Đề tài Một số giải pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội

Xuất phát từ tính chất của các hoạt động ngoai bảng là Ngân hàng thu được lãi trong khi không phải sử dụng vốn kinh doanh cho nên đã khuyến khích các hoạt động ngoại bảng ngày càng phát triển. Tuy nhiên, những hoạt động này cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro. Chẳng hạn, trong trường hợp công ty phát hành trái phiếu phá sản thì Ngân hàng phải đứng ra thanh toán toàn bộ gốc và lãi chứng khoán do công ty đó phát hành, điều này dẫn đến bảo lãnh thư đã trở thành một bộ phận trong bảng cân đối tài sản nội bảng, nghĩa là Ngân hàng phải sử dụng vốn kinh doanh của mình để trang trải những gì cam kết trong thư bảo lãnh. Trong thực tế, những trường hợp thua lỗ nghiêm trọng trong các hoạt động ngoại bảng đã trở thành những nguyên nhân chính khiến cho Ngân hàng có thể phá sản.

doc66 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 983 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n và nhu cầu vay ngoại tệ để nhập máy móc thiết bị và nguyên vật liệu tăng dần, NHNo & PTNT Hà Nội đã nhanh chóng tìm giải pháp để đáp ứng nhu cầu vay vốn ngoại tệ nên mặc dù mới mở ra cho vay ngoại tệ nhưng dư nợ cho vay ngoại tệ chiếm tỷ trọng khá lớn trên tổng dư nợ. Vốn tín dụng của NHNo & PTNT Hà Nội từ đó đã thực sự là đòn bẩy góp phần xoá đói, giảm nghèo, thúc đẩy các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh phát triển đứng vững trong cơ chế thị trường Trong vài năm gần đây, tình hình kinh tế xã hội có nhiều biến động, nền kinh tế của đất nước sau nhiều năm mở cửa đã tăng trưởng với tốc độ cao thì đến cuối năm 1997 và bước vào năm 1998 tốc độ phát triển đã bắt đầu chững lại, cuộc khủng hoảng tài chính diễn ra trong khu vực như Thái lan, Hàn Quốc, Nhật Bản, đã làm cho đồng Việt Nam sụt giá trên 17%. Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam giảm sút, tỉ lệ lạm phát tăng. Bên cạnh đó tình hình thời tiết diễn ra vô cùng khắc nghiệt, hết hạn hán ở miền Trung, miền Nam lại đến lũ lụt ở miền Trung gây tổn thất nhiều đến người và của của nhân dân, nó ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế của đất nước. Trong bối cảnh kinh tế khó khăn như vậy, hoạt động của NHNo & PTNT Hà Nội trong những năm qua cũng gặp không ít khó khăn, cụ thể trong công tác huy động vốn, công tác cho vay. Song sự chỉ đạo thường xuyên của NHNo & PTNT Hà Nội và nỗ lực của ban lãnh đạo cùng toàn thể cán bộ công nhân viên, hoạt động kinh doanh của Ngân hàng đã đạt được những kết quả như sau: 2.1. Công tác huy động vốn. Đến cuối năm 2002 nguồn vốn huy động của toành thành phố là 6.151.984 triệu đồng, tăng 44,5% so với năm 2001. Trong năm 2002 một số chi nhánh đã quan tâm tạo nguồn vốn kinh doanh với lãi suất hợp lý nên đã tìm và huy động được một số doanh nghiệp, cơ quan, trường học về mở tài khoản và gửi tiền nên nguồn vốn tăng trưởng khá, tạo tiền đề thuận lợi cho kinh doanh như, tuy nhiên vẫn còn một số ngân hàng chưa thực sự quan tâm đến công tác nguồn vốn kinh doanh. Bảng 1 : Tình hình biến động nguồn vốn của các Ngân hàng Quận Đơn vị: Triệu đồng Ngân hàng 31/12/2001 31/12/2002 % 2002/2001 Trung tâm 2.296.696 2.934.594 +28.8 Cầu Giấy 309.229 397.026 +28.4 Đống Đa 332.240 437.111 +31.6 Thanh Xuân 187.182 259.082 +38.4 Tây Hồ 256.354 354.470 +38.3 Ba Đình 371.480 406.537 +9.4 Tam Trinh 5.746 25.767 +348.4 Hai Bà Trưng 304.857 555.125 +82.1 Hoàn Kiếm 193.135 430.656 +122.9 Chương Dương - 264.194 - Tràng Tiền - 87.422 - Toàn thành phố 4.256.919 6.151.984 +44.5 Trong tổng nguồn vốn huy động thì tỷ trọng của các nguồn qua 2 năm 2001 và 2002 cũng có sự thay đổi khá lớn thể hiện trong bảng sau : Bảng 2: Cơ cấu nguồn vốn huy động theo nguồn hình thành Đơn vị:tỷ đồng Nguồn hình thành 31/12/2001 31/12/2002 2002/2001 Số tiền %/åNV Số tiền %/åNV Số tiền %/åNV - Tiền gửi các TCKT 862 20,2 898 14,6 + 36 + 1,9 - Tiền gửi các TCTD 1.454 34,2 1.931 31,4 + 477 + 25,2 - Tiền tiết kiệm 640 15 972 15,8 + 332 + 17,5 - Kỳ phiếu 1.141 26,8 2.055 33,4 + 914 + 48,3 - Tiền gửi và vay khác 161 3,8 296 4,8 + 135 + 7,1 Tổng nguồn vốn 4.258 6.152 + 1.894 Qua bảng 2 ta thấy giữa năm 2001 và năm 2002 có sự biến động khá lớn về cơ cấu nguồn vốn. Tiền gửi của các tổ chức kinh tế năm 2001 là 862 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 20,2% tổng nguồn vốn huy động, năm 2002 là 898 tỷ đồng, tăng 1,9% so với năm 2001 với con số tuyệt đối là 36 tỷ đồng. Việc tiền gửi của tổ chức kinh tế tăng 36 tỷ đồng thể hiện uy tín cũng như chính sách chỉ đạo lãi suất phù hợp của NHNo & PTNT Hà Nội và các Ngân hàng Quận, từ đó thu hút khách hàng ngày càng đông và ổn định. Ngoài ra, tiền gửi của các tổ chức tín dụng và tiền tiết kiệm cũng tăng lên đáng kể, cụ thể là: năm 2002 tiền gửi các tổ chức tín dụng tăng 25,2 % và tiền tiết kiệm tăng 17,5% so với năm 2001. Có được như vậy thì Ngân hàng đã chú trọng đến công tác huy động vốn của mình, thu hút được khá mạnh lượng tiền nhàn rỗi trong dân cư vàthực hiện các nghiệp vụ thanh toán liên Ngân hàng một cách linh hoạt tạo điều kiện thuận lợi cho các cá nhân, tổ chức. Nếu như trước đây, nguồn vốn chính của Ngân hàng là lấy từ Ngân sách nhà nước và chỉ có một phần nhỏ huy động từ các tổ chức kinh tế, những khách hàng truyền thống quen thuộc thì bước sang giai đoạn mới theo pháp lệnh 90 được ban hành – chi nhánh NHNo & PTNT Hà Nội đã thực hiện đổi mới toàn diện hoạt động tín dụng của mình kết hợp với việc tự huy động, tìm kiếm nguồn vốn để cho vay. Hoạt động huy động được mở rộng với các đợt phát hành kỳ phiếu, trái phiếu. Hình thức này đã có hiệu quả trong việc gia tăng nguồn vốn của Ngân hàng, giảm tỷ trọng vốn ngân sách trong nguồn vốn của Ngân hàng. Cụ thể: trong năm 2002, nguồn vốn huy động từ kỳ phiếu tăng 48,3% so với năm 2001, làm cho tổng nguồn vốn tăng thêm 914 tỷ đồng. Như vậy trong hai năm qua, bằng nhiều hình thức phong phú như cải tiến nghiệp vụ, đổi mới phong cách giao dịch, mở rộng mạng lưới giao dịch, trang bị máy tính, cải tiến mẫu mã giấy tờ giao dịch nên nguồn vốn huy động của NHNo & PTNT Hà Nội không ngừng tăng lên. Ngân hàng đã tập chỉ đạo các phòng ban tạo mọi điều kiện thuận lợi để các tổ chức, cá nhân mở tài khoản và hướng dẫn thủ tục chu đáo. Đồng thời cử cán bộ tín dụng đến tận doanh nghiệp để đáp ứng kịp thời tiền mặt, séc, ngân phiếu, không ngừng thu hút mọi khoản tiền nhà rỗi của khách hàng vào tài khoản. 2.2. Tình hình sử dụng vốn: Các Ngân hàng thương mại đều hoạt động theo phương thức “nhận gửi để cho vay” tức là huy động vốn từ các nguồn khác nhau và phải sử dụng vốn đó hoạt động kinh doanh có lãi, đảm bảo khả năng thanh toán cho khách hàng khi có dòng tiền rút ra. Vì vậy, sử dụng vốn là khâu mấu chốt quyết định hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng. Việc sử dụng triệt để có hiệu quả nguồn vốn sẽ dẫn đến tối đa hoá lợi nhuận cho Ngân hàng cũng như góp phần vào sự phát triển chung của nền kinh tế. Diễn biến tình hình dư nợ của NHNo & PTNT Hà Nội qua hai năm 2001 và 2002 được thể hiện trong bảng sau: Bảng 3: Tình hình dư nợ của các Ngân hàng Quận. Đơn vị: triệu đồng. Ngân hàng Năm 2001 Năm 2002 2002/2001 Số tiền Tỷ lệ % Trung tâm 1.114.499 1.159.406 Cầu Giấy 70.404 123.298 Đống Đa 51.166 83.000 Thanh Xuân 40.360 87.651 Tây Hồ 108.836 191.725 Ba Đình 57.986 75.252 Tam Trinh 38 1.453 Hai Bà Trưng 67.190 87.099 Hoàn Kiếm 57.375 113.000 Chương Dương - 52.875 Tràng Tiền - 27.947 Toàn thành phố 1.571.151 2.002.709 CÁC BIỆN PHÁP HẠN CHẾ VÀ XỬ LÝ NỢ KHÓ ĐÒI VÀ NỢ QUÁ HẠN MÀ NHNo & PTNT HÀ NỘI ĐÃ THỰC HIỆN. Đối với các Ngân hàng thương mại nói chung và NHNo & PTNT Hà Nội nói riêng, quản lý tốt các khoản vốn vay là vấn đề được coi trọng hàng đầu, nhờ đó Ngân hàng có thể áp dụng một loạt các hạn chế và xử lý rủi ro trên cơ sở thực hiện nghiêm túc quy trình kỹ thuật cho vay trong điều kiện cụ thể của Ngân hàng. Phân tích đánh giá trước khi cho vay : Khi khách hàng đến đặt quan hệ tín dụng, Ngân hàng tiến hành phân tích đánh giá về mọi mặt trước khi có quyết định cuối cùng cho vay hay không cho vay. Điều này hết sức quan trọng, nó góp phần tránh rủi ro ngay từ đầu cho Ngân hàng. Công việc này được thực hiện qua các bước: Thẩm định tư cách pháp lý của khách hàng: Khách hàng lần đầu tiên đến đặt quan hệ vay vốn với Ngân hàng được yêu cầu cung cấp các hồ sơ với tư cách pháp lý của mình. Đối với khách hàng là pháp nhân cần có: Giấy phép hoặc quyết định thành lập của doanh nghiệp. Đăng ký kinh doanh có trong thời hạn hiệu lực. Giấy phép hành nghề (đối với các nghề đặc biệt) Quyết định bổ nhiệm Giám đốc, Kế toán trưởng. Nếu bên vay là thể nhân cần có: Đăng ký kinh doanh (nếu khoản vay nhằm mục đích kinh doanh) Bản sao giấy chứng minh thư nhân dân. Bản sao hộ khẩu. Qua đó Ngân hàng thẩm tra tư cách pháp lý của khách hàng, phạm vi giới hạn được phép kinh doanh của khách hàng. Thẩm định tình hình họat động sản xuất kinh doanh. Ngân hàng đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh của đơn vị vay vốn thông qua phân tích doanh thu và kết qủa kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh thu là chỉ tiêu kinh tế cơ bản phản ánh chất lượng của quá trình tiêu thụ hàng hoá. Doanh thu tăng trong khi giá cả không thay đổi chứng tỏ hoạt động sản xuất của doanh nghiệp đang thuận lợi, hàng hoá đưa ra thị trường được chấp nhận. Doanh thu càng lớn thì doanh nghiệp càng có khả năng trả nợ cho Ngân hàng. Kết quả kinh doanh của doanh nghiệp lợi nhuận) là chỉ tiêu tổng hợp đánh giá toàn bộ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Kết quả sản xuất kinh doanh càng cao thì quá trình sản xuất kinh doanh càng có hiệu quả. Thẩm định phương án sản xuất kinh doanh và dự án xin vay vốn: Một điều kiện cơ bản đối với khách hàng vay vốn là phải có phương án sản xuất kinh doanh hoặc dự án đầu tư khả thi. Ngân hàng sẽ tiến hành thẩm định, phân tích theo 3 hướng: mục đích, tính khả thi và tính hiệu quả của dự ánh cũng như phương thức sản xuất kinh doanh đó. Phân tích mục đích: Để chứng minh một phương án hay một dự án có tính pháp lý trước hết phải biết mục đích của nó là gì? Mục đích nàu có phù hợp với mục đích kinh doanh của tổ chức cá nhân đã được cấp thẩm quyền phê duyệt hay không? Bên cạnh đó, nếu doanh nghiệp đã quen kinh doanh một mặt hàng rồi thì chuyển sang một loại khác rủi ro trong kinh doanh sẽ rất cao. Phân tích tính khả thi: Trước hết, Ngân hàng đang quan tâm đến sản phẩm của thị trường gồm thị trường đầu vào và thị trường đầu ra. Thị trường đầu vào có ý nghĩa rất quan trọng. Trong quá trình thẩm định Ngân hàng sẽ xem xét xem nguồn vào có thông dụng, dễ tìm hay không? Giá cả nguồn cung cấp đó như thế nào Những vấn đền này có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Ngân hàng sẽ không cho vay đối với những dự án, phương án có nguồn cung cấp bấp bênh vì rủi ro cho cả 2 phía Ngân hàng và khách hàng đều cao. Thị trường tiêu thụ sản phẩm là vấn đề cốt lõi, hàng hoá sản xuất ra phải tiêu thụ được, có thế mới mong thu hồi được vốn và trả nợ cho Ngân hàng. Ngân hàng phân tích tình hình cung cầu sản phẩm trên thị trường, nhận định về tình hình tiêu thụ sản phẩm và khả năng trả nợ của khách hàng. Đây là công việc khó khăn đòi hỏi cán bộ tín dụng nhạy bén với nhu cầu của thị trường tự do. Bên cạnh, Ngân hàng cũng xem xét các bạn hàng và đối thủ cạnh tranh của đơn vị vay vốn. Nếu việc tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp chỉ tập trun vào một số khách hàng thì khi khách hàng chuyển hướng kinh doanh hoặc ngừng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp thì hàng hoá sẽ ứ đọng, không thu hối được vốn và khả năng trả nợ thấp. Ngoài ra, việc doanh nghiệp có nhiều đối thủ cạnh tranh mạnh có thể đưa ra các hàng hoá tương tự hoặc hàng hoá tương tự với tính năng ưu việt hơn, giá cả rẻ hơn thì hàng hoá của doanh nghiệp sẽ chậm tiêu thụ hoặc không tiêu thụ được. Ngân hàng cũng tiến hành phân tích giá thành sản phẩm, đây là chỉ tiêu chất lượng tổng hợp, phản ánh các nổ lực kinh doanh của doanh nghiệp với mức chung trên thị trường. Tất cả quá trình sản xuất quản lý lao động, nâng cao hiệu quả sử dụng, tiết kiệm chi phí đều được phản ánh trong giá thành. Ngân hàng còn luôn cân nhắc và xem xét đến giá thành và mối quan hệ của nó với việc tiêu thụ sản phẩm. Giá thành sản phẩm thấp làm tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường, thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm và khả năng trả nợ cho Ngân hàng sẽ cao hơn. Ngoài ra, Ngân hàng còn phân tích chu kỳ sản xuất kinh doanh để xác định kỳ hạn của khoản vay và có kế hoạch thu nợ hợp lý. Ngân hàng còn phân tích nguồn vốn để thực hiện phương án dự án. Trong đó, tỷ trọng vốn của doanh nghiệp rất quan trọng. Tỷ trọng này càng cao thì quá trình thực hiện dự án không bị phụ thuộc vào các đơn vị và vốn của Ngân hàng tham gia vào dự án càng an toàn. Cuối cùng, Ngân hàng phân tích nguồn trả nợ của khách hàng. Ngân hàng xem xét nguồn trả nợ của khách hàng đệ trình để xem có nguồn nào là nguồn “ẩn” hay không? Nếu trả nợ từ kết quả phương án hay dự án thì lợ nhuận tạo ra là bao nhiêu? Nếu lấy từ các nguồn trong tương lai thì doanh nghiệp sẽ trả nợ vào thời điểm nào? Có trùng với thời hạn hoàn trả nợ vay Ngân hàng hay không? Phân tích tính hiệu qủa: Phân tích tính hiệu quả mà dự án mang lại nhằm xác định 1 đồng chi phí bỏ ra thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận: Lợi nhuận thu được Hiệu quả = ------------------------------- Tổng vốn đầu tư Chỉ tiêu này càng cao doanh nghiệp kinh doanh càng có hiệu quả, độ rủi ro của các khoản vay càng thấp. Thẩm định tình hình tài chính của khách hàng: Tình hình tài chính của doanh nghiệp có ảnh hưởng đế độ an toàn của vốn vay. Khảnăng tài chính của doanh nghiệp cũng là một trong những điều kiện để Ngân hàng xét duyệt cho vay. Ngân hàng sẽ phân tích tình hình tài chính qua các mặt: Tình hình công nợ: tình hình chiếm dụng vốn, vay Ngân hàng, vay các tổ chức cá nhân, vay nước ngoài, các khoản bảo lãnh, cam kết ngoại bảng. Hiệu quả kinh doanh: thể hiện qua các chỉ tiêu lợi nhuận ròng, tỷ lệ lợi nhuận trên vốn, trên doanh số Đánh giá uy tín và năng lực kinh doanh của khách hàng: Uy tín và năng lực của doanh nghiệp quyết định đến sự thành bại trong kinh doanh. Trong môi trường cạnh tranh găy gắt để doanh nghiệp đứng vững và phát triển. Năng lực cũng như uy tín của doanh nghiệp không thể hình thành trong một thời gian ngắn mà được trải nghiệm qua thời gian, được thị trường kiểm chứng. Đây cũng là yếu tố để Ngân hàng đặt lòng tin vào khách hàng. Thông qua kiểm chứng đối chiếu các thông tin mà khách hàng cung cấp với các thông tin trung tâm tín dụng Ngân hàng nhà nước, dữ liệu của khách hàng thông qua thống kê, báo chí, Ngân hàng tiến hành đánh giá: Về doanh nghiệp. Về bản thân người điều hành. Về mối quan hệ kinh doanh trên thị trường. Về uy tín trên thị trường và các tổ chức tín dụng khác. Về mối quan hệ với NHNo & PTNT Hà Nội. Thẩm định đánh giá tài sản thế chấp: Đây là công việc rất cần thiết mặc dù đã có những phân tích rủi ro đạo đức về phía khách hàng vẫn có thể xảy ra như sử dụng vốn sai mục đích, không đúng cam kết trong hợp đồng tín dụng. Ngân hàng cần quan tâm đến việc sử dụng vốn vay cũng nhưn hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp để đôn đốc việc thực hiện nghĩa vụ với Ngân hàng. Việc giám sát thường xuyên giúp ngân hàng kịp thời phát hiện những sai phạm của khách hàng để có biện pháp xử lý kịp thời. Để thực hiện công tác này, ngân hàng quy định rõ hàng tháng phòng kinh doanh tín dụng đầu tư phải lập báo cáo kiểm tra viêc sử dụng tiền vay của khách hàng có đúng mục đích hay không và phản ánh tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính của khách hàng với các nội dung: Doanh thu bán hàng trong tháng. Tình hình tồn kho hàng hoá, nguyên vật liệu, vật tư. Thu nhập, chi phí của doanh nghiệp. Công nợ phát sinh. Tình hình vốn bị chiếm dụng và chiếm dụng vốn. Tình hình sử dụng vốn vay NHNo & PTNT Hà Nội đối chiếu với phương án sử dụng vốn ban đầu. Tình hình nộp lãi vay (đúng hạn, quá hạn, lý do chậm trễ) Đối với trường hợp khách hàng vay lớn, thường xuyên ban giám đốc và trưởng phòng tiến hành gặp gỡ trao đổi với khách hàng, quan sát tại chỗ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Ngân hàng có quyền thu hồi gốc và lãi trong các trường hợp: Bên vay giải thể, ngừng hoạt động. Người điều hành doanh nghiệp bên vay bị khởi tố. Bên vay cung cấp thông tin sai sự thật, vi phạm hợp đồng tín dụng. Các thay đổi về tình hình tài chính, tình hình tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh và mọi nguyên nhân có ảnh hưởng xấu đến hoạt động sản xuất kinh doanh và tài sản của doanh nghiệp. Bên vay chia tách hoặc sát nhập hoặc liên doanh một phần tài sản hoặc toàn bộ, chuyển quyền sỡ hữu cho doanh nghiệp khác thì phải thanh toán nợ đầy đủ trước khi thực hiện chia tách hoặc sát nhập. Nếu chưa trả được nợ, dơn vị mới tiếp nhận tài sản của bên vay phải ký nhận nợ với NHNo & PTNT Hà Nội và thực hiện trả nợ với bên vay. Bên vay chuyển trụ sở ra khác địa bàn tỉnh, thành phố với trụ sở của NHNo & PTNT Hà Nội, thay đổi tên doanh nghiệp. Đảm bảo tín dụng và công tác quản lý đảm bảo tín dụng: Ngân hàng đã áp dụng các hình thức đảm bảo tín dụng: thế chấp, cầm cố, bảo lãnh và tín chấp. Đối với hình thức tín chấp, Ngân hàng quy định cụ thể về đối tượng cũng như các điều kiện với khách hàng như sau: Đối tượng bao gồm: Doanh nghiệp quốc doanh thuộc các tổng công ty 90-91 đang hoạt động có hiệu quả được bảo lãnh của ngân hàng hay tổng công ty. Các doanh nghiệp vay để thi công các công trình xây dựng, cơ sở hạ tầng có nguồn vốn từ ngân sách nhà nước hoặc các chế định tài chính quốc tế, được chủ đầu tư xác nhận và cam kết thanh toán cho doanh nghiệp vào tài khoản của họ mở tại NHNo & PTNT Hà Nôi. Doanh nghiệp có uy tín đang thực hiện việc xuất khẩu theo L/C đã mở cho mình là người thụ hưởng, việc xuất trình chứng từ phải thông qua NHNo & PTNT Hà Nội. Các trường hợp đặc biệt khác do hội đồng quản trị quyết định. Các điều kiện được vay tín chấp: Trình độ quản lý sản xuất kinh doanh của khách hàng thích ứng được cơ chế thị trường, khách hàng có vốn lớn, tình hình tài chính lành mạnh, không có nợ quá hạn. Sản phẩm hàng hoá, dịch vụ của khách hàng có uy tín lớn trên thị trường, tiêu thụ nhanh, không bị ứ đọng tồn kho. Phương án sản xuất kinh doanh có tính khả thi có hiệu quả, đảm bảo khả năng hoàn trả cả gốc và lãi. Hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng có hiệu quả, có thực lãi trong 2 năm liền, không nợ thuế. Các khách hàng như trên có được ngân hàng cho vay tín chấp. Đối với những khách hàng khác, ngân hàng áp dụng hình thức thế chấp cầm cố, bảo lãnh coi như là một trong các điều kiện để cho vay. Để đảm bảo đúng điều kiện này cũng như để quản lý các đảm bảo tín dụng, khi khách hàng đến vay vốn, ngân hàng yêu cầu khách hàng cung cấp hồ sơ đảm bảo tín dụng. Nếu khách hàng có đảmbảo tín dụng bằng tài sản, cần phải cung cấp tài liệu chứng minh quyền sỡ hữu hợp pháp của bên vay (hoặc bên bảo lãnh đối với các tài sản đó). Nếu khách hàng có đảmbảo tín dụng bằng bảo lãnh của ngân hàng khác thì phải cung cấp bản chính thư bảo lãnh. Việc chấp nhận đảm bảo tín dụng bằng bảo lãnh của ngân hàng khác do thoả thuận giữa bên vay và NHNo & PTNT Hà Nội. Nếu khách hàng có đảmbảo tín dụng bằng các khoản đầu tư xây dựng các công trình thuộc vốn Nhà nước loại vốn đầu tư chưa được thanh toán (theo quy định của NHNo & PTNT Hà Nội) phải có văn bản của chủ đầu tư cam kết sẽ chuyển toàn bộ số tiền thanh toán cho bên vay vào tài khoản của bên vay ở NHNo & PTNT Hà Nội. Trường hợp thế chấp, cầm cố tài sản là công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty liên doanh phải có văn bản chấp nhận của hội đồng quản trị hoặc các sáng lập viên nhất trí cho giám đốc doanh nghiệp được mang tài sản đi cầm cố, thế chấp tại ngân hàng. Ngoài ra, đối với các loại tài sản mà pháp luật quy định phải mua bảo hiểm hoặc ngân hàng thấy cần thiết phải mua bảo hiểm để đảm bảo an toàn tín dụng thì khách hàng vay vốn được yêu cầu phải mua bảo tài sản. Giá trị tài sản được hưởng khi gặp rủi ro phải đảm bảo thu đủ gốc và lãi cho khoản vay của NHNo & PTNT Hà Nội trong suốt thời gian thực hiện hợp đồng tín dụng và người được thừa hưởng tiền bảo lãnh là NHNo & PTNT Hà Nội. Việc quản lý đảm bảo tín dụng do bộ phận định giá và quản lý tài sản thế chấp thực hiện. Hàng tháng bộ phận này lập báo cáo về tình trạng tài sản thế chấp. Cụ thể: Đối với bất động sản (nhà đất): xem xét việc khai thác, sử dụng tài sản có làm giảm chất lượng, giá trị tài sảm không? Người thế chấp có cho thuê, cho mượn không? Tái định giá theo thời gian và hiện trạng. Đối với các loại hàng hoá vật tư: xem xét việc bảo quản, kiểm kê số lượng, chất lượng, đề xuất ý kiến tình trạng hàng hoá. Đánh giá khả năng phát huy hiệu quả vốn vay. Sau khi trả xong các khoản nợ vay, Ngân hàng và doanh nghiệp cùng nhau tiến hành thanh lý hợp đồng đánh giá hiệu quả vốn vay. Trên cơ sở đó, Ngân hàng xem xét khả năng phát triển của doanh nghiệp khi có vốn vay. Nếu vốn vay giúp doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh sẽ tạo điều kiện tiền đề để Ngân hàng mở rộng tùy theo nhu cầu của doanh nghiệp. Ngược lại, nếu tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp xấu đi thì dù doanh nghiệp có trả được nợ thì độ an toàn của các khoản vay sau đó không cao. Trường hợp này Ngân hàng vẫn tiến hành phân tích đánh giá xem nguyên nhân do đâu để có biện pháp giúp đỡ hoặc chấm dứt cho vay. Các biện pháp thu hồi các khoản nợ các khoản nợ quá hạn. Thu hồi các khoản nợ là nhiệm vụ nặng nề, khó khăn nhưng đây là đòi hỏi cấp bách để Ngân hàng tiếp tục hoạt động có hiệu quả. Tuy nhiên, không vì thế mà Ngân hàng để mất mối quan hệ với khách hàng. Với quan điểm là coi khách hàng là bạn đồng hành cùng có lợi, là nhân tố giúp Ngân hàng tồn tại và phát triển làm lợi cho cả hai phía, Ngân hàng đã cử một số cán bộ xuống giám sát tài chính tại một số doanh nghiệp nhằm tăng cường khả năng thu hồi nợ, cùng khách hàng bàn biện pháp tăng cường đẩy mạnh hoạt động để có khả năng trả nợ Ngân hàng. Đối với khách hàng đã dùng tiền vay ngắn hạn đầu tư chính đáng vào các dự án trung và dài hạn, Ngân hàng tạo điều kiện chuyển từ nợ ngắn hạn sang nợ dài hạn để họ yên tâm sản xuất và có điều kiện trả nợ ngân hàng. Cuối cùng Ngân hàng thực hiện một số biện pháp như thu hồi tài sản, phát mại tài sản để thu nợ hay đề nghị khởi tố đối với khách hàng có tính chất chầy lỳ thu nợ Ngân hàng coi đây là những biện pháp bất đắc dĩ phải thực hiện với phương châm mềm dẻo, coi trọng lợi ích cả hai bên. Tuy nhiên, với những khách hàng có dấu hiệu lừa đảo, Ngân hàng cũng cương quyết dùng biện pháp cứng rắn để thu hồi nợ. Các biện pháp khác. Đối với nội bộ của mình, Ngân hàng tăng cường phát huy vai trò của ban kiểm soát trong quá trình kiểm tra giám sát và tự kiểm tra nội bộ nhất là về nghiệp vụ tín dụng. Ngân hàng cũng rất chú trọng đến việc đào tạo bồi dưỡng cán bộ về nghiệp vụ bằng việc cử cán bộ đi học các lớp bồi dưỡng về nghiệp vụ về pháp luật, kinh doanh. Ngoài ra, Ngân hàng luôn kết hợp với các cơ quan chức năng trong việc quản lý vốn vay, thu hồi nợ. Do đặc điểm của ngành mình là kinh doanh tiền tệ trong cơ chế thị trường không thể tách rời vai trò chuyên chính của các cơ quan pháp luật, cơ quan hành chính vì vậy Ngân hàng luôn phát huy các mối quan hệ giúp đỡ của các cơ quan công an, kiểm soát, ủy ban nhân dân địa phương nơi có tài sản thế chấp hoặc người vay cư trú để xử lý kịp thời khi có sự cố xảy ra. Mọi trường hợp cho vay thế chấp tài sản Ngân hàng đều có văn bản gửi cho ủy ban nhân dân các phường, xã nơi người vay cư trú đề nghị chính quyền địa phương giúp đỡ quản lý tài sản thế chấp, không xác nhận bất cứ trường hợp nào người vay xin giấy xác nhận để thế chấp tài sản vay vốn Ngân hàng khác hoặc mua bán tài sản khi chưa có ý kiến của Ngân hàng. Việc xử lý trong trường hợp người vay trả được cũng vậy. Ngân hàng tổ chức kê biên, niêm phong và phát mại tài sản đúng pháp luật, có sự chứng kiến của các cơ quan pháp luật và chính quyền địa phương. Nói chung Ngân hàng cố gắng quản lý chặt chẽ để khi rủi ro xảy ra, các cơ quan chức năng có điều kiện giúp đỡ Ngân hàng thu hồi được nợ. Ngân hàng cũng thành lập qũy phòng chống rủi ro từ lợi nhuận để bù đắp các khoản vay không thu hồi được do nguyên nhân khách quan. Tóm lại, các biện pháp mà NHNo & PTNT Hà Nội thực hiện để ngăn ngừa, xử lý rủi ro tín dụng cho thấy Ngân hàng đã thực hiện nghiêm túc các thể lệ tín dụng của Ngân hàng Nhà nước. Bên cạnh đó, Ngân hàng cũng chủ động sáng tạo kết hợp với nhiều biện pháp như phát huy tin thần trách nhiệm của cán bộ Ngân hàng nói chung và cán bộ tín dụng nói riêng trong công tác thẩm định giám sát quản lý vốn vay, kết hợp với các cơ quan hữu trách để quản lý tài sản thế chấp, từng bước nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ cho phù hợp với nhu cầu kinh doanh mới của Ngân hàng . Tuy nhiên, tình hình nợ quá hạn có xu hướng gia tăng cũng như nợ khó đòi trong nợ quá hạn còn chiếm tỷ lệ cao cho thấy các biện pháp đó chưa thật sự có hiệu quả hoặc chưa có đủ môi trường thuận lợi cho chúng phát huy tác dụng trong việc ngăn ngừa rủi ro. Thực trạng này đòi hỏi Ngân hàng cần phải tiếp tục hoàn thiện các biện pháp cũ, tìm ra các giải pháp mới cho phù hợp với thực trạng của mình hiện nay. CHƯƠNG III MỘT SỐ GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ NHẰM HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN HÀ NỘI Trong điều kiện nước ta hiện nay, cùng với sự tăng trưởng về kinh tế, mở rộng quan hệ kinh tế với bên ngoài, hệ thống ngân hàng thương mại cũng phát triển không ngừng cả về số luợng và loại hình ngân hàng. Bên cạnh đó, sự phát triển của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài với các văn phòng đại diện ở các trung tâm kinh tế lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh càng làm cho mức độ kinh doanh trong tiền tệ giữa các Ngân hàng thương mại quốc doanh, Ngân hàng thương mại cổ phần và Ngân hàng thương mại nước ngoài thêm găy gắt. Điều này buộc các ngân hàng phải thực sự quan tâm đến chất lượng và hiệu quả kinh doanh của mình. Để đạt được điều đó, mỗi Ngân hàng phải tìm ra những giải pháp tối ưu để hạn chế các loại rủi ro, trong đó thường xuyên nhất là rủi ro tín dụng. Đối với NHNo & PTNT Hà Nội, đây là một vấn đề hết sức quan trọng để tồn tại và vương lên trong quá trình cạnh tranh. Xem xét quá trình hoạt động của NHNo & PTNT Hà Nội, ta có thễ thấy Ngân hàng luôn nỗ lực giải quyết vấn đề an toàn tín dụng. Tuy nhiên, thực tế cho thấy cần phải tăng cường hơn nữa các biện pháp để có hiệu quả hơn. Trên cơ sơ đó. Em xin đưa ra một số giải pháp, kiến nghị góp phần phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng, cũng như các phát sinh tiêu cực của nó tại NHNo & PTNT Hà Nội. I. ĐỊNH HƯỚNG HOẠT ĐỘNG CỦA NHNo & PTNT HÀ NỘI. Định hướng chung : Căn cứ những định hướng, chương trình và trọng tâm công tác của Ngân hàng Nhà nước và NHNo & PTNT Hà Nội và những thành quả, bài học kinh nghiệm tổng kết được của NHNo & PTNT Hà Nội. Căn cứ tình hình phát triển kinh tế xã hội, mội trường kinh tế pháp lý và phân tích dự báo về thị trường sản xuất kinh doanh trong những năm tới. Dựa trên những căn cứ đó NHNo & PTNT Hà Nội đã đề ra mục tiêu cho những năm sau này là ổn định, phát triển vững chắc, an toàn và hiệu quả. Từ đó có chiến lược phát triển từng mặt nghiệp vụ với những hướng chủ yếu sau : Xuất phát từ yêu cầu về quy mô, hiệu quả và an toàn của tài sản có để chủ động linh hoạt trong việc huy động vốn, quản lý và điều hành tài sản nợ cho phù hợp. Tốc độ, quy mô phát triển các nghiệp vụ kinh doanh phải phù hợp với năng lực quản lý, điều hành của NHNo & PTNT Hà Nội (kể cả bộ máy và cán bộ) và môi trường kinh tế pháp lý xã hội của Thủ đô. Khai thác sức mạnh tổng hợp của các chi nhánh Ngân hàng cấp 4 ( Ngân hàng Quận), phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của từng đơn vị thành viên. Động viên và phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức chuyên môn, Đảng và Đoàn thể trong việc giáo dục, bồi dưỡng và quan tâm đến cán bộ công nhân viên về mặt vật chất và tinh thần, đồng thời đòi hỏ mọi người phải có nghĩe vụ và trách nhiệm làm tốt công việc được giao và trách nhiệm bảo vệ, nâng cao uy tính của NHNo & PTNT Hà Nội. Tranh thủ được sự đồng tình và ủng hộ của lãnh đạo, chính quyền từ trung ương đến địa phương, sự hợp tác chặt chẽ với các cơ quan chức năng quản lý nhà nước và bảo vệ pháp luật, các phương tiện thông tin đại chúng tạo điều kiện thuận lợi thực hiện tốt nhiệm vụ kinh doanh. Định hướng hoạt động tín dụng : Nguồn vốn tăng trưởng 40% so với năm 2002. chú trọng huy động nguồn vốn ngoại tệ USD trung và dài hạn. Đầu tư tín dụng tăng 30%, tập trung đầu tư cho các dự án sản xuất, chế biến hàng nông sản xuất khẩu và các mặt hàng thay thế nhập khẩu. Nợ quá hạn dưới 3% Lợi nhuận tăng 20% so với năm 2002. CÁC GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI NHNo & PTNT HÀ NỘI Hoàn thiện công tác đánh giá và nhận định khách hàng. Phải khẳng định rằng việc tránh được rủi ro , đảm bảo an toàn trong kinh doanh của các Ngân hàng là rất khó. Trong nền kinh tế thị trường luôn tồn tại một môi trường cạnh tranh găy gắt và qua đó các doanh nghiệp có thể sẽ tồn tại, phát triển nhưng cũng có thể lâm vào tình trạng khó khăn kéo dài đến phá sản. Vì vậy, trong quan hệ với khách hàng, Ngân hàng phải luôn có đủ thông tin kịp thời chính xác để có biện pháp xử lý hợp lý. Hoạt động điều tra xem xét, bổ sung kịp thời theo yêu cầu các thông tin về tình hình tài chính, tình hình hoạt động của các dự án được vay vốn phải được tiến hành thường xuyên liên tục trong suốt quá trình cho vay. Việc đánh giá và nhận định khách hàng chỉ thực sự có hiệu quả khi hình thành một chuẩn mực chung, phù hợp với mỗi Ngân hàng. Mọi thông tin về khách hàng cần được cập nhật và do hệ thống chuyên trách của Ngân hàng đảm nhiệm vì mục tiêu phục vụ kinh doanh. Ngân hàng cần chia quy trình tín dụng làm 3 giai đoạn để từ đó tiến hành theo dõi, đánh giá rủi ro một cách liên tục. Giai đoạn 1: Từ khi khách hàng đến đặt quan hệ tín dụng đến khi cho vay. Giai đoạn 2: Giám sát việc sử dụng vốn vay Giai đoạn 3: Thu nợ Giai đoạn 1: Mọi hoạt động trong giai đoạn này nhằm tạo ra một quyết định cuối cùng là có cho vay hay không? Ơû giai đoạn này, Ngân hàng phải tìm hiểu năng lực kinh doanh, năng lực tài chính và uy tín của khách hàng. Ngân hàng không chỉ xem xét quy mô hoạt động của doanh nghiệp biểu hiện qua số vốn lưu động và số vốn cố định, mà phải biết được năng lực quản lý kinh doanh, sức cạnh tranh của mặt hàng của doanh nghiệp trên thị trường cũng như triển vọng của nó trong tương lai. Muốn đạt được điều này, trước tiên Ngân hàng phải phân tích bảng tổng kết tài sản của doanh nghiệp và trả lời các câu hỏi sau: Bảng tổng kết tài sản có gần đây nhấ không? Các con số có đáng tin cậy không? Tình trạng các loại tài sản như hàng tồn kho, tài sản cố định và thiết bị. Nếu có bất động sản thì kê theo giá thị trường chưa, phải chịu thuế? Thời hạn các khoản phải thu? Có khoản dự trữ nào và khả năng thu hồi nợ? Tất cả các khoản nợ của doanh nghiệp có được liệt kê chính xác không? Cần chú ý các khoản nợ luỹ kế của doanh nghiệp. Quan hệ giữa tổng tài sản nợ, tài sản có và vốn tự có của doanh nghiệp. Chủ nợ là ai và tài sản nào dùng làm bảo đảm? Món nợ nào của doanh nghiệp là ngắn hạn, trung hạn và dài hạn? Số vốn tự có của doanh nghiệp chính xác đến đâu? Liệu có sự phóng đại về tài sản hay hạ thấp các món nợ không? Vốn tự có nằm ở đâu: đất đai, thiết bị, hàng tồn kho ? Xu hướng của bảng tổng kết tài sản? Nợ có tăng? Doanh nghiệp phải trả những món nợ nào khác ngoài bảng tổng kết. Liệu có các khoản nợ ngẫu nhiên, nợ gián tiếp tiềm tàng? Những khoản nợ này có thể trở thành thực tế trong những hoàn cảnh cụ thể hay không? Ngân hàng cần phải thăm dò, tìm hiểu thêm qua các tổ chức kinh tế mà khách hàng có quan hệ như các đơn vị cung cấp vật tư, tiêu thụ hàng hoá, tìm hiểu quan hệ tín dụng của doanh nghiệp với các Ngân hàng khác thể hiện ở các mức dư nợ thông thường, dư nợ quá hạn, dư nợ khó đòi đồng thời Ngân hàng tiến hành phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp trong đó cần quan tâm đặc biệt đến khả năng thanh toán, mức độ linh hoạt của doanh nghiệp trong việc giải quyết các khoản nợ vì đây là cơ sở quan hệ tín dụng với Ngân hàng. Trên cơ sở phân tích những chỉ tiêu đó, Ngân hàng đưa ra nhận định về doanh nghiệp từ đó có quyết định cho vay hay không? Nếu khách hàng đáp ứng đủ các yêu cầu về tín dụng thì việc cho vay là đương nhiên. Nhưng nếu khách hàng có biểu hiện không bình thường như đang trong tình trạng nợ nần, khả năng cạnh tranh của sản phẩm kém thì Ngân hàng chưa thiết lập quan hệ tín dụng mà tìm cách trao đổi tư vấn cho doanh nghiệp cách khắc phục rồi mới quyết định cho vay hay không? Giai đoạn 2: Giám sát việc sử dụng vốn vay để tránh nợ bình thường trở thành nợ quá hạn tiềm năng. Giai đoạn này nếu bị bỏ qua hoặc làm chiếu lệ sẽ làm cho việc định lượng rủi ro không rõ ràng, ảnh hưởng đến khả năng thu hồi nợ ở giai đoạn tiếp theo. Do đó, sau khi cấp tín dụng, Ngân hàng cần phải theo dõi, giám sát chặt chẽ việc sử dụng vốn vay của khách hàng. Nếu thấy biểu hiện sử dụng vốn sai mục đích hoặc có những sự cố khác mà người đầu tư có thể không hoàn trả được vốn vay, Ngân hàng cần cò biện pháp sử lý kịp thời. Ngân hàng cần đặc biệt chú ý đến các dấu hiệu biểu hiện khoản vay sẽ gặp khó khăn. Giai đoạn 3: Thu nợ Đến giai đoạn này, nếu Ngân hàng thấy có dấu hiệu bất ổn trong thanh toán nợ thì tuỳ theo tình hình, Ngân hàng có thể thực hiện các biện pháp sau: Cán bộ Ngân hàng tư vấn cho doanh nghiệp về các vấn đề trong tiêu thụ sản phẩm, thu nợ từ đối tác, tiếp tục thực hiện sản xuất kinh doanh hoặc mời chuyên gia tư vấn cho doanh nghiệp. Tăng thêm vốn cho doanh nghiệp bằng các biện pháp như cho vay có bảo lãnh, phát hành kỳ phiếu. Hợp nhất với các doanh nghiệp khác sau khi định giá tài sản. Giúp doanh nghiệp thanh toán hàng tồn kho, giảm bớt dự trữ quá mức nhằm đáp ứng nhu cầu thanh toán, đặt doanh nghiệp vào vị trí có thể trả được nợ. Nhận thêm tài sản thế chấp để giảm nhu cầu đòi nợ của Ngân hàng. Kêu gọi bảo lãnh cho doanh nghiệp từ các cổ đông chủ chốt, người cung ứng hay tiêu thụ sản phẩm. Sắp xếp, kềt cấu lại các khoản nợ bằng cách kéo dài kỳ hạn nợ cho phù hợp với tình hình sản xuất kinh doanh thực tế ở doanh nghiệp, rút bớt mức chi trả định kỳ trong một thời gian. San sẻ rủi ro: Để ngăn ngừa hạn chế rủi ro có thể xảy ra Ngân hàng cần phải tìm tới các biện pháp san sẻ rủi ro. Có nhiều cách san sẻ rủi ro, bao gồm các cách sau: 2.1. Tránh dồn vốn: Cách phân phối tín dụng tốt nhất đối với một Ngân hàng muốn tránh rủi ro là chia nguồn tiền của mình vào nhiều khoản đầu tư, vào nhiều khách hàng khác nhau. Để thực hiện được điều này phải quán triệt hai vấn đề sau: Cho vay nhiều đối tượng thuộc các loại hình kinh doanh khác nhau, không nên cho vay quá nhiều để sản xuất kinh doanh một loại sản phẩm hàng hoá, đặc biệt là những hàng hoá nhà nước không khuyến khích. Không đầu tư một số tiền lớn cho khách hàng trong cùng một ngành sản xuất kinh doanh đó. Đây chính là việc phân tán hệ số rủi ro trên vốn vay. 2.2. Liên kết đầu tư: Trong kinh doanh có những doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn rất lớn mà một Ngân hàng không thể đáp ứng được hoặc khó xác định khả năng, mức độ rủi ro có thể xảy ra. Với những trường hợp này các Ngân hàng có thể liên kết đầu tư. Bằng cách đó, Ngân hàng cũng sẽ tự phân tán rủi ro với các Ngân hàng khác, trong liên kết đầu tư, các Ngân hàng cũnh cần xem xét, đánh giá khách hàng cũng như phương án sản xuất hay dự án đầu tư của khách hàng một cách kỹ lưỡng nhằm tối thiểu hoá rủi ro trước khi tiến hàng tài trợ. Bên cạnh đó, các Ngân hàng cũng phải cùng nhau ký kết hợp đồng đầu tư, thỏa thuận rõ ràng trách nhiệm quyền hạn của các bên trong hợp đồng. 2.3. Bảo hiểm tín dụng: Bảo hiểm là biện pháp rất quan trọng nhằm dàn trải, phân tán rủi ro. Bảo hiểm có lợi về mặt kinh tế, đản bảo giảm bớt thiệt hại khi rủi ro xảy ra. Ơû Việt Nam nói chung, bảo hiểm chưa đi sâu vào đời sống xã hội, bảo hiển tín dụng nói riêng lại càng mới lạ. Tuy nhiên, kinh doanh ti là kinh doanh trên sự kinh doanh của người khác nên độ rủi ro rất cao. Để ngăn chặn những ảnh hưởng tiêu cực của rủi ro tín dụng, chúng ta cần bàn đến vấn đề bảo hiểm tín dụng. Có ba hình thức bảo hiểm tín dụng: Khách hàng vay vốn tham gia bảo hiểm cho ngành nghề mà họ kinh doanh. Những khoản tín dụng trong trường hợp này được coi là đã bảo hiểm gián tiếp. Để tận dụng tốt hình thức này, Ngân hàng cần có chính sách ưu tiên ưu đãi cho người kinh doanh mua bảo hiểm chuyên nghiệp như ưu tiên về lãi suất, thời hạn như vậy cả khách hàng và Ngân hàng đều có lợi. Ngân hàng tự bảo lãnh cho chính mính bằng cách lập qũy dự phòng để bù đắp những thiêt hại mà rủi ro có thể xảy ra. Trên cơ sở đó hạn chế những hậu quả xấu của rủi ro và đảm bảo tình hình tài chính cho Ngân hàng. Quỹ dự phòng càng lớn thì khả năng đảm bảo càng lớn. Việc trích lập quỹ dự phòng rủi ro cho vay phải dựa vào việc phân loại số dư cho vay. Ngân hàng trực tiếp mua bảo hiểm của các tổ chức bảo hiểm tín dụng và sẽ được bồi thường thiệt hại khi rủi ro xảy ra. Tuy nhiên ở nước ta hiện nay chưa có tổ chức nào đứng ra thực hiện nghiệp vụ bảo hiểm tín dụng. Trong tương lai khi tổ chức này ra đời thì khách hàng của nó là các loại hình Ngân hàng thương mại. Ngân hàng cung cấp dịch vụ tư vấn kinh doanh cho khách hàng. Mối quan hệ giữa Ngân hàng và khách hàng có tính chất tương hỗ. Ngân hàng hoạt động và tồn tại trên cơ sở các hoạt động của khách hàng. Nếu khách hàng làm ăn có hiệu quả, kinh doanh tốt, lợi nhuận cao thì lẽ dĩ nhiên sẽ trả được nợ, đồng thời có khả năng mở rộng quy mô, vay thêm vốn, tạo cơ sở cho Ngân hàng hoạt động và thu lãi. Ngược lại, việc một Ngân hàng hoạt động yếu kém, nợ quá hạn là hệ quả của một quá trình kinh doanh thua lỗ của khách hàng. Bởi vậy, việc Ngân hàng cung cấp dịch vụ tư vấn kinh doanh cho khách hàng chính là công cụ đắc lực giúp cho Ngân hàng và khách hàng cùng tồn tại và phát triển. Nói tóm lại có ba lý do để Ngân hàng mở dịch vu tư vấn: Tạo được thị trường mới. Giảm được rủi ro. Tăng lợi nhuận. Thu thập thông tin về khách hàng để phòng ngừa rủi ro. Ngân hàng có thể thu thập thông tin về khách hàng qua các nguồn: Phỏng vấn khách hàng. Điều tra tại địa điểm hoạt động kinh doanh của khách hàng. Các báo cáo tài chính của khách hàng. Các nguồn thông tin bên ngoài gồm trung tâm thông tin tín dụng, các cơ quan nhà nước như tài chính, quản lý thị trường, cảnh sát kinh tế Qua quá trình thu thập thông tin về doanh nghiệp, Ngân hàng có thể dựa vào đó đánh giá thực trạng của doanh nghiệp và lập ra một bộ phận chuyên phụ trách về thông tin rủi ro. Bộ phận này luôn liên hệ chặt chẽ, hai chiều với trung tâm phòng ngừa rủi ro (TDR) nay là trung tâm thông tin tín dụng (CiC). Việc tổ chức một mạng lưới thông tin phòng ngừa rủi ro giúp cho Ngân hàng có điều kiện tư vấn cho khách hàng, chủ động đưa ra những phương án tối ưu nhằm hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro có thể xảy ra. Tuy nhiên, hiện nay trung tâm phòng ngừa rủi ro của ng Nhà nước hoạt động còn hạn chế củ yếu là thông tin nội bộ, lượng thông tin không nhiều gây ra khó khăn cho các Ngân hàng thương mại trong việc thu thập và khai thác thông tin. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng này là do Ngân hàng thương mại cả trong và ngoài quốc doanh vì một lý do nào đó mà chưa cung cấp đầy đủ kịp thời các thông tin về khách hàng cho CiC. Theo đánh giá sơ bộ, các Ngân hàng thương mại mới chỉ cung cấp các thông tin về khoản 70% khách hàng có quan hệ tín dụng với Ngân hàng. Mặt khác, các thông tin này cũng không được cập nhật thường xuyên nên ít có giá trị. Vì vậy để nâng cao hiệu quả hoạt động của CiC nói chung và các bộ phận nghiên cứu rủi ro ở từng Ngân hàng thương mại nói riêng. Các Ngân hàng thương mại phải có trách nhiệm cung cấp đầy đủ kịp thời mọi diễn biến thông tin mới nhất về khách hàng. Điều này không chỉ vì sự an toàn của một Ngân hàng mà còn vì sự an toàn của cả hệ thống Ngân hàng. Các biện pháp về cán bộ. Trong bất cứ lĩnh vực kinh doanh nào, yếu tố con người cung là quan trọng hàng đầu, quyết định sự thành bại của mọi hoạt động. Bởi vì , con người là chủ thể của mọi hoạt động kinh tế. Trong kinh doanh Ngân hàng, con người là yếu tố trực tiếp tác động đến việc tăng giảm rủi ro, sự an toàn, ổn định và phát triển của Ngân hàng. Cán bộ Ngân hàng, đặc biệt là cán bộ tín dụng phải thể hiện với đầu đủ tư cách của một người nắm vững trình độ chuyên môn, có đầy đủ tư cách đạo đức với vốn kiến thức xã hội phong phú, có khả năng hoàn thành các nhiệm vụ được giao. Muốn vậy cần làm tốt các nhiệm vụ sau: Tiêu chuẩn hoá để nâng cao trình độ cán bộ. Tiêu chuẩn cho cán bơä Ngân hàng phải là: Có lập trường tư tưởng vững vàng, kiên định về sự phát triển của Ngân hàng. Có kiến thức chuyên môn nghiệp vụ, nắm bắt nhanh nhạy và đầy đủ chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, biết vận dụng sáng tạo trong từng vị trí công tác được giao. Ngoài ra, tùy theo chức năng, nhiệm vụ yêu cầu của từng công tác được phân công mà có những tiêu chuẩn riêng phù hợp. Đối với cán bộ làm công tác hoạch định chính sách tín dụng, phải là người có kiến thức khoa học, kinh tế tổng hợp, am hiểu thị trường, giàu kinh nghiệm thực tế, có khả năng phân tích tổng hợp tốt, có kiến thức pháp luật, kiến thức khoa học dự báo. Đối với cán bộ quản lý, điều hành hoạt động tín dụng cần nắm vững chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước trong phát triển kinh tế nói chung, và hoạt động tín dụng nói riêng, giỏi trình độ nghiệp vụ chuyên môn Ngân hàng cũng như có kiến thức cơ bản về pháp luật, về khoa học tâm lý, có kinh nghiệm tổ chức, chỉ đạo điều hành Ngân hàng. Đối với cán bộ tín dụng trực tiếp tham gia giao tiếp với khách hàng phải là người trung thực, khách quan, thẳng thắn, có nghệ thuật giao tiếp với khách hàng, có khả năng thẩm định kiểm tra tính trung thực, độ chính xác của các thông tin mà khách hàng cung cấp. Đánh giá sử dụng cán bộ. Đánh giá cán bộ là việc rất hệ trọng, phức tạp đòi hỏi nhìn nhận sự đúng đắn khách quan bởi vì nó liên quan trực tiếp đến việc bố trí công tác, sử dụng cán bộ cũng như sự thành công hay thất bại của họ trong từng vị trí công tác sau này. Trên cơ sở đánh giá, lãnh đạo cần phải nắm vững từng cán bộ để phân công đúng người, đúng việc sao cho công việc phù hợp với khả năng của từng người, phát huy năng lực sở trường của họ. Muốn đánh giá đúng phải có phương pháp khoa học trên cơ sở: Nắm vững và dựa vào tiêu chuẩn cán bộ nói chung và cán bộ tín dụng nói riêng. Lấy hiệu qủa công tác và sự đóng góp thực tế làm thước đo phẩm chất năng lực cán bộ. Không nên đồng nhất bằng cấp, học vị với năng lực thực tế. Rà soát lại đội ngũ cán bộ hiện có để có kế hoạch bồi dưỡng đào tạo, nâng cao cho phù hợp với nhiệm vụ đặt ra. Giải quyết, xử lý nợ quá hạn. Khi khoản vay có vấn đề, Ngân hàng cần phải có biện pháp xử lý kịp thời để bảo vệ lợi ích vật chất của mình và có thể khôi phục sức mạnh tài chính của khách hàng. Đối với các khoản nợ quá hạn có khả năng thu hồi, Ngân hàng phân tích chi tiết nguyên nhân gây ra nợ quá hạn và tùy tình huống để xử lý bằng cách áp dụng các biện pháp kinh tế hữu hiệu để thu hồi. Đối với các khoản nợ quá hạn không còn khả năng thu hồi, Ngân hàng buộc phải xử lý tài sản thế chấp. Tuy nhiên, việc xử lý cần linh hoạt theo từng trường hợp cụ thể: Nếu tài sản thế chấp là bất động sản, máy móc thiết bị có giá trị lớn thì có thể dùng làm vốn góp kinh doanh với các đơn vị sản xuất. Những tài sản này rất khó tìm người mua vì vậy làm như trên Ngân hàng sẽ giảm được chi phí xử lý đảm bảo khả năng thu hồi nợ và có thể có lãi trong kinh doanh. Nếu tài sản thế chấp là nhà đất có vị trí thuận lợi, Ngân hàng có thể cho thuê hoặc sử dụng làm quầy giao dịch, kho chứa hàng (cho các hoạt động cầm cố). Trong trường hợp phải xử lý bằng phát mại tài sản để thu hồi nợ cần thực hiện các nguyên tắc không gây ồn ào, gây mất tâm lý ổn định làm giảm giá nhà đất hoặc khó bán. Với các khách hàng hoàn toàn không có thiện chí trả nợ hoặc cố tình lừa đảo, tẩu tán tài sản, mưu toan tuyên bố phá sản để trốn nợ thì Ngân hàng nhờ các cơ quan chức năng như Viện kiềm soát, Công an kinh tế hỗ trợ trong việc thu hồi nợ. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc6785.doc
Tài liệu liên quan