trợ sắp xếp việc làm bằng các nguồn vốn trích từ vốn bán cổ phần, vốn hỗ trợ của ngân sách và huy động của nước ngoài. 2. Lựa chọn DN nhà nước và loại hình công ty cổ phần . Cổ phần hoá là chuyển sở hữu nhà nước vào tay cổ đông thuộc các thành phần kinh tế . Quá trình này đụng chạm đến vấn đề mấu chốt trong kinh tế đó là sở hữu. Từ đó đặt ra hai vấn đề : + Chuyển toàn bộ hay chỉ chuyển một bộ phận DN nhà nước thì là bộ phận nào? + Tổ chức công ty cổ phần như thế nào để phát huy được ưu thế của hình thức này, đồng thời nâng cao được hiệu quả sản xuất . Việc lựa chọn DN nhà nước để cổ phần hoá phụ thuộc vào quan niệm cộng với xu hướng về vai trò của DN nhà nước trong sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Quan niệm bắt nguồn từ mục tiêu kinh tế, chính trị được lựa chọn, trình độ phát triển của nền kinh tế, truyền thống và hoàn cảnh lịch sử của mỗi quốc gia khi tiến hành cổ phần hoá . Việc chuyển DN nhà nước thành công ty cổ phần không phải là mục đích tự thân mà xuất phát từ mục tiêu kinh tế, chính trị, xã hội do nhà nước lựa chọn. Tuy nhiên hiện nay, giải pháp chuyển DNNN sang công ty cổ phần ở một số DN trước hết là vì mục tiêu lợi nhuận .Với mục tiêu cổ phần hoá hiện nay , cần chủ trương cổ phần hoá DNNN theo hướng chuyển nhượng một phần quyền sở hữu nhà nước sang các thành phần kinh tế khác.Trường hợp nhà nước ít cần can thiệp đến có thể chuyển sang công ty cổ phần mà trong đó vốn nhà nước ít hoặc thậm chí không tham gia . 3. Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn giỏi về cổ phần hoá . Kinh nghiệm cho thấy muốn kinh tế phát triển năng động có hiệu quả trước hết phải có chiến lược con người. Cần có một đội ngũ các nhà kinh doanh năng lực tốt, đó là những người điều hành các doanh nghiệp có hiệu quả đồng thời luôn nắm bắt đựoc tình hình, các cơ hội mới và xu hướng của nền kinh tế . 4. Nhà nước cần có các chính sách hỗ trợ về tài chính như miễn thuế lợi tức , thuế thu nhập trong thời gian đầu của các DN cổ phần để kích thích các thành phần kinh tế tham gia mua cổ phiếu .Trường hợp những DN không đủ điều kiện hưởng ưu đãi theo quy định của Luật khuyến khích đầu tư trong nước thì được giảm 50% thuế lợi tức (Thuế thu nhập DN) trong 2 năm liên tiếp từ sau khi chuyển sang CPH, theo Luật công ty. Các DN đó được duy trì và phát triển quỹ phúc lợi dưới dạng hiện vật, các chương trình văn hoá, câu lạc bộ , nhà điều dưỡng để đảm bảo phúc lợi cho người lao động trong công ty cổ phần . Những tài sản này thuộc sở hữu tập thể người lao động do công ty cổ phần quản lí với sự tham gia của tổ chức Công đoàn . Thực tế tiến hành cổ phần hoá DN nhà nước cho thấy những ưu tiên trên là hợp lí, là phù hợp với thực tiễn của công tác cổ phần hoá và được sự đồng tình của các DN . 5. Nhà nước cần có sự giúp đỡ đối với cán bộ công nhân viên để có đủ khả năng mua cổ phần ở các DN tiến hành cổ phần hoá , như cho vay tín dụng với lãi suất thấp, thời hạn dài. Tương tự như nhà nước cho nông dân vay vốn để sản xuất. Đây là một kinh nghiệm tốt mà nhiều nước trên thế giới đã thực hiện trong quá trình cổ phần hoá các DN 6. Định giá cổ phiếu và mức độ bán cổ phần, cổ phiếu. Chế độ tài chính thống nhất ghi mẫu in ấn và cung cấp tờ cổ phiếu chậm nhất trong vòng 30 ngày kể từ khi kết thúc thời hạn phát hành của doanh nghệp cổ phần hoá . Các cơ quan tài chính phổ biến hướng dẫn các công ty cổ phần thực hiện . 7. Tạo ra sân chơi bình đẳng giữa DN nhà nước và công ty cổ phần về những điều kiện hoạt động kinh doanh. Bên cạnh đó nhà nước cần phải tạo ra sự bình đẳng giữa các khu vực kinh tế giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài . Đồng thời , cần xoá bỏ chế độ bao cấp cho khu vực kinh tế quốc doanh . 4. Giải pháp trong việc định giá doanh nghiệp để thực hiện CPH. Xác định đúng giá trị thực tế của DN để CPH là một vấn đề hết sức quan trọng và phức tạp.Đó là một trong nhữnh nguyên nhân làm cho tiến độ CPH chậm lại. Điều 11 của nghị định 44/1998/NĐ-CP có nêu một số nguyên tắc để xác định giá trị DN. Về nguyên tắc hướng dẫn như vậy có thể coi là hợp lý, nhưng khi áp dụng vào thực tế mới thấy những khó khăn, phức tạp nảy sinh. Chẳng hạn như thiết bị, nhà xưởng thời bao cấp tính quá rẻ, giá trị đất không tính vào giá trị DN, như vậy hiện nay giá trị còn lại của thiết bị, giá trị thị trường của tài sản… dựa vào căn cứ nào để tính ? Xác định giá trị thực tế của doanh nghiệp dựa vào giá thị trường, giá trị còn lại của tài sản cố định, tài sản lưu động là hiện vật đã được kiểm kê… theo công thức : n G = ồ Gi ´ T i =1 Trong đó G: Tổng giá trị nội tạI của DN. Gi : Giá trị thị trường của từng loại tài sản cụ thể tại thời điểm CPH. i = 1, 2, 3, …, n T : giá trị sử dụng còn lại của tài sản (%). Bên bán DN thường muốn bán trọn gói, bên mua lại cân nhắc nhu cầu sử dụng trong tương lai nên không muốn mua trọn gói. Do đó sẽ có một bộ phận giá trị người mua không chấp nhận.Nhà nước cần ban hành quy chế để bên mua và bên bán thoả thuận được với nhau về vấn đề này . Đối với tài sản bằng tiền thì tính theo số dư bằng tiền đã kiểm quỹ hoặc đã đối chiếu tại thời điểm xác định giá trị DN. Nếu số dư là ngoại tệ thì phải quy đổi sang tiền Việt Nam theo tỷ giá ngân hàng Công thương Việt Nam đã công bố vào thời điểm gần nhất. Đối với các khoản chi phí dở dang (chi phí sản xuất, kinh doanh, chi phí đầu tư xây dựng cơ bản,…) thì tính theo số dư chi phí thực tế trên sổ kế toán. Đối với tài sản ký quỹ, ký cược ngắn hạn và dàI hạn thì tính theo số dư thực tế trên sổ kế toán đã đối chiếu, xác nhận tại thời điểm xác định giá trị DN. Đối với tài sản đầu tư ngắn hạn và dài hạn thì tính vào giád trị doanh nghiệp các khoản mà công ty cổ phần sẽ kế thừa . Đối với DN có lợi thế kinh doanh thì phải tính theo giá trị lợi thế vào giá trị thực của DN như sau : Tỷ suất lợi nhuận Tổng số lợi nhuận thực hiện 3 năm liền kề. bình quân 3 năm = ______________________________________ của D N Tổng số vốn của nhà nước 3 năm liền kề. Tỷ suất Tỷ suất lợi nhuận Tỷ suất lợi nhuận bình quân lợi nhuận = bình quân 3 năm - của ngành tại địa bàn (tỉnh,siêu ngạch của DN,tp ) Giá trị lợi thế nói trên chỉ được tính tối đa 30% vào giá trị thực của DN. Như vậy: Giá trị Vốn nhà nước Tỷ suất lợi lợi thế tính vào = Theo sổ kế toán ´ nhuận siêu ´ 30% giá trị DN 3 năm liền kề ngạch. Vậy xác định thế nào là DN sản xuất kinh doanh có hiệu quả ? DN nào có giá trị lợi thế ? Cách tính giá trị lợi thế đó vào giá trị DN như thế nào ? Để giải quyết các câu hỏi trên, người ta dùng phương pháp đánh giá tổng hợp, tức đánh giá một cách tổng quát toàn bộ giá trị của DN (cả tài sản hữu hình và vô hình, không xác định từng bộ phận). Cơ sở khoa học của phương pháp này dựa trên quan điểm mọi khả năng sinh lợi đều được tính băng tiền và được biểu hiện một cách tổng hợp bằng lợi nhuận hoặc thu nhập. Trên cơ sở đó, để xác định một DN có giá trị lợi thế không nên tính theo hướng dẫn mà phải xét xem tỷ suất lợi nhuận 3 năm liền kề của DN lớn hơn suất nội hoàn (IRR) của xã hội . Trong cơ chế thị trường ,khi quyết định đầu tư người ta thường so sánh lãi suất sẽ nhận được với lãi suất gửi tiết kiệm, tỷ lệ lam phát, tức là : Lãi suát cổ phiếu ³ Lãi suất tiết kiệm + Tỷ lệ lạm phát . Ví dụ : Căn cứ vào tính toán sơ bộ năm 1995, tổng số vốn đầu tư của DNNN là 127.967.000.000 đ ; tổng lợi nhuận là 6 913 000 000 đ , suy ra tỷ suất lợi nhuận DNNN là 5,4 % / năm . Giả sử tỷ lệ lạm phát năm 1999 là 1,6%/ năm và lãI suất gửi tiết kiệm là 0,6%/ tháng (kỳ hạn 12 tháng) và cả năm : 0,6 % ´ 12 =7,2 %. Vậy lãi suất cổ phiếu sẽ là : Lãi suất cổ phiếu ³ 7,2% + 5,4%+ 1,6% = 14,2 %. Nếu DNNN nào có tỷ suất lợi nhuận > 14,2% (chưa kể thiệt hại do rủi ro ) vậy giá trị lợi thế tính vào DN sẽ là : Tỷ suất lợi nhuận Tỷ suất lợi nhuận siêu ngạch = bình quân 3 năm - 14,2% liền kề Giá trị lợi Vốn nhà nước theo Tỷ suất lợi thế tính vào = sổ sách kế toán bình quân ´ nhuận siêu ´ 30% giá trị DN 3 năm liền kề ngạch Nếu đã công nhận DN có giá trị lợi thế khi có tỷ suất lợi nhận bình quân 3 năm liền kề lớn hơn 14,2 % thì phải có những DN “ bất lợi thế ”. Giả định rằng DN này CPH khi đã có thị trường chứng khoán thì chắc chắn rằng giá cổ phiếu sẽ nhỏ hơn mệnh giá của nó. Như vậy nếu xác định giá trị DN như hiện nay thì sẽ không thu hút được cổ đông. Đối với những DN có tỷ suất lợi nhuận < 14,2% phải tính toán, xác định lại giá trị DN theo hướng : Căn cứ vào vốn nhà nước theo sổ sách kế toán trừ đi giá trị “bất lợi thế” sao cho bảo đảm khoản lợi nhuận thu được của cổ phiếu sau 1 năm đạt hơn 14,2%. Giá trị DN được tính như sau : Vốn nhà nước Tỷ suất lợi nhuận theo sổ sách kế toán ´ 3 năm liền kề của DN Giá trị DN = _________________________ cổ phần hoá 14,2 % Ví dụ : DN có tỷ suất lợi nhuận là 12 %, vốn nhà nước theo sổ sách kế toán là 100 000 000 đ ta có : Giá trị DN cổ phần hoá = (100 000 000 ´ 12 ) / (14,2 ) = 84 507 000 đ Theo cách tính này các DN “ bất lợi thế” khi cổ phần hoá nhà nước sẽ bị giảm vốn. Vậy chúng ta có thể chọn phương án khác như : giải thể, bán , cho thuê, sát nhập…. 5 . Giải pháp đối với người lao động . Đây là vấn đề do lịch sử để lại nên thường trong DNNN số lao động tương đối nhiều so với số lao động mà hiện nay doanh nghiệp thực tế cần sử dụng. Theo chúng tôi, số lao động dư ít nhất là 1/3, có nơi dư tới 1/2 số lao động hiện có. Có xử lý lao động dư thì mới lành mạnh hoá được DN, nâng cao được sức cạnh tranh của họ. Cho nên dù chưa tiến hành cổ phần hoá cũng phải xử lý lao động dư thì DNNN mới có sức cạnh tranh. Chi phí tiền lương lớn quá thì DN không thể cạnh tranh được. Nếu chuyển DNNN thành công ty cổ phần, công ty TNHH hoặc giao cho tập thể lao động thì nhất định lao động sẽ dôi dư nhiều hơn, cho nên việc đầu tiên phải làm là xử lý lao động dôi dư. Trước hết là doanh nghiệp tự sắp xếp. Khi DN tổ chức lại thì bản thân doanh nghiệp phải biết là cần sử dụng ai vào việc gì, nhu cầu là bao nhiêu. Doanh nghiệp phải làm phương án, lập kế hoạch sử dụng lao động đồng thời đề xuất số lao động nào hiện tại không phù hợp với lao động sản xuất kinh doanh cần được xử lý. Có nhiều biện pháp. Thứ nhất là đào tạo lại và bố trí việc làm mới cho họ, đây là biện pháp tích cực nhất để bảo đảm có công việc mới người lao động sống ổn định, có thu nhập ổn định như những người lao động đang làm trong doanh nghiệp. Thứ hai, nếu không giữ lại được để bố trí việc làm mới thì ít ra cũng phải tạo điều kiện cho người ta ra ngoài sinh sống được để không vì sắp xếp lại doanh nghiệp, không vì cổ phần hoá doanh nghiệp mà làm mất ổn định xã hội, làm mất việc làm của người lao động. Trong số dôi dư người ta sẽ phân loại lao động trẻ, còn khả năng tiếp thu, DN sẽ có kế hoạch đào tạo lại để bố trí việc làm mới cho họ. Còn những lao động đã cao tuổi và sức khoẻ không cho phép có thể giải quyết chính sách cho nghỉ sớm trước năm. Theo tôi có thể giải quyết nâng lương như Trung Quốc để tạo điều kiện người nghỉ trước chế độ vẫn bảo đảm thu nhập cần thiết . Đối với vấn đề thực hiện ưu đãi cho người lao động trong DN cổ phần hoá, thông thường các DN cổ phần hoá sẽ tự thực hiện. Vậy Quỹ hỗ trợ CPH có tác dụng như thế nào ? Tại NĐ 44 của Chính phủ ngày 29/6/1998 đã quy định mức ưu đãi cho người lao động trong DNNN cổ phần hoá, người lao động đang làm việc trong DNNN CPH mỗi năm làm việc được mua tối đa 10 cổ phần theo giá ưu đãi, là giá được giảm 30% so với các đối tượng khác. Nhà nước đã cho phép dành ra 20% vốn Nhà nước để làm việc này. Đó là theo quy định hiện hành. Do mức đầu tư vốn của Nhà nước vào DN và số lượng lao động ở các DN khác nhau nên khi áp dụng NĐ 44 thực tế có sự chênh lệch khá lớn về mức ưu đãi cho người lao động. Có những doanh nghiệp ít lao động, nhất là ngành thương mại, ngành công nghiệp sản xuất bằng cơ khí hoá, tự động hoá thì lao động rất ít nhưng vốn Nhà nước nhiều cho nên 20% này sử dụng không hết để chi cho người lao động mỗi 1 năm 10 cổ phần ưu đãi. Ngược lại có nhiều DN mới thành lập sau này hoặc là những DN có nhiều lao động thủ công nhưng vốn Nhà nước rất ít. Cho nên có nơi chỉ được 3- 4 % ưu đãi, tạo ra tình trạng chênh lệch : cùng làm việc Nhà nước, nhưng người ở DN này được 10 cổ phần, người ở DN khác được 3-4 cổ phần, không bình đẳng. Để tạo ra sự công bằng, theo đó mỗi người đều được hưởng số cổ phần ngang nhau tính trên số năm công tác thì cần phải có sự điều hoà vốn từ xí nghiệp thừa sử dụng không hết sang cho những xí nghiệp thiếu. Biện pháp đào tạo lại để bố trí việc làm mới cho người lao động sẽ diễn ra theo hướng nào? Để bố trí việc làm mới theo tôi chắc chắn Bộ lao động sẽ có các hướng dẫn cụ thể thêm. Nhưng theo kinh nghiệm các nước thì xây dựng trung tâm bồi dưỡng xử lý việc làm. Trung tâm này nắm được ở đâu cần lao động, cần lao động loại gì họ có nhiệm vụ giới thiệu để đào tạo. DN phải nộp khoản phí cho trung tâm để trung tâm cung cấp cho các đối tượng cần thiết. Tôi nghĩ rằng công việc đào tạo nghề, tạo việc làm mới sẽ rất phong phú, tùy theo yêu cầu và tình hình cụ thể của doanh nghiệp, tùy theo yêu cầu thị trường mà DN có cách vận dụng các hình thức khác nhau. 6. Về chính sách hỗ trợ tài chính đối với DN được cổ phần hoá . Căn cứ NĐ 44/1998/ND.CP thì sau khi cổ phần hóa được hưởng hai nội dung ưu đãi : thứ nhất là miễn lệ phí trước bạ khi chuyển từ DNNN sang công ty cổ phần ; thứ hai là giảm 50% thuế lợi tức 2 năm liên tiếp kể từ sau khi chuyển sang hoạt động theo luật công ty. Tuy nhiên nhà nước nên có những chính sách thực sự ưu đãI hơn cho các DN cổ phần hoá như : Giảm mức thuế suất thu nhập công ty cổ phần thấp hơn các loạI hình các DN khác ( như nhiều nước khác đã làm) Miễn thuế thu nhập cho phần lợi nhuận dùng đẻ táI đầu tư. Khi xác định giá trị DN để CPH nên theo giá “thuận mua vừa bán”,không nên quá nặng nề về bên nào. Không nên hạn chế số lượng CP bán ra cho công nhân viên chức(trừ giới lãnh đạo DN) và cho các nhà đầu tư nước ngoài . Số tiền thu được khi bán CP nên ưu tiên đầu tư lạI cho DN cổ phần hoá 0(để giảI quyết chế độ cho số lao động dôI dư,đào tạo lạI công nhân viên, đầu tư đổi mới công nghệ …) Việc thực hiện CPH một bộ phận DNNN cần được thực hiện trên cơ sở luật pháp, công khai; cung cấp thông tin rộng rãI nhằm khơI sự ham muốn đầu tư của cán bộ công nhân viên DN và các doanh nhân bên ngoài . Đồng thời phải giải quyết thoả đáng lợi ích của các bên tham gia. 7. CPH nhắm tới Thị Trường Chứng Khoán. Làm sao cho thực tế và hiệu quả? Trước hết khi CPH chuẩn bị cho TTCK, doanh nghiệp cần phải hiểu rõ rằng đây không chỉ là một biện pháp kỹ thuật nhằm thay đổi DN mà nhằm xây dựng chiến lược chung cho họ, trong đó có các chiến lược về kinh doanh, tài chính và dự báo giá cổ phiếu sẽ niêm yết và phát hành sau này trên TTCK. Thứ hai, DN cũng cần phải tổ chức lại sao cho hội đủ những tiêu chuẩn để có thể tham gia thị trường chứng khoán. Đó là phải đáp ứng yêu cầu vốn điều lệ tối thiểu ban đầu, phải có đội ngũ quản lý tốt, có nhiều thành tích trong quản lý kinh doanh. Về lợi nhuận, DN phải là công ty làm ăn có lãi với lợi nhuận không dưới mức quy định. Phải có tính liên tục trong hoạt động như có đủ số năm theo quy định. DN phải có dự án khả thi trong việc huy động vốn. Thứ ba là DN phải kết hợp phương pháp định giá tài sản theo kế toán là phương pháp thông thường hiện nay với phương pháp tính đến việc sinh lời của đồng vốn (PE), đó là tính toán khi cứ bỏ ra một đồng đầu tư thì sinh lời bao nhiêu. Phương pháp này ở VN đã từng được áp dụng.Việc xác định giá trị của sản nghiệp sẽ giúp cho ta biết được khả năng sinh lời của công ty. Khi phát hành cổ phần, thông thường ta đưa ra một giá trị tài sản cố định và công bố phát hành bao nhiêu cổ phiếu trên số giá trị vốn này. Nhưng có thể có người đăng ký và mua nhiều hơn, cũng có khi ít hơn số mà DN đề ra. Chính mức nhiều hơn hay ít hơn này là cách mà thị trường định giá giá trị DN bởi khả năng sinh lời của DN. Thứ tư, khi DN cổ phần hóa gắn với việc có TTCK thì phải chú tâm vào khâu phát hành hơn, phải tính toán kỹ hơn đến chiến lược kinh doanh và như vâỵ, đòi hỏi DN phải cố gắng cao hơn. Theo Uỷ ban chứng khoán nhà nước (UBCKNN), khi các doanh nghiệp muốn phát hành chứng khoán ra công chúng, cần phải có sự so sánh và chọn lựa cần thiết trước khi quyết định phát hành. Việc phát hành chứng khoán ra công chúng có những điểm lợi như có khả năng thu hút vốn lớn, cơ cấu tổ chức, trình độ quản lý và khả năng lập báo cáo của DN cũng sẽ tốt hơn, đồng thời tăng khả năng hấp dẫn công ty nước ngoài và dễ dàng cho việc vay vốn ngân hàng và phát hành trái phiếu trên thị trường. Nhưng cũng có những điểm bất lợi như DN phải tuân thủ chế độ kiểm tra, giám sát, chế độ báo cáo chặt chẽ hơn, đòi hỏi trình độ quản lý cao hơn. Chi phí phát hành và niêm yết tốn kém (thường chiếm khoảng từ 8-10% vốn lưu động).Tuy nhiên, hầu hết các doanh nghiệp trên thế giới đều có xu hướng phát hành chứng khoán ra công chúng vì chỉ bằng con đường này mới có thể mở rộng và phát triển sản xuất, tăng khả năng cạnh tranh quốc tế. UBCK NN cũng khuyên rằng để có thể phát hành chứng khoán ra công chúng, các DN Việt Nam hiện nay cần phải cơ cấu lại hoạt động sản xuất kinh doanh, xử lý tốt vấn đề nợ để tạo ra một bảng tổng kết tài sản không quá yếu kém. Nâng cao trình độ đào tạo đội ngũ quản lý và quản trị doanh nghiệp. Nâng cao kiến thức về thị trường chứng khoán nói chung cũng như các thủ tục phát hành và niêm yết chứng khoán. Tích cực chuẩn bị các điều kiện để cổ phần hóa. Hiện nay, nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã nhận thức được vấn đề này khi cổ phần hóa. Tại Công ty giao nhận kho vận ngoại thương Tp.HCM, khi cổ phần hóa, công ty đã nhờ UBCKNN giới thiệu cho một doanh nghiệp nước ngoài mua cổ phần với phần trăm cổ phần khá cao trong mức được phép. DN này là một công ty rất có kinh nghiệm trong lĩnh vực chứng khoán của Mỹ. Việc bán cổ phần cho DN này theo Công ty giao nhận kho vận ngoại thương Tp.HCM là nhằm giúp cho việc niêm yết và phát hành cổ phiếu trên TTCK của công ty sau này sẽ dễ dàng hơn. Nếu không tham gia vào TTCK thì việc doanh nghiệp tự bán cổ phần vẫn gặp nhiều khó khăn. Chưa tính được tác động của cổ phần hóa vào thị trường vốn trung và dài hạn của nền kinh tế một cách cụ thể.Và nhất là thiếu TTCK, các doanh nghiệp CPH khó lòng xác định được rõ ràng qua thước đo của thị trường về giá trị của chính họ, trong khi đây lại là một yếu tố quan trọng nhất cho sự phát triển của DN. 8. Bán đấu giá DNNN - Phương thức mới tiến hành CPH . Dự kiến đầu tháng 6/2000, Hải Phòng sẽ tiến hành bán đấu giá thí điểm DNNN đầu tiên. Phương pháp bán đấu giá khi cổ phần hoá (CPH) và đa dạng hoá sở hữu DNNN đảm bảo tính công bằng, minh bạch và nhanh chóng. Phương pháp này còn khắc phục những phức tạp trong quá trình định giá để chuyển đổi sở hữu tài sản thuộc sở hữu Nhà nước vì giá trị tài sản được thông qua bán đấu giá. Đây cũng là một nội dung chính của Dự án thí điểm CPH DNNN Hải Phòng. Ban đổi mới quản lý DN Hải Phòng phối hợp với Dự án thí điểm CPH Hải Phòng vừa tổ chức tập huấn khảo sát 25 DNNN Hải Phòng để thực hiện chủ trương giao, khoán, bán, cho thuê theo NĐ 103/NĐ-CP và thí điểm bán đấu giá một số DNNN trong khuôn khổ Dự án thí điểm CPH DNNN tại Hải Phòng. Danh sách 25 DNNN được nêu ra trong QĐ số 383 của Chủ tịch UBND TP Trần Huy Năng. Đây là các DN nằm trong kế hoạch sau khi Chủ tịch UBND thành phố có cuộc họp nghe Thường trực Ban đổi mới DN TP báo cáo về tình hình và kết quả công tác sắp xếp, CPH và kế hoạch triển khai NĐ 103 về giao, bán, khoán, cho thuê DNNN, Chủ tịch UBND TP đã kết luận cần tiến hành khảo sát ngay từ 20-25 DNNN để thực hiện phương án bán DNNN theo NĐ 103. Sẽ CPH khoảng 60 DNNN Theo TS Phạm Vũ Câu, Phó trưởng ban Ban đổi mới quản lý DNTP, Giám đốc Dự án thí điểm CPH DNNN Hải Phòng, đợt khảo sát này để truyền thông những chủ trương, chính sách của Nhà nước về công tác sắp xếp, CPH, những kết quả đã đạt được của một số DN đã thực hiện CPH và đa dạng hoá sở hữu, phương hướng nhiệm vụ và nội dung công việc sẽ thực hiện trong thời gian tới, nhằm giúp các DN thực sự yên tâm khi thực hiện chuyển đổi sở hữu. Đây cũng là một trong những biện pháp nhằm đẩy nhanh tiến độ thực hiện phương án sắp xếp DNNN Hải Phòng. Dự án thí điểm cổ phần hoá DNNN Hải Phòng do UBND TP thực hiện với sự trợ giúp kỹ thuật của Công ty tài chính quốc tế-IFC- thuộc nhóm WB được Thủ tướng Chính phủ chính thức thông qua ngày 5/8/1999 và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 21/10/1999. Nguồn tài chính thực thi Dự án được hỗ trợ bởi khoản viện trợ không hoàn lại của Chính phủ Australia thông qua Cơ quan phát triển quốc tế Australia -AusAID-với tổng trị giá 730.000 USD. Chương trình nhằm cổ phần hoá khoảng 60 DNNN ở Hải Phòng, trong đó tập trung vào các DN nhỏ và vừa ở Hải Phòng, với số vốn đầu tư từ 70.000 USD đến 200.000 USD, có quy mô khoảng 100 công nhân trở xuống. Các DN này chủ yếu là các DN hoạt động trong các lĩnh vực thương mại, dịch vụ, cơ khí nhỏ, chế biến thực phẩm, xây dựng và thuỷ hải sản...Dự án đề ra mục tiêu tiến hành cổ phần hoá khoảng 60 DNNN ở Hải Phòng. Điểm đáng chú ý là trong số các DNNN này, sẽ tiến hành bán đấu giá một số DN đáp ứng đủ các yêu cầu. Mục tiêu: thí điểm để có thể nhân rộng ra cả nước Mục tiêu của Dự án là xây dựng một phương pháp bán đấu giá khi cổ phần hoá và đa dạng hoá sở hữu DNNN để thúc đẩy chương trình chuyển đổi sở hữu DNNN ở Hải Phòng. Tham vọng của Dự án là sau thành công ở Hải Phòng sẽ tìm cách nhân rộng ra cả nước. Một cán bộ của Dự án cho biết, dự án đã gây được chú ý đối với các tỉnh, thành phố có điều kiện tương tự và mong muốn thực hiện các phương thức như của Dự án Hải Phòng. Và mới đây, một dự án tương tự như dự án Hải Phòng đã được Uỷ ban nhân dân tỉnh Đắc Lắc thoả thuận với IFC để tiến hành ở địa phương này. Dự án Đắc Lắc dự kiến có sự trợ giúp về kinh phí của Chính phủ Đan Mạch, thông qua Cơ quan phát triển quốc tế Đan Mạch- DANIDA. Ngoài ra, Dự án Hải Phòng cũng đưa một mục tiêu là thông qua chương trình Hải Phòng, thiết lập một hệ thống đấu giá làm thí điểm trong tiến trình thực thi việc chuyển đổi sở hữu của các DNNN ở Việt Nam. Dự án đưa ra 5 nhiệm vụ chính. Thứ nhất là lập một danh sách các DNNN sẽ thực hiện cổ phần hoá và chuyển đổi sở hữu; hai là đưa ra các cơ chế và trình tự tiến hành CPH thông qua đấu thầu công khai; ba là nâng cao năng lực cán bộ Nhà nước tham gia vào tiến trình CPH và đa dạng hoá DNNN; bốn là đào tạo kỹ năng quản trị DN cho các cán bộ quản lý DN thuộc diện Dự án thí điểm CPH và cuối cùng là tiến hành các chiến dịch truyền thông và quảng bá công chúng về CPH, đa dạng hoá DNNN, chuyển đổi sở hữu DNNN nói chung. Bán đấu giá minh bạch, công khai và nhanh chóng Các chuyên gia của Dự án khẳng định, tuy phương thức bán đấu giá là mới mẻ ở Việt Nam nhưng đã được áp dụng rộng rãi trong chương trình tư nhân hoá ở các nước Trung và Đông Âu. Theo các cán bộ dự án, phương thức này giúp giảm bớt quy trình đánh giá tài sản Nhà nước tại DN hiện đang được coi là quá cồng kềnh, phức tạp. Thay vì cách xác định giá trị DN như hiện nay, sẽ tiến hành phương thức bỏ thầu đấu giá. Do vậy, dự đoán rằng phương thức đấu thầu sẽ tăng tính minh bạch, công khai và nhanh chóng trong khâu đánh giá giá trị DN và chuyển đổi sở hữu DN. Mặt khác, đồng thời phương thức này được xem là giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế, tạo điều kiện cho những người lao động và những đối tượng khác dễ dàng có được quyền sở hữu trong các DN CPH, qua đó huy động được các nguồn đầu tư trong và ngoài nước. 9. Những biện pháp tăng tốc. Theo lộ trình sắp xếp, đổi mới DNNN trong giai đoạn 2000- 2003, dự kiến sẽ tiến hành CPH và đa dạng hóa sở hữu 1.498 DNNN (chiếm 65,3% tổng số DNNN thuộc diện sắp xếp trong thời kỳ này); trong đó riêng CPH trong các năm 2001,2002 có kế hoạch là 719 doanh nghiệp, chia ra cho các năm: 2001 (345 DN), và 2002 (374 DN). Trong chính sách CPH, theo dự kiến các giải pháp sẽ là : Bỏ qui định hạn chế mức mua cổ phần lần đầu, và mức mua cổ phần ưu đãi của cán bộ lãnh đạo doanh nghiệp không quá mức bình quân của các cổ đông trong và ngoài doanh nghiệp, để khuyến khích huy động vốn và vai trò tích cực của giám đốc doanh nghiệp. Nâng tỷ lệ giá trị cổ phần được mua với giá ưu đãi ở những DNNN có vốn Nhà nước nhỏ, để thu hẹp chênh lệch phần được mua ưu đãi giữa các doanh nghiệp có nhiều vốn Nhà nước và doanh nghiệp có ít vốn Nhà nước. Nâng tỷ lệ giá trị ưu đãi cho người lao động trong các DNNN có vốn tự tích lũy trên 40% khi thực hiện CPH từ 30% hiện nay lên 50% của giá trị phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp. Trường hợp xác định được nguồn vốn tự tích lũy được tạo thành do doanh nghiệp tự vay đã trả xong, thì tỷ lệ này là 70%. Khẩn trương hướng dẫn sử dụng Qũy hỗ trợ sắp xếp và CPH DNNN, sử dụng tiền bán cổ phần, và lợi tức cổ phần của phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp CPH. Về định giá trị doanh nghiệp, trong tương lai, sẽ thay bằng phương pháp đấu giá; còn trước mắt sẽ điều chỉnh cơ chế hiện hành, cụ thể, với DNNN có vốn Nhà nước trên sổ sách kế toán dưới 10 tỷ đồng, hoặc có vốn Nhà nước nhỏ hơn 30% so với số ghi trong sổ sách kế toán thì giao cho bộ trưởng, chủ tịch UBND tỉnh, HĐQT Tcty 91 chịu trách nhiệm quyết định toàn bộ về giá trị doanh nghiệp. 10. Một số nhận định khác : 1. Về chính sách ưu đãi cho người lao động tại các DNNN cổ phần hóa: a- Đề nghị xem xét điều chỉnh cho phù hợp hơn, trong việc bán cổ phần giá ưu đãi cho thành phần lãnh đạo, quản lý nghiệp vụ và người thân thuộc của họ cùng làm việc tại DN, nhằm đảm bảo công bằng cho người lao động (không phân biệt lãnh đạo hay lao động bình thường) trong DN có thời gian thâm niên như nhau thì phần ưu đãi phải như nhau. Đề nghị mở rộng chính sách cho phép lãnh đạo và cán bộ quản lý DN CPH được mua cổ phần như các cổ đông khác, nếu họ có khả năng tài chính có thể mua cao hơn để tạo niềm tin cho tập thể lao động trong DN và các cổ đông ngoài DN mua nhiều và nhanh cổ phần bán ra của DN. Ngoài chính sách ưu đãi cho người lao động tại các DNNN khi CPH, tiếp tục nghiên cứu bổ sung chính sách tương tự đối với lực lượng lao động tăng giảm tại DN sau khi CPH (lúc DN đã là Cty CP). b- Đề nghị Nhà nước bổ sung chính sách ưu đãi đối với người lao động trong một số DNNN không có tích lũy được qũy phúc lợi khen thưởng để phân phối cho công nhân mua cổ phần, cụ thể: đối với DNNN không có số dư qũi phúc lợi khen thưởng hoặc có nhưng qúa ít, đề nghị cho công nhân mua chịu trả chậm thêm một số cổ phần theo giá ưu đãi (ngoài danh mục công nhân nghèo được mua trả chậm). 2- Về người quản lý phần vốn Nhà nước trong Cty CP. DNNN cổ phần hóa ngày càng nhiều, nhưng cho đến nay chưa có qui định cụ thể nào về: tiêu chuẩn trình độ năng lực; nhiệm vụ; trách nhiệm; quyền lợi của người được cử đại diện vốn Nhà nước tại Cty CP của DNNN CPH. Người này được chọn từ cơ quan nào và có thể giao đại diện vốn Nhà nước cho bao nhiêu Cty CP có vốn Nhà nước. 3- Về bán CP cho các cá nhân và pháp nhân trong nước: Mức khống chế mua cổ phần lần đầu hiện nay là: 5% cá nhân, 10% pháp nhân đối với loại NN giữ cổ phần chi phối, đặc biệt; 10% cá nhân, 20% pháp nhân đối với loại NN không giữ cổ phần chi phối. Đề nghị, sửa đổi như sau: ai có khả năng tài chính thì cho mua không nên khống chế; nếu Nhà nước xét thấy ngành nào cần phải giữ và chi phối đặc biệt 75% để đảm bảo an ninh kinh tế, quốc kế dân sinh thì Nhà nước giữ lại 51% vốn điều lệ. 4- Về bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài: a - Khoản 1 điều 3 Nghị định 44/1998/NĐ-CP quy định: "Người Việt định cư ở nước ngoài và người nước ngoài định cư ở VN đều có quyền mua CP ở các DNNN CPH", và khoản 2, điều 3 này cũng ghi: "Việc bán CP cho các tổ chức, cá nhân nước ngoài thực hiện theo qui định của Thủ tướng Chính phủ". Nhưng khi hướng dẫn Quyết định 145/1999/QĐ/TTg ngày 28/6/1999 của Thủ tướng Chính phủ về ban hành qui chế bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài, Bộ tài chính đã đưa chung cả hai loại đối tượng này vào Thông tư 132/1999/TT-BTC ngày 15/11/1999, gây không ít thắc mắc về mức mua khống chế và những khó khăn thủ tục cho các đối tượng ghi ở khoản 1 điều 3 nói trên. b - Đề nghị Trung ương hướng dẫn và giải thích một số điểm sau: + Trường hợp DN CPH mà Nhà nước vẫn tiếp tục giữ vốn Nhà nước trong Cty CP (không phải cổ phần chi phối), khi chỉ có một nhà đầu tư nước ngoài đăng ký mua cổ phần của Cty, thì nhà đầu tư đó cũng được mua tối đa 30% vốn điều lệ; trong khi cá nhân và pháp nhân trong nước chỉ được mua tối đa 10-20%. +Theo Thông tư 132/1999/TT-BTC ngày 15/11/1999 của Bộ tài chính: "Kết quả xác định giá trị DN do cơ quan tài chính công bố"; vậy trong trường hợp này do cơ quan tài chính địa phương công bố hay trình Bộ tài chính quyết định? Như vậy có khác gì thủ tục công bố giá trị DNNN CPH? Tài Liệu Tham Khảo Uỷ ban chứng khoán nhà nước Thời báo kinh tế Việt Nam , số 32 Diễn đàn DN số 15 – 17. Công báo Chính phủ 7/1998 Tạp chí CN số 14 , 8/1999 Ban đổi mới quản lí DN trung ương Tìm hiểu luật kinh tế , NXB Thống kê 11/1995 Thời báo kinh tế Việt Nam 7/1998 - 6/2001 www.vir.com.vn(chứng khoán)

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35399.doc
Tài liệu liên quan