Đề tài Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh ở công ty xây lắp 524

Yêu cầu đặt ra đối với việc dự trữ hàng hoá là phải đảm bảo toàn vẹn giá trị sử dụng của hàng hoá, không để hàng hoá bị giảm chất lượng. Nếu yêu cầu này không được thực hiện tốt sẽ làm ảnh hưởng đến chất lượng hàng hoá bán ra, làm giảm uy tín của doanh nghiệp. Đồng thời, doanh nghiệp cũng phải tìm cách tối thiểu hoá chi phí hao hụt bảo quản để tránh chi phí lưu thông. Thực tế kinh doanh trên thị trường, giá cả không ổn định, các doanh nghiệp phải dự đoán đươc hướng tăng giảm của nhu cầu thị trường, đồng thời phải tiên lượng biến động của giá cả trong thời gian tới với từng loại mặt hàng để có kế hoạch phù hợp và không bỏ lỡ thời cơ.

doc34 trang | Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 846 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh ở công ty xây lắp 524, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Kể từ sau đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay, nến kinh tế nước ta đã chuyển dần từ kinh tế tập chung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước theo định hướng XHCN. Chính điều đó đã tạo ra động lực mạnh mẽ, tạo đà cho nền kinh tế của đất nước bước sang một thời kì mới: thời kì phát triển và hội nhập với sự phát triển của thế giới và khu vực. Nền kinh tế Việt nam đã có những bước tăng trưởng và phát triển vượt bậc, lạm phát bị đẩy lùi, đời sống nhân dân được nâng cao và cải thiện rõ rệt, tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp trong nước. Cùng với chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài và đường lối “Việt nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển” đã giúp Việt nam trở thành một địểm hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Chính điều đó đã làm cho nhu cầu về đầu tư XDCB tăng lên mạnh mẽ, tạo ra nhiều cơ hội và thách thức mới cho các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp xây dựng nói riêng. Sự tăng lên nhanh chóng về số lượng cũng như quy mô các doanh nghiệp trong ngành xây dựng đã làm cho mức độ cạnh tranh găy gắt trong ngành này càng tăng cao. Vì vậy, một vấn đề được đặt ra cho các doanh nghiệp trong ngành là làm thế nào để tồn tại và phát triển được là một câu hỏi khó. Do nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên, tôi đã chọn đề tài: “Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh ở Công ty xây lắp 524”. Mục đích của đề tài là: Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng của Công ty xây lắp 524 trong 5 năm gần đây để đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty trong thời gian tới. Nội dung của đề tài ngoài Lời mở đầu và kết luận bao gồm 3 chương: Chương I: Hiệu quả kinh doanh - vấn đề sống còn của mỗi doanh nghiệp. Chương II: Phân tích thực trạng hiệu quả kinh doanh của Công ty xây lắp 524. Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh ở Công ty xây lắp 524. Chương I hiệu quả kinh doanh vấn đề sống còn của mỗi doanh nghiệp I. những vấn đề chung về hiệu quả kinh doanh. 1. Một số quan điểm về hiệu quả kinh doanh. Ngày nay, khi đề cập đến vấn đề hiệu quả, người ta vẫn chưa có được một khái niệm thống nhất. Bởi vì, ở mỗi lĩnh vực hay giác độ khác nhau, người ta lại có những khái niệm khác nhau về hiệu quả. Và thông thường, khi nói đến hiệu quả của một lĩnh vực nào đó thì người ta gắn ngay tên của lĩnh vực đó liền ngay sau hiệu quả. Theo nghĩa tổng quát, hiệu quả kinh tế là phạm trù phản ánh trình độ và năng lực quản lí, đảm bảo thực hiện có kết quả cao những nhiệm vụ kinh tế -xã hội đặt ra với chi phí nhỏ nhất. Để hiểu rõ hơn về vấn đề hiệu quả, chúng ta sẽ xem xét nó ở hai tầm vĩ mô và vi mô. a. Hiệu quả xét ở tầm vĩ mô. ở tầm vĩ mô, người ta phân ra làm ba lĩnh vực cơ bản: kinh tế, chính trị và xã hội. Tương ứng với ba lĩnh vực này là ba phạm trù hiệu quả: hiệu quả kinh tế, hiệu quả chính trị và hiệu quả xã hội. ở tầm vĩ mô này, chỉ tiêu hiệu quả phản ánh đồng thời cả hai mặt định tính và định lượng. Hai mặt này có quan hệ mặt thiết với nhau như một thực thể thống nhất. Về mặt định lượng: hiệu quả của việc thực hiện mỗi nhiệm vụ kinh tế -xã hội biểu hiện ở mối tương quan giữa kết quả thu được và chi phí bỏ ra. Nếu xét về tổng lượng, người ta chỉ thu được hiệu quả khi nào kết quả lớn hơn chi phí bỏ ra, chênh lệch này càng lớn thì hiệu quả càng cao và ngược lại. Về mặt định tính: mức độ hiệu quả cao thu được phản ánh sự cố gắng, nỗ lực, trình độ quản lí của mỗi khâu, mỗi cấp trong hệ thống kinh tế và sự gắn bó của việc giải quyết những yêu cầu và mục tiêu kinh tế với những yêu cầu và mục tiêu chính trị - xã hội. Hai mặt định tính và định lượng của phạm trù hiệu quả có quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong những biểu hiện về định lượng phải nhằm đạt được những mục tiêu chính trị - xã hội nhất định. Ngược lại, việc quản lí kinh tế dù ở giai đoạn nào cũng không chấp nhận việc thực hiện những yêu cầu, mục tiêu chính trị - xã hội với bất kì giá nào. b.Hiệu quả xét ở tầm vi mô. Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế tham gia các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm cung cấp sản phẩm hoặc dịch vụ thoả mãn nhu cầu của thị trường và thu về cho mình một khoản lợi nhuận nhất định. Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp là hoạt động đưa ra những sản phẩm hay dịch vụ để bán, nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường và xã hội, được thực hiện với chi phí nhỏ nhất sao cho sản phẩm làm ra có thể tiêu thụ được với giá cả mà thị trường có thể chấp nhận, bảo đảm thu nhập bù đắp được chi phí và có lợi nhuận. Như vậy, kinh doanh là một quá trình bao gồm từ khâu nghiên cứu khảo sát nhu cầu thị trường để quyết định sản xuất, tổ chức quá trình sản xuất ra hàng hoá đáp ứng được nhu cầu thị trường, đồng thời tiến hành việc tiêu thụ những hàng hoá đó nhằm thu được nhiều lợi nhuận. Khi đề cập đến vấn đề hiệu quả thì ta có thể đứng trên các khía cạnh khác nhau để xem xét. Nếu hiểu theo mục đích cuối cùng thì hiệu quả kinh tế là hiệu số giữa kết quả thu về và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Trên khía cạnh này mà xem xết thì phạm trù hiệu quả có thể đồng nhất với phạm trù lợi nhuận. Hiệu quả kinh doanh cao hay thấp tuỳ thuộc vào trình độ tổ chức sản xuất và tổ chức trong từng doanh nghiệp. Nếu xem xết ở khía cạnh từng yếu tố riêng lẻ thì hiệu quả là sự thể hiện trình độ và khả năng sử dụng các yếu tố trong quá trình sản xuất và kinh doanh. 2. Khái niệm hiệu quả kinh doanh. a. Một số khái niệm hiệu quả kinh doanh thường được dùng. * Hiệu quả kinh doanh là mức độ hữu ích của sản phẩm sản xuất ra (tức là giá trị sử dụng của nó). Quan điểm này đã lẫn lộn và không phân biệt được giữa hiệu quả kinh doanh và mục tiêu kinh doanh. * Hiệu quả kinh doanh là sự tăng trưởng kinh tế phản ánh nhịp độ tăng của các chỉ tiêu kinh tế. Quan điểm này phiến diện, chỉ đứng trên góc độ biến động của thời gian để xem xét. * Hiệu quả kinh doanh là mức độ tiết kiệm chi phí và mức tăng trưởng. Đây là biểu hiện bản chất chứ không phải là khái niệm về hiệu quả kinh doanh. * Hiệu quả kinh doanh là chỉ tiêu được xác định bằng tỉ lệ so sánh giữa kết quả và chi phí. Đây là cách xác định chứ không phải là khái niệm về hiệu quả kinh doanh. * Hiệu quả kinh doanh là mức tăng của kết quả sản xuất kinh doanh trên mỗi lao động hay mức doanh lợi của vốn kinh doanh. Quan điểm này muốn quy tụ hiệu quả kinh doanh về một chỉ tiêu tổng hợp cụ thể nào đó. ................................................ Như vậy, có rất nhiều khái niệm về hiệu quả kinh doanh cùng tồn tại tuỳ theo từng góc độ hiểu. Tổng hợp tất cả các khái niệm trên sẽ cho ta một khái niệm tổng quát về hiệu quả kinh doanh. b. Khái niệm tổng quát về hiệu quả kinh doanh. Hiệu quả kinh doanh là phạm trù kinh tế biểu hiện tập trung của sự phát triển kinh tế theo chiều sâu, phản ánh trình độ khai thác các nguồn lực trong quá trình tái sản xuất mở rộng nhằm thục hiện mục tiêu kinh doanh. Nó là thước đo ngày càng quan trọng của sự tăng trưởng kinh tế và là chỗ dựa cơ bản để đánh giá việc thực hiện mục tiêu kinh tế của doanh nghiệp trong từng thời kì. 3. Bản chất của hiệu quả kinh doanh. Thực chất hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp chính là việc nâng cao năng suất lao động xã hội và tiết kiệm nguồn lực. Trong thế giới của chúng ta, nguồn lực không phải là vô hạn. Chính nguồn lực khan hiếm và việc sử dụng chúng có tính cạnh tranh để tạo ra sản phẩm thoả mãn nhu cầu ngày càng cao của xã hội đã khiến bất cứ một doanh nghiệp nào cũng phải đặt yêu cầu khai thác, tận dụng triệt để và tiết kiệm nguồn lực lên hàng đầu. Vậy, yêu cầu của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh là phải đạt kết quả tối đa với chi phí tối thiểu. Trong đó, chi phí phải được hiểu theo nghĩa rộng; bao gồm chi phí tạo ra nguồn lực, chi phí sử dụng nguồn lực và cả chi phí cơ hội cho việc thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh. 4. Phân loại hiệu quả kinh doanh. a. Phân loại theo phạm vi kết quả đạt được và chi phí bỏ ra. Tuỳ theo phạm vi kết quả đạt được và chi phí bỏ ra mà có các phạm trù hiệu quả khác nhau như: hiệu quả kinh tế - xã hội, hiệu quả sử dụng các yếu tố sản xuất trong quá trình kinh doanh. Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, hiệu quả trực tiếp của các doanh nghiệp là hiệu quả kinh tế, còn hiệu quả của ngành hoặc hiệu quả của nền kinh tế quốc dân là hiệu quả kinh tế - xã hội. Từ đó ta có thể phân ra làm hai loại nhỏ: - Hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp. Hiệu quả kinh tế - xã hội. a1. Hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp. Khi nói tới doanh nghiệp, người ta thường quan tâm nhất là hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp vì các doanh nghiệp khi tiến hành hoạt động kinh doanh đều với động cơ kinh tế để kiếm lợi nhuận. * Hiệu quả kinh tế tổng hợp. Hiệu quả kinh tế tổng hợp là phạm trù kinh tế biểu hiện tập trung của sự phát triển kinh tế theo chiều sâu, phản ánh trình độ khai thác các nguồn lực trong quá trình tái sản xuất nhằm thực hiện mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp. Hiệu quả kinh tế tổng hợp là thước đo hết sức quan trọng của sự tăng trưởng kinh tế và là chỗ dựa cho việc đánh gía việc thực hiện mục tiêu kinh tế của doanh nghiệp trong từng thời kì. *Hiệu quả kinh tế của từng yếu tố. Hiệu quả kinh tế của từng yếu tố là sự thể hiện trình độ và khả năng sử dụng các yếu tố đó trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nó là thước đo quan trọng của sự tăng trưởng từng yếu tố và cùng với hiệu quả kinh tế tổng hợp làm cơ sở để dánh giá việc thực hiện mục tiêu kinh tế của doanh nghiệp. a2. Hiệu quả kinh tế - xã hội. Hiệu quả kinh tế - xã hội là hiệu quả mà doanh nghiệp đem lại cho xã hội và nền kinh tế quốc dân. Nó thể hiện qua việc tăng thu ngân sách cho Nhà nước, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động, nâng cao mức sống của người lao động và tái phân phối lợi tức xã hội. b. Phân loại thành hiệu quả tuyệt đối và hiệu quả so sánh. b1. Hiệu quả tuyệt đối. Hiệu quả tuyệt đối được tính toán cho từng quá trình kinh doanh bằng cách xác định mối tương quan giữa kết quả thu được và chi phí bỏ ra. Về mặt lượng, hiệu quả tuyệt đối được biểu hiện ở các chỉ tiêu khác nhau như: năng suất lao động, thời hạn hoàn vốn, tỉ suất vốn, lợi nhuận. b2. Hiệu quả so sánh. Hiệu quả so sánh được xác định bằng cách so sánh các chỉ tiêu hiệu quả tuyệt đối hoặc so sánh tương quan các đại lượng thể hiện chi phí hoặc kết quả của quá trình sản xuất kinh doanh. Tóm lại: Trong quản lí quá trình kinh doanh, phạm trù hiệu quả kinh tế được biểu hiện ở các loại khác nhau. Việc phân loại hiệu quả kinh tế là cơ sở để xác định các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế, phân tích hiệu quả kinh tế và xác định những biện pháp nâng cao hiệu quả kinh tế. II. Vai trò của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh đối với doanh nghiệp. Trong quá trình kinh doanh, các doanh nghiệp phải luôn gắn mình với thị trường. Do vậy, để thấy được vai trò của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh đối với các doanh nghiệp trong nền kinh tế, chúng ta phải nghiên cứu cơ chế thị trường và hoạt động của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường. 1. Thị trường và vai trò của thị trường đối với việc nâng cao hiệu quả kinh doanh. a. Khái niệm thị trường. Thị trường gắn liền với quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá. Nó ra đời và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của sản xuất lưu thông hàng hoá. Vậy thị trường là gì ? Theo nghĩa nguyên thuỷ, thị trường chính là nơi diễn ra các quá trình môi giới, trao đổi và mua bán hàng hoá. Thị trường tồn tại khách quan không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan nào. sản xuất hàng hoá càng phát triển, lượng sản phẩm hàng hoá lưu thông trên thị trường ngày càng dồi dào và phong phú thì thị trường càng được mở rộng. b. Vai trò của thị trường với nâng cao hiệu quả kinh doanh. Như ta đã biết, kinh tế hàng hoá gắn liền với thị trường. Thị trường là trung tâm của toàn bộ quá trình tái sản xuất. Thị trường chính là lực lượng hướng dẫn và đặt nhu cầu cho sản xuất. Sản xuất là sự kết hợp giữa các nguồn lực theo quan hệ tỉ lệ nhất định. Quan hệ tỉ lệ này phụ thuộc vào trình độ kĩ thuật của sản xuất. Để sản xuất cần phải có các yếu tố sản xuất. Thị trường chính là nơi cung cấp các yếu tố đó đảm bảo cho quá trình sản xuất được tiến hành bình thường. Sản xuất hàng hoá là sản xuất để trao đổi và để bán. thị trường là nơi tiêu thụ hàng hoá cho các doanh nghiệp. Thông qua thị trường, giá trị hàng hoá được thực hiện và các doanh nghiệp thu hồi được vốn. Như vậy, doanh nghiệp là người mua các yếu tố sản xuất và bán những sản phẩm mình làm ra. Quy mô của việc mua vào bán ra này sẽ quyết định quy mô của sản xuất. Nếu coi doanh nghiệp là cơ thể sống thì thị trường là nơi đảm bảo các yếu tố cho sự sống đó và cũng là nơi thực hiện sự trao đổi chất để cho sự sống tồn tại và phát triển.Trên ý nghĩa đó, thị trường chính là điều kiện và môi trường cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thị trường là nơi kiểm tra cuối cùng chủng loại các hàng hoá, số lượng hàng hoá cũng như chất lượng sản phẩm. Thị trường kiểm nghiệm tính phù hợp của sản xuất đối với tiêu dùng xã hội. Trên ý nghĩa đó, có thể nói thị trường điều tiết sản xuất và là động lực của sản xuất kinh doanh. Thông qua thị trường, hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp ngày càng năng động và sáng tạo hơn, hiệu quả của hoạt động sản xuất ngày càng cao hơn. Tóm lại: Sự vận động của thị trường dẫn đến sự biểu hiện gần đúng nhu cầu của thị trường và xã hội. Song các doanh nghiệp không nên đánh giá quá cao hoặc tuyệt đối hoá vai trò của thị trường, không nên coi cơ chế thị trường là hoàn hảo bởi lẽ thị trường luôn chứa đựng những khuyết tật như: đầu cơ, độc quyền, nhu cầu giả. . . Vậy, doanh nghiệp tồn tại trong cơ chế thị trường phải xác định cho mình một cơ chế hoạt động phù hợp để có thể đạt kết quả cao nhất và kết quả này phải không ngừng phát triển, nâng cao hiệu quả cả về mặt chất cũng như mặt lượng. 2. Vai trò của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh. a. Nâng cao hiệu quả kinh doanh là cơ sở để đảm bảo sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp được xác định bởi sự có mặt của doanh nghiệp trên thị trường. Mục tiêu của bất kì doanh nghiệp nào cũng là tồn tại và phát triển bền vững. Muốn vậy, điều kiện bắt buộc cho mỗi doanh nghiệp là phải nâng cao hiệu quả kinh doanh của mình. Như trên đã nói, hiệu quả kinh doanh phản ánh trình độ khai thác các nguồn lực trong quá trình tái sản xuất nhằm thực hiện mục tiêu kinh doanh. Do vậy, trong điều kiện vốn và các yếu tố đầu vào khác chỉ thay đổi trong khuôn khổ nhất định thì để tăng lợi nhuận bắt buộc các doanh nghiệp phải nâng cao hiệu quả kinh doanh, tức là phải nâng cao trình độ khai thác các nguồn lực của mình. Mặt khác, sự tồn tại của doanh nghiệp còn được xác định bởi sự tạo ra hàng hoá, của cải vật chất và các dịch vụ phục vụ cho nhu cầu của xã hội. Muốn vậy, mỗi doanh nghiệp đều phải đảm bảo thu nhập bù đắp chi phí và có lãi mới đáp ứng được nhu cầu tái sản xuất mở rộng trong nền kinh tế. Như vậy, nâng cao hiệu quả kinh doanh một cách liên tục trong mọi khâu của quá trình sản xuất kinh doanh là một tất yếu khách quan không thẻe phủ nhận được. b. Nâng cao hiệu quả kinh doanh để tạo ưu thế trong cạnh tranh và mở rộng thị trường. Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp diễn ra hết sức gay gắt. Để tồn tại đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải tạo cho mình ưu thế trong cạnh tranh. ưu thế đó có thể là chất lượng sản phẩm, giá bán, cơ cấu hoặc mẫu mã sản phẩm . . . Trong giới hạn về khả năng các nguồn lực, doanh nghiệp chỉ có thể thực hiện điều này bằng cách tăng khả năng khai thác các nguồn lực đó trong quá trình sản xuất kinh doanh. VD: Doanh nghiệp có thể cải tiến công nghệ sản xuất, nâng cao trình độ sử dụng máy móc thiết bị để tạo ra các sản phẩm có chất lượng cao và giá cả phù hợp nhằm thu hút được khách hàng. Việc giành quyền chủ động trong cạnh tranh sẽ giúp cho doanh nghiệp mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của mình. Nâng cao hiệu quả kinh doanh và mở rộng thị trường tiêu thụ có tác động qua lại với nhau. Nâng cao hiệu quả kinh doanh giúp các doanh nghiệp có thể mở rộng thị trường, đồng thời mở rộng thị trường giúp cho doanh nghiệp có thể nâng cao sản lượng tiêu thụ, tăng hệ số các yếu tố sản xuất (tức là nâng cao hiệu quả kinh doanh). c. Nâng cao hiệu quả kinh doanh để mở rộng sản xuất. Mở rộng sản xuất luôn là một yêu cầu đặt ra cho mỗi doanh nghiệp. Tuy nhiên, doanh nghiệp chỉ thực hiện được yêu cầu này khi đảm bảo được các điều kiện như: sản xuất phải có tích luỹ, phải có thị trường đầu ra cho việc mở rộng, tránh mở rộng một cách tràn lan gây ứ đọng vốn, giảm hiệu quả kinh doanh. Đáp ứng đòi hỏi đó, mỗi doanh nghiệp cần phải thực hiện một cách đồng bộ các nhiệm vụ như: Nâng cao chất lượng lao động quản lí và tay nghề cho công nhân nhằm tăng thêm hiệu quả sử dụng lao động, tích cực cải tiến máy móc thiết bị, đẩy nhanh việc ứng dụng tiến bộ kĩ thuật và công nghệ mới vào sản xuất để tạo ra sự phát triển theo chiều sâu và giảm chi phí sản xuất sản phẩm, xúc tiến công tác bán hàng, mở rộng thị trường và mạng lưới tiêu thụ nhằm rút ngắn chu kì kinh doanh, nâng cao tốc độ luân chuyển vốn kinh doanh. d. Nâng cao hiệu quả kinh doanh để đảm bảo đời sống cho người lao động trong doanh nghiệp. Đối với mỗi CBCNV, tiền lương là phần thu nhập chủ yếu nhằm duy trì cuộc sống của họ. Do đó, phấn đấu để tăng thêm thu nhập của các thành viên luôn là mục tiêu quan trọng của mỡi doanh nghiệp. Để làm được điều này đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn tìm cách nâng cao hiệu quả kinh doanh của mình, một mặt để duy trì sự tồn tại của chính doanh nghiệp nhưng đồng thời cũng đảm bảo thu nhập ổn định của người lao động. Doanh nghiệp có thể sử dụng tiền lương như là một đòn bẩy để nâng cao hiệu quả kinh doanh. thu nhập ngày càng cao, càng ổn định cùng với các khoản tiền thưởng sẽ tạo nên sự tin tưởng và tinh thần hăng say lao động trong toàn doanh nghiệp, là tiền đề cho việc tăng năng suất lao động của công nhân và chất lượng lao động quản lí. Đồng thời, việc áp dụng các biện pháp xử lí vi phạm lao động bằng cách trừ vào thu nhập sẽ góp phần nâng cao tinh thần trách nhiệm cho mọi người. Thông qua đó, doanh nghiệp có thể tăng hiệu quả sử dụng lao động. * Ngày nay, mục tiêu quan trọng nhất của mỗi doanh nghiệp là tối đa hoá lợi nhuận. Các doanh nghiệp phải có lợi nhuận và đạt lợi nhuận càng cao càng tốt. Do vậy, đạt hiệu quả kinh doanh và nâng cao hiệu quả kinh doanh luôn là một vấn đề quan tâm của mỗi doanh nghiệp và trở thành điều kiện sống còn để doanh nghiệp tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường. III. Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh. 1. Các quan điểm cơ bản trong đánh giá hiệu quả kinh doanh. Hiệu quả kinh doanh là một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp không những liên quan đến nhiều yêu tố khác mà còn phản ánh trình độ lợi dụng các yếu tố đó. Do vậy, trong quá trình đánh giá hiệu quả kinh doanh, chúng ta cần quán triệt một số quan điểm sau: a. Bảo đảm tính toàn diện và tính bộ phận trong quá trình nâng cao hiệu quả kinh doanh. Theo quan điểm này, việc nâng cao hiệu quả kinh doanh phải là sự kết hợp hài hoà giữa kết quả kinh doanh của các bộ phận trong doanh nghiệp với hiệu quả kinh doanh của toàn doanh nghiệp. Không thể vì hiệu quả chung mà làm mất đi hiệu quả của các bộ phận. Ngược lại, cũng không vì hiệu quả kinh doanh của các bộ phận mà làm ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh chung của toàn doanh nghiệp. Một cách rộng hơn, quan điểm này đòi hỏi việc nâng cao hiệu quả kinh doanh phải xuất phát từ việc đảm bảo yêu cầu nâng cao hiệu quả của nền sản xuất hàng hoá, của ngành, của địa phương và của cơ sở. Trong từng đơn vị cơ sở, khi xem xét, đánh giá hiệu quả kinh doanh phải coi trọng toàn bộ các khâu của quá trình sản xuất kinh doanh. Đồng thời, phải xem xét đầy đủ các mối quan hệ tác động qua lại của các tổ chức, các lĩnh vực trong hệ thống đã xác định. b. Sự kết hợp hài hoà giữa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích xã hội; lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài; lợi ích trung ương và lợi ích địa phương. Quan điểm này đòi hỏi việc nâng cao hiệu quả kinh doanh phải xuất phát từ việc thoả mãn một cách thích đáng nhu cầu của các chủ thể trong mối quan hệ mắt xích. Trong đó, quan trọng nhất là xác định được hạt nhân của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh để từ đó thoả mãn lợi ích của chủ thể này, tạo điều kiện, động lực để thoả mãn lợi ích của chủ thể tiếp theo và cứ thế cho đến đối tượng và mục đích cuối cùng. Nói tóm lại, theo quan điểm này thì quy trình thảo mãn lợi ích của các chủ thể đảm bảo từ thấp đến cao, bắt đầu từ thoả mãn nhu cầu của người lao động trước vì đây là nhân tố quyết định đến việc nâng cao hiệu quả kinh doanh. Từ đó mới có thể điều chỉnh, kết hợp hài hoà lợi ích giữa các chủ thể được. c. Đảm bảo sự thống nhất giữa các nhiệm vụ chính trị - xã hội và nhiệm vụ kinh doanh trong nâng cao hiệu quả kinh doanh. Trước hết, ta phải nhận thức rằng sự ổn định của một quốc gia là một nhân tố quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh. Trong khi sự ổn định đó lại được quyết định bởi mức độ thoả mãn lợi ích quốc gia. Do vậy, quan điểm này đòi hỏi việc nâng cao hiệu quả kinh doanh phải được xuất phát từ mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Mỗi doanh nghiệp phải quyết định sản xuất và bán sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ mà thị trường cần và nền kinh tế cần chứ không phải bán những sản phẩm hàng hoá mà bản thân doanh nghiệp có sẵn. Đó là nhu cầu và là điều kiện để đảm bảo sự phát triển cân đối cho nền kinh tế quốc dân và nền kinh tế hàng hoá. d.Đảm bảo tính thực tiễn trong nâng cao hiệu quả kinh doanh. Khi đánh giá, xác định mục tiêu và biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh phải xuất phát từ đặc điểm điều kiện kinh tế - xã hội của ngành, địa phương và của chính doanh nghiệp trong từng thời kì. Điều này sẽ là cơ sở thực tế để đảm bảo chắc chắn lòng tin cho người lao động, hạn chế được rủi ro và tổn thất trong kinh doanh. e. Phải căn cứ vào kết quả cuối cùng cả về mặt hiện vật và giá trị để đánh giá hiệu quả kinh doanh. Khi tính toán và đánh giá hiệu quả kinh doanh, một mặt phải căn cứ vào kết quả sản lượng hàng hoá đã thực hiện, mặt khác phải tính đúng, tính đủ các chi phí đã bỏ ra để sản xuất và tiêu thụ mặt hàng đó. Căn cứ vào kết quả cuối cùng cả về mặt hiện vật và giá trị là yêu cầu tất yếu buộc các nhà kinh doanh phải tính toán đúng đắn, hợp lí các yếu tố cần thiết cho quá trình sản xuất kinh doanh tiếp theo. Từ đó sẽ cho phép đánh giá đúng khả năng thoả mãn nhu cầu của thị trường về hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp theo cả hai mặt hiện vật và giá trị. 2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh. 2.1. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh. a. Các chỉ tiêu hiệu quả tổng hợp. + Tổng sản lượng: Tổng sản lượng là chỉ tiêu biểu hiện bằng tiền phản ánh toàn bộ kết quả trực tiếp, hữu ích của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong một thời kì nhất định. + Tổng mức lợi nhuận: Lợi nhuận ròng của đơn vị sản xuất kinh doanh (thực lãi) là một phần của thu nhập thuần tuý sau khi trừ đi thuế. Về nguyên tắc, lợi nhuận được tính theo công thức: P = D – ( Z + Th ) Trong đó: P: lợi nhuận D:doanh thu Z: giá thành toàn bộ Th: thuế Hiệu quả kinh tế ở đây biểu hiện thông qua sự so sánh kết quả (doanh thu) và các loại chi phí bỏ ra trong quá trình sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, nó chưa phản ánh được mức hiệu quả so với quy mô sản xuất, chưa phản ánh được hiệu quả theo chiều sâu của quá trình sản xuất kinh doanh. * Các chỉ tiêu tỉ suất lợi nhuận. + Tỉ suất lợi nhuận theo doanh thu : Tỉ suất lợi nhuận theo doanh thu = ồ LN *100% ồ DT Chỉ tiêu này cho biết mức lợi nhuận thu được từ một đồng doanh thu bán hàng. Chỉ tiêu này cho thấy, để có hiệu quả (tỉ suất lợi nhuận) cao thì doanh nghiệp phải tăng doanh thu, giảm chi phí (tức là tốc độ tăng của lợi nhuận phải lớn hơn tốc độ tăng của doanh thu). + Tỉ suất lợi nhuận theo giá thành (theo chi phí sản xuất): Tỉ suất lợi nhuận theo giá thành = ồ LN *100% ồ Z Chỉ tiêu này cho biết mức lợi nhuận thu được từ một đơn vị chi phí sản xuất (hay hiệu quả của một đơn vị chi phí). + Chỉ tiêu tỉ suất lợi nhuận theo tổng vốn: Tỉ suất lợi nhuận theo tổng vốn = ồ LN *100% ồ Vốn KD Chỉ tiêu này cho biết hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh. Một đồng vốn kinh doanh tạo được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Nó phản ánh trình độ lợi dụng yếu tố vốn của doanh nghiệp. +Chỉ tiêu tỉ suất lợi nhuận theo vốn chủ sở hữu: Tỉ suất lợi nhuận theo vốn CSH = ồ LN *100% ồ Vốn CSH Chỉ tiêu này cho biết hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu. Một đồng vốn chủ sở hữu tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này phản ánh mức độ ích lợi của vốn chủ sở hữu. +Chỉ tiêu tỉ suất doanh thu tính theo vốn kinh doanh: Tỉ suất lợi doanh thu theo vốn KD = ồ DT *100% ồ Vốn KD Chỉ tiêu này và chỉ tiêu tỉ suất lợi nhuận theo vốn kinh doanh có ý nghĩa khuyến khích việc quản lí chặt chẽ vốn, sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả vốn của các khâu trong quá trình sản xuất kinh doanh. b. Nhóm chỉ tiêu hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào cơ bản của quá trình sản xuất kinh doanh. * Nhóm chỉ tiêu hiệu quả sử dụng lao động trong quá trình sản xuất kinh doanh. + Chỉ tiêu năng suất lao động bình quân: Năng suất lao động bình quân = ồ Giá trị KD LĐ bình quân Chỉ tiêu này cho biếtmột lao động sẽ tạo ra được bao nhiêu giá trị kinh doanh cho doanh nghiệp. + Chỉ tiêu mức doanh thu bình quân của mỗi lao động: Mức doanh thu bình quân của 1 LĐ = ồ DT LĐ bình quân Chỉ tiêu này cho biết mỗi lao động sẽ tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu cho doanh nghiệp. + Chỉ tiêu mức lợi nhuận bình quân của mỗi lao động: Mức lợi nhuận bình quân của 1 LĐ = ồ LN LĐ bình quân Chỉ tiêu này cho biết mỗi lao động sẽ tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận cho doanh nghiệp. + Hệ số sử dụng lao động. Hệ số sử dụng LĐ = ồ LĐ được sử dụng ồ LĐ hiện có + Hệ số sử dụng thời gian lao động. Hệ số sử dụng thời gian LĐ = ồ Thời gian làm việc ồ Thời gian chế độ Thông qua việc xác định các chỉ tiêu trên, doanh nghiệp sẽ biết được tình hình sử dụng lao động, số lao động hiện có của doanh nghiệp đã được sử dụng hết năng lưc hay chưa, từ đó tìm ra nguyên nhân và xác định các giải pháp phù hợp để sử dụng có hiệu quả lao động của doanh nghiệp. *Nhóm chỉ tiêu hiệu quả sử dụng TSCĐ và VCĐ. + Hệ số sử dụng TSCĐ. Hệ số sử dụng TSCĐ = ồ TSCĐ được huy động ồ TSCĐ hiện có + Hệ số sử dụng thời gian hoạt động của TSCĐ. Hệ số sử dụng thời gian hđ của TSCĐ = ồ Thời gian làm việc của TSCĐ ồ Thời gian làm việc theo chế độ + Hệ số sử dụng công suất thiết bị. Hệ số sử dụng công suất TB = ồ Công suất thực tế sử dụng ồ Công suất thiết kế + Hệ số đổi mới TSCĐ. Hệ số đổi mới TSCĐ = ồ Giá trị TSCĐ được đổi mới ồ Giá trị TSCĐ hiện có + Sức sản xuất của TSCĐ. Sức sản xuất của TSCĐ = Giá trị tổng sản lượng Nguyên giá TSCĐ + Sức sinh lợi của VCĐ. Sức sinh lợi của VCĐ = ồ LN ồ VCĐ + Hiệu quả sử dụng VCĐ. Hiệu quả sử dụng VCĐ = Giá trị tổng sản lượng ồ VCĐ * Nhóm chỉ tiêu hiệu quả sử dụng VLĐ trong quá trình sản xuất kinh doanh. + Sức sinh lợi của VLĐ. Sức sinh lợi của VLĐ = ồ LN ồ VLĐ + Hệ số đảm nhận của VLĐ. Hệ số đảm nhận của VLĐ = ồ VLĐ định mức ồ DT – Thuế + Tốc độ luân chuyển vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh. Nguồn VLĐ thường xuyên vận động không ngừng. Nó tồn tại ở các dạng khác nhau: có khi là tiền, có khi là hàng hoá . . .Do đó, đẩy nhanh tốc độ chu chuyển VLĐ sẽ góp phần giải quyết nhu cầu vốn cho doanh nghiệp và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Thông thường, người ta sử dụng hai chỉ tiêu sau để xác định tốc độ luân chuyển của VLĐ. - Số vòng quay của VLĐ: Chỉ tiêu này cho biết số vòng quay của VLĐ trong kì. Số vòng quay càng lớn chứng tỏ việc sử dụng VLĐ càng có hiệu quả và ngược lại. - Thời gian của một vòng quay: Chỉ tiêu này cho biết thời gian để VLĐ quay được một vòng. Thời gian này càng nhỏ thì hiệu quả sử dụng vốn càng cao và ngược lại. Tóm lại: Trong khi phân tích, đánh giá cần phải tính toán các chỉ tiêu trên, so sánh giữa các thời kì khác nhau rồi mới rút ra kết luận. c. Nhóm chỉ tiêu hiệu quả kinh tế của từng biện pháp thúc đẩy quá trình kinh doanh. + Chuẩn bị sản xuất và tổ chức quá trình sản xuất sản phẩm hàng hoá đảm bảo quá trình kinh doanh được tiến hành một cách cân đối, nhịp nhàng và liên tục. + ứng dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật vào sản xuất, nâng cao năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm và hạ giá thành. + Tiêu thụ hàng hoá đảm bảo cho quá trình tái sản xuất. + Kích thích người lao động phát huy tính chủ động sáng tạo trong quá trình sản xuất kinh doanh. + Không ngừng đổi mới quản lí và nâng cao năng lực của CBCNV 2.2. Các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế - xã hội. Để đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, ngoài việc đánh giá hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp còn phải đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội của doanh nghiệp thông qua các chỉ tiêu sau: a. Thu ngân sách Nhà nước. Mọi doanh nghiệp khi tiến hành sản xuất kinh doanh đều phải có nghĩa vụ nộp cho ngân sách Nhà nước dưới hình thức là các loại thuế như thuế doanh thu, thuế thu nhập, thuế đất, thuế tài nguyên, thuế môn bài, thuế xuất nhập khẩu (đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu), thuế TTĐB. . . Nhà nước sẽ sử dụng những khoản thu này để cho sự phát triển của nền kinh tế quốc dân và ở các lĩnh vực phi sản xuất, góp phần phân phối lại thu nhập quốc dân. b. Tạo công ăn việc làm cho người lao động. Nước ta cũng giống như các nước đang phát triển, hầu hết là các nước nghèo, tình trạng yếu kém về kĩ thuật sản xuất và nạn thất nghiệp còn phổ biến. Để tạo nhiều công ăn việc làm cho người lao động và nhanh chóng thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu đòi hỏi các doanh nghiệp phải tự tìm tòi, đưa ra những biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh, mở rộng quy mô sản xuất. c. Nâng cao mức sống của người lao động. Ngoài việc tạo công ăn việc làm cho người lao động đòi hỏi các doanh nghiệp phải làm ăn có hiệu quả để góp phần nâng cao mức sống của người lao động. Xét trên phương diện kinh tế, việc nâng cao mức sống của người dân được thể hiện qua các chỉ tiêu như: gia tăng thu nhập quốc dân bình quân trên đầu người, gia tăng đầu tư xã hội, mức tăng trưởng phúc lợi xã hội. d. Tái phân phối lợi tức xã hội. Sự phát triển không đồng đều về các mặt kinh tế - xã hội giữa các vùng lãnh thổ trong một quốc gia được xem là hiện tượng khá phổ biến ở hầu hết các nước, đặc biệt là những nước đang phát triển như nước ta trong giai đoạn hiện nay. Để từng bước xoá bỏ sự cách biệt về mặt kinh tế - xã hội, góp phần tái phân phối lợi tức xã hội giữa các vùng đòi hỏi cần có những chính sách khuyến khích đầu tư vào những vùng kinh tế kém phát triển. Theo quan điểm hiện nay của các nhà kinh tế, hiệu quả kinh tế - xã hội còn thể hiện qua các chỉ tiêu như: bảo vệ nguồn lợi môi trường, hạn chế gây ô nhiễm môi trường, chuyển dịch cơ cấu kinh tế. IV. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Nâng cao hiệu quả kinh doanh luôn là mục tiêu bao trùm lên mọi hoạt động của quá trình sản xuất kinh doanh ở từng doanh nghiệp. Vì lẽ đó, khi tiến hành nâng cao hiệu quả kinh doanh, các doanh nghiệp không thể chỉ chú trọng vào một mặt hoặc một hoạt động nào đó mà phải nâng cao hiệu quả một cách toàn diện trên tất cả các mặt. Muốn vậy, các doanh nghiệp phải nghiên cứu kĩ những nhân tố ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh, đồng thời dựa trên điều kiện cụ thể của mình mà đề ra các quyết định cho phù hợp. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp gồm: A. Các nhân tố khách quan. 1. Môi trường kinh doanh. a. Thị trường: Chia thành thị trường đầu vào và thị trường đầu ra. * Thị trường đầu vào: Thị trường đầu vào là nơi cung cấp các yếu tố sản xuất cho doanh nghiệp như: nguyên vật liệu, máy móc thiết bị , công nghệ sản xuất. Nếu doanh nghiệp tạo lập được cho mình một thị trường ổn định, chất lượng cao và giá cả hợp lí thì sẽ rất thuận lợi cho việc đảm bảo tiến độ sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao chất lượng và tăng khả năng cạnh tranh. Ngược lại, nếu thị trường đầu vào của doanh nghiệp không ổn định, chất lượng kém, giá cả cao sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả kinh doanh, có thể làm cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bị chậm tiến độ, sản phẩm sản xuất ra có chất lượng không cao, đồng thời chi phí sản xuất tăng. * Thị trường đầu ra. Thị trường dầu ra là nơi doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm của mình và thực hiện giai đoạn cuối cùng của vòng chu chuyển vốn. Nếu thị trường đầu ra của doanh nghiệp ổn định và từng bước được mở rộng sẽ kích thích sản xuất phát triển, tạo điều kiện để nâng cao hiệu quả sử dụng các yếu tố sản xuất. Ngược lại, nếu sản phẩm của doanh nghiệp không tìm được thị trường đầu ra sẽ dẫn đến tình trạng đình đốn sản xuất, vốn bị ứ đọng, hiệu quả kinh doanh thấp và có thể doanh nghiệp phải đóng cửa sản xuất. Như vậy, nhu cầu thị trường đầu ra là cơ sở cho các doanh nghiệp hoạch định kế hoạch sản xuất kinh doanh của mình. Do nhận thức được vai trò quan trọng của thị trường, đặc biệt là thị trường đầu ra nên ngày nay các doanh nghiệp luôn chú trọng tới công tác nghiên cứu thị trường và dành một khoản chi phí nhất định cho việc quảng cáo sản phẩm của mình. b. Đối thủ cạnh tranh. Các doanh nghiệp khi tham gia thị trường chắc chắn sẽ phải đối mặt với tình trạng cạnh tranh hết sức gay gắt. Vì vậy, các doanh nghiệp không thể lẩn tránh trước các đối thủ mà phải biết chấp nhận và linh hoạt sử dụng các công cụ để tham gia cạnh tranh một cách hữu hiệu và giành quyền chủ động về phía mình. Nếu trong cạnh tranh, doanh nghiệp luôn gặp phải những đối thủ mạnh hơn mình sẽ gây cản trở cho việc nâng cao hiệu quả kinh doanh, sản phẩm sản xuất ra khó tiêu thụ hoặc không tiêu thụ được. Trong tình trạng đó, doanh nghiệp không tăng được khả năng cạnh tranh của mình sẽ trở thành nhịp cầu cho các đối thủ vươn lên phía trước. Thông thường, khi xuất hiện đối thủ cạnh tranh thì việc nâng cao hiệu quả kinh doanh sẽ bị giảm đi một cách tương đối. Bên cạnh những khó khăn mang lại, cạnh tranh cũng tạo ra nhiều động lực thúc đẩy cho doanh nghiệp phát triển. Cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải không ngừng đưa tiến bộ khoa học - kĩ thuật vào sản xuất, biết nắm bắt thông tin và chớp lấy thời cơ hấp dẫn, tạo ra các sản phẩm có chất lượng cao, giá cả hợp lí và phù hợp với nhu cầu thị trường để tạo ra ưu thế cho mình. c. Tập quán dân cư và mức độ thu nhập bình quân của dân cư. Đây là nhân tố quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh. Nó quyết định mức độ chất lượng, số lượng, chủng loại, gam hàng. . . Doanh nghiệp cần phải nắm bắt và nghiên cứu để làm sao phù hợp với sức mua, thói quen tiêu dùng ở mức giá cả chấp nhận được. Bởi những yếu tố này tác động một cách gián tiếp lên quá trình sản xuất, công tác Marketting và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. d. Hàng hoá thay thế. Sản phẩm thay thế là sản phẩm khác có thể thoả mãn cùng nhu cầu của người tiêu dùng. Đặc điểm cơ bản của nó thường có các ưu thế hơn sản phẩm bị thay thế ở các đặc trưng riêng biệt. Khi sản phẩm thay thế xuất hiện trên thị trường, nó sẽ trở thành một sự đe doạ đối với các sản phẩm của doanh nghiệp và đo đó nó cũng làm giảm việc nâng cao hiệu quả kinh doanh. 2. Môi trường tự nhiên. a. Nhân tố thời tiết, khí hậu, mùa vụ. Nhân tố này ảnh hưởng rất lớn đến quá trình, tiến độ thực hiện kinh doanh của hầu hết các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp kinh doanh các mặt hàng mang tính mùa vụ. Với những điều kiện thời tiết, khí hậu, mùa vụ nhất định thì doanh nghiệp phải có chính sách cụ thể phù hợp với những điều kiện đó. Và như vậy, khi các yếu tố này không ổn định sẽ làm cho chính sách hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp không ổn định theo, gây ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. b. Nhân tố tài nguyên. Nhân tố này chủ yếu ảnh hưởng đến các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực khai thác tài nguyên thiên nhiên. Một khu vực có nhiều tài nguyên thiên nhiên với trữ lượng lớn và có chất lượng tốt sẽ ảnh hưởng tích cực đến công việc kinh doanh của doanh nghiệp khai thác loại tài nguyên này nói riêng và các doanh nghiệp nằm trong khu vực này nói chung. c.Nhân tố địa lí. Đây là nhân tố tác động rất lớn đến chi phí sản xuất và chi phí tiêu thụ của doanh nghiệp. Do đó nó cũng ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. 3. Môi trường văn hoá - xã hội. Đây là nhân tố có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Những lối sống tự thay đổi nhanh chóng theo hướng du nhập lối sống mới luôn là cơ hội cho các nhà sản xuất. Doanh nghiệp cũng phải tính đến thái độ của người tiêu dùng, sự thay đổi của tháp tuổi, tỉ lệ kết hôn và sinh đẻ, vị trí và vai trò của người phụ nữ tại nơi làm việc và trong gia đình. . .Sự xuất hiện của “ Hiệp hội những người tiêu dùng” là một cản trở đòi hỏi các doanh nghiệp phải quan tâm, Đặc biệt là chất lượng sản phẩm phải đảm bảo vì lợi ích của người tiêu dùng. Trình độ dân trí ngày càng cao đã, đang và sẽ là một thách thức đối với các nhà sản xuất. 4. Môi trường luật pháp, chính trị. Môi trường này cũng tác động đến hiệu quả kinh doanh một cách trực tiếp. Bởi vì môi trường luật pháp ảnh hưởng đến mặt hàng sản xuất, ngành nghề, phương thức kinh doanh . . . của doanh nghiệp. Không những thế, nó còn tác động đến chi phí của doanh nghiệp như: chi phí lưu thông, chi phí vận chuyển, mức đóng thuế. . . Tóm lại, nhân tố này có thể tạo ra cơ hội hay trở ngại, thậm chí rủi ro thật sự cho doanh nghiệp, ảnh hưởng đến việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. B. Các nhân tố chủ quan. 1. Chất lượng sản phẩm. Là một chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh nhưng đồng thời chất lượng sản phẩm cũng là một nhân tố có tác động rất lớn tới hiệu quả quá trình kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu sản phẩm của doanh nghiệp có chất lượng tốt thì sẽ giúp doanh nghiệp có ưu thế cạnh tranh, tăng sản lượng tiêu thụ, mở rộng thị trường và kích thích sản xuất phát triển. Chất lượng sản phẩm được hiểu như là tổng thể các chỉ tiêu, những đặc trưng kinh tế - kĩ thuật của nó, thể hiện được sự thoả mãn nhu cầu trong những điều kiện tiêu dùng nhất định, phù hợp với công dụng của sản phẩm mà người tiêu dùng mong muốn. Do đó, khi đánh giá chất lượng sản phẩm, chúng ta phải nhìn nhận toàn diện trên cả hai mặt: + Thứ nhất: Đó là đặc tính kinh tế - kĩ thuật nội tại phản ánh giá trị sử dụng và chức năng của sản phẩm. Điều này phụ thuộc vào năng lực sản xuất của doanh nghiệp. + Thứ hai: Đó là mức độ thoả mãn nhu cầu của khách hàng, mức độ này càng cao thì chất lượng sản phẩm càng cao. Điều đó phụ thuộc vào sự đánh giá chủ quan của người tiêu dùng, vì vậy nó tác động mạnh mẽ đến khả năng tiêu thụ sản phẩm. Xuất phát từ vai trò quan trọng đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải liên tục nâng cao chất lượng sản phẩm, biết lựa chọn những đặc tính quan trọng cho sản phẩm của mình để nó vừa mang sắc thái riêng, phân biệt với những sản phẩm đồng loại trên thị trường, đồng thời thoả mãn nhu cầu ngày càng cao của khách hàng. 2. Giá thành sản phẩm. Giá thành đơn vị sản phẩm là khoản chi phí bỏ ra để chế tạo hoàn thành một đơn vị sản phẩm. Chi phí đó bao gồm: chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung đã phân bổ và chi phí ngoài sản phẩm. Là cơ sở cho việc định giá bán nên giá thành sản phẩm có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Cụ thể như: ảnh hưởng đến doanh thu tiêu thụ và lợi nhuận thu được từ mỗi đơn vị sản phẩm. Nếu giá thành sản phẩm thấp thì doanh nghiệp sẽ thu được nhiều lợi nhuận, đồng thời tăng khả năng cạnh tranh cho sản phẩm của mình. Để thực hiện tốt yêu cầu hạ giá thành sản phẩm đòi hỏi doanh nghiệp phải tăng khả năng khai thác các yếu tố sản xuất như: Sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả nguyên vật liệu đầu vào, nâng cao chất lượng máy móc thiết bị và dây chuyền công nghệ, giảm bớt các chi phí không cần thiết trong quá trình sản xuất kinh doanh. 3. Sản lượng tiêu thụ sản phẩm. Bên cạnh giá thành, sản lượng tiêu thụ cũng là một yếu tố quyết định tới doanh thu tiêu thụ của doanh nghiệp. Nếu sản lượng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp lớn sẽ tạo đà cho doanh nghiệp phát triển sản xuất, nâng cao hiệu quả sử dụng máy móc thiết bị và đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn. Ngược lại, sản phẩm sản xuất ra không tiêu thụ được hoặc tiêu thụ chậm sẽ khiến sản xuất bị đình trệ, thời gian không sử dụng máy móc thiết bị tăng cao, tốc độ chu chuyển vốn chậm sẽ làm hiệu quả kinh doanh giảm. Để nâng cao sản lượng tiêu thụ, doanh nghiệp cần chú trọng tới các biện pháp như: tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm, đồng thời triển khai các biện pháp yểm trợ và xúc tiến bán hàng nhằm kích thích khách hàng mua và tạo thói quen mua sản phẩm của doanh nghiệp. 4. Cơ sở vật chất kĩ thuật và công nghệ sản xuất. Cơ sở vật chất kĩ thuật và công nghệ sản xuất là một nhân tố hết sức quan trọng trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng hiệu quả kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Hệ thông thiết bị và công nghệ sản xuất tiên tiến, hiện đại có thể giúp doanh nghiệp tạo ra được các sản phẩm có chất lượng cao, đảm bảo tiến độ sản xuất, đồng thời giảm được chi phí nguyên vật liệu để sản xuất sản phẩm, giảm chi phí sửa chữa và đáp ứng được nhu cầu đa dạng hoá sản phẩm. Thực tế ở nước ta những năm qua cho thấy, những doanh nghiệp có thiết bị và công nghệ sản xuất hiện đại thì hiệu quả kinh doanh thu được sẽ cao, sản phẩm của doanh nghiệp có khả năng trụ được trên thị trường và đem lại nhiều khả năng phát triển. Ngược lại, những doanh nghiệp vẫn sử dụng công nghệ và thiết bị lạc hậu thì không thể tạo ra sản phẩm đáp ứng được những đòi hỏi mới của thị trường, sản xuất bị chững lại và đi xuống, trong nhiều trường hợp có thể sẽ dẫn đến tình trạng phải đóng cửa sản xuất. 5. Chất lượng bộ máy quản trị và trình độ tay nghề của công nhân. Nếu bộ máy quản trị có chất lượng tốt, biết phân tích, đánh giá và dự báo được xu thế biến động của thị trường, từ đó vạch ra các hướng đi đúng đắn cho doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp phát triển sản xuất một cách ổn định vững chắc, tạo điều kiện để nâng cao hiệu quả kinh doanh. Ngược lại, công tác quản trị không tốt có thể đẩy doanh nghiệp vào tình trạng “mò mẫm” trong sản xuất, không xác định được phương hướng phát triển phù hợp cho doanh nghiệp. Ngoài nhiệm vụ vạch ra hướng đi hiệu quả cho doanh nghiệp, bộ máy quản trị đặc biệt là các cấp lãnh đạo còn phả biết xây dựng doanh nghiệp trở thành một tập thể thống nhất, tạo ra sự liên kết chặt chẽ giữa các phòng ban chức năng cũng như các bộ phận sản xuất, khiến cho quá trình kinh doanh diễn ra nhịp nhàng, đồng bộ, nhằm khai thác một cách triệt để các nguồn lực của doanh nghiệp. Trình độ tay nghề của người lao động cũng là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh. Điều này thể hiện ở các mặt sau: + Thứ nhất: Bằng lao động sáng tạo của mình tạo ra công nghệ mới, thiết bị máy móc mới, nguyên vật liệu mới. . . có hiệu quả hơn so với trước. + Thứ hai: Biết tận dụng tối đa công suất máy móc thiết bị và nguyên vật liệu, tăng hiệu quả tại từng nơi làm việc. + Thứ ba: Lao động có kỉ luật, chấp hành đúng mọi nội quy về thời gian, về quy trình bảo dưỡng máy móc thiết bị . . . sẽ góp phần nâng cao năng suất, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí sủa chữa và tăng tuổi thọ cho máy móc thiết bị của doanh nghiệp. Để nâng cao hơn nữa hiệu quả kinh doanh, cụ thể là hiệu quả sử dụng lao động đòi hỏi các doanh nghiệp cần phải quan tâm đúng mức đến công tác đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ lao động. Đồng thời, phải biết dìu dắt, khuyến khích tinh thần của người lao động, khiến cho họ yên tâm trong công tác và nâng cao tinh thần tự giác trong công việc. 6. Trình độ quản lí và tổ chức tiêu thụ hàng hoá. Trong hoạt động kinh doanh, dự trữ là khâu cần thiết khách quan để đảm bảo cho hàng hoá được bán ra thường xuyên, liên tục, giúp doanh nghiệp chủ động trong hoạt động kinh doanh, quá trình kinh doanh không bị đứt đoạn, không bỏ lỡ các cơ hội kinh doanh. Song dự trữ có ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí và do đó ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Vấn đề đặt ra là phải xác định được mức dự trữ sản phẩm hàng hoá tối ưu. Cần dự trữ ở mức hợp lí để đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm, đảm bảo cung cấp hàng hoá kịp thời khi có nhu cầu, đồng thời tiết kiệm chi phí để trên cơ sở đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Ngược lại, dự trữ không hợp lí sẽ dẫn đến tình trạng lãng phí vốn kinh doanh. Nếu dự trữ quá lớn sẽ gây tồn đọng vốn, tăng chi phí, giảm hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, nếu dự trữ thiếu sẽ không đảm bảo lượng hàng hoá bán ra, bỏ lỡ cơ hội thu lợi nhuận và làm đứt đoạn quá trình kinh doanh của doanh nghiệp. Mức dự trữ hợp lí là luôn đảm bảo đủ hàng bán ra kịp thời cả về số lượng và chất lượng, cơ cấu và chủng loại mặt hàng. Đồng thời không để tình trạng ứ đọng mặt hàng, chậm luân chuyển, ảnh hưởng tới tốc độ chu chuyển vốn, làm tăng chi phí lưu thông và giảm hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp. Yêu cầu đặt ra đối với việc dự trữ hàng hoá là phải đảm bảo toàn vẹn giá trị sử dụng của hàng hoá, không để hàng hoá bị giảm chất lượng. Nếu yêu cầu này không được thực hiện tốt sẽ làm ảnh hưởng đến chất lượng hàng hoá bán ra, làm giảm uy tín của doanh nghiệp. Đồng thời, doanh nghiệp cũng phải tìm cách tối thiểu hoá chi phí hao hụt bảo quản để tránh chi phí lưu thông. Thực tế kinh doanh trên thị trường, giá cả không ổn định, các doanh nghiệp phải dự đoán đươc hướng tăng giảm của nhu cầu thị trường, đồng thời phải tiên lượng biến động của giá cả trong thời gian tới với từng loại mặt hàng để có kế hoạch phù hợp và không bỏ lỡ thời cơ. 7.Hệ thống trao đổi và xử lí thông tin. Một doanh nghiệp đang hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường cần phải nắm bắt thật rõ ràng và chíng xác về thị trường mình đang kinh doanh, về mặt hàng mà doanh nghiệp đang sản xuất và tiêu thụ, về vấn đề chính sách của Nhà nước có liên quan. . . Muốn vậy, doanh nghiệp phải có một hệ thống cung cấp và xử lí thông tin một cách chính xác. Có như vậy, hiệu quả kinh tế hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mới dần dần được cả thiện và ngày một nâng cao. Thật vậy, trong môt doanh nghiệp, hệ thống trao đổi và xử lí thông tin cần phải đảm bảo thông suốt, nhanh chóng và đáng tin cậy. Một nhà quản trị doanh nghiệp cần phải trao đổi thông tin với nhiều đối tượng khác nhau. Nếu quá trình này thực hiện không có hiệu quả thì doanh nghiệp khó có thể hoàn thành mục tiêu và nhiệm vụ đề ra. Thông thường, nhà quản trị nhận thông tin từ cấp trên, đồng nghiệp và cấp dưới; đồng thời cũng thông báo cho họ biết những kế hoạch dự kiến sẽ thực hiện trong tương lai. Hệ thống thông tin hoạt động tốt sẽ giúp cả hai bên nắm được đầy đủ thông tin về công việc cần làm, dẫn đến hiệu quả công việc cao, năng suất làm việc tốt. . . Ngược lại, nếu không nắm vững thông tin sẽ bị tuột khỏi vòng quay của quá trình sản xuất kinh doanh và kết quả tất yếu là làm giảm hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp. Trong suốt quá trình kinh doanh, việc thu thập và xử lí thông tin nhanh chóng và chính xác sẽ có ảnh hưởng tích cực tới hiệu quả kinh doanh. Bởi mỗi doanh nghiệp là một guồng máy nên nếu có được những thông tin tổng hợp kịp thời sẽ làm cho việc điều hành hoạt động của doanh nghiệp được trôi chảy, khả năng cung ứng cũng như bán hang được nâng cao góp phần vào việc tăng doanh thu, nâng cao hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp. Cơ chế thị trường có những khó khăn riêng, nếu doanh nghiệp nắm bắt và vận dụng thích hợp sự vận động của hàng hoá mình kinh doanh, nắm chắc những thông tin về nhu cầu thị trường để tiêu thụ hàng hoá một cách linh hoạt, chủ động và đồng thời kết hợp tốt các mối quan hệ với sản xuất, tài chính ngân hàng, giá cả thị trường . . . thì doanh nghiệp có thể tránh được rủi ro trong kinh doanh, qua đó phấn đấu đạt hiệu quả sản xuất kinh doanh cao. mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc9516.doc
Tài liệu liên quan