Đề tài Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh tại xí nghiệp tháng 8

Sử dụng vốn có hiệu quả nhằm bảo toàn và phát triển vốn trong các doanh nghiệp hiện nay là vấn đề rất cấp bách có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các doanh nghiệp nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung Là đơn vị hoạch toán kinh tế độc lập hoạt động trong cơ chế thi trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Xí nghiệp tháng 8 đã không ngừng tỏ rõ những ưu thế của mình trong cạnh tranh, duy trì và phát triển năng lực sản xuất đồng thời nâng cao đời sống các hộ công nhân viên.Tuy nhiên để thích ứng với cơ chế mới xí nghiệp vẫn còn gặp nhiều khó khăn và thách thức đòi hỏi sự nỗ lực rất lớn trong toàn bộ xí nghiệp .

doc59 trang | Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 877 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh tại xí nghiệp tháng 8, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iều kiện thuận lợi cho Xí nghiệp chủ động nhu cầuvốn trong kinh doanh giảm được các chi phí tài chính cho việc vay vốn từ các nguồn khác nhau. 2.2.3. Tình hình hiệu quả sử dụng vốn cố định Trong tỷ trọng cơ cấu tài sản của Xí nghiệp thì tài sản cố định là một phần quan trọng. Do là Xí nghiệp sản xuất nên tỷ trọng tài sản cố định của Xí nghiệp tương đối cao. Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định ta dùng các chỉ tiêu sau để phân tích. Hệ số đổi mới TSCĐ = Giá trị TSCĐ mới tăng trong kỳ Giá trị TSCĐ ở cuối kỳ Sức sản xuất TSCĐ = Doanh thu thuần Nguyên giá TSCĐ Sức hao phí TSCĐ = Nguyên giá bình quân TSCĐ Tổng doanh thu thuần Tỷ suất lợi nhuận TSCĐ = Lợi nhuận Nguyên giá TSCĐ bình quân Hệ số đảm nhiệm vốn TSCĐ = Vốn cố định bình quân Doanh thu thuần a. Sức sản xuất của tài sản cố định. Năm 2000 cứ 1 đồng tài sản cố định tạo ra 2,6974 đồng doanh thu thu nhưng đến năm 2001 đã tăng lên đến 2,9752 đồng. Mức tăng tuyệt đối là 0,27785 đồng trên một đồng vốn TSCĐ. Nhưng đến năm 2002 cứ 1 đồng TSCĐ mang lại 2,68992 đồng doanh thu giảm so với năm 2001 số tuyệt đối là 0,28528 đồng tương ứng giảm 9,5% so với năm 2001. Sức sản xuất của tài sản cố định năm 2002 đã giảm hơn so với năm 2001. b. Sức hao phí TSCĐ. Sức hao phí TSCĐ năm 2000 là 0,5145 đồng nguyên giá bình quân TSCĐ/ 1đồng doanh thu thuần tăng tuyệt đối 0,01173 đồng tương ứng với tỷ lệ tăng 2,33% so với năm 2000. Chỉ tiêu này tiếp tục tăng năm 2002 so với năm 2001 với mức tăng tuyệt đối 0,01342 đồng tương ứng 0,025%. Điều này chứng tỏ cứ một đồng doanh thu thuần thu được năm 2001 cn đã lãng phí thêm 0,01173 đồng nguyên giá bình quân TSCĐ so với năm 2000. Năm 2002 con số này là 0,01342 đồng nguyên giá TSCĐ tăng trong năm 2001 sang năm 2002 vẫn chưa khắc phục được đó chính là vấn đề quan trọng mà Xí nghiệp phải có phương hướng và biện pháp khắc phục để giảm chi tiêu này xuống càng thấp càng tốt do vậy Xí nghiệp mới sử dụng và quản lý tốt TSCĐ của mình. c. Tỷ suất lợi nhuận tài sản cố định. Về tỷ suất lợi nhuận TSCĐ năm 2001 cứ 1 đồng TSCĐ bình quân năm 2001 cho ta 0,12328 đồng lợi nhuận tăng so với năm 2000 với mức tăng tuyệt đối là 0,05045 đồng trên 1 đồng TSCĐ tương ứng tăng 69,27%. Nguyên nhân tăng là do mức tăng của lợi nhuận lớn hơn mức tăng của TSCĐ. Cụ thể năm 2001 để đạt được mức lợi nhuận như trên và tỷ suất sinh lời không đổi so với năm 2000 Xí nghiệp cần sử dụng. Nguyên giá tài sản cố định với thức tế sử dụng năm 2001 thì Xí nghiệp tiết kiệm được một lượng là : 7004243,2 – 4265113,8 = 2739129,5 (nghìn đồng). Sang năm 2002 hệ số của chỉ tiêu này giảm nhẹ so với năm 2001 với mức giảm tuyệt đối - 0,00209 đồng trên 1 đồng nguyên giá bình quân TSCĐ tương ứng với tỷ lệ giảm – 1,69%. Nguyên nhân do lợi nhuận tăng châm hơn so với mức tăng TSCĐ. Nói cách khác việc khai thác sử dụng TSCĐ chưa đạt hiệu quả cao nhất. Thực tế trên cho thấy chỉ tiêu sức sản xuất TSCĐ liên tục giảm qua ba năm nhưng sức sinh lời của nó tăng rất mạnh ở năm 2001 và có giảm nhẹ ở năm 2002. Điều đó chứng tỏ các chi phí gián tiếp đã được kiểm soát chặt chẽ hơn đúng với tình hình sản xuất kinh doanh hơn do đó cùng với mức tăng mạnh mẽ của tổng doanh thu cộng với một cơ cấu chi phí gián tiếp hợp lý đã góp phần làm cho lợi nhuận của Xí nghiệp tăng nên đã có ảnh hưởng tích cực đến chủ tiêu sức sinh lời của tài sản cố định. d. Hệ số đảm nhiệm vốn. Năm 1999 cứ 1 đồng doanh thu thuần thì cần 0,33136 đồng vốn cố định nhưng năm 2000 lại tăng lên cứ 1 đồng doanh thu thuần lại cần đến 0,33946 đồng TSCĐ mức tăng tuyệt đối là 0,0081/1đồng doanh thu thuần tương ứng tăng 2,4% đã làm thiệt hại (lãng phí ) một lượng vốn cố định bình quân hay doanh thu thuần. Nhưng sang đến năm 2001 hiện tượng lãng phí vốn cố định bình quân đã được chặn đứng. Chứng tỏ Xí nghiệp đã có biện pháp xử lý hữu hiệu kịp thời trong công tác quản lý và sử dụng vốn đặc biệt là khâu khai thác sử dụng TSCĐ nên đã làm cho vốn cố định sử dụng có hiệu quả lên cụ thể năm 2001 chỉ còn 0,32953 đồng TSCĐ sẽ có 1 đồng doanh thu thuần giảm tuyệt đối 0,00993 đồng tương ứng với tỷ lệ giảm 2,29% so với năm 2000 nên đã tiết kiệm được một lượng vốn cố định bình quân hay làm tăng thêm một lượng doanh thu thuần nhất định. Tóm lại qua 3 năm 1999 – 2001 năm 2000 là năm Xí nghiệp sử dụng vốn cố định có hiệu quả nhất với mức tăng rất cao theo chỉ tiêu doanh lợi là 69,09% so với năm 1999 và theo chỉ tiêu chỉ hệ số đảm nhận vốn thì tăng 2,44% so với năm 1999. Điều đó cho thấy năm 2000 cũng là năm Xí nghiệp có chính sách quản lý, điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh hợp lý nhất nên đã mang lại doanh lợi vốn rất cao mặc dù hệ số đảm nhiệm của vốn tăng. 2.2.4. Tình hình hiệu quả sử dụng vốn lưu động . Trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thường xuyên phát sinh nhu cầu vốn lưu động. Nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp là số tiền tệ cần thiết mà doanh nghiệp phải ứng ra để hình thành một mức dự trữ hàng tồn kho nhất định và các khoản do khách hàng lỗ sau khi đã sử dụng tín dụng của người cung cấp và các khoản chiếm dụng đương nhiên khác (Nợ thuế ngân sách Nhà nước, nợ CBCNV, các khoản nợ khác) có thể được xác định theo công thức Nhu cầu vốn lưu động = Mức dự trữ hàng tồn kho + Khoản phải thu từ khách hàng = Các khoản phải trả Vốn lưu động thường xuyên = Nguồn vốn dài hạn - TSCĐ = TSLĐ - Nguồn vốn ngắn hạn Vốn lưu động Thường xuyên năm 1999 = 1763922,4 + 808748,5 – 2270189,7 = 302481,2 (nghìn đồng) Năm 2000 = 2005198,4 +1635798 –3357910,3 = 283084,1 (nghìn đồng) Năm 2001 = 2.821.281,3 +2880994,2 – 3060430,8 = 26418447 (nghìn đồng) Mức độ an toàn của tài sản ngắn hạn trong Xí nghiệp luôn luôn được đảm bảo trong tất cả các năm từ 1999 – 2001. Nguồn vốn dài hạn luôn luôn lớn hơn tài sản cố định. TSCĐ được đầu tư bằng toàn bộ vốn dài hạn và một phần của vốn dài hạn đã được đầu tư cho TSLĐ. Đồng thời TSLĐ lớn hơn nguồn vốn ngắn hạn do vậy khả năng thanh toán của Xí nghiệp rất tốt vốn lưu động thường xuyên luôn lớn hơn 0. Do vậy tình hình tài chính là lành mạnh. Năm 200 tuy có giảm hơn so với năm 1999 nhưng vốn lưu động thường xuyên lớn hơn 0 do đó không ảnh hưởng đến kết quả của Xí nghiệp. Đặc biệt là năm 2001 nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp tăng mạnh do đó vốn lưu động thường xuyên của Xí nghiệp khá dư dả. Doanh nghiệp có đủ khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn và TSCĐ của Xí nghiệp đã được tài trợ một cách vững chắc bằng nguồn vốn dài hạn do đó nó có ảnh hưởng tốt đến khả năng sử dụng vốn của Xí nghiệp . Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Xí nghiệp tháng 8 chúng ta sử dụng các chỉ tiêu sau: Sức sản xuất vốn lưu động = Tổng doanh thu Vốn lưu động bình quân Tỷ suất lợi nhuận vốn lưu động = Lợi nhuận Vốn lưu động bình quân Vòng quay vốn lưu động = Tổng doanh thu Vốn lưu động bình quân Thời gian một vòng luân chuyển = Thời gian của kỳ phân tích Số vòng quay của VLĐ trong kỳ Hệ số đảm nhiệm vốn = Vốn lưu động bình quân Tổng doanh thu Sức sản xuất vốn lưu động. - Năm 1999: 1 đồng vốn lưu động tạo ra 4,44 đồng doanh thu thuần. - Năm 2000: cũng 1 đồng vốn lưu động đã tạo ra 4,59598 đồng doanh thu thuần tăng lên so với năm 1999 số tuyệt đối là 0,15598 đồng tương ứng tăng với tỷ lệ 3,50% cho 1 đồng vốn lưu động khi kinh doanh trong một năm. Điều đó đã tiết kiệm được một lượng vốn lưu động bình quân là: trong đó 82899830,7/4,44 là mức vốn lưu động bình quân cần thiết để sức sản xuất của vốn lưu động đạt bằng vơi năm 1999 với doanh thu ở mức năm 2000. Năm 2001 : 1 đồng vốn lưu động bình quân tạo ra được 3,23465 đồng doanh thu thuần giảm hơn so với năm 2000 số tuyệt đối là 1,36133 đồng số tương đối giảm 29,62%. Chứng tỏ năm 2001 Xí nghiệp đã sử dụng lãng phí một lượng vốn lưu động bình quân là: Nguyên nhân là do vốn lưu động bình quân năm 2001 tăng cao hơn mức tăng của doanh thu thuần hay nói cách khác sức sản xuất vốn lưu động năm 2001 không bằng năm 2000. + Sức sinh lời của vốn lưu động. Năm 1999 : 1 đồng vốn lưu động bình quân tạo ra được 0,16259 đồng lợi nhuận nhưng đến năm 2000 cứ 1 đồng vốn lưu động bình quân tạo ra 0,12893 đồng lợi nhuận. Như vậy, sức sinh lời vốn lưu động năm 2000 1999 về số tuyệt đối là 0,12893 đồng vốn lưu động bình quân và tăng theo số tương đối là 79,29%. Vậy để mức sinh lời năm 2000 thì Xí nghiệp cần sử dụng một lượng vốn lưu động bình quân là : So với thực tế sử dụng năm 2000 Xí nghiệp đã tiết kiệm được một lượng vốn lưu động bình quân. 3234054,9 – 1803712,6 = 1430342,3 (nghìn đồng) Sang năm 2001 cứ 1 đồng vốn lưu động chỉ tạo ra được 0,20294 đồng lợi nhuận giảm so với năm 2000 là 0,08858 đồng và tương ứng giảm 30,38% trên một đồng vốn lưu động bình quân. Do vậy, Xí nghiệp đã sử dụng lãng phí một lượng vốn lưu động bình quân là : Trong đó (623054,3/0,29152) là vốn lưu động bình quân cần thiết để đạt được hệ số của chỉ tiêu bằng với năm 2000 với mức lợi nhuận đạt ở năm 2000. + Vòng quay vốn lưu động. Số vòng quay vốn lưu động năm 1999 là 4,44 vòng sang năm 2000 tăng lên 4,59598 vòng tương ứng với tỷ lệ 3,51%. Nguyên nhân do tổng doanh thu năm 2000 tăng cao hơn mức tăng của vốn lưu động bình quân. Nói cách khác vốn lưu động mức thấp nhưng đã tạo ra được một lượng doanh thu tăng đáng kể do đó, nâng cao tốc độ vòng quay vốn lưu động so với năm 1999. Để có được số vòng quay vốn lưu động bằng với năm 1999 Xí nghiệp phải sử dụng 1 lượng vốn lưu động bình quân là 1867078,9 (nghìn đồng) nhưng thực tế Xí nghiệp sử dụng 1803712,6 (nghìn đồng) nên đã chậm lại và giảm so với năm 2000 số tuyệt đối là 1,36133 vòng tương ứng giảm 29,62%. Do doanh thu thuần năm 2001 tăng chậm vốn lưu động tăng nhiều hơn dẫn đến làm giảm tốc độ vòng quay của vốn lưu động do đó việc sử dụng vốn lưu động năm 2000 là nghìn đồng. Trong đó (9738619,7/4,59598) là mức vốn lưu động bình quân cần thiết để đạt được chỉ tiêu hệ số bằng với năm 2000 bởi mức doanh thu thuần thực hiện ở năm 2001. + Thời gian của một vòng quay vốn lưu động . Một vòng quay vốn lưu động năm 1999 là 81,08 ngày nhưng sang năm 2000 con số này là 78,33 ngày. Vậy số vòng quay năm 2000 đã ngắn hơn năm 1999 là - 2,75 ngày tương ứng với tỷ lệ – 3,39% điều này chứng tỏ vốn lưu động bình quân của Xí nghiệp đã sử dụng tiết kiệm vốn lưu động bình quân. Số vốn lưu động đã tiết kiệm được tính theo công thức : Vốn lưu động lãng phí hay tiết kiệm = Doanh thu thuần x Thời gian 1 vong quay kỳ phân tích - Thời gian 1 vong quay kỳ báo cáo 360 Vậy số vốn lưu động bình quân đã tiết kiệm do giảm thời gian một vòng quay vốn là:” nghìn đồng Sang năm 2001 thời gian một vòng quay vốn lưu động tăng lên so với năm 2000 là 32,96 ngày tương ứng tăng với tỷ lệ 42,08% do đó một lượng vốn lưu động quay chậm lại dẫn tới tỷ việc sử dụng vốn lưu động kém hiệu qủa hơn và đã làm lãng phí một lượng vốn so với năm 2000 là : + Hệ số đảm nhiệm vốn. Hệ số đảm nhiệm vốn năm 1999 là 0,225 có nghĩa là khi tạo ra 1 đồng doanh thu thuần năm 1999 thì cần phải có 0,225 đồng vốn lưu động bình quân nhưng đến năm 2000 cũng một đồng doanh thu thì chỉ cần 0,216 đồng vốn do vậy năm 2000 cứ 1 đồng doanh thu thì chỉ đã giảm được so với năm 1999 là 0,009 đồng vốn lưu động và tương ứng giảm 4% điều này chứng tỏ Xí nghiệp đã sử dụng tiết kiệm vốn lưu động cho 1 đồng doanh thu năm 2000 là 0,009 đồng doanh thu thuần năm 2000 là 0,009 đồng vốn lưu động. Ngược lại năm 2001 thì lượng vốn lưu động cần dùng để tạo ra 1đồng doanh thu thuần đã tăng . Năm 2001 để cómột đồng doanh thu thuần xí nghiệp cần phải có 0,315 đồng vốn lưu động bình quân. Do vậy mức tăng tuyệt đối của một đồng doanh thu thuần năm 2001 so với năm 2000 là 0,099 đồng tương ứng tăng 45,83% .Chính vì vậy mà năm 2001xí nghiệp đã sử dụng lãng phí một lượng vốn lưu động do 1 đồng doanh thu thuần là 0,099 đồng . Nhìn chung trong ba năm 1999-2001 thì 2000 xí nghiệp đã sử dụng tốt nhất ngoài vốn lưu động chúng được phân tính qua các chỉ tiêu phân tich Nhưng sang năm 2001 xí nghiệp sử dụng kém hiệu quả hơn do vậy xí nghiệp cần tìm rõ nguyên nhân của sự giảm sút này tìm rõ nguyên nhân để có giải pháp khắc phục để cho việc sử dụng vốn có hiệu quả hơn nữa. Tình hình tài chính doanh nghiệp được thể hiện khá rõ nét qua các chỉ tiêu về khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Khả năng thanh toán của doanh nghiệp phản ánh mối quan hệ tài chính giữa các khoản có khả năng thanh toán trong kỳ với các khoản phải thanh toán trong kỳ : Để thấy rõ tình hình tài chinh sử dụng vốn của xí nghiệp tháng 8 ta dùng các nhóm chỉ tiêu chủ yếu sau. Khả năng thanh toán hiện hành = Tổng TSLĐ Nợ ngắn hạn Khả năng thanh toán nhanh = Tiền + CK ngắn hạn + khoản phải thu Nợ ngắn hạn Hệ số thanh toán tức thời = Vốn bằng tiền Nợ dài hạn Bảng 06: Các chỉ tiêu tài chính thanh toán nợ ngắn hạn của xí nghiệp tháng 8 Năm Chỉ tiêu 1999 2000 2001 Đầu kỳ Cuối kỳ Đầu kỳ Cuối kỳ Đầu kỳ Cuối kỳ Tỷ suất thanh toán hiện hành 0,8654 1,1349 1,1349 1,1674 1,1674 2,6577 Tỷ suất thanh toán nhanh 0,0231 0,1364 0,1364 0,1993 0,1993 0,0791 Tỷ suất thanh toán tức thời 0,0336 0,2064 0,2064 0,4102 0,4102 0,1520 (nguồn trích bảng cân đối kế toán 1999-2001) Về khả năng đáp ứng các khoản nợ ngắn hạn(phải thanh toán trong vòng 1năm )chúng ta thấy chỉ tỉêu tỷ xuất thanh toán hiện hành trong 3 năm gần đây 1999-2001 chỉ tiêu này luôn lớn hơn 1 điều này cho thẫy xí nghiệp đủ khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn và tình hình tài chính là khả quan. Riêng chỉ có đầu năm 1999 chỉ tiêu này là 0,8654 cho thấy khả năng tài chính là không tốt nếu phải thanh toán các khoản nợ ngắn hạn thì xí nghiệp không đủ thanh toán mà phải dùng đúng một phần TSCĐ để thanh toán .Nhưng đến cuối năm 1999 tình hình này đã được cải thiện vào thời điểm cuối năm 1999 chỉ số này là 1,1349 . Do đó xí nghiệp có đủ khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn và tình hình tài chính của xí nghiệp đang dần đi vào thế ổn định . Nếu xét trong cả 3 năm thì cuối năm 2001 chỉ số này cao nhất. - Về tỷ xuất thanh toán vốn lưu động năm 1999 chỉ số đầu năm là 0,0231 và cuối năm là0,1364 tăng 0,1133 điều này cho thấy cuối năm 1999 xí nghiệp đã cải thiện được vấn đề trên mặt để thanh toán. Năm 2000 ta thấy tình hình tiền mặt của xí nghiệp ngày được cải thiện hơn đầu kỳ là 0,1364 cuối kỳ là 0,1993 do đó có thể nói xí nghiệp đã làm tốt nghiệp vụ kế toán làm giảm được các khoản phải thu và tăng lượng tiền mặt. Năm 2001 chỉ số thanh toán vốn lưu động đầu kỳ là 0,1993 cuối kỳ là 0,9791 giảm 0,1202 so với đầu kỳ. Điều này cho thấy đến cuối năm 2001 xí nghiệp lại lâm vào tình trạng thiếu tiền mặt để thanh toán nguyên nhân ở đây là các khoản phải thu tăng lên quá cao làm tăng lượng tiền trong lưu thông và giảm tiền mặt tại quỹ của xí nghiệp. Qua 3 năm 1999 – 2001: chỉ có năm 2000 là tỷ suất thanh toán vốn lưu động là hợp lý nhất nó phản ánh khả năng chuyển đổi thành tiền của tài sản lưu động hợp lý. Về tỷ suất thanh toán tức thời năm 1999 ở đầu kỳ là 0,0336 cuối kỳ là 0,2046. Xí nghiệp có khó khăn trong việc thanh toán ở đầu kỳ nhưng đến cuối kỳ khả năng thanh toán tức thời của Xí nghiệp là khả quan. Tỷ số này nằm trong khoảng 0,1 – 0,5 là hợp lý. Chỉ số này đến cuối năm 1999 tăng hơn đầu năm là 0,1728. Tỷ số tăng do tiền mặt của Xí nghiệp tăng từ 42928,3 (nghìn đồng) lên đến 309698,7 nghìn đồng trong khi đó nợ ngắn hạn tăng lên nhưng không đáng kể từ 1277780 lên 1.400.198 nghìn đồng. Năm 2000 chỉ số đầu kỳ là 0,2064 và đến cuối kỳ là 0,4102. Như vậy khả năng thanh toán tức thì của Xí nghiệp tăng mạnh nhưng vẫn nằm trong khoảng hợp lý nhất. Chỉ số này tăng lên do tiền mặt của Xí nghiệp tăng cao với mức tăng lên là 116,15% tương ứng với mức tăng tuyệt đối là 357.915,6 nghìn đồng đồng thời công nợ tăng không đáng kể với mức tăng tuyệt đối là 131463,8 (nghìn đồng) tương ứng với tỷ lệ tăng là 8,76%. So với đầu năm, năm 2001 chỉ số này là đầu kỳ 0,4102 nhưng đến cuối kỳ là 0,1520. Chỉ số này cho thấy: đến cuối năm 2001 Xí nghiệp đã phải thanh toán nhanh các khoản nợ ngắn hạn đến hạn trả do đó lượng tiền mặt trong quỹ Xí nghiệp giảm nhưng vẫn còn lớn hơn 15%. Như vậy, tình trạng tài chính về phải thanh toán tức thì có giảm nhưng không đến mức bế tắc Xí nghiệp vẫn có khả năng thanh toán tức thời. Như vậy, so sánh các chỉ tiêu trên về khả năng thanh toán của Xí nghiệp trong 3 năm 1999 – 2001 thì ta thấy khả năng thanh toán của Xí nghiệp năm 2000 là tốt hơn cả. Trong hai năm 1999 – 2000 thì việc thanh toán tức thời các khoản nợ còn thấp. Do vậy, Xí nghiệp nên tìm hiểu rõ nguyên nhân và tìm ra các giải pháp thích hợp để cho khả năng thanh toán của Xí nghiệp được tốt hơn, lúc đó sẽ sử dụng vốn lưu động có hiệu quả hơn. 2.3. Nhận xét chung. 2.3.1. Những đặc điểm đã đạt được. Qua số liệu phân tích ở trên ta thấy doanh thu và lợi nhuận của Xí nghiệp liên tục tăng trong 3 năm qua. Từ 1999 – 2001 những điều đó đã thể hiện sự phát triển cả bề rộng lẫn bề sâu của Xí nghiệp tháng 8 trong chặng đường đi lên của mình. Mục tiêu mà Xí nghiệp thực hiện được triệt để đó là mở rộng được quy mô sản xuất, hiện đại hoá trang thiết bị điều này được thể hiện rõ qua hệ số đổi mới tài sản cố định tăng cao năm 2000 và ở năm 2001 tuy có giảm nhưng vẫn tăng so với năm 1999 đã làm cho quy mô vốn cố định của Xí nghiệp phát triển năm sau cao hơn năm trước. Năm 2000 cũng là năm mà Xí nghiệp sử dụng vốn có hiệu quả nhất được thể hiện qua kết quả của các chỉ tiêu đều rất tốt như chỉ tiêu doanh lợi vốn cố định bình quân tăng 69,09%. Tỷ suất lợi nhuận vốn lưu động bình quân cũng tăng 73,97% nên đã ảnh hưởng tích cực nhiều đến khả năng thanh toán của Xí nghiệp. Chính vì vậy, mà hiệu quả sử dụng vốn của Xí nghiệp tháng 8 năm 2000 là rất tốt nhưng sau đó đến năm 2001 lại giảm do Xí nghiệp nên tăng cường quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả hơn. 2.3.2 Những hạn chế của Xí nghiệp. Ta có thể thấy ngay hiệu quả sử dụng vốn của Xí nghiệp năm 2001 giảm sút so với năm 2000 nhưng vẫn tăng hơn năm 1999. Chứng tỏ việc sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp vẫn chưa đi vào ổn định . -Xét về vốn cố định năm 2001 vẫn có sự tăng trưởng trong đó chủ yếu vẫn là tăng lên của TSCĐ được đầu tư mới nhưng với sức tăng nhỏ hơn năm 2000. Hầu hết các chỉ tiêu trên liên quan đến vốn cố định đều không duy trì được sự ổn định tốt đẹp như năm 2000 cá biệt có những chỉ tiêu 2000 đã không khắc phục được những hạn chế so với những 1999 mà sang năm 2001 vẫn lâm vào tình trạng xấu hơn cụ thể là doanh lợi vốn cố định tăng 3,9%so với năm 2000 trong khi đó chỉ tên này tăng 69,09% so với năm 2000 và còn giảm (1,89424 – 1,98896) x 100 = -4,76% 1,98896 So với năm 1999 suất hao phí tăng 2,61% so với năm 1999 tăng (0,52792 – 0,0277 ) x 100 = 5% 0,50277 So với năm 1999. Hệ số đảm nhiệm vốn cố định tăng 3,01% so với năm 2000 và tăng. (3,03462 – 3,01784 ) x 100 = 0,556% 3,01784 Về khả năng thanh toán của xí nghiệp còn nhiều bất cập. Nếu xét khả năng thanh toán nợ ngăn hạn trong cả kỳ thì đảm bảo nhung nếu thanh toàn tức thời các khoản nợ ngắn hạn và vốn lưu động thì xí nghiệp lại bị thiếu tiền mặt để thanh toán ở các thời điểm đầu năm 1999 và cuối năm 2001. Như vậy từ thực tế sử dụng vốn cố định và vốn lưu động trong năm 2001đã tổng hợp ở trên ta thấy hiệu quả sử dụng vốn của xí nghiệp không tốt bằng năm 2000nguyên nhân dẫn dẫn đến kết quả trên thì có nhiều trong đó có nguyên nhân về yếu tố quản lý điều hành sản xuất chung của xí nghiệp. Thực tế nay đỏi hỏi ban lãnh đạo xí nghiệp cần phải có biện pháp thao gỡ nhăm ngăn chặn được đà giảm sút cũng nhu nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng vốn của xí nghiệp trong những năm tiếp theo. Chương III Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Xí nghiệp tháng 8 3.1. Phương hướng và mục tiêu hoạt động kinh doanh của Xí nghiệp. Trong những năm qua theo đường lối chính sách phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước đã có rất nhiều các loại hình doanh nghiệp được ra đời với số lượng lớn trong đó có các doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng may mặc, xây dựng. Vì thế, ngoài việc cạnh tranh với các doanh nghiệp khác về vốn tín dụng các chính sách ưu đãi của Nhà nước doanh nghiệp còn phải cạnh tranh lẫn nhau về thị phần tiêu thụ sản phẩm và các hợp đồng giữa công may mặc. Trong tương lai chắc chắn sự cạnh tranh sẽ còn khác biệt hơn khi các doanh nghiệp được ra đời nhiều thêm. Trong khi đó nhu cầu hàng hoá tăng chậm điều đó được xem như là quy luật tất yếu của nền kinh tế. Trong mấy năm qua Xí nghiệp luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Nhưng trong cơ chế này Xí nghiệp luôn phải tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh thì nhiệm vụ kinh doanh được đặt lên hàng đầu. Xí nghiệp có trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn. Trong những năm qua Xí nghiệp đã đạt được nhiều thành công trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình và luôn là đơn vị chủ lực của ngành. Đứng trước tình hình đó trong phương hướng xây dựng và phát triển Xí nghiệp trong những năm tới nhiệm vụ kinh doanh được đặt ra dựa vào định hướng của ngành. Tiếp tục đầu tư cải tiến đổi mới theo tiêu chiều sâu máy móc thiết bị công nghiệp hiện đại tạo cơ sở vật chất vững chắc cho sự phát triển lâu dài, tăng sản lượng sản phẩm nâng cao chất lượng sản phẩm sản xuất không ngừng nghiên cứu các sản phẩm để phục vụ nhu cầu ngày càng cao của thị trường. Tăng trưởng nhanh về mặt kinh doanh, bằng cách đầu tư bồi dưỡng đội ngũ cán bộ công nhân viên thúc đẩy mạnh hơn nữa sản xuất và bán hàng cải tiến thường xuyên các phương án tiêu thụ có chính sách giá cả mềm dẻo thu hút tối đa khách hàng mở rộng thị trường. Đa dạng hoá mẫu mã sản phẩm đồng thời không ngừng nâng cao chất lượng sản xuất để thu hút thêm khách hàng và có uy tín lâu dài với khách hàng và thị trường. Gia tăng sản lượng tiêu thụ nội địa mở rộng thị trường tiêu thụ đến các vùng mà Xí nghiệp chưa khai thác. Chú trọng công tác đào tạo lại nguồn nhân lực không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho CBCN của Xí nghiệp để họ đủ năng lực quản lý điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong điều kiện thị trường luôn có biến động. Tổ chức sản xuất khoa học hiệu quả xây dựng phương án tiết kiệm trong sản xuất, hội tụ sáng kiến cải tiến kỹ thuật nâng cao năng xuất lao động phấn đấu hạ giá thành sản phẩm. Tạo đủ công ăn việc làm, cố gắng nâng cao thu nhập đảm bảo đời sống vật chất tinh thần cho CBCNV thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với Nhà nước chấp hành đủ chính sách của Đảng và Nhà nước. Đó là nhiệm vụ cơ bản của các cán bộ công nhân viên Xí nghiệp vừa cho mục tiêu lâu dài tăng vốn chủ sở hữu năm sau cao hơn năm trước. Từng bước lập kế hoạch chuẩn bị cho công tác cổ phần hoá doanh nghiệp theo chủ trương của Đảng và Nhà nước. Để thực hiện tốt các mục tiêu và phương hướng nêu trên đồng thời hoàn thành nhiệm vụ đặt ra. Xí nghiệp cần phải xem xét và khắc phục những khó khăn những điểm yếu phải biết tận dụng thời cơ phát huy thế mạnh sẵn có. Đòi hỏi phải có đoàn kết nội bộ sự nỗ lực lớn của CBCNV Xí nghiệp sự chỉ đạo lãnh đạo của sở của ngành. 3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Bên cạnh những kết quả đã đạt được Xí nghiệp còn bộc lộ một số vấn đề tồn tại trong quá trình sản xuất kinh doanh cũng như trong việc tổ chức huy động và sử dụng vốn. Để góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của Xí nghiệp qua thực tế tìm hiểu tôi xin mạnh dạn đề xuất một số biện pháp sau. 3.2.1.2. Tăng khối lượng tiêu thụ sản phẩm. Để thực hiện được mục tiêu không ngừng gia tăng sản lượng tiêu thụ nâng cao hiệu quả sử dụng vốn biện pháp khả dĩ đối với Xí nghiệp hiện nay là tăng khối lượng tiêu thụ sản phẩm. Để tăng được khối lượng tiêu thụ sản phẩm thì Xí nghiệp phải làm: Thứ nhất: tổ chức tốt nhất công tác bán hàng thanh toán tiền hàng và thu hồi công nợ. Một thực tế năm 2001 số vốn bị khoát chiếm dụng chiếm tỷ trọng khá cao khả năng thanh toán gặp khó khăn là thu tiền bình quân kéo dài. Để phát huy vai trò tự chủ về tài chính đảm bảo tăng nhanh vòng quay vốn Xí nghiệp cần có biện pháp hữu hiệu nhằm hạn chế tình trạng vốn của Xí nghiệp bị chiếm dụng quá nhiều giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh và hiệu quả sử dụng vốn của Xí nghiệp. theo tôi trong thời gian tới Xí nghiệp có thể áp dụng các biện pháp sau. - Trong công tác tổ chức tiêu thụ sản phẩm Xí nghiệp phải quy định rõ thời gian thanh toán và hình thức thanh toán tiền hàng trên các hoá đơn, chứng từ và các bên phải có trách nhiệm tuân thủ một cách đầy đủ, nghiêm túc các điều kiện đã quy định đồng thời Xí nghiệp cũng nên đề ra các hình thức bồi thường nếu vi phạm điều khoản này. - Tăng cường áp dụng các biện pháp khuyến khích khách hàng thanh toán tiền hàng như sử dụng chiết khấu tiền hàng cho những khách hàng vào mua sản phẩm của Xí nghiệp với khối lượng lớn với thanh toán sớm tiền hàng. Làm được điều này chắc chắn công tác thu hồi tiền hàng của Xí nghiệp sẽ nhanh chóng hơn. Tránh được tình trạng thanh toán chậm dây dưa kéo dài. Tuy nhiên, Xí nghiệp phải đề ra một tỷ lệ chiết khấu bán hàng hợp lý nhất. Theo tôi nên dựa vào lãi xuất cho vay vốn của ngân hàng để làm căn cứ trích tỷ lệ chiết khấu. Chắc chắn điều này sẽ có lợi hơn là đợi khách hàng thanh toán toàn bộ số tiền sau một thời gian nhất định. Trong khoảng thời gian đó Xí nghiệp lại phải đi vay vốn sản xuất. Đối với các khoản phải trả người bán Xí nghiệp cần cân nhắc kỹ lưỡng trước khi giao tiền vì nhiều khi nguồn vốn cung cấp không đảm bảo giá cả lại có xu hướng tăng lên nên Xí nghiệp lại phải trả tiền trước cho nhà cung cấp để mua nguyên vật liệu. Song thực tế nhà cung cấp đã nhận tiền rồi nhưng có thể lại cung cấp cho cho Xí nghiệp những nguyên liệu không đảm bảo yêu cầu về số lượng chất lượng và chủng loại. Do đó Xí nghiệp cần phải lựa chọn đối tác có uy tín cao tránh hiện tượng giao tiền nhưng không nhận được hàng. Vốn bị chiếm dụng gây ảnh hưởng xấu đến hiệu quả sử dụng vốn của Xí nghiệp. Thứ hai là: nâng cao chất lượng sản phẩm cải tiến mẫu mã tăng sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường tăng cường công tác kiểm tra đại tu sửa chữa máy móc thiết bị. Xí nghiệp cần bố trí đội ngũ công nhân sửa chữa có tay nghề cao làm việc tích cực có tính sáng tạo khắc phục khó khăn cùng với sửa chữa thực hiện tốt chế độ bảo dưỡng máy móc thiết bị theo đúng yêu cầu kỹ thuật và thực trạng máy móc thiết bị công tác này cần gắn với từng phân xưởng cụ thể. Một mặt đẩy mạnh tiêu thụ mặt hàng một mặt Xí nghiệp có thể nghiên cứu kỹ nhu cầu thị trường để tiến hành đưa các mặt hàng mới vào sản xuất thực hiện đa dạng hoá sản phẩm. Quản lý tốt khâu kiểm tra chất lượng sản phẩm nhập kho cũng như khâu bảo quản sản phẩm. Theo em Xí nghiệp thực hiện tốt các biện pháp trên sẽ có tác dụng lớn trong việc đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm tăng tốc độ luân chuyển vốn không những có thể ổn định được thị trường tiêu thụ mà còn mở rộng ra các thị trường tiềm năng của Xí nghiệp. Thứ ba là: thực hiện hoạt động Marketing mạnh dạn đầu tư vốn cho quảng cáo giới thiệu sản phẩm nhằm mở rộng đối tác trong thị trường để tăng cường khả năng tiêu thụ sản phẩm nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của Xí nghiệp. Theo em Xí nghiệp nên mạnh dạn đầu tư một phần vốn cho công tác Marketing quảng cáo giới thiệu sản phẩm. Xí nghiệp có thể làm áp phích quảng cáo hay một vài sản phẩm của mình trên các phương tiện thông tin đại chúng như đài phát thanh, truyền hình hoặc Xí nghiệp có thể in lịch quảng cáo trên và sản phẩm của mình tặng cho khách hàng khi mua sản phẩm của Xí nghiệp. Thứ tư là: đổi mới công tác tổ chức cán bộ Xí nghiệp cần có sự đổi mới trong khâu tổ chức cán bộ và cơ cấu bộ máy quản lý sao cho phù hợp tinh giảm biên chế gọn nhẹ có hiệu quả. Bộ máy quản lý phải có sự phân cấp rõ ràng về trách nhiệm và quyền hạn để phát huy tối đa năng lực của người lao động có sự kết hợp với nhau để tạo điều kiện hỗ trợ lẫn nhau trong công việc. Thường xuyên đào tạo và tái đào tạo để nâng cấp trình độ đội ngũ cán bộ công nhân viên năng lực cán bộ quản lý. Tuyển dụng thường xuyên và nâng cao tay nghề cho đội ngũ cán bộ và CNV phụ trách các phân xưởng cũng như cho công nhân trực tiếp sản xuất thực hiện chính sách khuyến khích bằng vật chất đối với cán bộ công nhân viên hoàn thành tốt công việc đồng thời cũng phải xử lý nghiêm minh những trường hợp sai phạm. 3.2.1. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nói chung Thứ nhất là: chủ động trong công tác huy động và sử dụng vốn sản xuất kinh doanh. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay để có thể tồn tại và phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, Xí nghiệp phải có một lượng tiền tệ nhất định. Do đó, việc chủ động xây dựng kế hoạch huy động vốn và sử dụng vốn trong sản xuất, kinh doanh là một trong những biện pháp hữu hiệu nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong tình hình thực tế chỉ Xí nghiệp thường phải dự trữ một lượng nguyên vật liệu để đảm bảo được quá trình sản xuất liên tục. Khi lập kế hoạch huy động và sử dụng vốn các Xí nghiệp cần chú trọng một số vấn đề sau. - Trước hết cần phải xác định một cách chính xác nhu cầu vốn tối thiểu cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình đặc biệt là nhu cầu vốn cho việc thu mua nguyên vật liệu nhằm đảm bảo tính liên tục cho quá trình sản xuất. Từ đó đề ra các biện pháp tổ chức huy động cung cấp một cách đầy đủ kịp thời tránh tình trạng thiếu vốn như hiện nay gây ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn sản xuất khách sạn của Xí nghiệp. Trên cơ sở xác định nhu cầu vốn, Xí nghiệp cần xây dựng kế hoạch huy động bao gồm việc lựa chọn nguồn tài trợ tích cực nhất, xác định rõ số vốn hiện có và số vốn cần bổ sung. Theo tôi để đảm bảo cho nhu cầu vốn lưu động trước hết Xí nghiệp cần tìm cách huy động tối đa nội lực từ bên trong Xí nghiệp tăng cường huy động các nguồn vốn ngắn hạn để tài trợ cho nhu cầu trước mắt về vốn lưu động. Tận dụng các khoản nợ ngắn hạn chưa đến hạn thanh toán như các khoản phải trả CNV các khoản phải nộp ngân sách Nhà nước nhưng chưa đến kỳ nộp áp dụng hình thức tín dụng thương mại (mua chịu đối với nhà cung cấp) vì khi sử dụng các khoản vốn này Xí nghiệp không phải chịu chi phí. Nếu huy động được càng nhiều số vốn này Xí nghiệp càng có điều kiện nâng cao hiệu qủa sản xuất kinh doanh của mình. Thực tế cho thấy số vốn bị chiếm dụng hiện nay của Xí nghiệp là quá lớn buộc Xí nghiệp phải đi vay ngắn hạn để có vốn sản xuất. Như vậy, nếu Xí nghiệp thu được nhanh chóng các khoản phải thu thì mới có thể có vốn bổ sung cho nhu cầu vốn lưu động từ đó giảm các khoản vay không đáng có. Để làm được này theo tôi Xí nghiệp nên tăng cường áp dụng các biện pháp chiết khấu, giảm giá ở mức độ hợp lý. Có thể giảm giá cho khách hàng mua với số lượng lớn hoặc thanh toán trước hạn đồng thời có biện pháp đôn đốc đối với khách hàng thanh toán tiền hàng tránh tình trạng vốn bị chiếm dụng quá nhiều như năm (1999 – 2001 ) vừa qua. Xí nghiệp có thể vay của cán bộ công nhân viên trong Xí nghiệp. đây là nguồn vốn rất hữu ích cho hoạt động của Xí nghiệp và tiềm năng của nó nhiều khi rất lớn. Trong những năm gần đây cùng với việc phát triển mở rộng quy mô sản xuất của Xí nghiệp thì thu nhập của cán bộ công nhân viên cũng tăng theo việc khai thác nguồn này sẽ giúp cho Xí nghiệp có thêm vốn hoạt động sản xuất kinh doanh mà không phải qua thủ tục phức tạp và đòi hỏi khác khi vay vốn của ngân hàng. Khi huy động tối đa các nguồn lực của Xí nghiệp nhưng vẫn chưa đủ vốn cho sản xuất kinh doanh. Xí nghiệp có thể huy động vốn bên ngoài bằng cách vay ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác. Trong năm 2001 vừa qua vốn vay ngân hàng của Xí nghiệp rất cao và khi sử dụng nguồn vốn này Xí nghiệp phải trả một khoản lãi xuất nhất định, do đó tất cả các khoản vốn huy động được Xí nghiệp cần phải đưa vào sử dụng ngay và phải đảm bảo có hiệu quả nếu không tình trạng tài chính của Xí nghiệp sẽ gặp phải rất nhiều khó khăn. Song song với kế hoạch tổ chức huy động vốn Xí nghiệp cần chủ động lập kế hoạch nhằm hình thành lên các dự định về phân phối và sử dụng vốn đã tạo lập được sao cho có hiệu quả nhất như đầu tư vào máy móc thiết bị là bao nhiêu vào cung ứng nguyên vật liệu như thế nào cho thích hợp chính vì vậy Xí nghiệp cần phải có sách lược sử dụng vốn sản xuất kinh doanh. Khi các nguồn vốn huy động được sử dụng Xí nghiệp căn cứ vào kế hoạch huy động vốn và sử dụng vốn đã kịp làm cơ sở để điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tế của Xí nghiệp. Nếu trong trường hợp có phát sinh thêm nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Xí nghiệp cần chủ động đáp ứng kịp thời nhằm đảm bảo quá trình sản xuất diễn ra một cách liên tục không bị gián đoạn. Ngược lại nếu thừa vốn Xí nghiệp phải có biện pháp xử lý linh hoạt như đầu tư mở rộng sản xuất, đầu tư chứng khoán ngắn hạn, dài hạn. Do các đơn vị khác vay nhằm đảm bảo đồng vốn hoàn hoạt động và không ngừng sinh lãi. Kế hoạch huy động vốn và sử dụng vốn sản xuất kinh doanh là một bộ phận quan trọng của kế hoạch hoạt động sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp cũng như kế hoạch khác. Do đó việc lập kế hoạch này nhất thiết phải dựa vào phân tích tính toán các chỉ tiêu kinh tế tài chính của các kỳ trước làm cơ sở kế hoạch phải được kịp, sát, đúng, toàn diện và đồng bộ làm cơ sở tin cậy cho tổ chức huy động và sử dụng vốn sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp mang lại hiệu quả cao nhất. 3.2.2. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định. Tăng cường đổi mới tài sản cố định : phát huy tối đa công suất của máy móc thiết bị nâng cao hiệu suất sử dụng vốn của Xí nghiệp. Trong tình hình kinh tế như hiện nay, việc đầu tư mua sắm tài sản cố định đúng hướng đúng mục đích có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh nói chung và vốn cố định nói riêng đồng thời việc đầu tư đúng mục đích sẽ góp phần nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm hạ thấp chi phí nguyên vật liệu và chống được hao mòn vô hình do tiến bộ khoa học kỹ thuật gây ra, từ đó góp phần tăng được uy tín của sản phẩm khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của Xí nghiệp. Việc phân cấp quản lý TSCĐ giao quyền sử dụng cho các đơn vị phân xưởng phòng ban nhằm nâng cao trách nhiệm quản lý và sử dụng của các đơn vị. Thực tế trong Xí nghiệp việc quản lý TSCĐ lớn nhất là giám đốc Xí nghiệp ở các phòng ban là trưởng phòng. Tuy đã phân cấp quản lý cho các đơn vị nhưng việc phân cấp còn nhiều bất cập. Tóm lại nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ đổi mới Xí nghiệp là biện pháp quan trọng để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của Xí nghiệp. Muốn thực hiện được chiến lược phát triển sản xuất kinh doanh của mình xí nghiệp phải chú trọng gia tăng đầu tư đổi mới thiết bị, đặc biệt là các loại tài sản chuyên dùng. Có như vậy mới tăng cường khả năng cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường và tăng năng suất chất lượng và hiệu quả lao động sản xuất. Trong lĩnh vực ngành may, in, xây dựng đòi hỏi xí nghiệp phải có hệ thống máy móc, trang thiết bị tiên tiến hiện đại để có thể đáp ứng được yêu cầu của ngành hiện nay. Hiện nay, số lượng tài sản mà xí nghiệp đã mua sắm gồm máy móc hiện đại tiên tiến. Vì vậy, để tránh hao mòn tài sản thì xí nghiệp cần có kế hoạch mở rộng thị trường, phát triển hơn nữa thế mạnh sẵn có của mình trên cơ sở những thành công bước đầu, xí nghiệp tiếp tục vươn lên có thể làm hàng xuất khẩu nhằm khai thác tốt hơn mọi tiềm năng về tài sản cố định, trình độ kĩ thuật và kinh nghiệm phong phú, khả năng sáng tạo và bàn tay khéo léo của người công nhân. Làm được như vậy cũng chính là khai thác triệt để vốn hữu hình và vốn vô hình vào chiến lược mở rộng phát triển sản xuất kinh doanh. Để cho các tài sản cố định hoạt động có hiệu quả, thường xuyên liên tục xí nghiệp cần phải tăng cường công tác bảo quản, bảo dưỡng tài sản cố định do đặc thù của xí nghiệp là phải sử dụng những trang thiết bị chuyên dùng. Những tài sản cố định này đòi hỏi sau mỗi kì sử dụng phải bảo dưỡng. Xí nghiệp cần tiến hành hợp lý hoá các kỳ bảo dưỡng, sửa chữa tài sản cố định song song với việc xây dựng các chế độ bảo quản và bảo dưỡng tài sản cố định. Điều cần thiết là cần tính toán kĩ hiệu quả kinh tế của công tác bảo dưỡng bởi lẽ bảo dưỡng máy may công nghiệp, máy in yêu cầu kĩ thuật. Đối với những loại tài sản cố định đã lạc hậu về kĩ thuật, bị hư hỏng nặng hay không còn nhu cầu sử dụng xí nghiệp nên nhanh chóng thanh lý hoặc xin cấp thẩm quyền để thu hồi vốn để tránh tình trạng ứ đọng gây lãng phí. 3.2.3. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động Dựa trên những đặc điểm kinh tế kĩ thuật của xí nghiệp yêu cầu về vốn đối với từng bộ phận sản xuất mà đề ra định mức để có thể tiết kiệm và quản lý vốn lưu động tốt hơn. Đây không phải là vấn đề mới mẻ đối với các doanh nghiệp nhà nước nói chung với xí nghiệp với đặc thù riêng của ngành sản xuất thực hiện định mức vốn lưu động không dễ dàng. Tuy nhiên, để bảo toàn và nâng cao hiệu quả vốn lưu động, xí nghiệp cần sớm xây dựng các định mức vốn lưu động . - Nâng cao vòng quay của vốn lưu động. Nâng cao được vòng quay của vốn lưu động tức là rút ngắn thời gian ở mỗi khâu mà vốn đi qua. Giúp cho vốn có thể tham gia nhiều lần vào một kì sản xuất kinh doanh. Điều này không chỉ nâng cao hiệu quả việc sử dụng vốn lưu động mà còn khắc phục được tình trạng thiếu vốn lưu động của xí nghiệp. Để làm được điều này ngoài giải pháp nhanh chóng thu hồi các khoản phải thu của khách hàng xí nghiệp nên xác định mức dự trữ phù hợp không để xảy ra tình trạng để thiếu nguyên vật liệu nhưng cũng không nên để thừa nguyên vật liệu quá nhiều để tránh lãng phí vốn do bị tồn đọng trong khâu dự trữ. Quản lý sử dụng tốt hơn hàng tồn kho: Để đảm bảo dự trữ nguyên vật liệu hợp lý xí nghiệp cần lập hồ sơ cập nhật qua các bộ phận dự trữ theo số lượng và giá trị tiến hành kiểm kê tài sản theo dõi sự phân phối nguyên vật liệu, kiểm tra sự thiếu thừa của dữ trữ, đảm bảo an toàn sản xuất liên tục nhưng không để chi phí quá lớn do dự trữ gây nên. - Thực hiện tốt công tác dự toán ngân quỹ để có thể chủ động nguồn vốn cho sản xuất kinh doanh. Để đạt được điều này xí nghiệp cần quan tâm hơn đến công tác phân tích hoạt động tài chính, phòng Kế toán tài chính tiến hành công tác phân tích hoạt động tài chính định kỳ cuối mỗi quý căn cứ vào những thông tin từ báo cáo tài chính của xí nghiệp và thông tin từ bên ngoài. Bên cạnh đó phòng tài chính kế toán phải dự trù về nhu cầu tài sản lưu động trong kỳ đề ra các biện pháp cân đối giữa nguồn thu và các khoản chi, chủ động lên kế hoạch bù đắp các thiếu hụt. Sự phối hợp hoạt động giữa các phòng ban và ban giám đốc xí nghiệp giúp xí nghiệp quản lý tài sản vật liệu chặt chẽ hơn nghiệp vụ của các bộ phận trong xí nghiệp được nâng cao và xí nghiệp sẽ vững vàng hơn trong cơ chế thị trường đầy biến động. 3.3. Một số kiến nghị. Cải tiến công tác xây dựng kế hoạch huy động và sử dụng vốn hoàn thiện hơn cụ thể là ngoài việc huy động vốn từ các tổ chức khác (thông qua việc chiếm dụng vốn ) để đầu tư và mở rộng sản xuất như hiện nay. Xí nghiệp còn có thể huy động được vốn nhàn rỗi của cán bộ công nhân viên trong Xí nghiệp hoặc cho phép các đơn vị khác góp vốn và sử dụng vốn để đầu tư chiều sâu. Đối với công tác kế toán để có thể cung cấp thông tin cho người quản lý một cách tốt nhất. Muốn vậy kế toán trưởng phải sắp xếp công việc cho kế toán phù hợp với năng lực sở trường của họ. Xí nghiệp nên thực hiện công tác kế toán trên máy vi tính nhằm làm tăng tính chính xác , nhanh chóng cung cấp kịp thời thông tin cho nhà quản trị khi đó các quyết định đưa ra sẽ có lợi cho Xí nghiệp. Điều chính cơ cấu vốn cho hợp lý cần hạ thấp tỷ trọng vốn vay tăng khả năng tự chủ về tài chính giảm sự phụ thuộc vào các nguồn vốn bên ngoài. Tạo thêm nguồn vốn cho Xí nghiệp bằng lực đẩy nhanh cổ phần hoá Xí nghiệp cần tiến hành xem xét sắp xếp chuẩn bị để đẩy nhanh việc này. Một mặt nó không những có tác dụng làm tăng nguồn vốn tự có của doanh nghiệp. Cán bộ công nhân viên gắn bó với Xí nghiệp hơn mà còn tạo điều kiện cho tăng năng suất lao động. Đồng thời cổ phần các doanh nghiệp còn là bước chi phù hợp cho sự phát triển tất yếu của Xí nghiệp. Xí nghiệp cần tiến hành thường xuyên công tác phân tích đánh giá hiệu quả sử dụng vốn hiệu quả sản xuất kinh doanh trên cơ sở thấy được những mặt mạnh mặt yếu để có biện pháp khắc phụ. 3.3.1. Kiến nghị với Nhà nước. 3.3.1.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về kinh tế. Thứ nhất : luật pháp được ban hành với mục đích điều chỉnh mọi hành vi của xã hội theo một trật tự nhất định. Thực tiễn qua nhiều năm qua cho thấy muốn các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả cần có phải có hệ thống pháp đủ mạnh, đầy đủ, công bằng. Hiện nay đối với hoạt động kinh doanh còn nhiều bất cập cần được nghiên cứu hoàn chỉnh nhằm đảm bảo sự đồng bộ của hệ thống văn bản pháp luật. ở nước ta hiện nay cần tiếp tục xây dựng và hoàn thiện luật doanh nghiệp đã được quốc hội thông qua ngày 12/6/1999 có hiệu lực từ ngày 01/01/2000 lấy ý kiến đóng góp từ các bộ ngành các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế để có bộ luật được hoàn chỉnh đồng thời bổ sung một số luật còn thiếu cho hoạt động của doanh nghiệp luật kế toán, luật chống độc quyền Thứ hai: các chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Lãi suất ngân hàng và các điều kiện thanh toán là mối quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp. Bởi vậy ngân hàng phải luôn tính toán một cách hợp lý sao cho lãi suất tiền vay luôn nhỏ hơn lợi nhuận bình quân của các doanh nghiệp. khung lãi xuất do ngân hàng Nhà nước quy định phải đảm bảo của khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả vừa hỗ trợ tạo điều kiện do doanh nghiệp tiến hành sản xuất kinh doanh thuận lợi. Các ngân hàng cần xem xét lại các điều kiện cho vay và thanh toán sao cho thuận lợi đối với các doanh nghiệp, đồng thời tránh được rủi ro ban hành các quy định về cho vay và thế chấp cầm cố rõ ràng thoả đáng. Thứ ba: chính sách ngoại thương. Nền kinh tế mở đòi hỏi phải có chính sách ngoại thương phù hợp Nhà nước cần có nhiều biện pháp để tạo điều kiện thuận lợi do ngoại thương phát triển như thuế xuất nhập khẩu, hạn ngạch chính sách xã hội trợ và chính tỷ giá. Thứ tư : cần thiết cải cách hành chính theo hướng thuận thiện rõ ràng gọn nhẹ giảm bớt các chi phí do thủ tục giấy tờ, thời chờ đợi gây ra tình trạng tham nhũng, hối lộ, cửa quyền, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi thu hút vốn đầu tư nước ngoài, mở rộng sản xuất kinh doanh giảm chi phí vốn nâng cao trình độ công nghệ và quản lý. 3.3.1.2. Thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp. Chính sách kinh tế nhiều thành phần đã góp phần to lớn vào giải phóng và phát triển sức sản xuất đưa đến những thành tựu xã hội quan trọng qua 10 năm đổi mới. Sự phát triển đổi mới của khu vực doanh nghiệp đã đẩy mạnh sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam. Trong những năm qua cũng như sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế đổi mới doanh nghiệp là một công việc có ý nghĩa to lớn của nền kinh tế xã hội chính trị đổi mới khu vực kinh tế nhà nước tạo tiền đề để cho các thành phần kinh tế phát triển. Một trong những nội dung quan trọng của chương trình sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp nhà nước là thực hiện các hình thức chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước trong đó chủ yếu cổ phần hoá doanhnghiệp nhà nước Nghị quyết hội nghị lần thứ IV Ban chấp hành trung ương Đảng khoá 8 nêu rõ: Đối với các doanh nghiệp nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn cần lập kế hoạch cổ phần hoá để tạo phát triển thúc đẩy làm ăn có hiệu quả; sửa đổi bổ sung có kiện toàn tổ chức chỉ đạo cổ phần hoá các cấp”. Mặc dù cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước là một vấn đề mới mẻ song những kết quả mới đạt được trong thời gian qua đã cho thấy hướng đi này là hoàn toàn phù hợp. Về kết quả hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước thực hiện cổ phần hoá cho thấy hầu hết các doanh nghiệp này hoạt động kinh doanh đều đạt hiêụ quả, doanh thu, lợi nhuận, nộp ngân sách nhà nước và thu nhập của người lao động đều tăng so với trước khi cổ phần hoá. Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước là giải pháp quan trọng để huy động vốn, nguồn lực, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Do vậy cần phải thực hiện ngay,triển khai đồng bộ từ trung ương đến địa phương. 3..3.1.3. Đổi mới cơ chế và chính sách quản lý vốn của Nhà nước. Trước đây trong giai đoạn khôi phục và phát triển kinh tế việc đầu tư cho hoạt động kinh doanh chủ yếu theo hình thức trực tiếp xây dựng nhà máy công trình và cấp vốn cho các doanh nghiệp hoạt động. Ngày nay vốn ngân sách chỉ đầu tư trực tiếp để xây dựng cơ sở hạ tầng và những công trình quan trọng tầm cỡ quốc gia. Đối với vốn lưu động của doanh nghiệp Nhà nước chỉ đầu tư tối đa 30% định mức còn 70% các doanh nghiệp phải sử dụng vốn tín dụng . Việc chuyên đầu tư trực tiếp sang gián tiếp là chủ yếu đã có tác dụng tích cực làm cho doanh nghiệp phải quan tâm hơn đến hiệu quả sử dụng vốn đến thu hồi vốn . Vì vậy qủa sử dụng vốn đựơc nâng lên . Tuy vậy hiện nay cơ chế chính sách quản lý vốn của nhà nước vẫn còn nhiều bất cập như : Doanh nghiệp thì thiếu vốn ; ngân hàng thì ứ đọng vốn ; vốn của nhà nước bị thất thoát sự sử dụng còn kém hiệu qủa. Chính vì vậy muốn doanh nghiệp thực sự sản xuất kinh doanh có hiệu qủa cần đổi mới cơ chế quản lý vốn . Chính sách đầu tư cho họat động kinh doanh phải theo đúng đường lối phát triển kinh tế của Đảng và nhà nước . Chính sách đầu tư cần phải đúng hướng vào những ngành có lợi thế xuất khẩu có mũi nhọn . Đồng thời chính sách đầu tư phải đảm bảo bình đẳng với mọi loại hình doanh nghiệp . Về phương thức đầu tư giai đoạn tới cần tiếp tục tăng cường đầu tư gián tiếp . Việc đầu tư trực tiếp cần áp dụng đối với những doanh nghiệp cần được ưu tiên . Cơ chế quản lý vốn đầu tư đều được đổi mới cơ bản. Vốn được giao cho người quản lý điều hành doanh nghiệp sử dụng quản lý bảo toàn và phát triển . Việc sử dụng vốn như thế nào là do người quản lý điều hành doanh nghiệp tự quyết định có trách nhiệm bảo toàn đúng mục đích trên cơ sở phù hợp với pháp luật . Xử lý kiên quyết những doanh nghiệp hoạt động thua lỗ kéo dài mất vốn mất khả năng thanh toán Đặc biệt nhà nước cần ban hành hướng dẫn phương pháp phân tích tài chích doanh nghiệp để đánh giá đúng thực trực trạng hoạt động khinh doanh; hiệu quả sử dụng vốn; cung cấp thông tin cần thiết cho đối tượng cần sử dụng. 3..4. Kiến nghị với Bộ Công an: a. Về đảm bảo đáp ứng nhu cầu vê vốn. Bộ Công an cần căn cứ vào nhiệm vụ được giao và khả năng của xí nghiệp để xác định nhu cầu về vốn của xí nghiệp từ đó tìm ra vốn để điều hoà và bổ sung thêm vốn cho xí nghiệp, tạo điều kiện cho xí nghiệp ngày càng vững mạnh để xí nghiệp để xí nghiệp có thế và lực cạnh tranh với các doanh nghiệp khác trong nền kinh tế thị trường. b. Về quá trình thanh toán. Khi xí nghiệp hoàn thành các kế hoạch được giao thì các đơn vị trực thuộc bộ công an, các đơn vị nhận hàng, tài liệu cần chủ động bố trí nguồn vốn thanh toán đầy đủ kịp thời khối lượng kế hoạch cho xí nghiệp để tạo điều kiện cho xí nghiệp thu hồi vốn đã bỏ ra. Nâng cao tốc độ chu chuyển vốn, tiếp tục phục vụ cho việc phát triển sản xuất kinh doanh của xí nghiệp. c. Về đào tạo cán bộ: Bộ Công an cần hỗ trợ xí nghiệp trong công tác đào tạo cán bộ nhân viên quản lý đạt hiệu quả hơn. Tăng cường một số cán bộ công nhân viên kĩ thuật phục vụ sản xuất tạo điều kiện cho xí nghiệp xây dựng nề nếp chính quy phát triển ngang tầm với nhiệm vụ đảm nhiệm giúp cho xí nghiệp có đội ngũ công nhân viên vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, tạo nguồn lực ổn định lâu dài. d. Kiến nghị với Bộ Công an cho phép xí nghiệp được hưởng quyền quản lý tài chính sau: Được hưởng chế độ trợ cấp trợ giá và các chế độ ưu đãi khác của nhà nước. Khi thực hiện nhiệm vụ sản xuất hoặc cung ứng dịch vụ phục vụ quốc phòng an ninh, phòng chống thiên tai hoặc theo chính sách của nhà nước không đủ bù đắp chi phí, sản phẩm dịch vụ này của xí nghiệp. - Được hưởng các chế độ trợ giá, trợ cấp hoặc các chế độ ưu đãi, đầu tư hoặc tái đầu tư theo quy định của nhà nước khi không đủ bù đắp chi phí sản xuất, dịch vụ sản phẩm công ích của xí nghiệp. - Được công an thành phố - Bộ Công an ứng kinh phí theo dự toán hàng năm theo hợp đồng sản xuất phù hợp với nhiệm vụ kế hoạch được giao cho xí nghiệp. - Được huy động vốn góp liên doanh, thế chấp giá trị quyền sử dụng đất gắn liền với tài sản thuộc quyền quản lý của xí nghiệp tại ngân hàng Việt Nam để vay vốn phục vụ hoạt động công ích theo quy định của pháp luật khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép. Kết luận Sử dụng vốn có hiệu quả nhằm bảo toàn và phát triển vốn trong các doanh nghiệp hiện nay là vấn đề rất cấp bách có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các doanh nghiệp nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung Là đơn vị hoạch toán kinh tế độc lập hoạt động trong cơ chế thi trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Xí nghiệp tháng 8 đã không ngừng tỏ rõ những ưu thế của mình trong cạnh tranh, duy trì và phát triển năng lực sản xuất đồng thời nâng cao đời sống các hộ công nhân viên.Tuy nhiên để thích ứng với cơ chế mới xí nghiệp vẫn còn gặp nhiều khó khăn và thách thức đòi hỏi sự nỗ lực rất lớn trong toàn bộ xí nghiệp . Qua thời gian thực tập tại xí nghiệp bằng những kiến thức lý luận đã được trang bị với thực tiễn tìm hiểu tại xí nghiệp em mạnh dạn đề xuất một số giải pháp về nâng cao hiệu quả sử dụng vốn mà xí nghiệp có thể tham khảo và áp dụng nhằm nâng cao công tác quản lý và sử dụng vốn. Song thời gian có hạn trình độ hiểu biết trong lĩnh vực còn nhiều hạn chế mặc dù đã cố gắng hết sức nên chắc chắn sẽ không tránh khỏi thiếu xót nhất định. Em mong được sự góp ý của thầy cô giáo hướng dẫn các cán bộ phòng tài chính kế toán cùng các bạn đồng học quan tâm tới vấn đề hiệu quả sử dụng vốn nói chung để đề tài nghiên cứu của em được hoàn thiện hơn . Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa tài chính – ngân hàng trường Đại học Kinh tế Quốc dân Cùng toàn thể Ban lãnh đạo, cán bộ phòng Tài chính – Kế toán xí nghiệp tháng 8 . Đặc biệt là thầy giáo TS. Lê Đức Lữ đã tận tình hướng dẫn giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề thực tập tốt nghiệp này . Sinh viên thực hiện : Tài liệu Tham Khảo 1 . Tài chính doanh nghiệp : P .T S LưuThu Hương (Đ H K T Q D ) 2 . Quản trị Tài Chính doanh nghiệp : T. S Vũ Huy Hào P .T S Đàm Văn Huệ 3 . Quản trị tài chính : Đại học Tài chính kế toán 4 . Lập đọc phân tích các báo cáo tài chính - Nhà xuất bản TC 5 . Các báo cáo kế tóan 1990; 2000; 2001 của xí nghiệp Tháng 8 6 . Tài chính doanh nghiệp thưc hành : T .S Vũ Công Ty T h. S Đỗ Thị Phương 7 . Phân tích T C D N : Đỗ Vân Thận, dịch 8 . Các tạp chí chuyên ngành và các văn bản kiện hành Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc9531.doc
Tài liệu liên quan