Đề tài Một số biện pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác tổ chức quản lý tiền lương tại cảng khuyến lương

Đối với người lao động đã đủ 30 năm nhưng chưa hết tuổi lao động thì cứ sau mỗi năm công tác sẽ được hưởng 1%Lcb nữa, chế độ tử tuất áp dụng cho những người đang làm việc hoặc đã nghỉ hưu bị chết. Kể từ ngày 30/6/1995 Cảng Khuyến Lương đã tiến hành áp dụng chế độ bảo hiểm mới theo nghị định 43CP ngày 22/6/1993 với mức tính bảo hiểm hàng năm là 20% tiền lương thực hiện. Trong 15% Cảng đóng góp 5% người lao động nộp Chế độ và mức lương bảo hiểm mới quy định như sau: Chế độ trợ cấp ốm đau, mức trợ cấp ốm đau trả thay lương 75% mức lương mà người đó đóng bảo hiểm xã hội trước khi nghỉ. Thời gian nghỉ đối với người làm việc trong điều kiện bình thường là: 30 ngày 1 năm nếu đóng BHXH dưới 15 năm 45 ngày 1 năm nếu đóng BHXH 15 năm trở lên. Đối với người lao động trong điều kiện nặng nhọc độc hại, nguy hiểm, được nghỉ. 40 ngày 1 năm nếu đóng bảo hiểm dưới 15 năm, 60 ngày 1 năm nếu đóng bảo hiểm trên 15 năm, chế độ trợ cấp thai sản: thời gian nghỉ là 4 tháng, mức trợ cấp được hưởng là 100% lương cơ bản mới theo nghị định 05/CP mà người đó đóng bảo hiểm xã hội trước khi nghỉ. Chế độ trợ cấp tai nạn lao động trong thời gian nghỉ việc để điều trị cho đến khi ổn định thương tật được hưởng 100% định mức tiền lương trước khi bị tai nạn và chi phí chữa trị các khoản chi phí này do người sử dụng lao động trả.

doc46 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1400 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số biện pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác tổ chức quản lý tiền lương tại cảng khuyến lương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
điều kiện quá trình lao động củahọ mang tính độc lập tương đối. Có thể định mức và kiểm tra, nghiệm thu sản phẩm một cách riêng biệt từng người. Công thức tính đơn giá tiền lương một đơn vị sản phẩm. ĐG = hoặc ĐG = L. T Trong đó: ĐG : Đơn giá tiền lương một sản phẩm L : Lương theo cấp bậc công việc Q : Mức sản lượng T : Mức thời gian Tiền lương của công nhân được là: L = ĐG x Qtt Qtt: là mức sản lượng thực tế hay năng suất thựuc tế của người công nhân. Ưu điểm: Mối quan hệ giữa tiền lương của công nhân và kết quả lao động phản ánh đúng đắn công sức của họ bỏ ra để được hưởng đồng lương thực tế, do đó kích thích công nhân cố gắng nâng cao trình độ tay nghề để nâng cao năng suất lao động nhằm tăng thu nhập cho họ. Chế độ tiền lương này dễ hiểu, công nhân dễ dàng tính toán tiền lương của mình sau khi lao động. Tuy nhiên bên cạnh đó chế độ này còn hạn chế là tinh thần tập thể chưa cao, công nhân ít quan tâm đến việc sử dụng tốt máy móc thiết bị và nguyên vật liệu, công việc chung của tập thể bị sao nhãng. Thứ hai là, chế độ trả lương theo sản phẩm tập thể áp dụng cho những công việc cần một tập thể công nhân cùng thực hiện. Công thức tính đơn giá: ĐG = ********** Trong đó: ĐG : Đơn giá tính theo sản phẩm tập thể. ồLi : Tổng số tiền lương tính theo cấp bậc công việc Q : Mức sản lượng T : Mức thời gian Ưu điển: Của chế độ này là khuyến khích công nhân trong tổ, nâng cao trách nhiệm tập thể, quan tâm chung đến kết quả cuối cùng của tổ, đơn giản dễ hiểu, dễ áp dụng. Nhược điểm là: Sản phẩm của mỗi công nhân không trực tiếp quyết định tiền lương của họ, do vậy dễ gây ra tình trạng đùn đẩy công việc, không hăng hái sản xuất, không nâng cao năng suất lao động cá nhân. Mặt khác do phân phối tiền lương chưa tính đến tình hình sức khoẻ, thái độ lao động, nên chưa thực hiện đầy đủ nguyên tắc phân phối, theo số lượng và chất lượng lao động. Thứ ba là, chế độ trả lương theo sản phẩm gián tiếp công việc của họ có ảnh hưởng nhiều đến kết quả lao đôngj của công nhân chính hưởng theo sản phẩm. Công thức tính đơn giá tiền lương một đơn vị sản phẩm. ĐG = Trong đó: ĐG: Đơn giá tính theo sản phẩm gián tiếp. L: Lương cấp bậc của công nhân phụ Q: Mức sản lượng của công nhân chính Tiền lương của công nhân phụ có thể tính bằng cách lấy phần trăm hoàn thành mức sản lượng của công nhân chính nhân với mức lương cấp bậc của công nhân phụ. Ưu điểm: Do tiền lương của công nhân phụ phụ thuộc vào mức năng suất lao động của các công nhân chính mà anh ta phục vụ, do đó đòi hỏi công nhân phụ phải có trách nhiệm và tìm cách phục vụ tốt cho người công nhân chính hoàn thành công việc. Nhược điểm: Tiền lương của công nhân phụ phụ thuộc vào sản lượng của công nhân chính, nếu phụ thuộc vào thái độ làm việc, trình độ lành nghề của công nhân chính, cho nên chưa đánh giá chính xác công việc của công nhân phụ. Thứ tư là, chế độ trả lương khoán. Chỉ áp dụng cho những công việc nếu làm riêng từng chi tiết, từng bộ phận công việc hoặc theo thời gian thì không có lợi về mặt kinh tế và thời gian không đảm bảo, đồng thời công việc đòi hỏi một khối lượng tập thể nhiều loại công việc khác nhau yêu cầu hoàn thành theo đúng thời hạn. Chế độ lương này áp dụng chủ yếu trong xây dựng cơ bản và cho một số công việc trong nông nghiệp chế độ trả lương này có thể áp dụng cho cá nhân hoặc tập thể. Ưu điểm: Người công nhân biết trước được số tiền lương nhận được và khối lượng công việc của mình do đó chủ động tiến hành làm việc hoàn thành công việc được giao. Nhược điểm: là phải tính toán đơn giá hết sức tỉ mỉ để xây dựng đơn giá trả cho công nhân khoán. Thứ năm là chế độ trả lương theo sản phẩm có thưởng. Thực chất của chế độ trả lương này cũng giống như chế độ trả lương khoán nhưng kết hợp thêm các hình thức tiền thưởng. Khi áp dụng chế độ này phần tiền lương được tính theo đơn giá cố định, còn tiền thưởng sẽ căn cứ vào mức độ hoàn thành và hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu về mặt số lượng, thời gian công việc tất nhiên là chất lượng sản phẩm phải đảm bảo. Ưu điểm: Chế độ trả lương này khuyến khích người lao động hoàn thành vượt mức chỉ tiêu được giao. Nhược điểm: Việc xác định tỷ lệ thưởng tương đối phức tạp và đôi khi người công nhân quan tâm nhiều đến thời gian hoàn thành vượt mức ở chỉ tiêu nên ít chú trọng đến chất lượng công việc. Lương có thưởng được tính: Lth = Trong đó: L: Tiền lương theo sản phẩm với đơn giá cố định m: % tiền thưởng theo 1% hoàn thành mức chỉ tiêu thưởng. h: % hoàn thành mức chỉ tiêu thưởng. Thứ sáu là, chế độ trả lương theo sản phẩm luỹ tiến chế độ này áp dụng ở một số bộ phận yếu trong sản xuất bởi khi giải quyết được khâu này sẽ có tác dụng thúc đẩy sản xuất ở những khâu khác có liên quan góp phần hoàn thành vượt mức kế hoạch. ở công ty, nguồn tiền trả thêm được dựa trên tiền tiết kiệm, chi phí sản xuất gián tiếp. Trong chế độ trả lương này người ta dùng hai loại đơn giá: đơn giá cố định và đơn giá luỹ tiến. Đơn giá cố định dùng để tính cho các sản phẩm nằm trong mức quy định còn những sản phẩm vượt mức sẽ được trả theo đơn giá luỹ tiến cao hơn giá cố định, đơn giá luỹ tiến dựa vào đơn giá cố định và có tính đến tỷ lệ tăng đơn giá được tính theo công thức sau: K = x 100 Trong đó: K: Tỷ lệ tăng đơn giá hợp lý Dcđ: Tỷ trọng chi phí sản xuất gián tiếp cố định trong giá thành sản phẩm. Tc: Tỷ trọng tiền công nhân sản xuất trong giá thành sản phẩm khi hoàn thành mức sản lượng 100%. Công thức tính tổng tiền lương của công nhân là: ồL = P. Q1 + P.K (Q1 - Q0) Trong đó: ồL: Tổng tiền lương Q1: Sản lượng thực tế Q0: Sản lượng đạt mức khởi điểm P: Đơn giá cố định L: Tỷ lê đơn giá sản phẩm được nâng cao. Vì tiền lương được tính theo sản phẩm luỹ tiến phải trả đơn giá cao hơn cho những sản phẩm vượt mức nên tốc độ tăng của tiền lương có khả năng lớn hơn tốc độ tăng năng suất lao động nên người ta chỉ dùng một phần số tiền tiết kiệm được về chi phí sản xuất gián tiếp cố định (thường là 50%) để tăng đơn giá, phần còn lại để hạ giá thành. Khi áp dụng chế độ tiền lương này, người ta thường xây dựng bảng biểu để quy định mức độ vượt mức sản lượng và tỷ lệ tăng đơn giá sau một thời gian khi khâu yêu cầu sản xuất được xoá bỏ, sản xuất ổn định cân bằng thì nên chuyển sang chế độ tiền lương sản phẩm bình thường. IV. Sự cần thiết phải hoàn thiện hình thức tổ chức quản lý trả lương theo sản phẩm. 1. Tác dụng của lương sản phẩm. Việc trả lương theo sản phẩm căn cứ trực tiếp vào kết quả lao động của mỗi người, do vậy nó kích thích người lao động hăng say làm việc, không ngừng nâng cao trình độ tay nghề, cải tiến kỹ thuật nâng cao năng suất lao động hạn chế những hành động tiêu cực trong sản xuất, thiếu trách nhiệm làm bừa bãi làm ẩu. Nó cũng thúc đẩy cán bộ quản lý xí nghiệp phải cải tiến công tác đề cao trách nhiệm sản xuất và tổ chức lao động, quản lý đạt năng suất, chất lượng và có hiệu quả cao. Từ đó thúc đẩy quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả tốt. Mặt khác làm tốt công tác tiền lương nói chung và công tác trả lương sản phẩm nói riêng không những có lợi cho người lao động mà còn đối với toàn xã hội. Đó chính là sự tin tưởng gắn bó của người lao động vào doanh nghiệp. Việc trả lương theo sản phẩm quán triệt đầy đủ hơn nguyên tắc trả lương theo số lượng và chất lượng. Sản phẩm lao động nó gắn thu nhập với kết quả lao động của mỗi người, làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít. Do đó kích thích công nhân ra sức nâng cao nănag suất lao động. Mục đích của việc trả lương theo sản phẩm là nhằm phân phối hợp lý tiền lương trong lao động, thực hiện đúng nguyên tắc hưởng theo lao động. Việc trả lương theo sản phẩm còn khuyến khích người lao động nâng cao trình độ tay nghề, kiến thức chuyên môn, phát huy tính sáng tạo trong sản xuất tăng năng suất lao động góp phần đưa doanh nghiệp đi lên và đứng vững trong cơ chế thị trường. Lương sản phẩm cũng phản ánh khách quan về tiêu hao sức lao động giữa người thành thạo nghề nghiệp cùng một cấp bậc nhưng khác nhau về kỹ năng sản xuất, kỹ thuật, cách làm việc, sức khoẻ... Do đó khuyến khích người thợ quan tâm đến công việc của mình hơn, tìm tòi học hỏi để tích luỹ kinh nghiệm, nâng cao kỹ thuật, sử dụng hợp lý triệt để công suất máy móc thiết bị để nâng cao năng suất lao động đem lại lợi ích cho cá nhân và doanh nghiệp. Việc trả lương theo sản phẩm còn có tác dụng thúc đẩy việc cải tiến tổ chức lao động, tổ chức sản xuất, củng cố kỹ thuật lao động, hình thành phong cách lao động công nghiệp, phát huy tinh thần tập thể của người lao động vì bất cứ hiện tượng nào ảnh hưởng đến quy trình kỹ thuật làm đình trệ sản xuất là đều ảnh hưởng đến kết quả lao động, làm cho sản lượng tụt xuống, thu thập của người lao động giảm xuống, vì thế khi có hiện tượng này nó không những không đòi hỏi người thợ khắc phục thiếu sót thật nhanh chóng mà còn đòi hỏi doanh nghiệp phải có hướng đi đúng và tìm cách giải quyết. Từ đó nâng cao ý thức trách nhiệm của người công nhân trong doanh nghiệp. 2. ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả tổ chức quản lý trả lương. Hiện nay chúng ta đang áp dụng hai hình thức tư tưởng là trả lương theo thời gian và lương theo sản phẩm. Trả lương theo thời gian là hình thức trả lương cho người lao động căn cứ vào thời gian lao động và trình độ tay nghề của người lao động để quy định mà không quan tâm đến số lượng sản phẩm thực tế làm ra như vậy việc trả lương theo thời gian chỉ phản ánh được một số lượng thời gian lao động của người công nhân, chưa phản ánh về mặt chất lượng lao động của người công nhân. Qua đó chúng ta thấy rằng trả lương theo sản phẩm có ưu điểm hơn trả lương theo thời gian ở chỗ nó căn cứ vào số lượng và chất lượng sản phẩm làm ra, lương của người công nhân nhiều hay ít tuỳ thuộc vào số lượng và chất lượng sản phẩm mình làm ra nhiều hay ít, tốt hay xuất. Vì vậy đây là hình thức trả lương công bằng nhất, hợp lý nhất, thực tế nhất cần áp dụng nhất đối với những nơi trực tiếp tạo ra sản phẩm, trong ngành công nghiệp. Để chuyển sang cơ chế thị trường, tự chủ trong sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp không thể hoàn thành các hình thức, chế độ trả lương vì nó chính là nội dung của tự chủ sản xuất. Mặt khác nó có tác dụng tích cực, đến các mặt của quá trình tổ chức, quản lý sản xuất, đẩy nhanh quá trình tự chủ của xí nghiệp. Do đó, hình thức trả lương theo sản phẩm thể hiện tính khoa học cao so với hình thức trả lương theo thơì gian và là hình thức thích hợp nhất để thực hiện phân phối theo lao động, mức thu nhập của mỗi người trong đơn vị phụ thuộc vào năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả của mình và của toàn doanh nghiệp, không hạn chế mức thu nhập tối đa. Hình thức trả lương theo sản phẩm là một công cụ của hệ thống đòn bẩy kinh tế kích thích người lao động, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh của đơn vị. Tuy nhiên nó vẫn còn nhiều hạn chế. Thực tế cho thấy việc xác định đơn giá tiền lương trong hình thức trả lương theo sản phẩm là rất phức tạp, liên quan đến nhiều vấn đề kinh tế kỹ thuật như hệ thống các định mức lao động, định mức vật tư và sự biến động của giá cả máy móc thiết bị, tỷ lệ lạm phát... Trong các doanh nghiệp, đa số các hệ thống định mức đã lạc hậu hoặc thiếu chính xác, mặt khác một số chức năng có thể có những khâu những đoạn có thể xây dựng định mức đế tiến hành trả lương theo sản phẩm nhưng xí nghiệp vẫn trả lương theo thời gian. Có thể do chủ quan hoặc khách quan mà đơn giá tiền lương tính cao hơn thực tế, người lao động nhận tiền lương cao hơn sức lao động bỏ ra lại có doanh nghiệp tính đơn giá thấp hơn thực tế gây thiệt thòi cho người lao động. Như vậy đơn giá tiền lương không chính xác sẽ gây ra mất công bằng trong lao động. Mặt khác, công tác tổ chức phục vụ nơi làm việc, công tác thống kê, kiểm tra, nghiệm thu sản phẩm cũng chưa được các doanh nghiệp chú ý lắm. Bên cạnh đó do công nhân có xu hướng chạy theo khối lượng sản phẩm mà không chú ý đến chất lượng cũng là một vấn đề cần khắc phục, và tình trạng lãng phí nguyên vật liệu, sử dụng máy móc thiết bị không hợp lý cũng phải bàn đến. 3. Phương hướng hoàn thiện trả lương theo sản phẩm. Từ những thực tế còn tồn tại ở trên để khắc phục những mặt còn hạn chế đó và phát huy những ưu điểm của hình thức trả lương theo sản phẩm khi áp dụng các doanh nghiệp còn chú ý các vấn đề sau: Một là, xây dựng hệ thống định mức có căn cứ khoa học với từng loại sản phẩm, từng khâu sản xuất của từng doanh nghiệp. Hai là, tổ chức và phục vụ tốt nơi làm việc sản xuất. Ba là, làm tốt công tác giáo dục tư tưởng, giáo dục chính trị cho người lao động để họ nhận biết rõ trách nhiệm khi họ làm việc theo cơ chế thị trường trả lương theo sản phẩm. Bốn là, thực hiện phân công lao động hợp lý, bố trí người lao động phù hợp giữa bậc thợ và bậc công việc để tạo điều kiện cho việc trả lương đúng với chất lượng lao động. Năm là, thực hiện tốt công tác thống kê, kiểm tra nghiệm thu sản phẩm. Sáu là, khi có sự thay đổi về định mức lao động, chế độ tiền lương, điều kiện sản xuất, điều kiện lao động, chất lượng sản phẩm, kết cấu sản phẩm thì phải xác định lại đơn giá tiền lương. Tóm lại: Trong các chế độ trả lương đều bộc lộ những ưu, nhược điểm nhất định nhưng xét khái quát tổng thể thì hình thức trả lương theo sản phẩm là hình thức tiên tiến hơn, phù hợp hơn trong cơ chế thị trường ở nước ta hiện nay. Do vậy hoàn thiện và mở rộng phạm vi áp dụng hình thức trả lương theo sản phẩm là cần thiết trong các doanh nghiệp đặc biệt là những doanh nghiệp trực tiếp sản xuất ra sản phẩm và nhất là trong ngành công nghiệp, vận chuyển, khai thác. Bằng hình thức trả lương theo sản phẩm sẽ quán triệt nguyên tắc phân phối theo lao động và nó có nhiều tác dụng tích cực trong các đơn vị cơ sở kích thích người lao động tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Phần II. Thực trạng về công tác quản lý tiền lương ở Cảng khuyến lương. I. Những đặc điểm của Cảng ảnh hưởng tới công tác tổ chức quản lý tiền lương. 1. Quá trình hình thành và phát triển của Cảng Khuyến Lương. Cảng Khuyến Lương trực thuộc xí nghiệp liên hiệp vận tải biển pha sông. Cảng Khuyến lương là một doanh nghiệp Nhà nước của Bộ Giao thông vận tải, được thành lập theo quyết định số 2030 QĐ - TCCB ngày 11/10/1985 của Bộ giao thông vận tải. Cảng có trụ sở làm việc chính tại xã Trần Phú - huyện Thanh Trì - Hà Nội. Diện tích mặt bằng xây dựng Cảng 11ha. Vào thời điểm 1985 Bộ giao thông vận tải có quyết định dừng khai thác bến phà Khuyến Lương, chuyển khu đất bờ nam bến phà vào mặt bằng xây dựng Cảng Khuyến Lương bao gồm khu cầu tàu, bãi chứa hàng, khu kho và nhà làm việc cơ sở lán trại được xây dựng từ những năm chiến tranh chống Mỹ của đơn vị đảm bảo cho giao thông 208, được chuyển giao cho Cảng Khuyến Lương quản lý khai thác. Lực lượng cán bộ công nhân viên một thời oanh liệt dũng cảm kiên cường bám trụ bến phà dưới mưa bom bão đạn của giặc Mỹ, để luôn đảm bảo cho giao thông thông suốt trong thời chiến tranh phá hoại, được chuyển về Cảng là lực lượng chính tham gia vào lao động bốc xếp giai đoạn đầu mới thành lập. Năm 1986 Bộ giao thông vận tải phê duyệt luận chứng kinh tế kỹ thuật xây dựng Cảng giai đoạn I. Sau 3 năm xây dựng, giai đoạn I kết thúc các hạng mục đã đưa vào khai thác gồm: - Một cầu tầu dài 20m ở độ cao 10m được sử dụng để xếp dỡ hàng cho tầu pha sông biển loại 1000 tấn trọng tải. - Một cầu tầu dài 20m ở độ cao 7m chuyên dùng xếp dỡ hàng cho xà lan, tàu sông tự hành. - Một bến nghiêng chuyên dùng để xếp dỡ, kích kéo hàng nặng, hàng siêu trường siêu trọng. - Hai kho chứa hàng kiên cố có tổng diện tích là 1.720m2. - Ba cần trục bánh lốp có sức nâng 12T, 16T, 25T. - Gần 30.000m2 bãi chứa hàng. Đến ngày 27/4/1992, Cảng được Bộ quyết định bổ sung thêm nhiệm vụ cho Cảng trực thuộc xí nghiệp liên hiệp vận tải biển phà sông hạch toán kinh tế độc lập trước xí nghiệp liên hợp được thành lập theo quyết định số 2030 QĐ/TCCB - LĐ. Ngoài những nhiệm vụ được giao, được phép tổ chức đại lý vận tải, vận tải hàng hoá, thương thuyền và các dịch vụ sản xuất kinh doanh dịch vụ khác. Đến ngày 3/9/1997 để phù hợp với tình hình đất nước, Cảng được chuyển giao cho tổng công ty hàng hải Việt Nam mà trước đó là Bộ GTVT theo quyết định số 428/TCTL của Tổng công ty và cho tới nay. Qua thời gian dài thành lập và trưởng thành, Cảng đã có bề dày kinh nghiệm kinh doanh, tổ chức quản lý, lãnh đạo và đã có nhiều thành tích đóng góp xây dựng đất nước. Cảng Khuyến Lương đã nhận được bằng khen của Bộ GTVT và một số phần thưởng khác của các cơ quan cấp trên, đó là sự đánh giá đúng mức cho những nỗ lực vượt khó khăn của Cảng trong cơ chế thị trường. 2. Những đặc điểm của Cảng ảnh hưởng tới công tác tổ chức quản lý tar lương theo sản phẩm. 2.1. Đặc điểm sản xuất kinh doanh dịch vụ của Cảng. Trong cơ chế thị trường, mặc dù là một đơn vị doanh nghiệp nhà nước, do nhà nước cấp vốn với số vốn rất ít ỏi và nằm dưới sự quản lý của Tổng công ty hàng hải Việt Nam nhưng Cảng Khuyến Lương là một đơn vị kinh tế hoạt động kinh doanh độc lập, tự hạch toán độc lập làm sao hoàn thành nghĩa vụ với nhà nước và đảm bảo kinh doanh dịch vụ có lãi đảm bảo cuộc sống cho cán bộ công nhân viên. Trong những năm hoạt động kinh doanh dịch vụ vừa qua Cảng đã gặp rất nhiều khó khăn trong vấn đề nguồn hàng và thiết bị đâù tư. Nhưng nhờ sự nỗ lực của tập thể cán bộ công nhân viên của Cảng nên Cảng đã vượt qua và đạt được những kết quả nhất định. Năm 1999, Cảng hoạt động trong tình hình có một số thuận lợi nhất định, trong đó là nổi lên sản lượng bốc xếp, tấn thông qua tại Cảng vẫn đang và có đà phát triển, đặc biệt việc khai thác và tiêu thụ cát đen được đẩy mạnh, tổ chức đưa người và thiết bị vươn xa ra ngoài khu vực Cảng để khai thác thêm nguồn hàng bốc xếp, doanh thu của Cảng năm 1999 đã đạt hơn 13 tỷ đồng so với năm 1998 là tỷ đồng sau đây là kết quả sản xuất kinh doanh dịch vụ của Cảng trong mấy năm gần đây (biểu 1) 2.2. Chức năng, nhiệm vụ của Cảng. - Theo QĐ 2030/TCTB ngày 11/10/1985 của Bộ GTVT. + Cảng là đơn vị kinh doanh dịch vụ xếp dỡ hàng hoá, đảm bảo an toàn lao động và hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch được giao đáp ứng kịp thời yêu cầu vận chuyển hàng xuất nhập khẩu và hàng nội địa. + Giao nhận và bảo quản hàng hoá trong quá trình xếp dỡ vận chuyển và lưu kho bãi chống mất mát hư hỏng và thất lạc. + Tổ chức lao động khoa học và ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất của Cảng, nâng cao năng suất lao động, giải phóng nhanh các phương tiện vận tải và kho bãi Cảng. + Quản lý đại tu sửa chữa cầu bến, luồng lạch phao kê trong phạm vi vận tải và bốc xếp dỡ, thông tin liên lạc và phương tiện khác của Cảng theo đúng qui định và kỹ thuật đảm bảo hoạt động thường xuyên có hiệu quả. + Hướng dẫn, kiểm tra việc chấp hành các qui định luật lệ về giao thông vận tải đối với các phương tiện hoạt động trong phạm vi của Cảng làm các thủ tục cần thiết cho phương tiện vận tải ra vào Cảng. + Tổ chức phòng cháy, chữa cháy, cấp cứu tai nạn phương tiện vận tải, xếp dỡ, tổ chức điều tra xử lý các vụ tai nạn gây tổn thất cho tài sản của nhà nước xảy ra trong phạm vi quản lý của Cảng. - Theo quyết định bổ sung ngày 27/4/1992 số 673/TCCB - LĐ của Bộ GTVT. + Hạch toán kinh tế độc lập trước xí nghiệp liên hiệp vận tải biển phà sông được thành lập theo QĐ 2030 QĐ/TCCB - LĐ ngày 11/10/1985 ngoài những nhiệm vụ đã được giao, được phép tổ chức đại lý vận tải, vận tải hàng hoá, thường xuyên và các dịch vụ sản xuất kinh doanh tổng hợp khác. + Trong quá trình hoạt động Cảng có trách nhiệm thực hiện đúng pháp luật của Nhà nước, các qui định cụ thể của Bộ, các ngành đối với doanh nghiệp Nhà nước. - Theo QĐ số 428/TCTL ngày 3/9/1997 của Tổng công ty hàng hải Việt Nam. + Quản lý xây dựng và mở rộng cơ sở hạ tầng, trên cơ sở thực hiện kế hoạch đầu tư của Tổng công ty hàng hải Việt Nam. + Tổ chức bốc xếp, bảo quản hàng hoá, phục vụ các phương tiện đến và đi khỏi Cảng. + Tổ chức kinh doanh dịch vụ vận tải chuyển hàng hoá bằng đường thủy, đường bộ. 2.3. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của Cảng. Về tổ chức bộ máy: quản lý của Cảng theo quyết định số 2030/QĐ TCCB ngày 11/10/1985 của Bộ GTVT, bộ máy quản lý gồm 1 giám đốc, 3 phó giám đốc và các thành phần trực thuộc khác. Qua nhiều năm hoạt động, bộ máy quản lý của Cảng càng tỏ ra cồng kềnh, thiếu năng động, bảo thủ, trì trệ đặc biệt sau khi chuyển sang nền kinh tế thị trường bộ máy quản lý của Cảng càng thể hiện những yếu kém. Quý IV năm 1997, Tổng công ty hàng hải Việt Nam đã có quyết định số 428/TC - LĐ về việc tổ chức lại Cảng Khuyến Lương. Trong đó mô hình tổ chức bộ máy được xây dựng mới, đội ngũ cán bộ lãnh đạo được củng cố và thay đổi phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ. Mô hình bộ máy quản lý mới đang phát triển hiệu quả trong hoạt động quản trị. Các đơn vị đã tập hợp được trí tuệ, sức lực, cùng chung sức tạo năng lực mới, khí thế mới, tinh thần mới, quản lý mới. Thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh của Cảng trong 2 năm qua đạt hiệu quả cao. Ngày 26/8/1999 Tổng giám đốc xí nghiệp LHVT biển pha sông đã phê duyệt mô hình bộ máy quản lý của Cảng theo sơ đồ sau (trang bên) 1. Giám đốc: Theo uỷ quyền của Tổng giám đốc XNLHVT Biển pha sông, là người có quyền điều hành cao nhất trong Cảng, là người chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước Tổng giám đốc XNLH về mọi hoạt động của Cảng. 2. Phó giám đốc sản xuất: phụ trách theo dõi và tham mưu cho giám đốc Cảng các khu vực: + Phòng kế hoạch điều độ. + Đội kho hàng + Đội cơ giới. 3. Phó giám đốc kỹ thuật: Phụ trách theo dõi và tham mựu cho giám đốc Cảng các khu vực. + Phòng kỹ thuật vật tư + Xưởng sửa chữa cơ khí + Bồi dưỡng nâng cao tay nghề của công nhân + An toàn lao động và an toàn thiết bị 4. Phó giám đốc xây dựng cơ bản. Phụ trách theo dõi và tham mưu cho giám đốc Cảng các khu vực. + Phòng bảo vệ đời sống + Đội xây dựng cơ bản * Các phòng ban chuyên môn nghiệp vụ - Phòng nhân chính: chịu trách nhiệm tham mưu giúp việc cho giám đốc theo các lĩnh vực nghiệp vụ sau: ã Lao động tiền lương ã Tổ chức cán bộ ã Các loại hình bảo hiểm (xã hội, tai nạn, thiết bị) ã Bảo hộ lao động và an toàn lao động - Phòng kế toán tài vụ: chịu trách nhiệm tham mưu giúp việc cho giám đốc theo các lĩnh vực nghiệp vụ sau: ã Thống kê tài chính ã Quản lý tài chính ã Cung cấp số liệu cần thiết cho các phòng ban liên quan trong quản lý kinh doanh của Cảng. - Phòng kế hoạch điều độ. Tham mưu giúp việc cho giám đốc theo các lĩnh vực. ã Kế hoạch sản xuất ã Điều độ sản xuất ã Kế hoạch dài hạn, ngắn hạn. ã Cảng phí, thương vụ ã Thống kê báo cáo hoạt động sản xuất ã Xây dựng cơ bản nội bộ. - Phòng kỹ thuật vật tư: Tham mưu giúp việc cho giám đốc theo các lĩnh vực. ã Kỹ thuật công nghệ ã Cung ứng vật tư nhiên liệu ã Quản lý thiết bị thủy ã Thống kê báo cáo tình hình thiết bị vật tư ã Đại lý xăng dầu. - Phòng bảo vệ đời sống: Tham mưu giúp việc cho giám đốc. ã Hành chính quản trị. ã Hướng dẫn khách hàng đến các phòng ban của cơ quan khi khách hàng đến liên hệ công tác. ã Bảo vệ, giữ gìn cơ quan cũng như an ninh khu vực. ã Dân quân tự vệ, quân dự bị, phòng cháy chữa cháy. ã Y tế, vệ sinh lao động ã Đời sống, nhà ăn, dịch vụ. 2.4. Đặc điểm lao động của Cảng: Trong quá trình sản xuất yếu tố con người là đặc biệt quan trọng trong việc quản lý sử dụng lao đoọng và hình thành lực lượng lao động mạnh mẽ, phân công bố trí sử dụng lao động một cách hợp lý đảm bảo mối quan hệ với các yếu tố vật chất khác của quá trình sản xuất để đạt hiệu quả cao. Tính đến ngày 31 tháng 8 năm 2000, trong tổng số lao động có 76 lao động quản lý (45 người lao động có trình độ đại học chiếm 59,29%). Vì vậy, có thể nói rằng nhân viên có trình độ đại học trong đội ngũ lao động quản lý là chưa cao. Do đặc trưng của Cảng phải sử dụng khá nhiều lao động phổ thông, nên trình độ lao động nói chung thấp. Tuy nhiên, để có thể tiếp cận và bắt kịp với sự phát triển của khoa học kỹ thuật công nghệ và trình độ quản lý, Cảng cần phải tạo điều kiện cho các nhân viên của mình có thêm cơ hội học tập và nghiên cứu để nâng cao kiến thức của bản thân. Từ đó nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của Cảng. Chúng ta có thể xem qua biểu số 2. Biểu số 2: Báo cáo tình hình lao động năm 2000 Loại lao động Số lượng (người) Tỷ trọng (%) I. Phân theo chức năng 1. Lao động trực tiếp 112 41,48 2. Lao động gián tiếp 28 10,37 3. Lao động phục vụ 82 30,37 4. Lao động làm thuê, nghỉ tự túc 48 17,78 II. Phân theo trình độ 1. Đại học 45 16,67 2. Trung cấp, cao đẳng 26 9,63 3. Cán bộ trình độ PTTH 5 1,85 4. Công nhân kỹ thuật 179 66,3 5. Lao động khác 15 5,55 II. Phân tích thực trạng tổ chức quản lý tiền lương ở Cảng Khuyến Lương. 1. Quỹ tiền lương và tiền lương bình quân. Mấy năm gần đây đời sống của cán bộ công nhân viên Cảng Khuyến Lương đã dần dần được cải thiện, Cảng đã không ngừng phấn đấu để đạt được kết quả kinh doanh cao nhằm nâng cao đời sống cho công nhân viên, Cảng đã có đường lối đúng nên đã nâng cao được năng suất đông và tiền lương cho công nhân sự chuyển biến đó biểub hiện trong biểu sau: Biểu số 3: Năng suất lao động và tiền lương bình quân. Đơn vị tính: 1.000đ Chỉ tiêu 1999 2000 1999/2000 Số cán bộ công nhân viên (người) 258 270 Số công nhân đạt lao động giỏi (người) 91 120 Tiền lương bình quân (đồng) 700 670 Năng suất lao động bình quân (tháng) 136% 159% Tốc độ tăng NSLĐ 116% Tốc độ tăng tiền lương bình quân -0,96% Nhìn vào bảng ta thấy năng suất lao động vẫn đảm bảo tăng còn tốc độ tiền lương bình quân giảm 0,04% là do số lượng công nhân năm 2000 tăng hơn năm 1999. Số công nhân đạt lao động giỏi năm 2000 là 120 người tăng 131,9% so với năm 1999 điều này chứng tỏ công nhân ngày càng tích cực lao động sản xuất hăng say với công việc. 2. Việc áp dụng chế độ lương sản phẩm tại Cảng Khuyến Lương. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay bất kể doanh nghiệp nào khi tham gia sản xuất kinh doanh thì phải tính toán các loại nhuận đem lại từ các hợp đồng kinh tế, làm sao phải đảm bảo sản xuất có lãi thì mới làm. Để có được một phần lợi nhuận từ công việc sẽ đưa đến việc phải thanh toán một cách cụ thể các loại chi phí phải bỏ ra để ta một khối lượng snả phẩm. Các chi phí đó bao gồm: vật liệu, nhân công, hao mòn máy móc và các khoản phụ phí khác trong đó chi phí về vật liệu và hao mòn máy móc là hai chi phí bắt buộc cố định phải sử dụng. Còn chi phí nhân công sẽ là ít nhất mà vẫn tạo ra sản phẩm đạt chất lượng do đó người quản lý phải xem xét công việc cho từng công nhân, từng tổ từng nhóm công nhân sao cho phù hợp với trình độ, điều kiện làm việc của họ: Mỗi công việc có mức độ lao động phức tạp khác nhau và do nhiều công nhân có trình độ lành nghề khác nhau đảm nhận. Vì vậy muốn trả lương theo số lượng và chất lượng lao động thì trước hết phải xác định cấp bậc công việc thật đúng đắn. Cấp bậc công việc là điểm tựa vững chắc của công tác tổ chức quản lý sản xuất, tổ chức lao động và tổ chức quản lý tiền lương. Đồng thời nó còn là căn cứ để kế hoạch hoá quỹ lương và thực hiện phân công lao động theo tính chất phức tạp công việc khi thực hiện trả lương theo sản phẩm xác định đơn giá tiền lương chính xác hay không phụ thuộc rất nhiều vào mức độ chính xác của cấp bậc công việc đã xác định vì đơn giá được tính trên mức lương cấp bậc của công nhân do đó phải nhận biết rõ cấp bậc công nhân và cấp bậc công việc. Cấp bậc công nhân là trình độ của người thợ bao gồm kiến thức hiểu biết kỹ năng, kỹ sảo nghề nghiệp và tinh thần trách nhiệm đủ để thực hiện thành thạo các công việc có mức độ phức tạp kỹ thuật tương ứng. Cấp bậc công việc là mức độ phức tạp của công việc đã được xác định theo một thang phức tạp kỹ thuật của một nghề hoặc một nhóm nghề. Độ phức tạp này biểu hiện trên các yếu tố công nghệ, yếu tố sản xuất được thể hiện cụ thể ở các chức năng lao động và tinh thần trách nhiệm. Một trong những yêu cầu của tổ chức lao động khoa học là cấp bậc công nhân phù hợp với cấp bậc công việc, việc phân công lao động theo mức độ, phức tạp của công việc vừa sử dụng hợp lý trình độ lành nghề của công nhân vừa tạo điều kiện cho công nhân có thể hoàn thành tốt công việc của mình. Muốn đạt được điều đó thì việc xác định hình thức lương sản phẩm cho người công nhân là rất cần thiết. Điều này loại bỏ được việc làm, theo công hay theo giờ mà không có hiệu quả, gắn được trách nhiệm của người công nhân vào từng sản phẩm, từng công việc hoàn thành, khuyến khích được người công nhân tìm tòi, sáng tạo cách làm mới sao cho ra đời sản phẩm nhanh nhất nhưng vẫn đảm bảo chất lượng và tiết kiệm nguyên vật liệu theo yêu cầu. Đồng thời qua đó cũng nâng cao tay nghề của người công nhân đưa người công nhân từ tư thế làm việc thụ động, đối phó sang các làm việc sáng tạo, chủ động và có tính tự giác cao. Hình thức trả lương theo sản phẩm có nhiều cách được áp dụng nhưng từ cách nhìn nhận của Cảng Khuyến Lương, do tính chất phức tạp trong hoạt động sản xuất nên việc thực hiện chế độ trả lương theo sản phẩm được áp dụng cho bộ phận lao động trực tiếp hưởng theo đơn giá khoán. Ví dụ: Để bốc xếp hàng trên tàu khi đó việc sẽ giao cho tổ bốc xếp tiến hành theo từng công việc như giao khoán cho tổ bốc xếp 1, tổ bốc xếp 2... chẳng hạn bốc xếp 1 tấn hàng sẽ được hưởng 200.000đ/1T. Hình thức trả lương này có ưu điểm khuyến khích người lao động hoàn thành nhiệm vụ trước thời hạn, đảm bảo khối lượng công việc thông qua hợp đồng giải phóng mặt bằng. Tuy nhiên việc xác định đơn giá khoán khá phức tạp, nhiều khi khó chính xác. Việc trả lương theo sản phẩm khoán có thể làm cho người lao động bốc xếp không chú ý đến một số việc bộ phận trong quá trình hoàn thành công việc giao khoán. Do vậy, thay bằng việc xây dựng một đơn giá, tổng hợp chung Cảng Khuyến Lương xây dựng một đơn giá tiền lương cho 5 lĩnh vực hoạt động kinh doanh như khai thác Cảng, nạo vét tận thu cát đen, vận tải, kinh doanh khác và kinh doanh XDCB. Đây là một thành công đáng kể, do đơn giá tiền lương, hao phí lao động cho mỗi loại hình kinh doanh khác xa nhau, khó có thể qui đổi về một đơn giá tổng hợp. Hàng năm khi lập kế hoạch quỹ tiền lương Cảng Khuyến Lương căn cứ vào: - Nghị định 28/CP ngày 28 tháng 3 năm 1997 của chính phủ về đổi mới quản lý tiền lương thu nhập trong các doanh nghiệp nhà nước. - Thông tư số 13 LĐTBXH - TT của BLĐTB và XH về hướng dẫn phương pháp xây dựng đơn giá tiền lương và quản lý tiền lương trong các doanh nghiệp nhà nước. - Hướng dẫn và kế hoạch tiền lương năm kế hoạch của xí nghiệp liên hợp. - Kế hoạch sản xuất kinh doanh năm kế hoạch và kết quả nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của năm trước. 2.1. Phương pháp xác định kế hoạch quĩ tiền lương căn cứ vào: + Nhiệm vụ sản xuất kinh doanh năm 2001 + Xác định quỹ tiền lương năm kế hoạch để xây dựng đơn giá tiền lương. ã Xác định mức lương tối thiểu để xây dựng đơn giá tiền lương. ã Xác định lao động định biên năm 2001 ã Tính toán mức chi phí tiền lương. ã Tính đơn giá tiền lương áp dụng công thức: MV = (đ/1000đ dt) Trong đó: Q: Mức sản lượng kế hoạch năm (T, m3, m2) Tth: Hao phí lao động tổng hợp (h - người/T) Li: Lương cấp bậc bình quân làm ra sản phẩm (đ/h) ã Xác định quỹ lương theo nhiệm vụ sản xuất kinh doanh năm 2001. Quỹ tiền lương kế hoạch năm 2001 được thông qua bảng sau: Bảng 3: Bảng kết quả hao phí lao động và đơn giá tiền lương. xin giao năm 2001 Số TT Công nghệ sản xuất Hao phí LĐ (h-người/đvsp) Đơn giá TL (đ/ddt) Quỹ tiền lương 1 Khai thác Cảng 1,42 0,43 1.223.317.320 2 Nạo vét tận thu cát đen 0,274 0,246 561.987.000 3 Vận tải bộ 0,464 0,219 265.486.700 4 Vận tải thủy 0,84 0,118 86.434.200 5 Kinh doanh khác 1,6 0,077 70.698.300 Xây dựng cơ bản 26,67 0,115 221.785.600 (*)123.169.000 Cộng 2.552.878.120 2.2. Phương pháp sử dụng quản lý quỹ tiền lương tại Cảng Khuyến Lương. Trong nhữngnăm gần đây, căn cứ theo quyết định tỷ lệ tiền lương trên doanh thu xí nghiệp liên hợp và Cảng duyệt, Cảng xây dựng quỹ tiền lương thực hiện của đơn vị. Để đảm bảo như đúng tinh thần của công văn số 4320/LĐTBXH tiền lương ngày 29/12/1998 của Bộ lao động thương binh và xã hội về việc hướng dẫn quy chế trả lương trong các doanh nghiệp Nhà nước, để đảm bảo quỹ tiền lương không vượt chi so với quỹ tiền lương được hưởng, dồn chi quỹ tiền lương quá lớn cho năm sau, bước đầu Cảng qui định sử dụng quỹ tiền lương thực hiện như sau: Chi lương thực tế: 90% tổng quĩ tiền lương. Quỹ dự phòng cho năm sau: 10% tổng quỹ lương. Nhưng hai năm gần đây (1999 - 2000) tổng quỹ lương của Cảng hầu như sử dụng chi lương cho cán bộ công nhân viên và chi các khoản có tính chất lương là 100% tổng quỹ tiền lương và không để lại quỹ dự phòng cho năm sau. Việc chi toàn bộ quỹ tiền lương thực hiện sẽ đảm bảo được tỷ lệ hoàn thành mức và không bị dồn quỹ tiền lương quá lớn cho năm sau. Tuy nhiên, việc chi hết tổng quỹ tiền lương chưa hẳn khẳng định là việc sử dụng quỹ tiền lương ở Cảng là có hiệu quả. 3. Đầu vào của doanh nghiệp bao gồm tài chính và lao động. - Nguồn tài chính: Do Nhà nước cấp ban đầu và trải qua quá trình sản xuất kinh doanh có lãi đồng thời Cảng đã khắc phục tình trạng thiếu vốn bằng cách mạnh dạn vay ngân hàng và huy động vốn nhàn rỗi trong CBCNV để đầu tư chiều sâu cho Cảng. Tạo được cân bằng trong cán cân tài chính, đáp ứng kịp thời phục vụ nhu cầu sản xuất kinh doanh của Cảng. Trong năm 2000 Cảng đã xây dựng được quy chế nội bộ về công tác tài chính của Cảng. Hàng tháng vào các ngày giao ban đã thông báo thu vốn và sử dụng vốn của các tổ, đội trong Cảng. Củng cố lại mạng lưới nhân viên ở các phòng ban, các đội và tổ chức tập huấn công tác. - Về lao động: Nguồn lao động chủ yếu là các cán bộ công nhân viên trong Cảng và sử dụng ký hợp đồng với các lao động bên ngoài. Năm 2000 Cảng đã củng cố lại bộ máy quản lý từ các phòng ban Cảng đến các tổ, đội. Điều động tăng cường cán bộ cho các phòng, ban để đủ mạnh chỉ đạo và phục vụ sản xuất, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cao hơn. Cảng, phân công, phân cấp trách nhiệm rõ trong Ban giám đốc để trực tiếp điều hành các lĩnh vực hoạt động trong Cảng, giúp cho các tổ, đội, các bộ phận tuỳ từng lĩnh vực về vật tư, kỹ thuật, an toàn lao động, trang thiết bị công việc và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật. Thực hiện quy hoạch cán bộ, có kế hoạch đào tạo bồi dưỡng về chuyên môn quản lý kinh tế, chính trị, ngoại ngữ, tin học, để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao theo tiêu chuẩn hoá cán bộ của Tổng công ty Hàng Hải. Cảng đã đề ra được những quy chế quản lý cho từng lĩnh vực chuyên môn, như quy chế quản lý lao động, quản lý vật tư, quy chế quản lý tài chính. Tiếp tục triển khai hoàn chỉnh mô hình cơ cấu tổ, đội mà các năm trước đã thực hiện, trong năm 2000 Cảng đã cử đi đồng chí đi học tin học, 3 đồng chí đi học lớp bồi dưỡng quản lý và 4 đồng chí đang theo học Tại chức ở trường kinh tế. Cũng trong năm 2000 Cảng đã xét nâng bậc lương cho 9 cán bộ và 25 công nhân kỹ thuật. 4. Về đầu ra của Cảng bao gồm toàn bộ kết quả thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh. - Tình hình thực hiện hoạt động kinh doanh năm 1999. A - Sản lượng I - Sản lượng 208.727 tấn đạt 69,6%KH 1 - Tấn thông qua tại Cảng. - Xi măng: 99.478 tấn đạt 55,2%KH - Than: 30.962 tấn đạt 75% KH - Thức ăn gia súc: 19.856 tấn - Hàng khác: 271 tấn + Hàng xuất: 7.085 tấn đạt 33% KH - Phân lân: 7.085 tấn đạt 35,4% KH 2 - Tấn thông qua bến lẻ:14.385 tấn đạt 35,4% KH - Xi măng: 13.815 tấn - Hàng khác 570 tấn II - Tấn bốc xếp 539.644 tấn đạt 110,1% KH III - Vận tải 1. Vận tải bộ: 42.310 tấn đạt 169% KH Tấn/km 252.297 tấn đạt 72,1% KH 2. Vận tải thuỷ: 125.901 tấn đạt 209,8% KH Tấn/km 25.201.200 đạt 210% KH IV. Kinh doanh cát vàng: Năm 1997: Nhập: 34.095m3 + tồn 1996(1622m3) Xuất bán 35.098m3 đạt 68%KH - Cát đen Năm 1999: Nhập 222.450m3 + tồn 1996 (164.591m3) Xuất bán 298.111m3 đạt 198,7%KH B. Doanh thu 1999: đơn vị tính 1000đ - Tổng doanh thu: 13.707.212.041đ đạt 147,1%KH - Doanh thu sản xuất chính: 13.369.912.041 đạt 153,8% KH - Bốc xếp 2.050.595.575 đạt 76%KH - Kho hàng 347.026.492 đạt 268% KH - Phí cầu Cảng 44.264.700 - Vận tải bộ 558.603.914 đạt 124% KH - Kinh doanh cát 3.314..963.200 đạt 131% - Thu ngoài kinh doanh cơ bản 337.300.000 đạt 54.1% KH + Chi phí khác 13.215.417,1 C - Các chỉ tiêu trích nộp - Thuế doanh thu 325.298.100 đạt 149,7% KH - Lỗ (-) Lãi (+) + Lãi năm 1999: 166.416.826 đạt 291,2% KH D. Lao động và thu nhập - Lao động có đầu năm: 212 người - Lao động có cuối năm: 258 người - Thu nhập bình quân (đ/ng/tháng) 704.000đ Đạt 132,3% KH - Sang năm 2000 Cảng thực hiện sản xuất kinh doanh: I. Tấn thông qua: 373.215 tấn đạt 124,4% + Tấn, thông qua tại Cảng: 364.315 tấn đạt 130,21% KH + Tấn thông qua bến lẻ 8.864 tấn 1. Hàng nhập 364.453 tấn đạt129,09% KH - Xi măng 84.904 tấn đạt 77,18% KH - Than 44.973 tấn đạt 90% KH - Thức ăn gia súc 16.123 tấn 26,87% KH - Hàng khác 5.724 tấn đạt 57,24% KH 2. Hàng xuất 2.898 tấn đạt 14,50% KH - Phân lân 2. 520 tấn đạt 16,8% KH - Hàng khác 378 tấn đạt 7,6 KH 3. Kinh doanh cát: - Cát vàng + sỏi: 33.324m3 đạt 36,64% KH Năm 2000: - Cát vàng Nhập: 29.440 m3 Xuất: 29.792m3 Tồn: 97.619m3 - Cát đen: Nhập: 248.531,6m3 Xuất 175.805,6m3 Tồn: 1999 - 88.930m3 II - Vận tải: 1 - Vận tải bộ. Tấn: 56.584 đạt 141,46% so với KH Tấn/km 371.938 đạt 123,98% so với KH 2 - Vận tải thuỷ Tấn: 129.254 đạt 143,50% so với KH Tấn/km 26.429.810 đạt133,48% so với KH III - Doanh thu năm 2000 Đạt 15.338.773.714 bằng 122,54% so với KH - Doanh thu 3 x chính (1000đ) 14.463.975 = 125,9% so với KH + Bốc xếp: 1.771.152 + Kho hàng đạt: 693.349 + Phí cầu bến đạt: 43.989 + Vận tải thủy đạt: 7. 394.153 + Vận tải bộ đạt: 2.102.157 - Xây dựng cơ bản (1000đ) 874.798.005 = 87,4% KH - Thu khác (1000đ) 1. 908.474.365 IV Các chỉ tiêu phải nộp - Thuế doan thu: 347.318,937 = 99,23% KH Năm 2000 Cảng sản xuất kinh doanh có lãi là 53.589.467 đ - Thu nhập bình quân đầu người/ tháng 668.200đ Nhìn chung tình hình hoạt động dịch vụ của Cảng trong hai năm 1999 và 2000 là ổn định vàcó sự tăng trưởng năm sau cao hơn năm trước. Xem biểu 4. Biểu số 4: Chỉ tiêu 1999 2000 Tỷ lệ % Doanh thu 13.707.212 15.338.773 111,9% + Doanh thu sản xuất chính 13.369.912 14.463.975 108,1% - Bốc xếp 2.050.505 1.77.152 86,3% - Kho hàng 347.206 693.349 199,7% - Phí cầu Cảng 44.264 43.989 99% - Vận tải thủy 7.020.190 7.394.153 105,3% Vận tải bộ 558.603 500.702 89,6% - Kinh doanh cát 3.314.963 2.102.157 63% - Thu khác + Thu ngoài kinh doanh cơ bản 337.300 874.798 259,3% 5. Đối với việc thực hiện chế độ chính sách các chế độ bảo hiểm được quy định như sau: Chế độ trợ cấp ốm đau được áp dụng cho những lao động nghỉ việc vì ốm đau, tai nạn, rủi ro, lao động, nữ có con thứ nhất, thứ hai dưới 72 tháng tuổi bị ốm có xác nhận của cơ quan y tế. Đối với những người công tác từ 1 - 5 năm hưởng 75% lương cơ bản thời gian nghỉ 3 tháng. 5 - 10 năm được hưởng 80% cơ bản thời gian nghỉ 6 tháng. 10 - 15 năm được hưởng 85% lương cơ bản thời gian nghỉ 9 tháng. 15 - 20 năm được hưởng lương 90% lương cơ bản thời gian nghỉ 6 tháng. Sau quyết định 202 về tiền lương, quyết định 203 về bảo hiểm xã hội được nhận lương bảo hiểm xã hội với hệ số 2,25. Như vậy lương ốm = lương cơ bản x 2,25% lương hưởng BHXH x thời gian nghỉ chế độ. Đối với chế độ trợ cấp thai sản, áp dụng cho lao động nữ có thai sinh con thứ nhất, thứ hai. Thời gian nghỉ là 6 tháng và hưởng lương 100% lương. Mức trợ cấp = 100% (Lcs x 2,25) x 6 tháng. Chế độ trợ câp tai nạn lao động áp dụng cho những người lao động bị tai nạn lao động trong giờ làm việc, nơi làm việc kể cả làm việc ngoài giờ, bị tai nạn khi đi công vụ được giao, trên đường đi về nơi làm việc. Trong thời gian nghỉ để điều trị người bị tai nạn lao động được hưởng 100% lương cơ bản, cho đến khi điều trị ổn định xếp loại thương tật. Mức trợ cấp = 100% Lcb khi nghỉ hưu. Đối với người lao động đã đủ 30 năm nhưng chưa hết tuổi lao động thì cứ sau mỗi năm công tác sẽ được hưởng 1%Lcb nữa, chế độ tử tuất áp dụng cho những người đang làm việc hoặc đã nghỉ hưu bị chết. Kể từ ngày 30/6/1995 Cảng Khuyến Lương đã tiến hành áp dụng chế độ bảo hiểm mới theo nghị định 43CP ngày 22/6/1993 với mức tính bảo hiểm hàng năm là 20% tiền lương thực hiện. Trong 15% Cảng đóng góp 5% người lao động nộp Chế độ và mức lương bảo hiểm mới quy định như sau: Chế độ trợ cấp ốm đau, mức trợ cấp ốm đau trả thay lương 75% mức lương mà người đó đóng bảo hiểm xã hội trước khi nghỉ. Thời gian nghỉ đối với người làm việc trong điều kiện bình thường là: 30 ngày 1 năm nếu đóng BHXH dưới 15 năm 45 ngày 1 năm nếu đóng BHXH 15 năm trở lên. Đối với người lao động trong điều kiện nặng nhọc độc hại, nguy hiểm, được nghỉ. 40 ngày 1 năm nếu đóng bảo hiểm dưới 15 năm, 60 ngày 1 năm nếu đóng bảo hiểm trên 15 năm, chế độ trợ cấp thai sản: thời gian nghỉ là 4 tháng, mức trợ cấp được hưởng là 100% lương cơ bản mới theo nghị định 05/CP mà người đó đóng bảo hiểm xã hội trước khi nghỉ. Chế độ trợ cấp tai nạn lao động trong thời gian nghỉ việc để điều trị cho đến khi ổn định thương tật được hưởng 100% định mức tiền lương trước khi bị tai nạn và chi phí chữa trị các khoản chi phí này do người sử dụng lao động trả. Khi thương tận ổn định, người bị tai nạn lao dkdộng được giám định khả năng lao động, tuỳ theo mức độ khả năng suy giảm khả năng lao động để xác định tiền trợ cấp, chế độ hưu trí lương hưu được trả hàng tháng khi có đủ 2 điều kiện là thời gian đóng bảo hiểm xã hội 20 năm trở lên, tuổi đời nam là 60 tuổi, nữ là 55 tuổi. Người đủ hai điều kiện trên được hưởng lương hưu 55% lương đóng bảo hiểm xã hội tính thêm 2% nhưng tối đa không quá 75% lương đóng bảo hiểm xã hội bình quân. Người được hưởng lương hưu một lần là người không có đủ 2 điều kiện trên. Cơ sở để tính trợ cấp hưu một lần căn cứ vào số năm đóng bảo hiểm xã hội, cứ mỗi năm đóng bảo hiểm xã hội được trợ cấp bằng một tháng tiền lương đóng bảo hiểm xã hội bình quân trước khi nghỉ. Chế độ cấp tử tuất. Mức chi phí mai táng = 7 tháng tiền lương tối thiểu áp dụng cho người có thời gian đóng bảo hiểm xã hội đủ 15 năm trở leen bị chết, người hưởng lương hưu hàng tháng. Mức tiền tuất hàng tháng cho một thân nhân = 25% mức lương tối thiểu, nhiều nhất không quá 4 thân nhân được hưởng trợ cấp hàng tháng. Đối với thân nhân thuộc diện hưởng trợ cấp tử tuất hàng tháng thì được nhận trợ cấp một lần tính theo số người ăn đã đóng bảo hiểm. Cứ mỗi năm được trợ cấp bằng 1/2 tháng tiền lương BHXH nhưng không quá, 12 tháng. Đối với việc thực hiện chế độ chính sách Cảng Khuyến Lương đã nộp bảo hiểm hàng năm đầy đủ, mua bảo hiểm y tế cho 100% cán bộ công nhân viên đi làm lập sổ lao động cho 210 cán bộ công nhân viên và triển khai lập sổ bảo hiểm xã hội cho cán bộ công nhân viên, giải quyết chế độ hưu trí cho các cán bộ đã đủ điều kiện. Cảng còn tổ chức cho cán bộ công nhân viên đi tham quan nghỉ mát, điều dưỡng không mất tiền và xét trợ cấp khó khăn cho nhiều cán bộ công nhân viên có hoàn cảnh đặc biệt. Ngoài ra Cảng còn tổ chức việc khám sức khoẻ định kỳ cho cán bộ công nhân viên. Năm 2000 Cảng Khuyến Lương đã xét trợ cấp khó khăn cho 30 cán bộ công nhân viên với số tiền là 4.500.000 đồng, tổ chức mua quà mừng sinh nhật đối với cán bộ công nhân viên bình quân 30 nghìn đồng/ người. Tổ chức tốt việc thăm hỏi ốm đau, hiếu hỉ và quam tâm tới hoạt động văn hoá thể thao, thưởng cho các cháu con em cán bộ công nhân viên có thành tích trong học tập. Với đường lối chủ trương đúng đắn của các cán bộ quản lý của Cảng, thực hiện đầy đủ các chế độ chính sách đối với cán bộ công nhân viên đã khích lệ kịp thời tinh thần tập thể, tinh thần trách nhiệm của mỗi cá nhân. Đồng thời khuyến khích được mọi người công nhân hăng say lao động giúp Cảng ngày càng vững mạnh và hoạt động kinh doanh dịch vụ có hiệu quả. III. Hiệu quả và những tồn tại khi áp dụng lương sản phẩm tại Cảng. 1. Hiệu quả: Một vài năm gần đây, nhờ đổi mới cơ chế quản lý và thích nghi với môi trường sản xuất kinh doanh cạnh tranh gay gắt, bằng nhiều lỗ lực phấn đấu của tất cả cán bộ công nhân viên trong Cảng, Cảng Khuyến Lương ngày càng khẳng định chỗ đứng của mình trên thị trường và ngày càng phát triển. Trong các chính sách của mình sau khi ban hành và áp dụng cơ chế khoán Cảng luôn tìm mọi cách để xây dựng một đơn giá tiền lương hợp lý, hạch toán tiền lương hàng tháng theo đúng hao phí lao động, để xác định và đánh giá quỹ tiền lương theo doanh thu. Việc xây dựng đơn giá tiền lương như vậy đã phân bố khá rõ mức độ đóng góp công sức của từng ngươì lao động, từng bộ phận, thể hiện tính chất công bằng trong tiền lương. Do vậy, đã khuyến khích người lao động nâng cao tính chủ động, sáng tạo trong lao động và nâng cao năng suất lao để để tăng thu nhập chính đáng cho mình. Tiền lương bình quân của một cán bộ công nhân viên năm 1999 là 700.000đ/tháng đến năm 2000 đạt 670.000đ/tháng. Tóm lại, việc xây dựng đơn giá tiền lương khoán là phù hợp với điều kiện sản xuất kinh doanh của Cảng. Các quỹ tiền lương, mức lương hàng năm đều phù hợp với kết quả sản xuất kinh doanh, tác động có hiệu quả tới công tác quản lý nói chung và công tác quản lý tiền lương nói riêng. 2. Những tồn tại và khó khăn cần khắc phục khi áp dụng lương sản phẩm tại Cảng. Việc áp dụng cơ chế khoán có những điểm mạnh như chúng ta đã biết nhưng bên cạnh đó cũng không tránh khỏi những tồn tại. Khi xây dựng đơn giá tiền lương làm cơ sở để giao khoán cho từng công nghệ kinh doanh sẽ tốn mất nhiều thời gian. Vì vậy phải tiến hành làm trong thời gian lâu dài đòi hỏi cán bộ tiền lương phải tỉ mỉ, chính xác cẩn thận mới làm được. Do đó, trong quá trình xây dựng đã không tránh khỏi những thiếu sót như chưa tính hết hao phí lao động cần thiết hoặc chưa định biên được đúng lao động. Vì thế ảnh hưởng không tốt đến việc thực hiện khối lượng công việc như chi thực tế có thể cao hơn hoặc thấp hơn so với khối lượng công việc. Số lượng lao động trong cảng tuy không lớn song chất lượng lao động lại khá phong phú và đa dạng. Lao động ở mọi trình khác nhau và không đồng đều hơn nữa điều kiện làm việc cũng khác nhau. Do đó, khi tính lương cấp bậc bình quân để làm ra sản phẩm để làm cơ sở tính đơn giá tiền lương phải tinhs riêng cho từng loại lao động. Không thể tính đơn giá tiền lương một cách qua loa mà phải mất nhiều thời gian và công sức. Chính sách về tiền lương của Nhà nước ta liên tục thay đổi để phù hợp với tình hình thị trường cũng là một khó khăn cho việc áp dụng lượng sản phẩm. Vì việc xây dựng quỹ tiền lương ở Cảng tương đối phức tạp, do đó để điều chỉnh cần phải có thời gian nên khi đó có thể người lao động sẽ chịu thiệt thòi vì vẫn phải sử dụng đơn giá cũ. Một bộ phận máy móc, thiết bị, kỹ thuật, công nghệ sản xuất của Cảng hiện nay đã lạc hậu, không đáp ứng với cơ chế cạnh tranh đang diễn ra gay gắt từng ngày từng giờ về chất lượng và giá cả sản phẩm. Vì vậy, hậu quả tất yếu xảy ra là năng suất lao động thấp, chi phí tiền lương và chi phí vật chất để sản xuất ra sản phẩm là cao, đồng thời chất lượng sản phẩm kém làm giảm khả năng cạnh tranh trên thị trường. Năng suất lao động thấp, chi phí tiền lương cao phần lớn ảnh hưởng đến doanh thu. Đội ngũ lao động đặc biệt là đối với công nhân trực tiếp làm theo lương sản phẩm phải có sự bố trí sắp xếp lại cho hợp lý và đạt được hiệu quả trong sản xuất kinh doanh. Hiện nay việc bố trí công nhân làm việc chưa hợp lý, chỗ thiếu người, chỗ thừa người. Khi đó để xây dựng quỹ tiền lương năm sau tăng hơn năm trước và đảm bảo tăng tiền lương cho người lao động là một việc làm hết sức khó khăn, vì vậy phải đảm bảo tốc độ tăng năng suất lao động phải nhanh hơn tốc độ tăng tiền lương bình quân. Phần III Một số biện pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác tổ chức quản lý tiền lương ở Cảng Khuyến Lương Trong nền kinh tế thị trường hiện nay các doanh nghiệp luôn luôn củng cố, hoàn thiện để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của mình. Tuy nhiên không một doanh nghiệp nào dám khẳng định là mình đang hoàn thiện 100%. Vì môi trường kinh doanh luôn luôn thay đổi, do đo các doanh nghiệp cũng phải luôn luôn đổi mới để phù hợp với môi trường kinh doanh. Cảng Khuyến Lương cũng không nằm ngoài trong số đó. Trong suốt thời gian thực tập tại Cảng Khuyến Lương, với những kiến thức đã thu thập được trong quá trình học tập ở trường, cùng với sự cố gắng trong học hỏi, tìm hiểu, phân tích hoạt động công tác quản lý tiền lương, tôi xin mạnh dạn đưa ra một số biện pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa hình thức trả lương theo sản phẩm. I. Biện pháp nâng cao tiền lương bình quân 1. Hoàn thiện hệ thống định mức lao động Trong công tác tổ chức quản lý tiền lương việc xây dựng định mức lao động là công tác hết sức quan trọng là căn cứ để xác định số lao động cần thiết (lao động định biên). Nó còn là điều kiện không thể thiếu được trong mọi cơ sở sản xuất đảm bảo hiệu quả cho quá trình sản xuất đồng thời nó cũng là biện pháp quản lý lao động có căn cứ khoa học. Định mức lao động chính xác là rất cần thiết để có đơn giá tiền lương/ doanh thu hợp lý. Định mức lao động là xác định la động hao phí quy định để hoàn thiện một đơn vị sản phẩm hoặc khối lượng công việc theo tiêu chuẩn chất lượng trong điều kiện tổ chức, kỹ thuật nhất định. Việc xây dựng định mức ở Cảng Khuyến Lương là khó kế hoạch vì sản xuất kinh doanh của Cảng mang tính đa dạng, vừa mang tính sản xuất, vừa mang tính dịch vụ và phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Với 5 công nghệ kinh doanh thì việc định mức lao động là khó khăn. Vì vậy để làm tốt công tác tổ chức quản lý tiền lương cần phải hoàn thiện định mức lao động nhằm đảm bảo hài hoà giữa các lợi ích khi chuyển sang cơ chế thị trường, ở hầu hết các doanh nghiệp Nhà nước, vai trò của định mức lao động không được coi trọng. Cảng Khuyến Lương là một doanh nghiệp Nhà nước có quy mô nhỏ nhưng lại hoạt động trên nhiều lĩnh vực kinh doanh mà việc định mức lao động lại rất khó khăn. Vì vậy nên cần tổ chức một ban định mức lao động; Trên cơ sở chính sách tiền lwong của Nhà nước, dựa vào hiệu quả sản xuất kinh doanh của từng bộ phận và của toàn Cảng để xây dựng hệ thống đơn giá tiền lương cho từng sản phẩm, từng công việc cụ thể. Củng cố và đổi mới hoạt động hoạt động định mức lao động trong Cảng, cùng với sự đổi mới nhận thức về vai trò của định mức lao động trong công tác quản lý doanh nghiệp phải bắt đầu từ việc tổ chức lại bộ máy đến xây dựng quy chế định mức trong Cảng. Và sau khi xây dựng định

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docQ0077.doc
Tài liệu liên quan