Đề tài Một số giải pháp nhằm cải thiện môi trường kinh doanh cho doanh nghiệp nhỏ và vừa đến năm 2010

Như vậy môi trường kinh doanh có vai trò quan trọng trong việc phát triển các thành phần kinh tế trong đó có khu vực kinh tế tư nhân mà chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Môi trường kinh doanh tốt dẫn đến một thị trường cạnh tranh lành mạnh và thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế hiện nay, Chính phủ Việt Nam đã và đang cải tiến mối quan hệ giữa Chính phủ và doanh nghiệp theo nguyên tắc hợp lý và đôí thoại cùng như xây dựng và hoàn thiện cơ chế chính sách, hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển, các chính sách của chính phủ đề ra cần nhằm tạo một sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp theo hướng cải thiện môi trường kinh doanh cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Để có một hệ thống cơ chế chính sách phù hợp cải thiện được môi trường kinh doanh thì cần có sự tham gia của cả doanh nghiệp và Chính phủ.

doc84 trang | Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 996 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm cải thiện môi trường kinh doanh cho doanh nghiệp nhỏ và vừa đến năm 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i còn đang sử dụng các thiết bị máy móc cũ kỹ mà doanh nghiệp Nhà nước loại bỏ trong tình hình cạnh tranh gay gắt. Đây là một loại vấn đề hết sức khó khăn đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa. Để cải thiện tình hình đó thì việc đổi mới công nghệ luôn gắn liền với vốn. Không có vốn thì không thể đổi mới công nghệ. Thiếu vốn lại là một khó khăn phổ biến đối với đại đa số các doanh nghiệp nhỏ và vừa, đặc biệt là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Mặc dù ngân hàng Việt Nam trong thời gian qua đã có nhiều đổi mới song còn đáp ứng quá kém nhu cầu phát triển của nền kinh tế. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa rất khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng, đặc biệt là các khoản vay trung và dài hạn. Quá trình đầu tư ban đầu đã tiêu tốn quá nhiều so với khả năng vốn tự có và vốn vay của họ. Thêm vào đó các điều kiện về thế chấp lại quá ngặt nghèo dẫn đến thời gian để vay được vốn kéo dài. Thêm vào đó chính sách thuế cũng gây khó khăn cho việc chuyển giao công nghệ. Thuế nhập khẩu vốn đánh vào các thiết bị máy móc được nhập từ bên ngoài của các doanh nghiệp. Trong khi các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài lại không phải chịu loại thuế này. Đổi mới công nghệ cũng gắn liền với chuyên môn cho đào tạo lao động về bản chất đào tạo chuyên môn cần được coi như một khoản đầu tư với chi phí lớn và độ mạo hiểm cao, Nhà nước chưa có nhiều biện pháp hỗ trợ đào tạo cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Đa số các doanh nghiệp lại có tư duy khép kín nghĩa là tự đào tạo đội ngũ lao động của mình và lại thêm một phần co nữa cho đào tạo. Bên cạnh đó việc tồn tại quá ít các thông tin về tư vấn các thiết bị công nghệ cũng là một khó khăn cho doanh nghiệp. Đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa khi bỏ vốn ra để quyết định mua máy móc thiết bị. 2.6. Thủ tục hải quan. Thủ tục hải quan là một trong những biện pháp kiểm soát hàng hoá xuất nhập khẩu. Thủ tục hải quan phức tạp cùng với các biện pháp như đầu mối xuất nhập khẩu sẽ làm nản lòng các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu. Nếu như ở một quốc gia, sự phức tạp của thủ tục hải quan là hạn chế xuất nhập khẩu thì ở Việt Nam sự phức tạp này có nguyên nhân chủ yếu là do những thủ tục này không rõ ràng, không hợp lý trong nội dung của thủ tục và tính tuỳ tiện trong quá trình thực hiện thủ tục. Đây có lẽ là một trong những nguyên nhân gây ra tình trạng tham nhũng và những vị bê bối khác trong ngành hải quan mấy năm qua. Đứng trước dư luận đó chính phủ và tổng cục hải quan như: Tổng cục hải quan đã ban hành một số văn bản nhừm phân loại hàng hoá nhập khẩu theo 3 luồng với mức độ khác nhau. Nhờ vậy nhiều hàng hoá đã được thông qua trong vòng 1 ngày. cũng trong thời gian đó (cuối năm 1998) tổng cục hải quan đã phối hợp với Bộ tài chính kịp thời sửa đổi và điều chỉnh để thực hiện các luật thuế mới. Một trong những đổi mới quan trọng nhất là đổi mới quy trình thu thuế xuất nhập khẩu theo hướng để doanh nghiệp tự trịu trách nhiệm trong việc khai báo, tính thuế và nộp thuế. Sự đổi mới này đã được dư luận và nhiều doanh nghiệp hoan nghênh. Mặc dù đã có nhiều đổi mới trong thủ tục hải quan nhưng cải cách này vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của quá trình cải cách kinh tế, cải cách thủ tục hành chính. Nhiều vấn đề đã được nêu ra trong cuộc họp mặt giữa thủ tướng và các nhà doanh nghiệp vào tháng 3/2000. Đó là những vấn đề sau: - Nạn tham nhũng đó là tồn tại gần như công khai hoá nạn đút lót với giá từ 300.000 - 400.000 (đ)/1 Container thông qua cảng. - Trong tờ khai hải quan chỉ có giám đốc, phó giám đốc, khi trưởng phòng ký thì cũng không có giá trị điều này sẽ gây cản trở cho doanh nghiệp. - Nhập lô hàng nhiều lần mở tờ khai nhiều lần điều này sẽ làm mất nhiều thời gian cho doanh nghiệp. - Hải quan đã để nhiều vụ buôn lậu lớn lọt qua điều này được quy về trách nhiệm của thủ tục hải quan nhờ sự tiếp tay của một số cán bộ hải quan. - Thủ tục hải quan phức tạp và áp dụng mức thuế suất tuỳ tiện theo ý kiến chủ quan từ phía hải quan. “Hơn 10 triệu đồng và 0,08 mm"5 Ngày 18/3/2000 Công ty Việt phương mở tờ khai nhập khẩu kính hoa 4,5 mm từ Trung Quốc, khi kiểm hoá xác định độ dày là 4,58mm. Kết quả giám định ngày 24/3 của chi cục đo lường Hải phòng thì độ dày vẫn là 4,58mm. Ngày 10/4 Cục hải quan Hải phòng ký quyết định xử phạt vi phạm hành chính đồng thời lại tính thuế nhập khẩu và thuế GTGT theo giá tối thiểu. Như vậy Việt Phương vẫn phải nộp thêm 400 triệu đồng. Việt Phương đã phải mất hơn 1 tháng để cung cấp đầy đủ tài liệu và hồ sơ cho hải quan Hải phòng. Chỉ để nói lên 1 điều duy nhất là sai số giữa kê khai và thực tế nằm trong phạm vi dung sai cho phép. (Công văn của đối tác Trung Quốc khẳng định 0,08mm là trong phạm vi dung sai cho phép. Đây là quy định tiêu chuẩn quốc tế). Nhưng mọi sự nỗ lực này đều trở thành vô ích vì hải quan Hải phòng làm ngơ trước những lý lẽ này. Bà giám đốc Công ty Việt Phương than rằng chúng tôi đã mất hơn 100 triệu đồng cho sự dây dưa chờ đợi này rồi. Điều vô lý nhất là kính hoa 4,5 hay 4,58 đều có chung 1 loại thuế suất. Điều vô trách nhiệm ở đây là câu trả lời của cục phó cục hải quan Hải Phòng “không biết” b. Những tác động tới doanh nghiệp nhỏ và vừa. Bên cạnh những chính sách thông thường thoáng cũng như việc cải cách thủ tục xuất nhập khẩu đã làm nhiều doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả song việc thi hành chính sách và thực hiện các thủ tục hải quan vẫn còn gây nhiều khó khăn cho doanh nghiệp đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa. Thủ tục dườm dà, tính áp dụng chủ quan tuỳ tiện của cán bộ hải quan đã đẩy nhiều doanh nghiệp vào tình cảnh khó khăn đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa với vốn có hạn. Nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa đã phải huỷ bỏ hợp đồng với đối tác chỉ vì các thủ tục hải quan quá phức tạp. 5 khi hải quan làm luật trên báo đầu tư ngày 27/4/2000 2.7. Chính sách vốn: - Hệ thống tín dụng ở Việt Nam. Khu vực tài chính ở Việt Nam gồm các ngân hàng có 4 ngân hàng thương mại quốc doanh, 51 ngân hàng cổ phần, 4 ngân hàng liên doanh, 24 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 977 quỹ tín dụng nhân dân, 5 Công ty tài chính và 8 Công ty cho thuê tài chính. Lượng vốn huy động thông qua các ngân hàng và tổ chức tín dụng chưa nhiều, khoảng 62,2 ngàn tỷ đồng (tính đến 31/12/98) chiếm 21,6% GDP. Đây là mức huy động thấp so với các nước. Các ngân hàng thương mại quốc doanh gần như thống trị thị trường vốn cho vay vì đã cung cấp đến 81,4% tổng các khoản cho vay ngắn và trung hạn. Nếu tính các khoản cho vay trung và dài hạn thì các ngân hàng thương mại quốc doanh đã có tỷ trọng 87,2%. - Đối tượng nhận tín dụng Khoảng 50% các khoản cho vay của tổ chức tài chính là dành cho doanh nghiệp Nhà nước. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chỉ nhận được 16,5% tổng số các khoản cho vay. Ngân hàng công thương là ngân hàng cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh vay nhiều nhất khoảng 21% các khoản cho vay. Có thể nói ngân hàng công thương là ngân hàng cho vay then chốt đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa tuy nhiên các ngân hàng này đang đối mặt với tình trạng nợ quá hạn khá lớn. - Tác động tới doanh nghiệp nhỏ và vừa Từ thực tế kết quả trên cho thấy khả năng tiếp cận nguồn vốn vay của các doanh nghiệp nhỏ và vừa là rất khó khăn. “theo ý kiện của 1 thành viên trong hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Hà Nội nói: Mặc dù chính sách cho vay vốn đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa đã mở cửa có nghĩa là: “cái miệng tủi đã mở nhưng cái “am” thì lại quá nhỏ” Hiện nay 75% doanh nghiệp nhỏ và vừa vừa có số vốn dưới 50 triệu đồng. Thiếu vốn đang là khó khăn phổ biến nhưng số doanh nghiệp nhỏ và vừa được vay của ngân hàng rất ít. Theo báo cáo của Bộ kế hoạch và đầu tư về việc thực hiện cấp tín dụng cho quỹ tín dụng trợ giúp đầu tư theo luật khuyến khích đầu tư trong nước từ ngày 1/17/99 đến 30/6/2000 đã có 164 dự án thuộc khu vực quốc doanh. Chỉ có 103 dự án thuộc khu vực dân doanh được vay ưu đãi 130 tỷ đồng tính trung bình 1,2 tỷ đồng cho 1 dự án. Nếu nghiên cứu sâu hơn nữa có thể thấy phần lớn tín dụng tập trung chủ yếu vào các doanh nghiệp tư nhân lớn chứ không phải là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Do vậy phần lớn doanh nghiệp nhỏ và vừa phải huy động từ các tổ chức phi tài chính, cụ thể là trong gia đình, bạn bè, hay vốn của nhau với lãi suất cao hơn 3 - 6 lần so với lãi suất ngân hàng. Các khoản vay bảo lãnh tính dụng cũng thường không đến được ưu đãi cũng không dê, nhiều doanh nghiệp cho biết tuy lãi suất vay ngân hàng thấp nhưng các thủ tục vay rất phức tạp, nếu tính cả các lệ phí tiêu cực thì thực chất chi phí giao dịch là quá cao, việc phải hoa hồng 10% là khá phổ biến. Những quy định khắt khe về tài sản thế chấp và về việc xem xét tính khả thi của dự án đầu tư cũng làm cho nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa không đáp ứng được trong khi đó các doanh nghiệp Nhà nước vay mà lại không cần thế chấp. Chính những thủ tục khắt khe và khó tiếp cận với nguồn vốn vay đã làm cho nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa thiếu vốn trầm trọng. 2.8. Chính sách đất đai. Để sản xuất hàng hoá thì bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng cần mặt bằng sản xuất. Song việc tìm mặt bằng sản xuất cho doanh nghiệp nhỏ và vừa là rất khó khăn. Cụ thể là năm 1997 trong cuộc điều 452 dự án đầu tư mới có 17 dự án thuộc khu vực tư nhân mặc dù các dự án này đã nộp đơn xin thuê mặt bằng sản xuất song chỉ có 1 dự án được phê duyệt. Do những khó khăn trong việc xin cấp quyền sử dụng đất cho nên nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa phải dùng ngay ở nơi ở của mình để làm cơ sở sản xuất gây ra ô nhiễm môi trường. Cũng do đó thị trường ngầm về đất đai hoạt động khá nhộn nhịp, tuy bị coi là bất hợp pháp nhưng doanh nghiệp nhỏ và vừa không thể tiếp cận để có mặt bằng sản xuất. Nhưng khó khăn trên đã làm cản trở sản xuất và sự phát triển của các doanh nghiệp nhỏ và vừa. 2.9. Chính sách về lao động. Hiện nay trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa trình độ tay nghề của người lao động là yếu và kém. Chủ yếu lao động phổ thông, trình độ văn hoá thấp, thiếu kỹ năng lao động. Bên cạnh đó tình trạng bất hợp lý trong cơ cấu đào tạo trong cả nước dẫn đến hiện tượng “thừa thầy, thiếu thợ” đã đẩy doanh nghiệp nhỏ và vừa vào tình trạng thiếu lao động lành nghề và giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Cùng với đó là vấn đề xác định chi phí tiền lương tiền công để tính thuế thu nhập doanh nghiệp cũng đang gặp khó khăn. Các chi phí này thường bị cơ quan thuế xác định thấp hơn từ 30 - 50% có nơi đến 100% so với mức chi phí thực tế mà doanh nghiệp trả cho người lao động. Phần chênh lệch này bị xác định là thu nhập chịu thuế mà chủ doanh nghiệp phải chịu do đó ảnh hưởng nhiều đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Lý do mà cơ quan thuế đưa ra là tránh tình tạng doanh nghiệp khai tiền lương cao để trốn thuế. Tuy vậy việc làm này trái với quyền tự chủ của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường. Cơ quan thuế chỉ có quyền thi hành thang lương, bảng lương mà doanh nghiệp đã công bố và đăng ký. Nếu doanh nghiệp trả lương cho người lao động đúng như họ đã đăng ký thì cơ quan thuế không thể không công nhận thực tế đó. Chính những cản trở từ phía cơ quan hành chính Nhà nước đã làm cho sức cạnh tranh của nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa vừa tốn kém so với các doanh nghiệp Nhà nước. Chương III Định hướng phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa đến 2010 và các giải pháp cải thiện môi trường kinh doanh I. Định hướng phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa đến 2010. 1. Các quan điểm chính trong việc xây dựng chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX của Đảng tháng 4 năm 2001 đã đề ra chiến lược phát triển kinh tế xã hội từ nay đến năm 2010 với yêu cầu GDP phải tăng gấp đôi so với năm 2000. Trong 5 năm từ 2001 đến 2005, GDP phải tăng bình quân hàng năm 7,5% và đến năm 2005, GDP sẽ bằng 2 lần so với năm 1995. Nền kinh tế nước ta phải phát triển với tốc độ cao đi đôi với việc giải quyết các vấn đề bức xúc của xã hội và đảm bảo vững chắc về an ninh quốc phòng, phát triển tất cả các vùng kinh tế, từng bước vượt qua tình trạng kém phát triển, cải thiện mức sống của nhân dân, đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nâng cao tích luỹ nội bộ, tạo nền tảng để đến năm 2002 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Theo quan điểm này thì tăng trưởng kinh tế nhanh đã được đặt ra là một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng đối với nền kinh tế Việt Nam trong những năm tới. Để đạt được các mục tiêu mà chiến lược phát triển kinh tế xã hội đến năm 2010 đã đặt ra, chính phủ Việt Nam đã coi phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa là một nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam vì hai lý do cơ bản (1) Doanh nghiệp nhỏ và vừa góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế xã hội của đất nước; (2) Sự phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa đóng góp đáng kể vào việc tạo sự ổn định chính trị xã hội của đất nước thông qua tạo việc làm, giải quyết vấn đề lao động và phúc lợi xã hội của nhân dân. Vì thế, các quan điểm chính trong việc xây dựng chính sách khuyến khích phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trong giai đoạn tới là: - Phát huy nội lực tối đa trong xã hội. Trong thời gian qua, mặc dù đã có những cải tiến mạnh mẽ trong việc tháo bỏ các rào cản hạn chế các doanh nhân bỏ vốn ra kinh doanh nhưng các nguồn lực của xã hội vẫn chưa được khai thác và phát huy đúng với tầm vốn có của nó do nhiều nguyên nhân khác nhau. Nhiều nguồn lực của xã hội vẫn còn tiềm ẩn trong dân. Vì thế, trong giai đoạn tới, chính phủ và các cơ quan ban ngành có liên quan cần phải tìm ra những động lực mới để khai thác tốt các nguồn lực này nhằm đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế. - Đối xử bình đẳng với mọi thành phần kinh tế. Mặc dù trên các văn bản pháp luật, các thành phần kinh tế là bình đẳng với nhau trên thực tế các doanh nghiệp nhỏ và vừa tư nhân vẫn còn bị đối xử bất bình đẳng trong nhiều lĩnh vực. Điều này thể hiện rất rõ trong chính sách ưu đãi đầu tư và chính sách tín dụng cũng như qua các hành vi của các công chức có liên quan. Bình đẳng chính là một động lực quan trọng để phát huy các tiềm lực vốn có trong dân vì thế trong thời gian tới chính phủ cần quán triệt quan điểm này để đem lại sự phát triển mạnh mẽ hơn trong khu vực dân doanh, khuyến khích doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển. - Xoá bỏ các quy định hành chính hạn chế việc ra nhập và rời bỏ thị trường của các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Luật doanh nghiệp ra đời đã từng bước bảo đảm quyền tự do kinh doanh của các doanh nghiệp làm cho thị trường hai năm qua sôi động hẳn lên với sự ra đời của một số lượng khổng lồ của các doanh nghiệp dân doanh. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều rào cản gây khó khăn cho doanh nghiệp làm giảm tác dụng của luật doanh nghiệp. Việc nhiều doanh nghiệp ra đời sẽ thường kéo theo nhiều doanh nghiệp muốn rút khỏi thị trường làm cho nền kinh tế thực sự mạnh hơn. Điều kiện và giấy phép lao động hiện nay không hoàn toàn phù hợp với quá trình cải cách kinh tế cũng như cải thiện hơn nữa môi trường khuyến khích đầu tư cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam. Do đó, các quy định hành chính hạn chế việc ra nhập hay rời bỏ thị trường cần được xem xét và xoá bỏ dần trong thời gian tới để thực sự cởi trói cho doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển. - Hạn chế sự can thiệp thường xuyên và trực tiếp của Nhà nước vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường, nếu chính phủ không xác định được các lĩnh vực cần can thiệp và lĩnh vực nên để thị trường tự do điều tiết thì sẽ bóp méo các quan hệ trên thị trường và hạn chế các ảnh hưởng tích cực của thị trường. Vì thế, để phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, trong thời gian tới các nhà hoạt động chính sách cần làm rõ mối quan hệ giữa chính phủ và doanh nghiệp, giảm bớt các can thiệp không hiệu quả của chính phủ vào thị trường làm cho nền kinh tế hoạt động ổn định và phân bổ nguồn lực có hiệu quả hơn. - Phát huy tối đa nội lực trong xã hội. - Thực sự đối xử bình đẳng với mọi thành phần kinh tế để tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh. - Nới lỏng những quy định hành chính hạn chế việc gia nhập và rút lui khỏi thị trường của các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Việc nới lỏng này không những đã “cởi trói” cho nhà đầu tư mà nó còn hỗ trợ đắc lực cho quá trình cải cách hành chính, cải thiện môi trường kinh doanh ở Việt Nam. 2. Nội dung phương hướng phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam. 2.2.1. Đổi mới nhận thức tư tưởng. Căn cứ vào các học thuyết của Mác về quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, kiến trúc thượng tầng phải phù hợp với mô hình kinh tế đã lựa chọn, đó là nền kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa. Bản chất của chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng phải tương ứng với bản chất của mô hình kinh tế đó. Chính sách hỗ trợ được thực hiện trong cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Trong cơ chế này, chính phủ và thị trường cùng nhau can thiệp vào việc phân bổ các nguồn lực của xã hội để giải quyết ba vấn đề kinh tế cơ bản. Tuỳ điều kiện kinh tế xã hội ở từng thời kỳ mà chính phủ nên can thiệp vào những vấn đề gì và để thị trường tự giải quyết những vấn đề gì sao cho hiệu quả nhất. Muốn vậy, chính phủ phải thống nhất một quan điểm là can thiệp vào những vấn đề mà thị trường làm không tốt, không hiệu quả, không muốn làm hoặc không thể làm được. Chính phủ không phải là một nhân tố cạnh tranh với thị trường mà là nhân tố hỗ trợ và khuyến khích thị trường làm ngày càng tốt hơn vai trò của mình trong nền kinh tế. Cả thị trường và chính phủ, với tư cách là các nhân tố riêng biệt thì không phải là liều thuốc thần tiên để chữa bách bệnh của nền kinh tế. Do đó, trong đổi mới nhận thức, chính phủ cần xác định rõ mối quan hệ giữa chính phủ và thị trường trong việc can thiệp vào các hoạt động kinh tế nói chung cũng như các hoạt động của doanh nghiệp nhỏ và vừa nói riêng. Một trong những vai trò quan trọng của Nhà nước trong thời gian tới là đề ra các chính sách phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa sao cho phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế của đất nước. Để làm được điều đó, các nhà hoạch định chính sách cũng cần nhận thức rõ vai trò quan trọng của các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nền kinh tế quốc dân từ đó có các chính sách giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa phát huy các vai trò của mình đóng góp cho tăng trưởng và phát triển kinh tế. Chính phủ vừa có thể sử dụng các tập đoàn kinh tế lớn và một số doanh nghiệp có quy mô vừa để thực hiện vai trò điều tiết nền kinh tế và phục vụ các nhu cầu công cộng vừa phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa vì những mục tiêu kinh tế cơ bản nhằm khai thác tốt các nguồn lực hiện có và đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế. Vì vậy, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa cần phải tạo được môi trường sự yên tâm đầu tư vốn vào sản xuất, kinh doanh, đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ và hoạch định chiến lược phát triển lâu dài qua đó mới khắc phục được tâm lý “làm ăn tạm thời” theo kiểu “chụp giật” “đánh quả”, đầu tư ít thu hồi vốn nhanh, làm cho nền kinh tế phát triển mất thế cân bằng. Do đó, việc xây dựng và phát triển chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa cần phải có một hệ thống quan điểm đồng bộ, nhất quán, có tính ổn định lâu dài bảo đảm lợi ích của doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng như lợi ích chung của cộng đồng. 2.2.2. Bảo hộ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trong từng giai đoạn phát triển. Trong tiến trình Việt Nam hội nhập các nước trong khu vực và trên thế giới thông qua các tổ chức kinh tế - xã hội như ASEAN, APEC, AFTA, WTO không chỉ có các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam tham gia thị trường mà các doanh nghiệp của nhiều nước khác trong khu vực, trong cùng một tổ chức với Việt Nam sẽ cùng thâm nhập vào thị trường nước ta. Với xuất phát điểm của một nước yếu kém về nhiều mặt kinh tế, công nghệ, kỹ thuật lạc hậu thấp kém thì các sản phẩm được tạo ra trong nước rất khó có thể cạnh tranh được với các sản phẩm của các doanh nghiệp ở những nước có nền kinh tế phát triển cao kỹ thuật tiên tiến. Vì vậy, để tránh cho tình trạng doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam sẽ mất thị phần ở trong nước và khó có thể vươn ra được thị trường nước ngoài, thì chính phủ Việt Nam cần có những chính sách kịp thời để bảo hộ cho các doanh nghiệp đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa, giúp cho doanh nghiệp này có thể tồn tại và trở nên cứng cáp hơn khi phải đối mặt với xu hướng quốc tế hoá và toàn cầu hoá bằng cách phát huy những mặt mạnh, tận dụng tối đa lợi thế so sánh của các doanh nghiệp Việt Nam với các doanh nghiệp nước ngoài. Chính phủ nên có kế hoạch bảo hộ bằng hàng rào thuế quan để tạo điều kiện tối ưu cho doanh nghiệp Việt Nam tham gia hợp tác với thị trường khu vực và quốc tế với những bất lợi là tối thiểu. 2.2.3. Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa là một bộ phận quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội ở nước ta. Nền kinh tế nước ta chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường, nên các doanh nghiệp và các nhà đầu tư còn chưa có kinh nghiệm về kinh tế thị trường, sức ỳ còn lớn, tâm lý chụp dật còn phổ biến, chưa chú ý nhiều đến chiến lược kinh doanh lâu dài. Trong bối cảnh đó, phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa sẽ tạo điều kiện cho một đội ngũ kinh doanh của Việt Nam ra đời, tạo điều kiện về yếu tố con người cho các giai đoạn phát triển kinh tế tiếp theo. Bên cạnh đó, phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa sẽ khuyến khích và tăng cường cạnh tranh ngay trên thị trường trong nước, làm cho nền kinh tế năng động hơn. Điều đó đòi hỏi doanh nghiệp phải vươn lên không ngừng bằng chất lượng và hiệu quả để nâng cao sức cạnh tranh của mình trên thị trường thế giới. Doanh nghiệp nhỏ và vừa có ưu thế tạo được nhiều công ăn việc làm. Điều này hết sức quan trọng đối với một nước đang phát triển có tiềm năng về lao động đồng thời lại là một gánh nặng xã hội như nước ta. Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa vừa góp phần thu hút thêm lao động, giảm sức ép về việc làm, tăng thêm thu nhập để cải thiện đời sống cho người lao động, vừa góp phần sử dụng tốt hơn nguồn lực sẵn có của nền kinh tế là lao động, tạo tiền đề tích luỹ cho các giai đoạn phát triển sau. Ngoài ra, phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa tạo ra cơ hội cho các nhà đầu tư tự huy động vốn của mình và của người khác vào kinh doanh. Đây cũng là một biện pháp góp phần làm tăng tỷ lệ tích luỹ của nền kinh tế để đạt được mục tiêu tăng trưởng trong chiến lược phát triển kinh tế của nền kinh tế để đạt được mục tiêu tăng trưởng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của cả nước. Do đó, chiến lược phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể coi là một bộ phận quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của nước ta. Theo kinh nghiệm của nhiều nước thì sự thống nhất về mục tiêu giữa chiến lược phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa và chiến lược phát triển kinh tế xã hội chung là một trong các yếu tố cực kỳ quan trọng để phát huy các tiềm lực kinh tế của đất nước. 2.2.4. Doanh nghiệp nhỏ và vừa cần phải lấy quan điểm kinh tế làm thước đo. Trong cơ chế thị trường, tiêu thức quan trọng để đánh giá doanh nghiệp là hiệu quả kinh tế - xã hội, mặc dù doanh nghiệp hoạt động vì mục tiêu kiếm lợi nhuận và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, nhưng trên góc độ quản lý không thể coi nhẹ vấn đề xã hội, vì vậy phải gắn hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội làm một. Kinh nghiệm nhiều nước trên thế giới chỉ ra rằng phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa sẽ đáp ứng tốt nhất yêu cầu này. Do đó, chính sách hỗ trợ phải đảm bảo (1) Thúc đẩy doanh nghiệp nhỏ và vừa tăng lợi nhuận đóng góp vào GDP của nền kinh tế; (2) Bảo đảm mức doanh thu, mức lãi trên một đồng vốn; (3) Thu hút nhiều lao động xã hội nhằm góp phần giải quyết công ăn việc làm, bảo vệ môi trường và giải quyết tốt các vấn đề xã hội khác. 2.2.5. Doanh nghiệp nhỏ và vừa cần được ưu tiên phát triển trên cơ sở thị trường trong một số ngành có lựa chọn. Trong điều kiện nền kinh tế như hiện nay, các nguồn lực còn hạn chế do đó không thể đầu tư một cách tràn lan. Hơn nữa, mỗi một nước, một quốc gia, chỉ có những điểm mạnh trong một số ngành nhất định chứ không thể giỏi trong mọi ngành. Để giúp các doanh nghiệp nhỏ và vừa trở nên năng động, nhanh chóng thích nghi và phù hợp với nền kinh tế trong khu vực và thế giới thì chính phủ cần định hướng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa lựa chọn phát triển trên một số ngành là thế mạnh của Việt Nam đó là (1) Các ngành sản xuất hàng tiêu dùng, hàng thay thế nhập khẩu và hàng xuất khẩu có khả năng cạnh tranh; (2) Các ngành cung cấp đầu vào cho các doanh nghiệp lớn, hoặc một số ngành tiêu thụ đầu ra cho các sản phẩm của doanh nghiệp lớn, tức là đảm nhận vai trò là mạng lưới phân phối, gia công bán thành phẩm, chế biến, chế tạo những sản phẩm chi tiết cần sự chuyên môn hoá cao cho các doanh nghiệp lớn; (3) Các ngành thuộc lĩnh vực công nghiệp nông thôn, bao gồm các sản phẩm truyền thống thuộc về các làng nghề. 2.2.6. Ưu tiên phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nông thôn, Cả trong Việt Nam và các ngành dịch vụ, coi công nghiệp nhỏ và vừa là bộ phận quan trọng nhất của chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn. Để hội nhập vào nền kinh tế thế giới, tránh nguy cơ tụt hậu về kinh tế, phải tập trung thúc đẩy doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, có nghĩa là từng bước chuyển đổi căn bản toàn diện phương thức sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp từ lao động thủ công, lao động bằng máy móc, thiết bị hiện đại là chủ yếu, tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Để thực hiện quan điểm này cơ chế mới phải có tác dụng (1) Thúc đẩy các doanh nghiệp đầu tư đổi mới kỹ thuật công nghệ; (2) Tăng cường hoạt động được thông tin kỹ thuật, công nghệ. Trong điều kiện của nước ta hiện nay, phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa làm một mô hình thích hợp nhất để chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn. Sở dĩ như vậy là vì, hiện nay nước ta có khoảng 70 - 80% dân số ở nông thôn. quá trình phát triển những năm qua đã tạo ra sự chênh lệch nhất định về thu nhập nói riêng và về trình độ phát triển nói chung giữa thành thị và nông thôn. Tuy nhiên, nguồn nhân lực dồi dào ở nông thôn chưa được sử dụng tốt cho phát triển kinh tế đã và đạng dẫn đến sức ép di cư vào các trung tâm công nghiệp và đô thị lớn, dễ gây nên những biến động lớn khôn lường trong xã hội. Kinh nghiệm ở nhiều nước Châu á cho thấy đối với các nước đông dân ở thì chiến lược phát triển đi từ công nghiệp nông thôn là khôn ngoan và có hiệu quả do một số lý do: (1) Tập trung phát triển nông thôn sẽ làm tăng thu nhập của bộ phận lớn dân cư sống ở nông thôn, góp phần làm ổn định xã hội, tránh cho các thành phố rơi vào tình trạng quá tải và hỗn độn về mọi mặt; (2) Thu nhập dân cư nông thôn tăng lên làm cho sức mua của xã hội tăng lên. Đó là yếu tố kích thích sản xuất không chỉ đối với kinh tế nông thôn mà còn đối với cả kinh tế thành thị. Điều đó sẽ làm tăng mối liên kết giữa thành thị và nông thôn, góp phần giảm chênh lệch về trình độ phát triển giữa thành thị và nông thôn; (3) Sử dụng nguồn lao động dồi dào trong khu vực nông thôn; (4) Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trong lĩnh vực lưu thông hàng hoá ở nông thôn là góp phần thúc đẩy thị trường hàng hoá ở nông thôn phát triển. Kinh nghiệm một số nước cho thấy hệ thống phân phối rộng rãi đó sẽ khuyến khích tiêu thụ hàng hoá nội địa qua đó tác động trở lại kích thích sản xuất phát triển. Ngoài ra còn có một số lý do khác như nông thôn có sẵn nguồn nguyên liệu tại chỗ phong phú tạo thuận lợi để phát triển các sản phẩm công nghiệp tiêu dùng, nhất là cho các ngành nghề chế biến lương thực, thực phẩm. Hiện nay, công nghiệp nông thôn Việt Nam có thể phát triển ở một số ngành và một số sản phẩm như: (1) Các ngành đáp ứng nhu cầu tiêu dùng tại chỗ: chế biến lương thực, thực phẩm, sản xuất vật liệu xây dựng, các sản phẩm kim loại; (2) Cơ khí sửa chữa phục vụ sản xuất và đời sống; (3) May mặc, sản phẩm mây tre, thủ công mỹ nghệ. 2.2.7. Doanh nghiệp nhỏ và vừa được khuyến khích phát triển trong một số ngành nhất định mà doanh nghiệp lớn không có lợi thế tham gia. Căn cứ vào lý thuyết lợi ích kinh tế theo qui mô thì trong một số ngành nhất định sản xuất lớn, sản xuất hàng loạt có hiệu quả hơn sản xuất nhỏ về mặt kinh tế. Tuy nhiên, nếu xét về hiệu quả kinh tế - xã hội và hiệu quả của toàn bộ nên kinh tế nói chung, chứ không phải riêng của một doanh nghiệp hay Công ty nào thì không phải hoàn toàn như vậy. Thị trường luôn được phân thành nhiều loại rất đa dạng và phong phú. Có những đoạn thị trường dành cho sản phẩm có số lượng tiêu thụ lớn, cũng có những đoạn thị trường dành cho các sản phẩm đơn chiếc, đáp ứng hết sức riêng của một nhóm người hay một hộ tiêu thụ nào đó. Doanh nghiệp nhỏ và vừa thích hợp với loại thị trường thứ 2 này. Tuy nhiên, trên thực tế các doanh nghiệp v sẽ rất khó cạnh tranh với các doanh nghiệp lớn hơn đặc biệt là khi các doanh nghiệp nhỏ và vừa chưa tìm được những thị trường ngách cho riêng mình. Vì vậy, cần phải có khung khổ pháp luật rõ ràng qui định loại sản phẩm nào, ngành sản xuất nào với tỷ trọng bao nhiêu phải do doanh nghiệp nhỏ và vừa đảm nhận, doanh nghiệp lớn không được chiếm mức tỷ trọng cao hơn mức quy định đó. Điều này vừa chống được độc quyền trong nền kinh tế vừa bảo vệ lợi ích của các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong những giai đoạn nhất định và đem lại hiệu quả kinh tế xã hội cao hơn. bên cạnh đó, có rất nhiều khoảng thị trường (mà người ta không thường gọi là thị trường ngách) lại hoàn toàn không phù hợp với qui mô của các doanh nghiệp lớn hoặc doanh nghiệp lớn không bao giờ muốn đầu tư thì chính phủ cần tạo điều kiện hỗ trợ cho doanh nghiệp nhỏ và vừa khai thác, thậm chí trong một số trường hợp chính phủ phải có các khoản ưu đãi đầu tư trong giai đoạn đầu cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Có như vậy mới thực sự khuyến khích doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển. 2.2.8. Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trong mối liên hệ chặt chẽ với doanh nghiệp lớn. Doanh nghiệp nhỏ và vừa và doanh nghiệp lớn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong quá trình phát triển kinh tế của một nước, nó hỗ trợ đắc lực cho nhau trong sản xuất kinh doanh. Vì vậy khi ban hành các chính sách khuyến khích doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển chính phủ cần xác định những doanh nghiệp lớn phát triển là “hạt nhân” đứng vị trí trung tâm, doanh nghiệp nhỏ và vừa là những “vệ tinh” đứng xunh quanh, đó là cơ sở ban đầu để hình thành các tập đoàn kinh tế lớn, có đủ sức cạnh tranh trên các thị trường, có khả năng đáp ứng nhu cầu của vùng về một số loại hàng hoá nhất định. Yêu cầu của quan điểm này là cần có các chính sách tạo ra môi trường cho sự liên kết, hợp tác liên kết dọc trong quá trình sản xuất hay trong bao tiêu sản phẩm, cung ứng vật tư máy móc thiết bị Mối liện hệ đó được thể hiện sự phân chuyên môn hoá giữa doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp lớn sao cho hiệu quả đó là (1) Doanh nghiệp nhỏ và vừa tạo đầu vào vừa góp phần tiêu thụ đầu ra của doanh nghiệp lớn; (2) Doanh nghiệp lớn hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa để đào tạo tay nghề, trao đổi thông tin, chuyển giao công nghệ và kinh nghiệm quản lý; (3) Giao thầu lại cho doanh nghiệp nhỏ và vừa những phần việc mà doanh nghiệp lớn ký với Nhà nước trong các hợp đồng lớn hoặc một số trường hợp cho phép doanh nghiệp nhỏ và vừa tư nhân cùng hợp tác với doanh nghiệp lớn để đấu thầu các cạnh tranh lớn của Nhà nước. 2.2.9. Nên có một khu công nghiệp tập trung dành riêng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Kinh nghiệm ở một số nước cho thấy, sự ra đời của các khu công nghiệp tập trung không chỉ có tác dụng tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa về cơ sở hạ tầng như điện, nước, thông tin, liên lạc, tiếp cận thị trường giải quyết khó khăn về mặt bằng sản xuất cho doanh nghiệp nhỏ và vừa mà còn giúp Nhà nước dễ dàng thực hiện các chính sách ưu đãi và tiến hành hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa nằm trong khu công nghiệp. Vì vậy, trong chính sách khuyến khích doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển, chính phủ cần quan tâm đến mục tiêu hình thành các khu công nghiệp riêng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa với mức thuế phù hợp và ưu đãi ở mức độ nhất định. II. Các giải pháp để cải thiện môi trường kinh doanh cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. 1. Tiếp tục thực hiện thi hành tốt luật doanh nghiệp. - Việc ban hành luật doanh nghiệp 2000 như thổi một luồng sinh khí mới vào nền kinh tế Việt Nam. Tuy vậy việc thực hiện triệt để luật doanh nghiệp không phải đơn giản. Trong một thời gian dài giấy phép đã trở thành một công cụ quản lý của các cơ quan Nhà nước. Đã tạo lên cơ chế “xin cho” cản trở sự tiến bộ của xã hội. Việc xóa bỏ các loại giấy phép đã tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư trong việc thành lập doanh nghiệp, đã tước bỏ quyền lợi của một nhóm người tại một số cơ quan công quyền, vì vậy chắc chăn nó sẽ gặp một sự phản kháng của chính nhóm người đó trong một số lĩnh vực. Đặc điểm nổi bật của hệ thống điều kiện kinh doanh hiện nay là nhiều, phân tán, không rõ ràng, chồng chéo được quy định bởi trên 300 văn bản các loại. Vì vậy rất dễ dàng xuất hiện các loại giấy phép dưới hình thức điều kiện kinh doanh. Do đó để giảm tối đa tình trạng trên Nhà nước cần thực hiện một số biện pháp sau: + Xác định rõ ràng các lĩnh vực kinh doanh có điều kiện. + Kiên quyết huỷ bỏ những giấy phép kinh doanh không phù hợp với luật doanh nghiệp. + Xây dựng bộ máy quản lý đăng ký kinh doanh có đủ năng lực để phục vụ tốt hơn cho các doanh nghiệp. - Trong kinh doanh bao giờ cũng có tính rủi ro vì vậy cần có một số quy định để doanh nghiệp dễ dàng gia nhập và rút lui khỏi thị trường. + Đưa ra những quy định pháp lý cho việc mua bán doanh nghiệp. + Sửa đổi luật phá sản theo hướng: - Phạm vi bao quát hơn, có nhiều đối tượng có quyền phá sản, - Đơn giản hoá trình tự thủ tục phá sản. - Nâng cao năng lực bộ máy cơ quan quản lý và thi hành việc phá sản. 2. Cải cách và phát triển thị trường vốn Cải cách và phát triển thị trường vốn không chỉ là đảm bảo nguồn vốn thông thoáng cho nền kinh tế mà nó còn góp phần vào phát triển khu vực kinh tế tư nhân trong đó có doanh nghiệp nhỏ và vừa. Để cải cách và phát triển vốn chúng ta cần làm một số việc sau: - Nhà nước cần bãi bỏ quy định lãi suất trần, mức lãi suất để cho ngân hàng tự quyết định trên điều kiện cụ thể của thị trường. Điều này sẽ giúp cho ngân hàng chủ động và nâng cao được khả năng cạnh tranh của mình. - Các ngân hàng cần xoá bỏ các quy định mang tính phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp dân doanh trong lĩnh vực tín dụng. - Thiết lập một hệ thống đăng ký toàn quốc về việc cầm cố, thế chấp cho thuê để đảm bảo quyền lợi cho bên đi vay và cả bên cho vay. - Hạn chế tối đa sự can thiệp của chính quyền vào hoạt động kinh doanh của ngân hàng. - Cho phép các ngân hàng nước ngoài mở rộng kinh doanh tại Việt Nam. * Bên cạnh đó để giúp đỡ các doanh nghiệp nhỏ và vừa về vốn Nhà nước cần xây dựng và khuyến khích các tổ chức trong việc hình thành các quỹ hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa. - Lập quỹ bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, quỹ này phải là một tổ chức ban đầy của Nhà nước để cùng chia sử rủi ro với ngân hàng trong quá trình cho doanh nghiệp nhỏ và vừa vay vốn. Mà thiết thực nhất là cùng trợ giúp trực tiếp doanh nghiệp nhỏ và vừa trong quá trình chuẩn bị dự án sản xuất kinh doanh, bảo đảm tính khả thi của dự án. - Về phía ngân hàng cần tăng cường năng lực thẩm định dự án, nâng cao trách nhiệm và chủ động hơn trong việc cho vay. - Cũng nên khuyến khích việc ngân hàng và doanh nghiệp cùng đầu tư vốn để sản xuất chứ không đơn thuần ngân hàng chỉ là một tổ chức tín dụng thông thường. 3. Xây dựng hoàn thiện chính sách cạnh tranh. Tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, kiểm soát độc quyền là những công việc cấp bách và cần thiết chứ không chỉ khuyến khích khu vực kinh tế tư nhân mà còn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển. Chính sách cạnh tranh không chỉ bao gồm luật cạnh tranh mà nó còn được thể hiện ngay trong tư duy trong quá trình xây dựng chính sách ở các lĩnh vực. Để làm được điều đó, trong thời gian tới phải làm những việc sau: - Thống nhất quan điểm đánh giá vai trò cạnh tranh trong nền kinh tế xóa bỏ phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế. - Chính phủ sớm đưa ra nghị quyết về khuyến khích cạnh tranh lành mạnh và kiểm soát độc quyền trong kinh doanh. - Xác định rõ ràng vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước và rà soát lại hạn chế bớt việc độc quyền của các doanh nghiệp Nhà nước. * Để làm được những việc trên chúng ta cần đưa ra các giải pháp thực hiện như sau: - Giao nhiệm vụ nghiên cứu chính sách cạnh tranh nói chung và soạn thảo luật cạnh tranh nói riêng cho một vài cơ quan để chính phủ thông qua. - Nới lỏng việc gia nhập và rút lui khỏi thị trường, khuyến khích các nhà đầu tư, trước hết là thực hiện tốt luật doanh nghiệp và sửa đổi luật phá sản doanh nghiệp. - Thúc đẩy quá trình cải cách doanh nghiệp Nhà nước, đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. - Khuyến khích và hỗ trợ việc thành lập các hiệp hội doanh nghiệp để có tiếng nói bình đẳng trên thị trường. - Cải thiện môi trường thông tin cung cấp cho các doanh nghiệp. - Từng bước xây dựng hoàn chỉnh hệ thống quy định nhằm hạn chế các hành vi cạnh tranh không lành mạnh. 4. Đổi mới chính sách thương mại, hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa trong việc xuất khẩu, mở rộng thị trường nước ngoài. * Đổi mới chính sách thương mại. Mặc dù đã có nhiều đổi mới mang tính cơ bản trong chính sách thương mại nhưng vẫn cần tiếp tục cải cách thì mới có thể đáp ứng được đòi hỏi của quá trình hội nhập kinh tế quốc dân. Nhưng vấn đề cần tiếp được cải cách đó là: - Tiếp tục thu hẹp danh sách các mặt hàng cấm xuất nhập khẩu đặc biệt là những mặt hàng xuất nhập khẩu có điều kiện. Điều kiện để xuất nhập khẩu những mặt hàng hạn chế xuất nhập khẩu cần được cụ thể rõ ràng dể tránh hiện tượng phân biệt đối xử trong vòng cấp giấy phép nhất là trong các doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp ngoài quốc doanh. - Nên giảm thuế suất xuống 0 - 5% tuỳ từng mặt hàng để nâng cao lượng hàng xuất khẩu (cho hàng xuất). - Có chính sách tỷ giá hối đoái ổn định để hỗ trợ cho xuất khẩu. * Xây dựng hệ thống thông tin hỗ trợ xuất khẩu: Thông tin thị trường là một trong những nhân tố quan trọng đối với hoạt động xuất khẩu. Cho đến nay, tại Việt Nam vẫn chưa hình thành những trung tâm thông tin hỗ trợ xuất khẩu cho doanh nghiệp. Việc tìm hiểu thông tin về thị trường và luật pháp của nước khác đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa là hoàn toàn khó khăn vì vậy chúng ta cần xây dựng các trung tâm hỗ trợ thông tin về xuất khẩu là hết sức cần thiết. * Nhà nước nên hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận với thị trường thế giới bằng cách hỗ trợ một phần về tài chính do doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia các hoạt động hội trợ, triển lãm hàng Việt Nam ở nước ngoài. * Cần có các văn phòng đại diện doanh nghiệp của Việt Nam ở nước ngoài để đăng ký nhãn hiệu hàng hoá và quyền kiểu dáng, sở hữu công nghiệp sản phẩm. Giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa có chỗ đững trên thị trường thế giới. 5. Giảm bớt thủ tục hải quan không cần thiết. - Đơn giản hoá thủ tục hải quan trong việc mở tờ khai: Giám đốc hoặc phó giám đốc có thể uỷ quyền cho cấp dưới ký. - Nghiên cứu rút ngắn quy trình khai kiểm hoá và tính thuế. - Nghiên cứu hình thành mẫu khai cho nhiều loại hàng trong một lô hàng. - Nghiên cứu phương thức chỉ mở tờ khai một lần cho nhiều lần nhập khẩu một mặt hàng nhằm tạo điều kiện cho các nhà nhập khẩu với số lượng lớn trong một thời gian tương đối dài. - Xét xử nghiêm minh những trường hợp nhân viên hải quan vi phạm kỷ luật. - Sửa đổi hệ thống mã thuế tương ứng với hệ thống mã vạch quốc tế, tránh việc tuỳ tiện áp mã thuế xuất nhập khẩu. - Cần trang bị phương tiện hiện đại cho ngành hải quan làm việc để ngăn chặn và đẩy lùi các đường dây buôn lậu. 6. Tiếp tục cải thiện chính sách thuế. Chính sách thuế mặc dù đã được cải thiện song vẫn chưa đáp ứng được so với nhu cầu phát triển kinh tế của đất nước vì vậy chúng ta cần cải cách theo những bước sau: - Đảm bảo tính ổn định trong các chính sách thuế trong một thời gian tối thiểu là 2 năm. - Đảm bảo tính công bằng trong chính sách thuế, giảm dần tiến tới xóa bỏ chênh lệch trong thuế suất giữa đầu tư trong nước và nước ngoài. - Đơn giản hoá hệ thống thuế theo hướng giảm số lượng các thuế suất làm minh bạch và cụ thể hoá các cơ chế ưu đãi thuế, hạn chế việc áp dụng tuỳ tiện các chính sách ưu đãi thuế. - Đổi mới tư duy về thu thuế chuyển ý tưởng “tận thu” sang nuôi dưỡng nguồn thu. - Lành mạnh hoá cơ cấu thuế theo hướng giảm dần tỷ trọng thuế xuất nhập khẩu và tăng dần tỷ trọng thuế trực thu, nhất là thuế thu nhập cá nhân. - Cung cách thu thuế cũng cần phải sửa đổi tránh gây nhiều phiền hà cho doanh nghiệp. Nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa, đang chịu việc khoán thuế. * Bên cạnh đó cũng cần sửa đổi một số vấn đề trong thuế GTGT. - Từng bước quy thuế suất GTGT về một thuế suất để đơn giản hoá việc tính thuế và tạo mặt bằng cạnh tranh bình đẳng giữa các ngành. - Đổi mới quy định về chứng từ hoá đơn, đổi mới hệ thống kế toán theo hướng chuẩn quốc tế. - Đổi mới phương thức hoàn thuế, góp phần giải quyết khó khăn về thuế cho các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. 7. Kiến nghị về chính sách công nghệ. - Nhà nước cần đổi mới định hướng chính sách đầu tư, hạn chế tối đa các dự án đầu tư vào lĩnh vực mang tính kinh doanh và tập trung hơn nữa vào những lĩnh vực cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội. - Hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia đổi mới cải tiến công nghệ nâng cao năng lực cạnh tranh. - Nên sửa đổi cơ cấu đào tạo để đáp ứng tốt những yêu cầu về thị trường lao động đặc biệt là lao động cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. - Không nên đánh thuế vào việc nhập khẩu máy móc thiết bị sản xuất của các doanh nghiệp. - Chấp nhận việc nhập khẩu một số máy móc đã qua sử dụng trong một số lĩnh vực phù hợp với khả năng vốn và nhu cầu của nhiều doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. 8. Kiến nghị về chính sách đất đai - Các thủ tục về chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, thủ tục thuê địa điểm thành lập doanh nghiệp cần được cải tiến, giảm bớt khó khăn về mặt hàng cho các doanh nghiệp. - Thành lập các khu, cụm công nghiệp cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. - Cần giảm tiền thuê đất cho doanh nghiệp nhỏ và vừa thấp hơn nửa, nên tiến hành không thu thuế đất cho doanh nghiệp từ 5 - 10 năm đầu tuỳ theo loại hình doanh nghiệp đầu tư kinh doanh. - Nhà nước cần hỗ trợ một phần tài chính cho doanh nghiệp để giải phóng mặt hàng. 9. Kiến nghị về chính sách lao động. - Nhà nước chỉ nên kiểm soát việc trả lương tối thiểu nhằm bảo vệ quyền của người lao động, thông qua việc công bố mức lương tối thiểu cho từng vùng, từng thời điểm. Chứ không nên can thiệp trực tiếp vào doanh nghiệp. - Nhà nước nên có chính sách khuyến khích lao động vào làm việc cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa. 10. Những công việc cần tiếp tục triển khai Có thể nói rằng việc ban hành Nghị định 90/2001/NĐ - CP là một bước đột phá trong chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nước ta. Định hướng chính sách khuyến khích doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam trong thời gian tới là tương đối toàn diện và đồng bộ. Tuy nhiên để các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam sẽ có một môi trường thuận lợi để phát triển, để sự trợ giúp thực sự có hiệu quả, cần có thêm một số điều kiện sau đây: - Một là, cần cụ thể hoá và tiến hành nhanh chóng và triệt để tất cả những quy định đã nêu trong Nghị định 90/2001/NĐ - CP, bởi vì những quy định trong Nghị định này rất chung, đòi hỏi phải có các thông tư hướng dẫn, nhiều khi đòi hỏi sự phối hợp của nhiều Bộ, ngành, địa phương. - Hai là, Bộ kế hoạch và đầu tư có vai trò rất quan trọng trong trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, cần khẩn trương xúc tiến thành lập Cục doanh nghiệp nhỏ và vừa và Trung tâm hỗ trợ ở 3 miền. Chỉ khi có các tổ chức này thì mọi hoạt động hỗ trợ mới có thể đến được doanh nghiệp nhanh chóng và hiệu quả. - Ba là, Các địa phương cần phải nắm bắt một cách nhanh nhất chủ trương trợ giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa của Nhà nước, nhanh chóng thực hiện những trách nhiệm của mình đã nêu trong Nghị định 90, chủ động, sáng tạo trong xây dựng và triển khai các hoạt động trợ giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa. - Bốn là, về phía các doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng cần phải tự vươn lên, doanh nghiệp nào có nội lực mạnh, có khả năng phát triển thì mới có thể tiếp nhận trợ giúp một cách có hiệu quả, mặt khác, doanh nghiệp nào không có khả năng phát triển thì cũng sẽ thuộc đối tượng trợ giúp. Ngoài ra việc sửa đổi, bổ sung, hướng dẫn và thực thi các văn bản pháp luật có liên quan như Luật khuyến khích đầu tư trong nước, Luật doanh nghiệp, các quy định về đất đai, Pháp lệnh hợp đồng kinh tế, các quy định về thầu phụ công nghiệp, cũng rất cần thiết nhằm hỗ trợ cho sự ra đời, tồn tại và phát triển của khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa. Chúng ta hoàn toàn có cơ sở để tin rằng, với quyết tâm chung của cả Nhà nước lẫn cộng đồng doanh nghiệp, khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam sẽ có bước phát triển mạnh mẽ trong thời gian tới. 11. Cần có các chương trình đào tạo năng lực cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, chính phủ đưa ra các chương trình, chính sách vươn ra thị trường xuất khẩu. Chính phủ đã đưa ra các chính sách và chương trình để tăng cường phát triển và gắn kết doanh nghiệp nhỏ và vừa như một mắt xích quan trọng và chiến lược thông qua việc thành lập các cụm công nghiệp để nâng cao giá trị gia tăng nội địa. Việc thiếu vắng sự tham gia của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nước trong mạng lưới các nhà cung cấp sản phẩm và dịch vụ cho các Công ty lớn là một trong những nguyên nhân chính của tình trạng yếu kém trong việc phối kết hợp của các ngành công nghiệp hiện nay. Để tăng cường nền tảng kinh tế cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong cụm công nghiệp chủ chốt, tại cuộc gặp giữa thủ tướng và các doanh nghiệp 3/2003, Chính phủ đã tiếp tục cam kết sẽ hỗ trợ mạnh mẽ hơn nhằm ổn định doanh nghiệp nhỏ và vừa, đặc biệt là những doanh nghiệp có tiềm năng về xuất khẩu. Giai đoạn này sẽ tập trung vào việc tạo ra lợi thế cạnh tranh dựa trên việc nâng cao năng suất lao động và ứng dụng công nghệ thông tin để khu vực sản xuất có khả năng đối mặt với những thách thức của thị trường ngày càng cởi mở. Do các nước kém phát triển (LCD) cũng đang tập trung vào khu vực sản xuất để giải quyết các vấn đề kinh tế của đất nước, Việt Nam cần phải tìm kiếm thêm giải pháp để nâng cao lợi thế cạnh tranh. Với thức tế một nền kinh tế dựa vào sản xuất cũng đang bị đe doạ bởi sự gia nhập của những LCD, Việt Nam sẽ phải chuyển sang những lĩnh vực có giá trị gia tăng cao hơn. Như vậy định hướng tương lai của các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam rõ ràng là chuyển sang sản xuất các sản phẩm có giá trị và có hàm lượng chất xám cao hơn. Đối với các ngành phục vụ nhu cầu nội địa, thách thức đặt ra là phải hiện đại hoá để đạt được những tiêu chuẩn quốc tế để vươn ra thị trường xuất khẩu. 12. Tiếp nhận công nghệ mới và ứng dụng công nghệ thông tin và viễn thông (ICT) như một giải pháp để đạt được hiệu quả cao hơn. Thành công của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong việc gia nhập vào dây chuyền phân phối toàn cầu phụ thuộc vào khả năng tiếp thu ICT vào quá trình sản xuất và điều hành do các MNC hiện nay đang chuyển giao hầu hết các yêu cầu không cốt yếu ra bên ngoài. Các MNC sử dụng ngày càng nhiều phương thức kinh doanh qua mạng (B2B). Các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam phải trở thành một mắt xích trong hệ thống cung cấp toàn cầu này để nắm bắt phương thức kinh doanh mới và nhận được những lợi ích từ thị trường ngày một rộng lớn đó. Cơ hội để doanh nghiệp nhỏ và vừa trở thành nhà cung cấp cho các Công ty lớn và MNC phụ thuộc nhiều vào năng lực công nghệ và khả năng đáp ứng được các tiêu chuẩn đặt ra về chi phí, chất lượng và phân phối. 13. Hình thành các tổ chức nhà nước về quản lý các doanh nghiệp nhỏ và vừa :tháng 12/2001, chính phủ đã có nghị định về việc thành lập việc doanh nghiệp nhỏ và vừa trực thuộc Bộ kế hoạch và đầu tư làm đầu mối phối hợp các cơ quan quản lý nhà nước trong việc quản lý doanh nghiệp nhỏ và vừa. Song chính phủ cần lựa chọn chính thức tổ chức của cục doanh nghiệp nhỏ và vừa sao cho phù hợp và tránh những biến động mạnh ảnh hưởng đến hiện đại hoá của các cơ quan có liên quan gây tác động tiêu cực đến doanh nghiệp nhỏ và vừa.  Kết luận Như vậy môi trường kinh doanh có vai trò quan trọng trong việc phát triển các thành phần kinh tế trong đó có khu vực kinh tế tư nhân mà chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Môi trường kinh doanh tốt dẫn đến một thị trường cạnh tranh lành mạnh và thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế hiện nay, Chính phủ Việt Nam đã và đang cải tiến mối quan hệ giữa Chính phủ và doanh nghiệp theo nguyên tắc hợp lý và đôí thoại cùng như xây dựng và hoàn thiện cơ chế chính sách, hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển, các chính sách của chính phủ đề ra cần nhằm tạo một sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp theo hướng cải thiện môi trường kinh doanh cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Để có một hệ thống cơ chế chính sách phù hợp cải thiện được môi trường kinh doanh thì cần có sự tham gia của cả doanh nghiệp và Chính phủ. Doanh nghiệp có các kiến nghị bức xúc lên Chính phủ, còn Chính phủ cần ban hành các chính sách để giải quyết các vấn đề mà doanh nghiệp đưa ra. Từ đó mới thực sự cải thiện môi trường kinh doanh nhằm thúc đẩy doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển. Hà Nội ngày 10 tháng 05 năm 2003 Sinh viên Nguyễn Thế Dũng Tài liệu tham khảo 1. Viện NCQLHTTW: Báo cáo kinh tế Việt Nam năm 1999 2. Viện NCQLHTTW: Cơ sở khoa học và thực tiến xây dựng chính sách cạnh tranh ở Việt Nam. 3. Viện NDQLHTTW: Báo cáo về nghiên cứu kinh tế tư nhân 4. Tổng cục thống kê: Niên giám thống kê 2001, 2002 5. Dự án USNIE/95/004: TS Lê Đặng Doanh Hoàn thiện chính sách vĩ mô phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa 6. Chương trình nghiên cứu Việt Nam - Hà Lan: Các hình thức huy động vốn phi chính thức trong doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam. 7. Các báo cáo cuộc gặp gỡ giữa thủ tướng và doanh nghiệp 3/2002 8. Báo đầu tư, báo hải quan, báo kinh tế lao động, báo đầu tư, thời báo kinh tế Việt Nam, báo ngân hàng 9. Các chương trình diễn đàn doanh nghiệp trên truyền hình và radio. 10. Sách chiến lược kinh doanh 11. Văn kiện đại hội 9 12. Hội thảo doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam giữa Việt Nam và Nhật Bản 13. Doanh nghiệp nhỏ và vừa hiện trạng kiến nghị giải pháp Viện nghiên cứu quản lý Trung ương Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docV0121.doc
Tài liệu liên quan