Đề tài Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh trong hoạt động xuất khẩu rau quả của Tổng công ty rau quả, nông sản

Về việc cung cấp thông tin liên quan đến thị trường xuất khẩu rau quả: nhà nước cần giao cho các cơ quan chức năng như các Bộ, trung tâm thông tin, các tổ chức xúc tiến thương mại, các cơ quan nghiên cứu kinh tế thương mại đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường xuất khẩu rau quả thế giới để cung cấp thông tin thường xuyên cho các doanh nghiệp. Thông tin phải bao gồm các nội dung cơ bản như: nhu cầu thị trường, giá cả các loại rau quả trên thị trường xuất khẩu, danh sách các nước nhập khẩu chủ yếu, các qui định và tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm cũng như hệ thống kiểm dịch rau quả của các nước nhập khẩu, thông tin về các đối thủ cạnh tranh trong lĩnh vực xuất khẩu ra, xu hướng vận động, biến đổi của thị trường thế giới Đồng thời cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa bộ Thương mại và Bộ NN&PTNT trong hoạt động đàm phán, ký kết các thỏa thuận song phương, đa phương, định hướng cho các doanh nghiệp phát triển thị trường. Bộ thương mại có hệ thống các vụ chính sách thị trường nước ngoài, có hệ thống thương vụ, đại diện thương mại thông tin thường xuyên, cung cấp thông tin một cách nhanh nhất cho doanh nghiệp và người sản xuất. Do vậy hệ thống thương vụ Việt Nam ở nước ngoài cần bổ sung chức năng, nhiệm vụ, đổi mới phương thức hoạt động để các cơ quan này thực sự là tổ chức xúc tiến thương mại, hỗ trợ hướng dẫn các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu phát triển kinh doanh theo sát thị trường.

doc96 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1278 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh trong hoạt động xuất khẩu rau quả của Tổng công ty rau quả, nông sản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhà nước cấp. Tổng công ty đang từng bước cổ phần hóa các doanh nghiệp thành viên và quan tâm nhiều hơn đến công tác xúc tiến thương mại, và quảng bá sản phẩm. Do Tổng công ty vẫn là một Tổng công ty của nhà nước, nên mọi chương trình quảng cáo cũng như xúc tiến bán đều có sự hướng dẫn, chỉ đạo cũng như hỗ trợ từ phía Nhà nước, cụ thể là của Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam và của các cơ quan ban ngành trong Bộ Thương Mại. Chính vì vậy, hoạt động quảng cáo chưa biến đổi nhanh, kịp thời theo kinh tế thị trường, kết quả xúc tiến thương mại chưa thực sự đạt kết quả cao. Các chương trình xúc tiến của Bộ Thương Mại tổ chức chủ yếu đi kèm với các hoạt động xúc tiến của các ngành khác nên khi Tổng công ty tham gia thì tính chuyên nghiệp không cao. Hoạt động quảng cáo của Tổng công ty chưa được quan tâm khuyến khích, chính do cơ chế quản lý của Tổng công ty thuộc quyên sở hữu của Nhà nước, đây là một lợi thể của Tổng công ty nhưng cũng là một mặt hạn chế. Lợi thế ở chỗ Tổng công ty có thể dựa vào các hoạt động ngoại giao của Đảng và Chính phủ góp phần phát triển thị trường. Nhưng cũng có những mặt bất cập ở chỗ cơ chế Nhà nước nó làm cho con người trong Tổng công ty thiếu đi tính linh hoạt, sự tự tin cần thiết khi thoát khỏi bàn tay che chở của cơ chế nhà nước. Trong những năm vừa qua Tổng công ty chủ yếu sử dụng hình thức quảng cáo thông báo là chính, tức là chỉ mới đạt mục tiêu thông tin, thông báo cho thị trường biết về sự hiện diện của sản phẩm trên thị trường và nêu ra được công dụng của sản phẩm chứ chưa xây dựng được nhãn hiệu ưa thích hay một sự hứng thú nào đó với khách hàng về sản phẩm của Tổng công ty. Các chương trình quảng cáo của Tổng công ty chưa thực sự mạng lại hiệu quả cao. Nhiều chương trình quảng cáo đã được tiến hành tại các hội chợ quốc tế trong nước cũng như trong khu vực đã tiến hành xong nhưng doanh thu bán hàng mạng lại vẫn chưa cao. Sản phẩm đã bán trên thị trường được quảng cáo nhưng kết quả mang lại vẫn chưa làm thỏa mãn mục tiêu của Tổng công ty. Do vậy thương hiệu của Tổng công ty chưa được biết đến rộng rãi trên thị trường thế giới. Các sản phẩm xuất khẩu chủ yếu vẫn còn dùng thương hiệu của khách hàng. 2.3.3. Cơ hội Trong các tổ chức kinh tế quốc tế hiện nay, Tổ chức thương mại thế giới (WTO) là tổ chức thương mại toàn cầu lớn nhất và quan trọng nhất. Hiện nay WTO có 150 thành viên, chiếm khoảng 50% dân số thế giới, 95% GDP và 95% giá trị thương mại toàn cầu. WTO là tổ chức quốc tế lớn thứ hai trên thế giới (sau Liên Hiệp Quốc) và là diễn đàn lớn nhất để tiến hành đàm phán mang tính quốc tế về thương mại. Ngày 7 tháng 11 năm 2006, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của WTO, sau khi đã trải qua nhiều cuộc đàm phán song phương, đa phương kể từ khi gửi đơn xin gia nhập. Đây là cơ hội, nhưng cũng là những thách thức rất lớn đối với nền kinh tế nói chung và nông nghiệp Việt Nam nói riêng. Bởi vì, cư dân nông thôn hiện chiếm 73,7% dân số và chiếm 67% lực lượng lao động của cả nước, với 13,2 triệu hộ, trong đó có 11 triệu hộ chuyên sản xuất nông nghiệp, nguồn lực tạo ra từ nông nghiệp chiếm 21% trong GDP. Tham gia vào quá trình toàn cầu hóa nói chung, gia nhập WTO nói riêng mang lại cho doanh nghiệp nhiều cơ hội. - Cơ hội đầu tiên nhìn thấy rõ nhất đối với các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và đối với Tổng công ty rau quả, nông sản nói riêng đó là, gia nhập WTO các doanh nghiệp sẽ được đối xử bình đẳng hơn trên thị trường thế giới. WTO là một tổ chức hoạt động với thiết chế chặt chẽ, dựa trên nguyên tắc: không phân biệt đối xử, tạo một nền tảng ổn định cho phát triển thương mại, đảm bảo thương mại ngày càng tự do thông qua đàm phán, tạo môi trường cạnh tranh ngày càng bình đẳng và giành điều kiện đặc biệt cho các nước đang phát triển. Dựa trên nguyên tắc đó, khi tham gia xuất khẩu nông sản, Việt Nam sẽ được bảo vệ lợi ích của mình và có tiếng nói hơn. Trở thành thành viên của WTO, Việt Nam đương nhiên được hưởng quy chế tối huệ quốc thường xuyên và vô điều kiện trong việc xuất khẩu sang nước này hoặc nước khác. Nông sản của Việt Nam sẽ được tiếp cận thị trường các thành viên tốt hơn. - Thị trường rau, quả nước ta sẽ mở rộng tới 149 nước thành viên WTO, ngành rau quả có điều kiện tăng cường quan hệ, liên doanh, liên kết với đối tác các nước thành viên để học tập, trao đổi kinh nghiệm, tiếp thụ công nghệ tiên tiến trong sản xuất, chế biến và quản lý để nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa, năng lực của doanh nghiệp. - Việt Nam sẽ có nhiều điều kiện và cơ hội thuận lợi trong việc tiếp nhận chuyển giao và phát triển năng lực khoa học công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến của thế giới, tham gia nhiều hơn vào các chương trình hợp tác khoa học công nghệ đa phương và song phương, tăng thêm các nguồn hỗ trợ kỹ thuật, tăng năng lực cạnh tranh khi gia nhập các định chế kinh tế với tư cách là nước đang phát triển. 2.3.4. Thách thức Cơ hội rất lớn cho Tổng công ty rau quả, nông sản khi hội nhập ngày càng sâu rộng vào kinh tế quốc tế, song khó khăn, thách thức thì cũng không nhỏ. Có thách thức bên trong và bên ngoài. Đó là: - Chất lượng sản phẩm chưa cao do nhiều nguyên nhân, từ khâu giống, chăm sóc, thu hoạch chế biến, và bảo quản. - Thương hiệu vegetexco chưa được nhiều người biết đến trên thị trường quốc tế. - Yêu cầu cao về chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm của các nước nhập khẩu, đặc biệt là các thị trường khó tính như Mỹ, EU, Nhật Bản… - Các doanh nghiệp phải hoạt động theo hệ thống các quy định chặt chẽ của WTO. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp phải nâng cao tính sáng tạo và khả năng thích nghi của mình với những thông lệ quốc tế. Đội ngũ cán bộ phải thực sự giỏi về ngoại ngữ, chuyên môn, nghiệp vụ và năng lực quản lý, hiểu rõ phong tục tập quán của các đối tác. - Trước đây, Tổng công ty rau quả, nông sản được nhà nước giao làm đầu mối tổ chức nghiên cứu, sản xuất, chế biến và xuất khẩu rau quả. Nhưng nay do cơ chế thị trường, nhiều doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế cũng đã tích cực đầu tư và kinh doanh xuất nhập khẩu rau quả. Hơn nữa, nhiều nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam cũng đầu tư 100% vốn vào lĩnh vực sản xuất và chế biến rau quả, tạo thế cạnh tranh quyết liệt với Tổng công ty. Đặc biệt, tham gia WTO, sự cạnh tranh ngày càng quyết liệt và gay gắt hơn. Tổng công ty không chỉ phải cạnh tranh với những doanh nghiệp trong ngành rau quả, mà còn phải cạnh tranh với không ít các doanh nghiệp khác nữa trên thế giới. Như vậy có thể thấy rằng, toàn cầu hóa tạo ra nhiều cơ hội nhưng mặt khác nó cũng mang đến nhiều thách thức cho Tổng công ty rau quả, nông sản nói riêng và các doanh nghiệp Việt Nam nói chung. Để khắc phục những khó khăn, phát huy những lợi thế và cơ hội, Tổng công ty rau quả, nông sản cần đưa ra chiến lược sản xuất kinh doanh mới trong điều kiện mới, nhằm nâng cao hơn nữa NLCT của mặt hàng rau quả xuất khẩu trên thị trường thế giới. Hộp 1: Xuất khẩu nông sản nói chung và xuất khẩu rau quả nói riêng phải i diện với 4 thách thức lớn Ông Nguyễn Văn Thành_Tổng giám đốc Tổng công ty rau quả, nông sản đã phát biểu: “Thị trường xuất - nhập khẩu nông sản thế giới ngày nay được tổ chức rất chặt chẽ, phần lớn do các hệ thống siêu thị đa quốc gia khống chế kiểm soát. Do tri thức của giới tiêu thụ ngày càng cao nên yêu cầu của siêu thị về chất lượng nông sản - vốn dựa trên yêu cầu của giới tiêu thụ của các nước lớn và giàu - ngày càng khó khăn, trở thành rào cản đối với rất nhiều nước đang phát triển vốn xem xuất khẩu nông sản là đòn bẩy để phát triển kinh tế. Trong bối cảnh trên, việc gia nhập WTO vừa mang đến cho nông nghiệp Việt Nam triển vọng về một sân chơi khổng lồ, đồng thời cũng bắt buộc người sản xuất phải đối diện ngay với 4 luật chơi cực kỳ khó khăn. Đó là khẩn trương xây dựng quy trình nông nghiệp an toàn GAP (Good Agricultural Practices); tập trung sản xuất hàng hoá lớn; có chất lượng cao, bổ dưỡng và giá rẻ để nâng cao tính cạnh tranh của nông sản. Trong những thách thức này, quy trình nông nghiệp an toàn GAP là chìa khoá thành công cho ngành trái cây, rau quả và hoa”. (Theo Vietnamnet) CHƯƠNG 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH TRONG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU RAU QUẢ CỦA TỔNG CÔNG TY RAU QUẢ, NÔNG SẢN 3.1. PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN KINH DOANH CỦA TỔNG CÔNG TY TRONG THỜI GIAN TỚI 3.1.1. Dự báo thị trường rau quả thế giới đến năm 2015 - Theo dự báo của Tổ chức Lương Nông Liên Hiệp Quốc FAO trong thời kỳ 2001-2015 nhu cầu tiêu thụ rau quả hàng năm tăng bình quân 3,6% trong khi đó tốc độ tăng sản lượng rau quả chỉ đạt 2,8%. Như vậy đối với thị trường rau quả thế giới cung vẫn chưa đáp ứng đủ cầu. - Nhu cầu nhập khẩu rau tăng bình quân 1,8%/năm. Các nước nhập khẩu chủ yếu là Pháp, Đức, Canada khoảng trên 155 ngàn tấn mỗi nước; Anh, Hoa Kỳ, Bỉ, Hồng Kông, Singapore khoảng trên 120 ngàn tấn mỗi nước…các nước xuất khẩu rau quả chủ yếu là Trung Quốc, Hoa kỳ, Hà Lan. 3.1.2. Hướng phát triển của Tổng công ty về kinh doanh xuất khẩu rau quả - Định hướng sản phẩm và thị trường + Sản phẩm chủ lực: sản phẩm rau quả chế biến dưới dạng đồ hộp, đông lạnh, cô đặc, nước hoa quả các loại, rau quả tươi, hạt tiêu, điều nhân.... + Duy trì và giữ vững các thị trường đã được xác lập, tập trung phát triển thị trường trọng điểm : Trung Quốc, Mỹ , Nga, EU. Mở chi nhánh tại Bắc Kinh_Trung quốc, Matxcơva_Nga, Mỹ, Pháp. Nhưng đồng thời cũng không bỏ qua các thị trường nhỏ, củng cố hoạt động giao dịch ở 3 cửa khẩu Tân Thanh, Hà Khẩu, Móng Cái + Chủ động mở rộng thị trường, mới nhất là thị trường Châu Âu + Cần phải nối lại thị trường Viễn Đông mà trước đây là một thị trường lý tưởng + Phải xây dựng một chiến lược thị trường lâu dài, ổn định, giữ vững các mặt hàng truyền thống đã lựa chọn + Coi trọng phát triển thị trường nội địa và nắm bắt nhu cầu của khách hàng trong nước, mở rộng mạng lưới tiêu thụ sản phẩm ở khắp 64 tỉnh thành thông qua đại lý và tăng cường sự liên kết thống nhất giữa các đơn vị về giá cả. - Quan tâm hơn nữa đến công tác thông tin và tiếp thị, coi trọng đảm bảo chữ tín trong kinh doanh. Thống nhất sử dụng thương hiệu VEGETEXCO cho tất cả các sản phẩm của Tổng công ty và quảng bá thương hiệu, kích thích tiêu dùng trong nước. - Các phòng ban thuộc cơ quan văn phòng Tổng công ty ngay từ đầu phải xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm của các mặt hàng chủ lực như: đậu Hà Lan, ngô ngọt, ngô bao tử...Xúc tiến và xác lập mạng lưới đầu vào cũng như đầu ra theo qui chế bán hàng đại lý đã được Tổng công ty thống nhất. 3.2.1 Các giải pháp thuộc về Tổng công ty rau quả, nông sản 3.2.1.1. Nhóm giải pháp tổ chức, quản lý a) Hiện đại hóa hệ thống tổ chức, quản lý - Công tác cổ phần hóa DNNN còn lại cần phải được tiến hành nhanh hơn. Do tình hình tài chính của các doanh nghiệp nhà nước còn lại trong Tổng công ty gặp nhiều khó khăn với những tồn đọng của nhiều năm trước (đầu tư chưa đồng bộ, thiếu nguyên liệu, thiếu vốn...) dẫn đến tình trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước còn lại nói chung không đạt hiệu quả. Điều đó đã ảnh hưởng đến kết quả sản xuất kinh doanh của toàn Tổng công ty nói chung. Do đó cần phải đẩy mạnh công tác cổ phần hóa các DNNN còn lại, tạo ra sự tự chủ, năng động hơn cho các đơn vị góp phần nâng cao NLCT của Tổng công ty. - Hiện nay Tổng công ty rau quả, nông sản đã cơ bản chuyển sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ_công ty con. Để hoạt động có hiệu quả cần xác lập rõ ràng quan hệ sở hữu giữa công ty mẹ và công ty con, cần có sự quản lý rõ ràng và rà soát đa dạng các chủ sở hữu… - Nâng cao hiệu quả hoạt động của phòng Marketing: một doanh nghiệp không thể thiếu phòng marketing nó là một trong ba chân kiềng của doanh nghiệp (marketing, tài chính và hoạt động kinh doanh). Trong Tổng công ty rau quả, nông sản phòng marketing được ghép vào với phòng tư vấn đầu tư tạo nên phòng Tư vấn đầu tư và xúc tiến thương mại. Tuy nhiên Tổng công ty rau quả, nông sản là một Tổng công ty lớn nhưng số lượng nhân viên trong lĩnh vực xúc tiến thương mại chỉ có 8 người như vậy khó kiêm nổi toàn bộ các hoạt động của Tổng công ty ở tất cả các thị trường. Để nâng cao hoạt động của phòng marketing cần có sự hỗ trợ của nhà nước cũng như Tổng công ty về tài chính. Cần phân định trách nhiệm của từng nhân viên đối với từng thị trường, có như vậy mới có sự am hiểu sâu sắc từng thị trường, từ đó có những dự báo sát hơn cũng như sẽ đưa ra những phương thức hoạt động hiệu quả hơn. - Áp dụng các phương pháp quản lý chất lượng hiện đại: Chất lượng sản phẩm là yếu tố quan trọng hàng đầu quyết định NLCT của sản phẩm, đồng thời là yếu tố quan trọng quyết định NLCT của doanh nghiệp. Để sản phẩm đảm bảo được chất lượng thì phải có người lao động có trình độ kỹ thuật tốt, công nghệ sản xuất hiện đại. Tùy thuộc vào sản phẩm mà doanh nghiệp cần lựa chọn phương pháp quản lý phù hợp. Hiện nay có phương pháp quản lý theo ISO.9000 là phổ biến nhất, ngoài ra còn có phương pháp khác như TQM, HACCP, GMP, Q_base…áp dụng tiêu chuẩn này nếu kết quả tốt doanh nghiệp sẽ được cấp chứng chỉ. Chứng chỉ này được công bố trên toàn thế giới, doanh nghiệp sẽ có uy tín, tạo niềm tin đối với khách hàng. Tuy nhiên cần phải hiểu rằng chứng chỉ chất lượng không phải là phương tiện để khuyếch trương quảng cáo, mà cần phải nghĩ tới tương lai lâu dài là phải duy trì chất lượng sản phẩm tốt, chứ không phải chỉ nghĩ là làm sao để có chứng chỉ thật nhanh, khi có chứng chỉ rồi thì chất lượng sản phẩm không tốt hơn trước nữa. Tổng công ty rau quả, nông sản hiện tại mới áp dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001 và HACCP với nhiều đơn vị. Hiện nay, ngoài việc áp dụng ISO.9000 doanh nghiệp còn phải áp dụng ISO.14000 (tiêu chuẩn quốc tế về môi trường), SA. 8000 (qui định về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp xuất khẩu). Hầu hết các doanh nghiệp nước ngoài đều có chứng chỉ này và nhãn hiệu sản phẩm của họ cũng có những dấu hiệu về các chứng chỉ đó. Do vậy, Tổng công ty cần tích cực, khẩn trương áp dụng tiêu chuẩn đó. Bởi áp dụng tiêu chuẩn và qui định đó thì sản phẩm mới được xuất khẩu. Còn sản phẩm có xuất khẩu được hay không còn phụ thuộc vào một điều kiện nữa là có đảm bảo tiêu chuẩn về sản phẩm hay không. Tiêu chuẩn đó gồm các chỉ tiêu về an toàn, vệ sinh, thẩm mỹ, nhãn hiệu hàng hóa, nhãn sản phẩm, bao bì,… b) Xác định và định hướng đúng chiến lược kinh doanh xuất khẩu * Xác định mục tiêu định hướng chiến lược kinh doanh xuất khẩu Tổng công ty rau quả, nông sản cần phải xác định rõ các mục tiêu định hướng chiến lược kinh doanh xuất khẩu, cụ thể là: - Nâng cao thị phần xuất khẩu rau quả tại một mảng thị trường và khống chế được một vài kênh phân phối nhất định trên những thị trường trọng điểm như EU, Mỹ, Nhật… - Nâng cao trình độ khoa học công nghệ, chú trọng công nghệ thông tin; nâng cao năng lực tiếp cận công nghệ hiện đại, đổi mới công nghệ hiện có, tăng cường đầu tư và kinh phí cho nghiên cứu và triển khai…ngang tầm với sự phát triển của các doanh nghiệp xuất khẩu trong khu vực. - Tạo được sản phẩm xuất khẩu chủ lực của Tổng công ty, xây dựng được thương hiệu có tiếng. - Nâng cao năng suất lao động vượt trội hơn đối thủ cạnh tranh, giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, nâng giá bán ra ngang tầm mức giá quốc tế được khách hàng chấp nhận. * Lựa chọn chiến lược phát triển của doanh nghiệp - Chiến lược lựa chọn phải phù hợp với điều kiện của môi trường kinh tế chung (môi trường kinh doanh, cạnh tranh quốc tế và trong nước). - Chiến lược phải phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, chính sách và khả năng trình độ mọi mặt của doanh nghiệp trong từng giai đoạn phát triển, chủ yếu là NLCT của Tổng công ty được đánh giá như thế nào. Thời gian này cạnh tranh thực sự là khốc liệt giữa các doanh nghiệp Việt Nam với doanh nghiệp nước ngoài, lúc này lựa chọn chiến lược cạnh tranh phối hợp là khả thi. c) Nâng cao chất lượng lao động, hạn chế lao động thời vụ Nguồn nhân công chủ yếu của Tổng công ty chủ yếu mang tính thời vụ, lao động địa phương, tính chuyên môn không cao, điều nay gây rất nhiều khó khăn cho Tổng công ty. Để giải quyết vấn đề này, việc đa dạng hóa sản phẩm cần phải đi đôi với đa dạng hóa chủng loại rau quả trên cũng một dây truyền công nghệ và trải đều tất cả các mùa vụ trong năm. Việc này sẽ giúp cho Tổng công ty có một lực lượng lao động lâu dài, đào tạo để nâng cao chuyên môn tay nghề lao động cho người lao động. Hơn nữa khi đã có nguồn lao động cố định sẽ giúp giảm trừ chi phí nhân công thời vụ, tận dụng tối đa nguồn nhân lực. 3.2.1.2. Nhóm giải pháp về sản phẩm a) Nâng cao chất lượng rau quả xuất khẩu * Tổng công ty rau quả, nông sản có nhận thức rằng“ sức khỏe và sự an toàn của người tiêu dùng là mệnh lệnh tối cao” nên luôn chú trọng đầu tư, nghiên cứu để tạo ra được những sản phẩm chất lượng cao. Tuy nhiên, chất lượng rau quả xuất khẩu hiện nay vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề cần giải quyết, do đó giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm rau quả xuất khẩu cần thực hiện trước tiên. Xét về điều kiện tự nhiên, điều kiện đất đai thì cho thấy đất trồng cây trái của ta tốt không kém Thái Lan, thậm chí còn tốt hơn, nhưng tổ chức sản xuất còn yếu kém nên số lượng và kim ngạch cũng như chất lượng rau quả xuất khẩu còn nhiều vấn đề. Để có được những sản phẩm rau quả chất lượng cao cần có sự quản lý chất lượng tốt, kiểm soát chất lượng chặt chẽ trong tất cả các khâu từ khâu chọn giống, chăm bón, thu hái, bảo quản sau thu hái, chế biến, vận chuyển…. Trước hết ngay từ khâu chọn giống, Tổng công ty cần xác định rõ ràng và cần có định hướng cụ thể, giống cây trồng gì sẽ phù hợp với đất đai, khí hậu ở những vùng của sản xuất của Tổng công ty. Cần nghiên cứu trồng thử những giống cây nhập từ nước ngoài về, xem có thích hợp với điều kiện của ta không. Khi đã thành công thì mới triển khai trên diện rộng ở những vùng đủ điều kiện tiến hành. Cần mạnh dạn bỏ đi những giống cây trồng cho năng suất, chất lượng thấp không còn phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng hiện nay. Hiện nay các đối thủ cạnh tranh của ta có được những giống cây trồng cho ra nhiều loại sản phẩm vào loại đặc sản, thơm ngon, hơn hẳn những sản phẩm của ta và được người tiêu dùng rất ưa chuộng. Ví dụ như, xoài của Thái Lan rất ngọt, vị thơm ngon, màu sắc đẹp …vì vậy dù giá có đắt hơn ta 2-3 lần những vẫn được người tiêu dùng lựa chọn. Hay khi vào trong siêu thị ta có thể thấy rõ những loại hoa quả nhập khẩu như táo Mỹ, nho Mỹ…có mẫu mã rất đẹp mắt, nên giá cả rất đắt đỏ nhưng đã tạo được một thương hiệu riêng đối với người tiêu dùng. Vì vậy bên cạnh việc duy trì những giống cây truyền thống, Tổng công ty cần đẩy mạnh nghiên cứu cho ra đời những giống mới đặc sắc hơn thì chắc chắn sẽ tạo thế cạnh tranh tốt cho Tổng công ty. Hiện nay cái khó nhất của nông nghiệp Việt Nam chính là quy trình “nông nghiệp an toàn” GAP (Good Agricultural Practices). Đây là một chương trình kiểm tra an toàn thực phẩm xuyên suốt từ A đến Z của dây chuyền sản xuất, bắt đầu từ khâu chuẩn bị nông trại, canh tác, cho đến khâu thu hoạch, sau thu hoạch, tồn trữ, kể cả các yếu tố liên quan như môi trường, các chất hoá học, thuốc bảo vệ thực vật, bao bì và ngay cả điều kiện làm việc, phúc lợi của người lao động trong nông trại. Do đó để có được những sản phẩm sạch đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng đặc biệt là ở những thị trường khó tính như Mỹ, EU, Nhật… thì cần quan tâm ngay từ khâu chăm sóc (bón phân, trừ sâu, tưới tiêu nước). Cần có sự kết hợp giữa nhưng cơ quan chuyên ngành, giữa các nhà khoa học với người làm vườn. Cần thường xuyên phổ biến những kiến thức khoa học về cách chăm sóc (bón phân, trừ sâu, tươi tiêu nước) cho người vườn. Bởi hiện nay hầu hết trình độ của người làm vườn về khoa học kỹ thuật còn hạn chế, do vậy họ mới chỉ chăm sóc theo chủ quan của người làm vườn. Do đó cây cho năng suất thấp, sâu bệnh nhiều, tỷ lệ hao hụt lớn, dư lượng hóa chất vượt giới hạn cho phép, trái cây không đảm bảo tiêu chuẩn xuất khẩu… Một trong những vấn đề tồn tại làm giảm NLCT của rau quả xuất khẩu là sự không đồng đều về kích thước. Điều này không chỉ làm ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm chế biến, bởi sự không đồng đều về kích thước sẽ không đáp ứng được yêu cầu của các dây chuyền. Hơn thế nữa, đối với rau quả tươi xuất khẩu thì sự không đồng đều về kích thước cũng sẽ làm ảnh hưởng đến khâu thu hoach, đóng gói sản phẩm và điều quan trọng hơn là làm giảm tính thẩm mỹ của sản phẩm, tính chuyên nghiệp của sản phẩm đối với người tiêu dùng. Do vậy trong quá trình tổ chức sản xuất cần có sự theo dõi, giám sát chặt chẽ sự phát triển của cây trồng. Những dấu hiệu gì cho thấy sự phát triển không thuận lợi, sẽ cho ra những sản phẩm không đạt chất lượng thì cần loại bỏ ngay. Rau quả là những loại hàng rất chóng hỏng do tác động của các yếu tố môi trường như nhiệt độ, ánh sáng, làm cho chóng chín và nẫu. Nếu trong quá trình thu hái quả không nguyên vẹn thì quá trình hư hỏng lại xảy ra nhanh hơn do đó cần phải có biện pháp bảo quản hợp lý. Hiện nay công tác tổ chức bảo quản chưa tốt nên hao hụt khá lớn từ khâu sản xuất đến bảo quản, vận chuyển. Do đó, cần tăng cường các thiết bị thu hái (máy nâng để thu hái cây cao, xe đẩy, các loại sọt không có cạnh nan sắc); đồng thời nên phân loại luôn trong khâu thu hái. Đến cuối luống thì có bộ phận bao gói luôn, dán tem, nhãn, bảo quản lạnh. Làm như vậy sẽ giảm bớt rất nhiều khâu tác động cơ học lên quả gây bầm dập nhiều, nâng cao hiệu quả sản xuất và xuất khẩu. b) Giảm giá thành sản phẩm Để giảm giá thành sản phẩm trước hết cần nghiên cứu để nâng cao năng suất cây trồng. Để làm được điều đó cần làm tốt từ khâu tuyển chọn giống, cũng như khâu chăm sóc đã phân tích ở trên. Ngoài ra, Tổng công ty phải tìm cách hạ chi phí vận chuyển, bởi chi phí vận chuyển hiện nay cũng là một trong những vấn đề lớn làm tăng chi phí sản xuất lên rất nhiều. Đối những sản phẩm chế biến, cần đầu tư nghiên cứu những dây chuyền thiết bị chế biến mà có thể đa dạng hóa nhiều loại rau quả để tránh tình trạng lãng phí khi hết thời vụ. Ví dụ như dây chuyền sản xuất dứa thì chỉ dùng trong thời vụ dứa từ tháng 2-4, ngoài thời gian đấy nhà máy đóng cửa vì không có nguyên liệu. Như vậy nếu cũng dây chuyền ấy khi hết thời vụ sản xuất dứa mà có thể chế biến sản phẩm khác như cà chua thì sẽ góp phần làm giảm chi phí sản xuất. c) Mọi sản phẩm đều phải có nhãn hiệu sản phẩm. Nhãn hiệu sản phẩm là một dấu hiệu quan trọng để nhận biết chất lượng sản phẩm. Đối với rau quả là những sản phẩm không thể nếm được mà chỉ có thể nhận xét chất lượng qua bề ngoài thì ngòai yếu tố mẫu mã, mùi vị thì bao bì, nhãn hiệu cũng rất quan trọng. Căn cứ vào những thông tin trên bao bì, người tiêu dùng biết được xuất xứ của sản phẩm, điều đó ảnh hưởng rất lớn đến quyết định mua hàng cùa họ. Nhãn hiệu phải dễ nhớ, bắt mắt phải để lại một ấn tượng nào đó trong người tiêu dùng, điều đó sẽ giúp sản phẩm sẽ được người tiêu dùng lựa chọn mua trong lần khác cho dù phải chọn lựa giữa muôn vàn các sản phẩm khác hiện có trên thị trường. d) Nghiên cứu và phát triến sản phẩm nhằm đa dạng hóa mẫu mã sản phẩm Sản phẩm không chỉ có chất lượng mà cần đa dạng mẫu mã, chủng loại sản phẩm nhằm đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng khác nhau. Tổng công ty cần có kế hoạch tập trung nghiên cứu thị trường tiến hành sản xuất đa dạng hóa các loại nước hộp hoa quả, rau quả dầm giấm…để đáp ứng thị hiếu tiêu dùng ngày càng thay đổi mang tính công nghiệp cao trong nếp sống hiện đại ngày nay. Hơn nữa việc tiêu thụ một sản phẩm cần phải đáp ứng yêu cầu về sự tiện lợi trong sử dụng là điều kiện tiên quyết. Ngoài việc đa dang hóa sản phẩm còn cần đầu tư vào việc thiết kế bao bì sản phẩm, họa tiết, màu sắc… nhằm đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ của người tiêu dùng. Nghiên cứu và phát triển sản phẩm nhằm đa dạng hóa mẫu mã sản phẩm là một trong những họat động tạo nên giá trị gia tăng cho sản phẩm rau quả, nhằm nâng cao NLCT của rau quả xuất khẩu. e) Xây dựng chiến lược phát triển thương hiệu Giải pháp xây dựng chiến lược phát triển thương hiệu của Tổng công ty rau quả, nông sản nhằm mục tiêu tiến hành quảng bá, giới thiệu hình ảnh Tổng công ty trong và ngoài nước. Thương hiệu có vai trò quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, nó là linh hồn của công ty, lưu giữ hình ảnh của công ty đối với mỗi người tiêu dùng. Đối với thương hiệu Vegetexco của Tổng công ty rau quả, nông sản hiện nay chưa được biết nhiều trên thị trường thế giới. Do vậy để nâng cao NLCT của Tổng công ty rau quả, nông sản cũng là nâng cao NLCT của sản phẩm rau quả xuất khẩu trên thị trường thế giới cần có chiến lược phát triển thương hiệu lâu dài và bền vững. Kinh nghiệm cho thấy nhiều công ty lớn trên thế giới trở thành nổi tiếng không chỉ do qui mô đầu tư và đổi mới công nghệ mà còn là nhờ vào thương hiệu, chẳng hạn như Coca_cola, Microsolf… 3.2.1.3. Nhóm giải pháp về thị trường a) Đẩy mạnh nghiên cứu và phát triển thị trường. Thị hiếu của người dân ở từng khu vực, từng nước, các vùng trong cùng một nước là khác nhau. Do vậy một sản phẩm có thể bán ra ở một thị trường này với giá cao nhưng có thể lại không tiêu thụ được ở thị trường khác. Vì vậy nghiên cứu thị hiếu tiêu dùng là vô cùng cần thiết. Trên cơ sở nghiên cứu, tìm hiểu kỹ về các thị trường nên đưa ra chiến lược cụ thể với từng thị trường. Đẩy mạnh nghiên cứu thị trường để có được chiến lược sản phẩm và tiếp thị quảng cáo hợp lý. Công tác nghiên cứu phát triển thị trường hết sức quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp, đặc biệt là những doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu. Nghiên cứu thị trường giúp cho các doanh nghiệp hiểu biết hơn về thị hiếu tiêu dùng của người dân để sản xuất ra những sản phẩm thỏa mãn nhu cầu cao nhất của khách hàng, đồng thời nghiên cứu thị trường còn hiểu hơn về pháp luật, rút ra kinh nghiệm kinh doanh ở từng nơi muốn kinh doanh sản phẩm nhằm tránh thua thiệt khi có tranh chấp về thương mại, nghiên cứu thị trường còn giúp doanh nghiệp tìm ra thị trường mục tiêu của doanh nghiệp mình. Vì thế nếu các doanh nghiệp không nắm bắt, không hiểu biết, không nhận thấy được sự thay đổi đó của môi trường thì rất có thể doanh nghiệp đó sẽ đi lạc đường và bị đối thủ cạnh tranh vượt qua. Đối với Tổng công ty rau quả, nông sản, công tác nghiên cứu và phát triển thị trường vẫn còn hạn chế. Đặc biệt khi gia nhập WTO, Tổng công ty sẽ có tiềm năng về mở rộng thị trường xuất khẩu mới là rất lớn. Mặc dù hiện nay sản phẩm rau quả xuất khẩu của Tổng công ty rau quả, nông sản đã có mặt ở hơn 60 quốc gia nhưng thị phần của Tổng công ty tại các thị trường này còn khiêm tốn. Do đó công tác nghiên cứu và phát triển thị trường cần được chú trọng để nâng cao NLCT của rau quả xuất khẩu. Trước hết, Tổng công ty cần định hướng thị trường xuất khẩu: Làm công việc này tức là cần xác định thị trường tiêu thụ sản phẩm chính của Tổng công ty. Đồng thời phải biết thâm nhập thị trường mới, chiếm lĩnh thị trường truyền thống, tăng cường tiếp cận những thị trường mà nhà nước đã có ký kết các hiệp định ưu đãi để hạn chế bớt rủi ro. Công tác tiêu thụ sản phẩm phải đặt lên hàng đầu. Phải xây dựng những mặt hàng cụ thể cho từng thị trường, từng thời điểm cụ thể làm sao cho các thị trường có thể tương hỗ lẫn nhau khi một thị trường trở nên khó khăn. Điều này giúp Tổng công ty chủ động hơn trong kinh doanh, không phụ thuộc vào thị trường nào để hạn chế bớt rủi ro cho Tổng công ty khi thị trường truyền thống bị biến động. Bên cạnh đó có thể tiếp cận các thị trường mới bằng cách: tiếp cận hệ thống siêu thị của thị trường nước ngoài, trong đó liên kết với Việt kiều làm cầu nối. Đàm phán ký các hiệp định song phương về kiểm dịch động, thực vật, và công nhận lẫn nhau về các cơ sở kiểm tra, cấp giấy chứng nhận về chất lượng cho rau, quả xuất khẩu của Việt Nam. Tổ chức hội chợ triển lãm chuyên đề về rau quả. Mời các nhà nhập khẩu rau quả vào quan sát các cơ sở chế biến tìm hiểu về nguồn nguyên liệu đầu vào, quy trình tác nghiệp và sản phẩm đầu ra, tạo tín nhiệm tiến tới ký các hợp đồng và biên bản ghi nhớ. Thứ hai là cần định hướng mặt hàng và mẫu hàng xuất khẩu: Tổng công ty rau quả, nông sản cần chủ động nguồn hàng, chủ động các yếu tố đầu vào như nguyên liệu, vận tải, nhiên liệu… để tránh những hành động đơn phương lên giá, giảm tiến độ giao nhận và tiêu thụ và có thể dẫn đến mất khách hàng. Luôn theo dõi và rà soát lại các mặt hàng sản xuất, theo dõi tiến độ tiêu thụ từng mặt hàng, tìm ra nguyên nhân và biện pháp đối phó… Để xâm nhập thị trường mới thì Tổng công ty cần tạo cho mình một số mặt hàng chủ đạo, sử dụng mặt hàng này như “vết dầu loang” đề từ đó làm quỹ đạo cho các sản phẩm kế tiếp thâm nhập thị trường. Điều này rất quan trọng đối với Tổng công ty, bởi mặt hàng rau quả xuất khẩu của Tổng công ty còn yếu so với các mặt hàng cùng loại của các đối thủ cạnh tranh khác như Trung Quốc, Thái Lan… b) Nâng cao công tác xúc tiến thương mại Xúc tiến thương mại là các hoạt động nhằm tìm kiếm và thúc đẩy cơ hội mua bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ thương mại. Công tác marketing xuất khẩu là yếu tố không thể thiếu được trong hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp. Tại các thị trường mới, Tổng công ty vẫn chưa chủ động tìm kiếm bạn hàng mà vẫn có thói quen là chờ đối tác nước ngoài đến ký hợp đồng. Hiện nay thương mại điện tử là một công cụ hữu hiệu để quảng bá sản phẩm, vì vậy việc thiết lập một website riêng cho Tổng công ty là rất cần thiết. Website của Tổng công ty với địa chỉ là vegetexco.com.vn đã chính thức đi vào hoạt động trong năm 2007, tuy nhiên Tổng công ty vẫn ít cập nhật thông tin, nội dung còn sơ sài. Vì vậy cần quan tâm hơn nữa đến công tác tiếp thị trên website. Trong những năm gần đây các hoạt động quảng cáo và xúc tiến bán hàng tại doanh nghiệp được đầu tư khuyến khích nên sản phẩm của Tổng công ty đã chiếm lĩnh được thị trường trong nước và mở rộng thêm các thị trường quốc tế. Trong năm vừa qua Tổng công ty cũng tham gia các hội chợ tại nước ngoài như: Hội chợ Peterfood tại Saint - Petersburg, hội chợ Kitakushu tại Nhật, hội chợ Sial tại Pháp và hội chợ tại Thượng Hải ngoài ra các hội chợ trong nước do Bộ Thương Mại và Bộ NN & PTNT tổ chức. Cùng với việc tham gia các hội chợ Tổng công ty luôn thực hiện các chiến lược quảng cáo sản phẩm đến với người tiêu dùng. Tuy nhiên ngân sách ngân sách dành cho hoạt động quảng cáo của Tổng công ty còn rất ít. Nếu so với doanh thu của toàn Tổng công ty thì ta có thể thấy, ngân sách dành cho quảng cáo là tương đối thấp chỉ bằng 3% so với doanh thu toàn Tổng công ty. Trong khi đó thông thường thì các doanh nghiệp nhà nước được quyền trích khoảng 11% doanh thu để dành riêng cho hoạt động quảng cáo và xúc tiến bán. Như vậy chúng ta có thể thấy rằng ngân sách dành cho dịch vụ quảng cáo và xúc tiến bán của Tổng công ty còn tương đối thấp. Trong thời gian tới cần có những biện pháp nhằm tăng ngân sách xây dựng thương hiệu cho một số sản phẩm, xây dựng hệ thống bao bì đóng gói theo tiêu chuẩn nhất định. Trong thời gian vừa qua Tổng công ty trong khi thực hiện các chương trình quảng cáo và xúc tiến bán với thông điệp đến khách hàng còn mang tính chất đơn giản, chưa gợi được sự tò mò đối với khách hàng trong nước và ngoài nước, các sản phẩm mới của Tổng công ty còn chưa được người tiêu dùng biết đến, như các sản phẩm hoa quả sấy, hoa quả đóng hộp, nước ép hoa quả... Những sản phẩm mà Tổng công ty mới đi vào sản xuất rõ ràng trong những thời gian tiếp theo các chiến lược quảng cáo của Tổng công ty phải chú trọng tập trung kích thích sự tò mò cũng như cung cấp được những thông tin cần thiết đối với khách hàng để họ tiêu dùng sản phẩm của Tổng công ty chứ không thể như hiện nay thông điệp quảng cáo còn hết sức “thô sơ” chủ yếu là dựa vào các sản phẩm đã có từ lâu đời như Vải Thiều - Lục Ngạn , Nhãn Sấy - Hưng Yên, Nước cốt dừa - Sơn Tây, Rau sạch - Tây Hồ và một số sản phẩm khác ở các vùng lân cận. Thông điệp này không thể kích thích được sự tò mò đối với khách hàng, so với Trung Quốc, Thái Lan chúng ta còn thua xa họ về mẫu mã bao bì, cũng như các yếu tố khác liên quan tới mẫu mã sản phẩm, thông điệp còn chưa nhất quán giữa các sản phẩm của Tổng công ty, mặc dù chất lượng các sản phẩm của Tổng công ty không hề thua kém. Sản phẩm của Tổng công ty hiện rất đa dạng và được sản xuất tại nhiều vùng, nhiều nhà máy xí nghiệp khác nhau nên khó tạo nên một thông điệp quảng cáo đồng nhất. Chính vì vậy trong thời gian tới nhờ có sự giúp đỡ của Bộ NN & PTNT, Tổng công ty đang tìm tòi xây dựng thương hiệu riêng cho một số sản phẩm rau quả... Đây sẽ là một điều kiện thuận lợi để Tổng công ty khẳng định chất lượng cũng như lợi ích của các sản phẩm mang đến cho khách hàng. Thông điệp hiện tại của Tổng công ty hiện tại vẫn chưa được người tiêu dùng biết tới, đôi khi người tiêu dùng tiêu dùng sản phẩm của Tổng công ty nhưng họ lại không biết rằng đó là sản phẩm của Tổng công ty Rau quả Nông sản. 3.2.2. Một số kiến nghị với nhà nước Có thể thấy rằng tiềm năng xuất khẩu rau quả của Việt Nam nói chung và của Tổng Công ty rau quả, nông sản nói riêng là rất lớn. Tuy nhiên để biến những tiềm năng đó thành hiện thực không chỉ cần có sự nỗ lực của các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu rau quả, mà còn cần sự hỗ trợ từ phía nhà nước: 3.2.2.1. Cải thiện môi trường kinh doanh cho các doanh nghiệp xuất khẩu rau quả Nhà nước cần tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nhà nước giải quyết về cơ bản những khoản nợ không có khả năng thanh toán, số lao động dôi dư do cổ phần hóa. Đồng thời nhà nước cần có cơ chế hỗ trợ các doanh nghiệp cổ phần đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh… để nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Các giải pháp của nhà nước hỗ trợ cho sự phát triển của các doanh nghiệp không chỉ hướng vào đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, cung cấp thông tin thị trường…mà còn bao gồm việc giải quyết mặt bằng cho các doanh nghiệp, vì hiện tại quỹ đất của nhà nước cho các doanh nghiệp thuê hoặc mua còn quá ít so với nhu cầu. Khung pháp lý chung cho các doanh nghiệp cần được hình thành trên cơ sở Luật đầu tư chung của nhà nước, bao gồm Luật đầu tư trong nước và Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam; đồng thời có tính tới Luật thương mại, Luật doanh nghiệp, Luật Hợp tác xã, Luật phá sản của các doanh nghiệp…Trong quá trình hình thành khung pháp lý, nhà nước cần huy động sự tham gia rộng rãi của các tổ chức xã hội, chẳng hạn hiệp hội các khoa học, các trường đại học, viện nghiên cứu, các tổ chức tư vấn… 3.2.2.2. Về vấn đề vùng nguyên liệu Vấn đề lớn nhất hiện nay của ngành rau quả nói chung và Tổng công ty rau quả, nông sản nói riêng đó là thiếu vùng nguyên liệu tập trung, chất lượng cao. Công tác quy hoạch chưa được quan tâm đúng mức và tổ chức thực hiện còn nhiều bất cập nên một số nhà máy chế biến được xây dựng xong nhưng thiếu nguyên liệu hoặc có nguyên liệu nhưng không đảm bảo các yêu cầu và chất lượng cho chế biến xuất khẩu. Vì vậy cần tháo gỡ khó khăn ngay từ khâu tổ chức vùng nguyên liệu. Do đó nhà nước cần có chiến lược qui hoạch thống nhất, cần qui hoạch vùng nguyên liệu tập trung, chất lượng cao; gắn kết giữa vùng nguyên liệu với nhà máy chế biến. Mỗi loại cây trồng thích hợp với điều kiện đất đai, thời tiết, khí hậu rất khác nhau. Nếu ta cung cấp đầy đủ các yếu tố cần thiết và phù hợp với cây trồng thì sẽ tạo cho cây trồng sinh trưởng phát triển tốt. Do vậy cần xác định rõ trồng cây gì và ở đâu, số lượng bao nhiêu? Trước hết cần tập trung qui hoạch các vùng sản suất rau quả đặc chủng phù hợp với điều kiện khí hậu, tự nhiên, đất đai của vùng đó. Việc qui hoạch này phải được tiến hành một cách đồng bộ. Sự đồng bộ này thể hiện ở việc qui hoạch các vùng sản xuất gắn với các cơ sở chế biến để tạo thuận lợi cho việc vận chuyển từ nơi sản xuất đến nơi chế biến tránh những hao tổn không đáng có. Bên cạnh đó là việc đầu tư cơ sở hạ tầng như các dịch vụ vận tải, kho hàng, bến bãi, thuận tiện và giảm chi phí vận chuyển nâng cao chất lượng mặt hàng rau quả. Nhà nước phải đảm bảo việc phát triển vùng nguyên liệu sẽ phát huy được thế mạnh của từng vùng, từng địa phương, tạo thêm việc làm và ổn định đời sống cho nhân dân trong vùng. Các nhà máy chế biến rau quả phải được xây dựng gắn với vùng nguyên liệu với qui mô phù hợp. Đối với vùng nguyên liệu phân tán nên phát triển hệ thống chế biến vừa và nhỏ, vừa đảm bảo việc bảo quản và chế biến tại chỗ, vừa làm vệ tinh cung cấp bán thành phẩm cho các cơ sở chế biến công nghiệp công suất lớn. Hộp 2: Nên ưu ái nhiều hơn cho rau quả Theo TS. Nguyễn Quốc Vọng (Việt kiều Úc) - chuyên viên Bộ Nông nghiệp bang New South Wales, Australia: “Trong những mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực, rau quả và hoa là những mặt hàng có ưu thế lớn trong sân chơi WTO với kim ngạch xuất khẩu gần 103 tỷ USD, trong khi đó lúa gạo, cà phê, cao su chiếm không quá 10 tỷ USD /năm mỗi loại. Các loại nông sản khác như chè, điều và hồ tiêu càng nhỏ hơn với trên dưới 3 tỷ USD /năm. Vậy tại sao chúng ta lại không đầu tư nhiều hơn cho trái cây, rau quả và hoa vốn có nhiều lợi thế cạnh tranh? Nước ta vẫn còn sử dụng hơn 7 triệu hecta đất để trồng lúa. Trong khi đó, chỉ có gần 1 triệu hecta để trồng dừa, cao su, chè, càphê và 1,4 triệu ha trồng, rau quả và hoa. Nhiều chuyên gia cho rằng đây là bước phát triển không cân đối vì rõ ràng lúa đã trở nên độc canh, chiếm 74% diện tích canh tác của cả nước, trong khi trái cây, rau quả và hoa có thị trường xuất khẩu lớn gấp 10 lần thì lại ít phát triển, chỉ chiếm 15%” (Theo agroinfo) 3.2.2.3. Về vấn đề thị trường Thứ nhất là, cần thành lập một tổ chức chuyên trách trong việc nghiên cứu thị trường nước ngoài. Về việc cung cấp thông tin liên quan đến thị trường xuất khẩu rau quả: nhà nước cần giao cho các cơ quan chức năng như các Bộ, trung tâm thông tin, các tổ chức xúc tiến thương mại, các cơ quan nghiên cứu kinh tế thương mại… đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường xuất khẩu rau quả thế giới để cung cấp thông tin thường xuyên cho các doanh nghiệp. Thông tin phải bao gồm các nội dung cơ bản như: nhu cầu thị trường, giá cả các loại rau quả trên thị trường xuất khẩu, danh sách các nước nhập khẩu chủ yếu, các qui định và tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm cũng như hệ thống kiểm dịch rau quả của các nước nhập khẩu, thông tin về các đối thủ cạnh tranh trong lĩnh vực xuất khẩu ra, xu hướng vận động, biến đổi của thị trường thế giới… Đồng thời cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa bộ Thương mại và Bộ NN&PTNT trong hoạt động đàm phán, ký kết các thỏa thuận song phương, đa phương, định hướng cho các doanh nghiệp phát triển thị trường. Bộ thương mại có hệ thống các vụ chính sách thị trường nước ngoài, có hệ thống thương vụ, đại diện thương mại thông tin thường xuyên, cung cấp thông tin một cách nhanh nhất cho doanh nghiệp và người sản xuất. Do vậy hệ thống thương vụ Việt Nam ở nước ngoài cần bổ sung chức năng, nhiệm vụ, đổi mới phương thức hoạt động để các cơ quan này thực sự là tổ chức xúc tiến thương mại, hỗ trợ hướng dẫn các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu phát triển kinh doanh theo sát thị trường. Thứ hai là, cần nghiên cứu và phổ biến các qui định đặc thù của từng thị trường về vệ sinh an toàn thực phẩm tới các doanh nghiệp Hiện nay rào cản qui định về chất lượng an toàn thực phẩm mặt hàng rau quả ở các nước nhập khẩu là rất cao, nhưng vấn đề này ở Việt Nam người sản xuất chưa quan tâm đúng mức. Trong khi đó chưa có có quan quản lý chất lượng và vệ sinh rau quả chuyên làm chức năng vừa xây dựng những tiêu chuẩn chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm, vừa phối hợp với các nước nhập khẩu giám sát chất lượng rau quả. Trong thời gian tới các cơ quan có chức năng cần nghiên cứu và phổ biến các qui định, các tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm của một số nước được coi là thị trường tiềm năng của mặt hàng rau quả Việt Nam. Đồng thời có những biện pháp xử phạt đích đáng đối với những doanh nghiệp không thực hiện đúng yêu cầu đề ra. Các cơ quan chức năng cụ thể là Cục bảo vệ thực vật, Cục quản lý thị trường và Tổng cục hải quan phải phối hợp chặt chẽ việc nhập khẩu và quản lý sử dụng thuốc bảo vệ thực vật cũng như công tác kiểm tra dư lượng hóa chất đối với sản phẩm rau quả trước khi xuất khẩu. Thứ ba là, nâng cao vai trò hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu của các tổ chức Việt Nam tại nước ngoài (Thương vụ, Đại sứ quán). Các tổ chức Việt Nam ở nước ngoài hiểu rõ hơn ai hết về những đặc trưng của thị trường xuất khẩu tại nước đó. Trong khi đó các doanh nghiệp xuất khẩu mặc dù đã có những nghiên cứu thị trường, nhưng chưa thể nắm được hết những vấn đề thực tế tại thị trường đó. Do vậy các tổ chức Việt Nam ở nước ngoài cần hỗ trợ cho doanh nghiệp tạo điều kiện cho doanh nghiệp xuất khẩu rau quả thâm nhập thị trường được dễ dàng hơn, đặc biệt là đối với những thị trường mới. 3.2.2.4. Về các hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp Thứ nhất là, tạo môi trường pháp lý ổn định và thống nhất cho các doanh nghiệp xuất khẩu rau quả Hoạt động xuất khẩu chịu ảnh hưởng rất lớn bởi các qui định của pháp luật có liên quan như : thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu nguyên liệu, thủ tục xuất khẩu…Nếu các thủ tục xuất khẩu phức tạp, thuế xuất khẩu cao sẽ gây ra trở ngại lớn cho hoạt động kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp. Chính vì vậy nhà nước cần đơn giản các thủ tục hành chính, thủ tục hải quan xuất nhập khẩu để đảm bảo cho các doanh nghiệp thực hiện đúng thời gian giao hàng, đảm bảo uy tín của doanh nghiệp, tạo lòng tin với khách hàng. Đặc biệt các sản phẩm rau quả thời gian bảo quản không dài, nên đã có nhiều trường hợp vì phải chờ thủ tục hải quan mới được xuất cảng trong thời gian dài mà hàng đã bị hỏng. Khi có được giấy xuất cảng rồi thì không xuất được nữa, gây thiệt hại lớn cho nhà xuất khẩu. Vì vậy một giải pháp đưa ra đối với cơ quan hải quan là kiểm tra sản phẩm ngay tại nơi sản xuất, để tránh tình trạng tháo gỡ kiểm tra hàng hóa tại cảng sẽ ảnh hưởng rất lớn đến thời gian giao hàng cũng như chất lượng sản phẩm rau quả xuất khẩu. Đồng thời cần hạn chế cái gọi là hạn ngạch xuất khẩu: chính những ưu đãi về hạn ngạch xuất khẩu đã góp phần tạo ra môi trường chính sách khập khiễng, không lành mạnh, các doanh nghiệp phải tốn công sức, tốn tiền của để chạy chọt để có được hạn ngạch xuất khẩu. Nhà nước cần tạo ra những chính sách vĩ mô hữu hiệu, giúp doanh nghiệp tháo gỡ được vướng mắc, cản trở, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt động thuận lợi, phát huy hết năng lực của mình. Thứ hai là, tiếp tục hoàn thiện và mở rộng phạm vi hoạt động của thị trường vốn Thực trạng ngành rau quả nói chung và Tổng công ty rau quả, nông sản nói riêng cho thấy cần phải đầu tư nhiều hơn nữa vào việc trang bị máy móc thiết bị hiện đại để phục vụ cho việc nâng cao chất lượng rau quả như xây dựng kho mát, kho đông lạnh để bảo quản, mua sắm các dây chuyền công nghệ tiên tiến…Tuy nhiên để có được hệ thống những phương tiện sản xuất hiện đại nói trên thì các doanh nghiệp cần rất nhiều vốn, bởi phần lớn những thiết bị, dây chuyền đó được nhập khẩu từ nước ngoài về, có giá rất đắt. Do đó, bên cạnh những nguồn vốn doanh nghiệp tự huy động được thì nguồn vốn hỗ trợ từ nhà nước cũng rất quan trọng. Nhà nước cần tạo điều kiện giúp đỡ cho các doanh nghiệp vay vốn ưu đãi, lãi suất thấp. Đồng thời cần sửa đổi và hoàn thiện hệ thống thuế nhằm bình ổn môi trường kinh doanh tạo điều kiện để các doanh nghiệp thu hút vốn đầu tư nước ngoài, một trong những kênh huy động vốn lớn của các doanh nghiệp. Thứ ba là, hỗ trợ các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu rau quả về việc xây dựng phát triển thương hiệu. Trong một hội nghị tổng kết của ngành rau quả trong những năm gần đây, ý kiến của lãnh đạo sở NN&PTNT Hải Phòng cho rằng: “Muốn làm tốt công tác qui hoạch nông sản, thực phẩm sạch thì Nhà nước cần phải có chính sách hỗ trợ cho các doanh nghiệp nông nghiệp để xây dựng thương hiệu nông sản có chất lượng, nếu làm tốt khâu này thì chúng ta mới có đầu ra ổn định. Còn nếu chỉ tập trung hỗ trợ cho người dân trồng nông sản sạch rồi bỏ mặc họ loay hoay tự tiêu thụ thì sẽ rất khó khăn và lợi nhuận thấp.Thương hiệu của một sản phẩm có ý nghĩa rất lớn và xây dựng thương hiệu là một quá trình lâu dài. Trước hết nhà nước cần có qui định đăng ký nhãn hiệu cho từng sản phẩm, và kiểm soát chặt chẽ vấn đề vi phạm, làm giả nhãn hiệu để bảo vệ những sản phẩm chất lượng tốt. Thứ tư là, khuyến khích các hình thức liên kết trong sản xuất rau quả Sự thắng cuộc trong cạnh tranh của mỗi nhóm hàng, ngành hàng còn phụ thuộc vào sức mạnh của tập hợp các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh, vậy nhà nước cần có những chính sách vĩ mô nhằm nâng cao vai trò của hiệp hội rau quả xuất khẩu , xây dựng các mối liên kết ngành, giám sát và xử lý tranh chấp… Sau khi có Quyết Định số 80/2002 của Thủ tướng Chính phủ về “Khuyến khích hình thức tiêu thụ nông sản theo hợp đồng”, sự liên kiết trong tiêu thụ nông sản với mô hình liên kết 4 nhà có tác dụng thiết thực hơn. Với mục tiêu chung của mô hình là phát huy sức mạnh tổng hợp của 4 nhà nhằm tận dụng tiềm năng lợi thế sẵn có của ngành sản xuất rau quả. Tăng cường công tác quản lý hành chính Nhà Nước và đưa công nghệ vào trong sản xuất. Tăng cường mối quan hệ hỗ trợ lẫn nhau giữa các nhà tham gia liên kết nhằm tạo điều kiện phát triển ngành rau quả. Thứ năm là, khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động dịch vụ xuất khẩu rau quả Hiện nay hầu hết dịch vụ xuất khẩu của Việt Nam đều ở mức cao hơn so với các nước khác trong khu vực, làm tăng chi phí ảnh hưởng lớn đến hiệu quả của hoạt động xuất khẩu. Để khắc phục tình trạng này, cần khuyến khích sự tham gia của các thành phần kinh tế vào đầu tư cho kết cấu hạ tầng và dịch vụ xuất khẩu, tạo ra môi trường cạnh tranh trong lĩnh vực này, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu. Thứ sáu là, nâng cao kinh nghiệm tham gia vào thị trường thế giới cho các doanh nghiệp Các cam kết của WTO phải được coi là những qui định về hoạt động cạnh tranh của các doanh nghiệp: Muốn nâng cao được NLCT trên thị trường thế giới, mà trước hết là trong khuôn khổ WTO, các doanh nghiệp phải có sự hiểu biết thấu đáo, cặn kẽ các cam kết của tổ chức này. Do đó nhà nước cần hỗ trợ cho doanh nghiệp tổ chức những lớp học, tuyên truyền, hội thảo để doanh nghiệp có những kiến thức cũng như thêm kinh nghiệm tham gia vào thị trường thế giới. KẾT LUẬN Toàn cầu hoá là xu thế tất yếu của quá trình phát triển kinh tế thế giới. Lịch sử đã chứng minh rằng, không một quốc gia nào bằng chính sách đóng cửa lại phát triển được. Thương mại quốc tế là tất yếu khách quan nên các doanh nghiệp đều không còn lựa chọn nào khác là phải nâng cao khả năng cạnh tranh mình, có như vậy mới đứng vững, tồn tại và phát triển được. Tổng công ty rau quả, nông sản là một Tổng công ty lớn thuộc Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, tham gia kinh doanh xuất nhập khẩu rau quả, nông sản. Trong thời gian qua Tổng công ty rau quả, nông sản đã có nhiều cố gắng trong sản xuất kinh doanh, đặc biệt là hoạt động xuất khẩu rau quả. Tuy đã đạt được những thành công bước đầu nhưng cũng còn tồn tại rất nhiều khó khăn, thách thức. Đặc biệt hiện nay Việt Nam đã chính thức là thành viên của WTO nên sức cạnh tranh giữa các doanh nghiệp càng gay gắt hơn bao giờ hết. Do đó việc nâng cao nâng lực cạnh tranh của Tổng công ty rau quả, nông sản là một một vấn đề thiết thực. Sau một thời gian tìm hiểu và nghiên cứu về Tổng công ty rau quả, nông sản, em đã nắm bắt được tình hình hoạt động chung của Tổng công ty và mạnh dạn đưa ra một số giải pháp, nhằm góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của mặt hàng rau quả xuất khẩu trong thời kỳ hội nhập mạnh mẽ và sâu rộng. Các giải pháp này để thực thi được không những cần có sự nỗ lực của chính Tổng công ty mà còn cần có sự hỗ trợ từ phía nhà nước. Để hoàn thành luận văn này em đã cố gắng và nỗ lực, tuy nhiên do trình độ còn hạn chế nên không thể tránh khỏi những sai sót. Em rất mong thầy cô, bạn đọc đóng góp ý kiến để luận văn của em được hoàn thiện hơn, đồng thời giúp cho ngành rau quả Việt Nam nói chung và Tổng công ty rau quả, nông sản ngày một phát triển, đứng vững trước sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt của thương mại quốc tế. TÀI LIỆU THAM KHẢO Trần Sửu (2005), “Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong điều kiện toàn cầu hóa”, NXB Lao động. Giáo trình kinh tế chính trị - NXB chính trị quốc gia Hồ Chí Minh Giáo trình kinh tế thương mại – ĐHKTQD, NXB Thống kê Giáo trình luật kinh tế - ĐH Luật, NXB Đại học quốc gia Giáo trình chiến lược kinh doanh – ĐHKTQD, NXB Thống kê Đề án phát triển rau quả đến 2015 của Bộ Thương mại Đề án phát triển rau, hoa, cây cảnh thời kỳ 1999-2010 của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn. Bản tin thị trường - Tổng công ty rau quả, nông sản Báo cáo tổng kết công tác các năm 2003, 2004, 2005, 2006, 2007 của Tổng công ty rau quả, nông sản Đề án chuyển đổi, tổ chức lại Tổng công ty rau quả, nông sản theo mô hình Công ty mẹ - công ty con Tạp chí ngành rau quả Việt Nam của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn Các trang web: www.agro.gov.vn www.mof.gov.vn www.rauhoaquavietnam.vn www.vietnamnet.vn www.vegetexco.com.vn MỤC LỤC DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU Bảng 2.1. Các chỉ tiêu tài chính của Tổng công ty rau quả, nông sản những năm gần đây 33 Bảng 2.2: Kết quả sản xuất kinh doanh của Tổng công ty rau quả, nông sản giai đoạn 2003-2007 35 Bảng 2.3: Chủng loại mặt hàng rau quả xuất khẩu 38 Bảng 2.4: Cơ cấu sản phẩm rau quả xuất khẩu chủ lực 39 của Tổng công ty theo sản lượng 39 Bảng 2.5 : Kim ngạch xuất khẩu rau quả sang một số thị trường chính 42 Bảng 2.6 : Tình hình cung cấp nguyên liệu cho các nhà máy chế biến 53 Bảng 2.7 : Giá bán một số sản phẩm của Tổng công ty năm 2005-2007 57 Bảng 2.8: So sánh giá cả một số sản phẩm rau quả xuất khẩu của 58 Tổng công ty 58 Bảng 2.9 : Giá bán một số sản phẩm rau quả của Thái Lan thấp hơn 58 sản phẩm cùng loại của Tổng công ty năm 2007 58 Biểu đồ 2.1: Lợi nhuận trước thuế giai đoạn 2003-2007 34 Biểu đồ 2.2: Cơ cấu sản phẩm rau quả xuất khẩu chủ lực 39 của Tổng công ty theo sản lượng 39 Biểu đồ 2.3: Kim ngạch xuất khẩu rau quả giai đoạn 2003-2007 41 Biểu đồ 2.4: Kim ngạch xuất khẩu rau quả sang một số thị trường chính 43 Biểu đồ 2.5: Các thị trường xuất khẩu rau quả chính 44 của Tổng công ty năm 2007 44 Hình 01: Hình ảnh một số sản phẩm rau quả xuất khẩu 37 Hình 02: Mẫu mã một số sản phẩm rau quả đóng hộp 60 Hình 03: Logo thương hiệu Vegetexco 61

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc1923.doc
Tài liệu liên quan