Đề tài Một số giải pháp nhằm đảm bảo an toàn tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh tại Ngân hàng công thương Đống Đa

Trên cơ sở những biện pháp đã thực hiện cùng với những định hướng và giải pháp mới sẽ giúp cho các Ngân hàng thương mại nói chung và Ngân hàng Công thương Đống Đa nói riêng sẽ có những kế hoạch kịp thời, những chuyển biến tích cực trong công tác đầu tư tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh gắn với an toàn tín dụng, hạn chế rủi ro, mang lại lợi nhuận cho ngân hàng và xã hội . Góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội mà Đảng, Quốc hội đã đề ra.

doc61 trang | Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1127 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm đảm bảo an toàn tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh tại Ngân hàng công thương Đống Đa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Ngân hàng công thương Đống Đa thường chú trọng vào thẩm định khả năng vay nợ của khách hàng tức là thẩm định năng lực pháp lý của người đi vay, tư cách pháp nhân và thể nhân, sự trung thực và uy tín của người vay trên thương trường và họ có sẵn sàng trả nợ cho Ngân hàng ngay không. Đó là: - Thẩm định tư cách pháp nhân và thể nhân: xem xét khách hàng có đầy đủ các giấy tờ cần thiết như quyết định thành tập công ty, giấy phép kinh doanh (nếu là pháp nhân), khách hàng có quyền công dân hay đang bị án, có giấy phép hành nghề không (nếu là thể nhân). Ngoài ra nhiều khi cán bộ tín dụng của Ngân hàng công thương Đống Đa còn phải tìm hiểu tư cách của người vay thông qua bạn bè, người thân của khách hàng. - Thẩm định khả năng trả nợ: bao gồm thẩm định hiệu quả của món vay và tài sản thế chấp của món vay đó. Trong việc xem xét hiệu quả của món vay bao giờ cũng quan trọng nhất, khả năng tạo ra lợi nhuận của món vay phụ thuộc vào khả năng sản xuất. Khả năng tiêu thụ và chất lượng sản phẩm dịch vụ, nhu cầu, thị hiếu của sản phẩm trên thương trường, kinh nghiệm điều hành của doanh nghiệp. Để kiểm tra được những vấn đề này, cán bộ tín dụng đã xuống tận cơ sở sản xuất để tìm hiểu được năng lực sản xuất, quy mô của doanh nghiệp, nhu cầu về sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường, máy móc trang thiết bị dùng sản xuất ra sao, hợp đồng và sổ sách giao hàng có được chặt chẽ không. Nếu hợp tác xã xin vay thì cán bộ tín dụng đến phòng công nghiệp quận để tìm hiểu hoạt động trước đây như thế nào vì tiền thân của các HTX này là các tổ hợp tác do phòng công nghiệp quận quản lý hồ sơ. Ngoài ra, cán bộ tín dụng còn thẩm định tình hình kinh doanh của người vay từ nhiều luồng thông tin nhỏ các bạn hàng, người nhà, bạn bè của người vay để nắm chắc hơn tình hình sản xuất kinh doanh và tính đích thực của các pháp nhân hay cá thể. Việc thẩm định về thị trường nguyên liệu, thị trường tiêu thụ hay những tính tán các hiệu quả qua các dự án sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp chỉ được áp dụng một cách hình thức, các cán bộ tín dụng thường không yêu cầu các doanh nghiệp phải nộp báo cáo tài chính hoặc nếu có đơn vị nộp thì cán bộ tín dụng cũng không chú trọng vàphân tích những báo cáo này. Nguyên nhân là do các cán bộ tín dụng cho rằng các nguồn tài liệu mà các doanh nghiệp ngoài quốc doanh gửi cho Ngân hàng phần lớn là những số liệu tự tạo, không đảm bảo độ chính xác, thậm chí là số liệu ma, sổ sách lại ghi chép theo kiểu sổ nợ chứ không tuân thủ theo chế độ kế toán hiện hành. Theo nguyên tắc khi thẩm định tình hình tài chính của các doanh nghiệp, cán bộ tín dụng phải xem xét số liệu trên bảng cân đối của doanh nghiệp. Nhưng những số liệu này không chính xác nên cán bộ tín dụng phải thường xuyên kiểm tra theo dõi từ phía công nhân xem chế độ lương thưởng của họ như thế nào. Nếu doanh nghiệp đó trả lương thường xuyên đúng hạn cho công nhận và mức lương tương đối cao thì chứng tỏ tình hình tài chính của doanh nghiệp là khá yên tâm. Tuy nhiên, làm được điều đó đòi hỏi các cán bộ tín dụng phải tế nhị, khéo léo có cái nhìn tổng thể. Bởi vậy điều này rất phức tạp không ít những khó khăn đối với cán bộ tín dụng. 3) Sử dụng các đảm bảo tín dụng: Trong điều kiện hiện nay, hoạt động của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh rất đa dạng và phong phú, phức tạp, tiềm ẩn nhiều những rủi ro để đảm bảo an toàn các bộ tín dụng thường chú trọng đến các tài sản đảm bảo. Ngân hàng chỉ thực hiện hợp đồng tín dụng khi khách hàng đảm bảo đầy đủ các yêu cầu về tài sản đảm bảo, tức là Ngân hàng cho vay dưới các hình thức sau: - Hình thức thế chấp tài sản - Hình thức cầm cố tài sản. - Hình thức bảo lãnh - Hình thức tín chấp - Hình thức cầm đồ. 3.1. Hình thức thế chấp tài sản: Thế chấp tài sản là một trong những biện pháp phòng chống rủi ro của Ngân hàng cho vay. Người đi vay phải dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để đảm bảo cho con số nợ vay và cam kết trong trường hợp không trả được nợ, Ngân hàng có quyền phát mại tài sản đó để thu hồi được nợ. Tài sản được dùng để thế chấp ở Ngân hàng chủ yếu là nhà ở. Nhà ở có ưu điểm là có giá trị cao nên có khả năng đảm bảo cho những khoản tiền vay lớn. Người vay chỉ phải giao giấy tờ sở hữu ngôi nhà đó cho Ngân hàng mà vẫn được sử dụng nó trong suốt thời gian thế chấp. Vì vậy đại bộ phận khách hàng, nhất là các tổ chức kinh tế đều vay vốn Ngân hàng dưới hình thức thế chấp. Việc thực hiện thế chấp tài sản tại Ngân hàng công thương Đống Đa trong những năm gần đây được chia làm 3 giai đoạn: Giai đoạn 1: Thực hiện theo "Quy định cho vay đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh" ban hành theo quy định số 305/NHCT - TD ngày 12/11/1995 cho đến khi có quy định 1187/NHCT-TD ngày 10/10/1997. Giai đoạn 2: Thực hiện theo quy định số 1187/NHCT-TD ngày 10/10/1997 đến khi có quy định 2043/NHCT - TD ngày 15/10/1999 Giai đoạn 3: Thực hiện quyết định 2043/NHCT - TD ngày 15/10/1999 đến nay 3.1.1. Giai đoạn 1: Trong giai đoạn này mỗi món vay thế chấp gồm đầy đủ các giấy tờ (hồ sơ thế chấp tài sản). - Hợp đồng thế chấp - Phiếu thẩm định tài sản - Giấy biên nhận hồ sơ tài sản đảm bảo. a) Đối với loại tài sản thế chấp là nhà ở, cửa hàng, vật kiến trúc: Ngân hàng chỉ cho vay đối với những khách hàng có giấy tờ sở hữu gốc. - Trường hợp người vay vốn tư nhân: sau khi kiểm tra toàn bộ giấy tờ của ngôi nhà khách hàng mang thế chấp thấy hợp lệ, hợp pháp, cán bộ tín dụng đề nghị với trưởng phòng kinh doanh và giám đốc Ngân hàng cùng tiến hành thẩm định tài sản thế chấp. Việc xác định ngôi nhà để tính mức cho vay dựa trên cơ sở thoả thuận giữa khách hàng và Ngân hàng theo sát giá thị trường. Vị trí hiện trạng và giá trị tài sản thế chấp được ghi cụ thể trong phiếu thẩm định tài sản có đầy đủ chữ ký của cán bộ tín dụng, trưởng phòng kinh doanh và giám đốc Ngân hàng. Việc thế chấp tài sản để vay vốn Ngân hàng được lập thành văn bản, trong đó ghi rõ các đặc điểm của tài sản thế chấp, thời hạn thế chấp, quyền hạn và trách nhiệm của mỗi bên phương thức xử lý tài sản thế chấp khi người vay không trả được nợ. Hợp đồng thế chấp tài sản được ký kết giữa người đi vay (cùng những đồng sở hữu tài sản nếu có) và cán bộ tín dụng (là người đại diện cho Ngân hàng) trước sự chứng kiến và xác nhận của phòng công chứng Nhà nước thành phố. Đốivới những khách hàng có quan hệ vay vốn thường xuyên ở Ngân hàng để giảm bớt thủ tục phần nhà cho khách sau khi đã kiểm tra đầy đủ các giấy tờ sở hữu nhà, Ngân hàng có thể không yêu cầu khách hàng phải qua công chứng. Việc ký hợp đồng thế chấp tài sản được thực hiện ngay tại Ngân hàng. Bên thế chấp gồm: người đi vay vốn và cả vợ hoặc chồng. Bên nhận tài sản là chi nhánh Ngân hàng công thương khu vực Đống Đa do giám đốc Ngân hàng làm đại diện, có chữ ký của trưởng phòng kinh doanh và cán bộ tín dụng. Trong trường hợp con cái mang nhà của bố mệ đứng tên chủ sở hữu cho khoản vay của con mình có sự xác nhận của Uỷ ban nhân dân phường nơi đang đăng ký hộ khẩu. Cán bộ tín dụng đã cố gắng hoàn tất những thủ tục trên trong vòng5 đến 7 ngày theo đúng quy định. Hồ sơ giấy tờ gốc của tài sản thế chấp được bảo quản cẩn thận trong các két sắt của ngân hàng có giấy biên nhận của cán bộ tín dụng. Mức ngân hàng duyệt cho vay không quá 70% giá trị của tài sản thế chấp. Những tài sản thế chấp có giá trị lớn, ngân hàng có thể đồng ý khách hàng dùng để đảm bảo nhiều món vay, nhưng tổng giá trị số tiền ngân hàng cho vay không được vượt quá hạn mức trên. - Trường hợp bên vay vốn là các tổ chức kinh tế, HTX, công ty cổ phần, công ty TNHH. Những tài sản thuộc sở hữu chung và đứng tên HTX (hoặc công ty) mang thế chấp vay vốn ngân hàng phải có sự đồng ý của các xã viên (hoặc các thành viên trong công ty) bằng văn bản chứng nhận của UBND. Nếu là nhà của cá nhân góp vốn vào công ty TNHH, công ty cổ phần hoặc HTX thì đơn vị có thể mang tài sản này thế chấp ở ngân hàng nhưng phải được sự đồng ý và có giấy cam kết của chủ ngôi nhà đó. Trường hợp bên vay là các tổ chức kinh tế, người đại diện cho bên vay ký hợp đồng thế chấp tài sản vay vốn ngân hàng phải là người đứng đầu tổ chức đó, hoặc có thể uỷ quyền cho thành viên khác ký thay nhưng phải viết giấy uỷ quyền có sự xác nhận của UBND. Mọi thủ tục khác giống như trường hợp bên vay vốn tư nhân. b. Đối với các loại tài sản là sạp hàng, ki ốt Để tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ tư thương ở các chợ, chi nhánh NHCT Đống Đa đã triển khai cho vay thế chấp bằng sạp hàng ki ốt tại các phòng giao dịch thu hút các hộ tư thương vay vốn của ngân hàng nhằm chống hiện tượng cho vay nặng lãi. Tuy nhiên do việc kinh doanh buôn bán ở các chợ rất phức tạp nên để đảm bảo an toàn vốn kinh doanh, ngân hàng chỉ nhận tài sản thế chấp của các hộ có đăng ký kinh doanh tại chi cục thuế Đống Đa và phải có hợp đồng thuê sạp, ki ốt, giá trị được tính làm thế chấp là giá trị còn lại của hợp đồng thuê sạp, ki ốt đến thời gian xin vay vốn. Ngân hàng chỉ cho vay 70% giá trị số tiền mua sạp, ki ốt theo giá trị ban đầu trừ đi khấu hao hàng năm. Mặt khác trong giấy cam kết thế chấp tài sản của khách hàng phải có xác nhận của ban quản lý chợ về thời hạn hợp đồng và giá trị còn lại của hợp đồng đến thời điểm xin vay. Qua 1 thời gian cho vay thế chấp sạp hàng, ki ốt ở các chợ, ngân hàng thấy việc cho vay vốn chưa đáp ứng nhu cầu vốn của các hộ kinh doanh vì nếu tính theo hợp đồng thuê sạp, ki ốt thì chỉ có thể giải quyết mỗi món vay từ 5-10 triệu đồng, do vậy ngân hàng đã phối hợp với ban quản lý chợ để đánh giá lại giá trị thế chấp của các sạp hàng, ki ốt có vị trí thuận lợi theo thời giá trên thị trường, giá tạm tính được đưa vào sổ sách kế toán nhập ngoại bảng, lấy đó làm giá trị bảo đảm tiền vay của tài sản thế chấp, tính toán mức vay sao cho phù hợp với thực tế. Bằng các chính sách như vậy đối với các hộ tư thương ở các chợ bằng việc thế chấp các sạp hàng, ki ốt, ngân hàng đã thực sự góp phần giúp hộ tư thương làm ăn có hiệu quả hơn, tạo một tâm lý tư tưởng vào sự trợ giúp của các ngân hàng. 3.12. Giai đoạn 2: Quy định 1187/NHCT-TD ngày 10/10/1997 việc thế chấp tài sản hay vốn của NHCT đã được cải tiến nhiều mặt, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho cả khách lẫn cán bộ tín dụng. Theo quyết định này cụm từ "thế chấp tài sản" được hiểu như sau: "Thế chấp tài sản là một trong những biện pháp phòng chống rủi ro của ngân hàng cho vay, người đi vay phải dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để đảm bảo cho số nợ và cam kết trong trường hợp không trả được nợ, ngân hàng có quyền phát mại tài sản đó để thu hồi nợ". Khách hàng đến vay vốn phải thông qua các hình thức và thủ tục thế chấp là: Khách hàng vay vốn phải tự nguyện viết giấy cam kết thế chấp tài sản có xác nhận của phòng công chứng địa phương. Nơi chưa có phòng công chứng thì phải có xác nhận của UBND quận, huyện, thị xã, hoặc UBND xã, phường (Nếu UBND xã hoặc phường được UBND cấp trên uỷ quyền bằng văn bản). Nếu khách hàng vay vốn đề nghị không phải xác nhận của phòng công chức thì ngân hàng cho vay có thể chấp nhận theo yêu cầu của khách hàng với điều kiện: - Tài sản thế chấp có đầy đủ chứng thư sở hữu gốc hợp pháp. - Khách hàng phải ghi rõ đề nghị của mình không cần qua công chứng vào trong bản cam kết thế chấp tài sản. - Đại diện người sở hữu (đối với pháp nhân) hoặc những người đồng sở hữu (đối với thể nhân) phải đăng ký vào văn bản thế chấp trước mặt giám đốc Ngân hàng cho vay. Cụ thể dùng một (hoặc nhiều) tài sản thế chấp để thế chấp cho một hoặc lần vay mà các lần sau không phải làm giấy cam kết với điều kiện: Trong văn bản thế chấp lần đầu, người vay phải cam kết dùng tài sản thế chấp cho nhiều lần vay. Trong hợp đồng vay vốn (hoặc khế ước nhận nợ) của các lần vay sau người vay phải thoả thuận: Dùng tài sản thế chấp theo cam kết lần trước để thế chấp cho số tiền vay lần này. Điều kiện của tài sản thế chấp: Các loại tài sản có thể được dùng làm thế chấp nợ vay. Bất động sản như nhà ở, nhà xưởng, cửa hàng, khách sạn, các công trình, vật kiến trúc có giá trị, quyền sử dụng đất hợp pháp. Các loại động sản như máy móc, thiết bị, dây chuyển sản xuất, các phương tiện vận tải như xe vận tải, xe du lịch, xe gắn máy, tàu biển, tàu pha sông biển, xà lan, ghe thuyền. Các loại vàng bạc, đá quý. Các chứng từ có giá do cá ngân hàng thương mại quốc doanh và kho bạc phát hành như tín phiếu, trái phiếu, kỳ phiếu, thẻ tiết kiệm (riêng bộ chứng từ L/C thanh toán qua ngân hàng công thương Việt Nam). Các vật tư, hàng hoá các loại thế chấp khác như vườn cây ăn quả, vườn cây công nghiệp, cây lâm nghiệp, ao hồ thả cá và nuôi trồng tài sản. Mở rộng diện tài sản thế chấp, ngân hàng cho vay thế chấp được quyền sử dụng đất hợp pháp. Việc làm này vừa đáp ứng kịp thời nhu cầu vay vốn của khách hàng vừa góp phần tăng thêm thu nhập cho ngân hàng. Thực tế của việc cho vay thế chấp bằng quyền sử dụng đất tại NHCT Đống Đa không hề phát sinh nợ quá hạn vì quyền sử dụng đất vẫn có giá trị cao, có thể mua bán, chuyển nhượng được dễ dàng. Tài sản thế chấp thuộc sở hữu của các công ty cổ phần, công ty TNHH, xí nghiệp liên doanh, khi thế chấp ngân hàng yêu cầu phải có văn bản quyết định của hội đồng quản trị. Nếu tài sản thuộc sở hữu của tổ chức kinh tế tập thể thì phải có nghị quyết của cuộc họp các thành viên. - Nếu tài sản thuộc sở hữu Nhà nước, khi thế chấp phải được đại diện chủ sở hữu nhà nước đồng ý bằng văn bản (hiện nay đối với doanh nghiệp địa phương phải do Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố ký, đối với DNTW do Bộ Tài chính ký). Khi thế chấp hàng bất động sản người vay phải giao chứng thư sổ lưu bản gốc do cơ quan có thẩm quyền cấp cho ngân hàng quản lý. Trường hợp chưa có chứng thư sở hữu gốc thì ngân hàng chỉ nhận thế chấp đối với các loại tài sản có đủ các giấy tờ gốc hợp lệ, hợp pháp, có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật để nhà nước cấp chứng thư sở hữu nhưng chưa được cấp. Trong trường hợp này, người vay phải giao cho ngân hàng toàn bộ các giấy tờ gốc nói trên. Các giấy tờ hợp lệ, hợp pháp có quyền sở hữu nhà và sử dụng quyền dụng đất bao gồm: - Quyết định giao đất và cấp giấy phép xây dựng nhà do cơ quan Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hoà miền Nam Việt Nam, hoặc Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam cấp. - Giấy tờ sở hữu nhà, đất hoặc giấy tờ hợp lệ khác do cơ quan có thẩm quyền chế độ cũ cấp: Nếu nhà đất này không có tranh chấp, không thuộc diện đã giao cho người khác sử dụng do thực hiện các chính sách của nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam hoặc Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. - Nhà đã có chứng thư sở hữu gốc do cơ quan có thẩm quyền cấp đã hoàn toàn tuân thủ bán (người bán đã nhận tiền) hoặc chuyển cho (thừa kế thứ 2) có chứng thực của phòng công chứng hoặc (UBND quận, huyện, thị xã) nhưng người mua nhà chưa làm được thủ tục sang tiên chước bạ. Trong thành phố Hà Nội hiện nay phần lớn nhà ở, cửa hàng chưa đầy đủ giấy tờ sở hữu hợp pháp, mua bán chưa sang tên trước bạ, các trường hợp này nếu dựa vào các quy chế thế chấp tài sản thì không cho vay được. Như vậy sẽ có nhiều hạn chế trong việc mở rộng tín dụng ngoài quốc doanh. Tại NHCT Đống Đa, các cán bộ tín dụng thường căn cứ vào giấy tờ chứng minh được nguồn gốc nhà sở hữu chính chủ, không phải nhà đi thuê, nhà vắng chủ hay đất lấn chiếm... Nhiều trường hợp cán bộ tín dụng của ngân hàng phải đến tìm hiểu tại các cơ quan chức năng như viện qui hoạch thành phố, sở địa chính để loại trừ trong trường hợp cho vay thế chấp nhà, đất thuộc khu vực qui hoạch thành phố hoặc khu vực giải toả. Sau khi xác định được tính hợp pháp quyền sở hữu nhà của người vay, ngân hàng đều yêu cầu tất cả các món vay đều phải do người vay tự viết đơn theo sự hướng dẫn của cán bộ tín dụng. Trong đó phải ghi rõ nội dung như người vay phải cam đoan trước ngân hàng, cơ quan pháp luật và chính quyền địa phương rằng tài sản ngôi nhà, mảnh đất trên thuộc quyền sở hữu hợp pháp của người vay, chưa hề chuyển nhượng, cho thuê, góp vốn liên doanh liên kết hay tặng người khác. Nợ đến hạn nếu người vay không trả được tiền gốc và lãi thì ngân hàng có toàn quyền thu hồi mảnh đất hay ngôi nhà trên để phát mại thu hồi lại vốn cho nhà nước. Người vay và những người đồng sở hữu có tên trong hộ khẩu phải ký vào đơn trước sự chứng kiến của cán bộ tín dụng hoặc chính quyền địa phương. Việc tự khách hàng viết đơn xin vay cũng mang ý răn đe, nhắc nhở người vay phải có trách nhiệm trả nợ cho ngân hàng bao gồm cả gốc và lãi. Khi tài sản thế chấp là động sản, người vay vốn phải giao nộp hiện vật cho ngân hàng quản lý hoặc hợp đồng thuê kho bảo quản. Trường hợp thuê kho bảo quản hoặc cho vay thế chấp kho hàng, ngân hàng cho vay người thế chấp, qui định cụ thể về chế độ quản lý, bảo vệ, bảo hiểm hàng hoá trong kho (đối với các mặt hàng cần thiết) và chỉ được xuất kho khi có lệnh bằng văn bản của ngân hàng. Đối với động sản là phương tiện sản xuất kinh doanh của người vay không thể giao cho ngân hàng quản lý bằng hiện vật được người thế chấp phải giao chứng thư sở hữu cho ngân hàng và phải mua bảo hiểm đảm bảo nếu có rủi ro xảy ra thì ngân hàng vẫn thu hồi được cả gốc và lãi. Khách hàng phải giao cho ngân hàng bản gốc của giấy bảo hiểm tài sản thế chấp và giấy uỷ quyền cho cơ quan bảo hiểm được thanh toán tiền bảo hiểm chuyển thẳng cho ngân hàng trong trường hợp có rủi ro xảy ra. Mọi tài sản thế chấp phải được bán tại thị trường địa phương theo giá cả đảm bảo thu hồi cả vốn và lãi. Để đảm bảo an toàn cho vốn tín dụng, việc định giá của tài sản thế chấp là rất quan trọng, tại NHCT Đống Đa, việc định giá tài sản thế chấp phải do tổ định giá tài sản thế chấp của ngân hàng cho vay thực hiện. Tổ định giá tài sản thế chấp có giá trị dưới 50 triệu VNĐ có thể do cán bộ tín dụng trực tiếp cho vay thẩm định. Căn cứ định giá tài sản thế chấp - Đối với nhà cửa, vật kiến trúc và quyền sử dụng đất, căn cứ vào giá trị của thị trường địa phương nhưng không vượt quá khung giá theo quy định của cơ quan thuế tài chính, xây dựng của địa phương và đảm bảo nếu phát mại thu hồi cả gốc và lãi vay. - Đối với các loại tài sản khác mà ngân hàng không đủ khả năng điều kiện để thẩm định chất lượng vô giá trị thì ngân hàng phải thuê chuyên gia kỹ thuật các cơ quan chức năng chuyên trách trong nước hoặc quốc tế để xác định về chất lượng và giá trị tài sản thế chấp. Chi phí kiểm định, định giá tài sản thế chấp do người có tài sản thế chấp chịu. Nếu giá cả tài sản thế chấp trên thị trường biến động rất mạnh, ngân hàng điều chỉnh lại giá trị tài sản thế chấp cho phù hợp với giá cả thị trường, tạo điều kiện tốt hơn cho khách hàng vay vốn. Mặt khác mỗi một món vay thế chấp tài sản, cán bộ tín dụng phải kiểm tra đầy đủ các giấy tờ liên quan và khi cấp phát tiền vay ngân hàng phải tuân theo dõi chặt chẽ thường xuyên tài sản thế chấp trong suốt thời gian thế chấp. Sau khi cấp phát tiền vay, ngân hàng làm văn bản gửi UBND phường, xã để thông báo cho chính quyền địa phương biết là ngân hàng đang quản lý toàn bộ hồ sơ gốc về ngôi nhà và đất mà người vay đã thế chấp cho ngân hàng. Ngân hàng đề nghị công an và UBND phường không xác nhận bất kỳ 1 trường hợp nào mà thành viên trong giấy tờ chuyển nhượng hoặc mua bán khi chưa có ý kiến của NHCT Đống Đa. Khi người vay đã trả hết nợ gốc và lãi, ngân hàng viết thông báo gửi cho công an và UBND phường biết để giải toả cho gia đình xin giấy tờ chuyển nhượng hoặc mua bán. Khi chưa có ý kiến của NHCT Đống Đa. Khi người vay đã trả hết nợ gốc và lãi, ngân hàng viết thông báo gửi cho công an và UBND phường biết để giải toả cho gia đình có toàn quyền sở hữu nhà và kể cả trong trường hợp thủ tục xin vay tiếp. Tất cả các món vay trước 10 ngày đến hạn trả nợ, ngân hàng sẽ gửi thông báo bằng văn bản cho người vay để chuẩn bị nguồn trả nợ ngân hàng. Các trường hợp phải chuyển sang nợ quá hạn, sau 2 ngày ngân hàng viết giấy mời người vay đến ngân hàng tường trình lý do không trả nợ đúng hạn, đồng thời yêu cầu con nợ viết bản cam kết hẹn ngày trả nợ. Mỗi lần gặp trường hợp quá hạn đều lập biên bản làm việc cụ thể. Nội dung của biên bản này ghi rõ quy định ngày trả nợ (ý kiến cam kết của khách hàng). Đến ngày cam kết như biên bản đã ghi, nếu khách hàng vẫn không trả nợ, ngân hàng mời công an và Viện Kiểm sát quận, đồng thời mời người vay đến để làm việc với ngân hàng và cơ quan pháp luật. Trước cơ quan pháp luật, người vay phải ký vào biên bản là cố ý trốn tránh trách nhiệm trả nợ ngân hàng và quy định ngày trả nợ. Nếu cam kết lần thứ 2 khách hàng vẫn chưa trả được nợ, ngân hàng sẽ viết công văn kèm theo đơn và các chứng từ vay vốn của kinh doanh (bản phô tô) gửi công an quận đề nghị xử lý. Nhưng trong thực tế mấy năm gần đây trong hàng ngàn khách hàng ngoài quốc doanh vay vốn ngân hàng chỉ có vài trường hợp công an quận phải triệu tập lên làm việc. Rất ít trường hợp phải mời con nợ làm việc lần thứ 2, chỉ lập biên bản nhắc nhở lần thứ nhất họ đã thu xếp trả nợ ngân hàng cả gốc và lãi. Nói tóm lại, việc thế chấp tài sản vay vốn của ngân hàng theo quy định 1187/NHCT-TD đã thực sự giải quyết được nhiều vướng mắc lúng túng cho các cán bộ tín dụng và đơn giản hoá nhiều thủ tục cho khách hàng. 3.1.3. Giai đoạn 3: Thực hiện theo qui định 2043/NHCT - TD ngày 15/10/1999đến nay. Để phù hợp với yêu cầu nghiệp vụ trong giai đoạn hiện nay. Qui định 2043/NHCT - TD ngày 15/10/1999 về việc hướng dẫn thực hiện "qui chế thế chấp, cầm cố, bảo lãnh vay vốn ngân hàng" tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ tín dụng và khách hàng trong quá trình thực thi nghiệp vụ cũn như đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng ãTheo quyết định này khách hàng vay vốn phải thông qua các thủ tục thế chấp. - Tài sản thế chấp có đầy đủ chứng thư sở hữu hợp pháp - Khách hàng phải ghi rõ đề nghị của mình khi thế chấp trong bản cam kết thế chấp. - Trong thủ tục pháp lý của thể nhân (hoặc pháp nhân) thế chấp ngân hàng chỉ nhận bản chính là giao chính cho cho sở hữu không chấp nhận bản lưu của cơ quan ký phát hành hoặc bản lưu của cơ quan đăng ký công chứng. - Đối với những nơi đã có qui hoá sử dụng đất của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xét duyệt qui hoạch thì ngoài các giấy tờ nói trên còn phải có tài liệu chứng minh đất này phù hợp với qui hoạch đó... - Trong quá trình cho vay giám đốc chi nhánh ngân hàng công thương thường xuyên liên hệ trực tiếp với các cơ quan địa chính và cơ quan nhà đất địa phương để bổ sung các văn bản qui định mới về giấy tờ hợp lệ hợp pháp của nhà đất cho phù hợp với qui định của Nhà nước và pháp luật hiện hành. ã Kiểm định đánh giá tài sản thế chấp Xác định tính pháp lý quyền sở hữu tài sản thế chấp của người vay nhất là phải do tổ định giá tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh thực hiện. Trong những trường hợp nếu tổ định giá không đủ trình độ kiến thức chuyên môn kỹ thuật để định giá thì phải thuê các cơ quan chuyên môn định giá. Trong qui trình này cán bộ chuyên môn phải thực hiện như sau: - Khi kiểm định giá tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh phải kiểm tra thực tế tại hiện trường phải xác định chính xác tài sản thực tế phù hợp với giấy tờ hồ sơ củachủ sở hữu hoặc người được cấp quyền sử dụng hợp pháp. - Kết quả kiểm định phải được lập thành biên bản, nội dung biên bản phải xác định rõ về mặt hiện vật và giá trị cơ sở căn cứ để tính toán giá trị tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh. Chữ ký của những người tham gia định giá và người thế chấp, cầm cố, bảo lãnh. Sau khi kiểm tra đầy đủ hồ sơ giám đốc chi nhánh ngân hàng sẽ trực tiếp cho vay và cùng với khách hàng ký hợp đồng thế chấp cầm cố, bảo lãnh theo mẫu của ngân hàng công thương qui định. - Sau khi hợp đồng được ký kết tiến hành phát tiền vay và gửi công văn đến UBND phường để thông báo cho chính quyền địa phương biết là ngân hàng đang quản lý toàn bộ hồ sơ gốc (về tài sản thế chấp, cầm cố) của người vay. Khi khách hàng đã trả nợ gốc và lãi hết cho ngân hàng lúc này ngân hàng gửi thông báo tới chính quyền sở tại nơi khách hàng sống về việc thanh toán trả nợ của khách hàng. - Trường hợp khách hàng mất khả năng trả nợ ngân hàng đưa vào nợ quá hạn và xử lý nợ quá hạn được thông qua quá trình phát mại tài sản. Thế chấp để thu lại tiền cho Nhà nước. Quá trình xử lý tài sản thế chấp được trình tự theo đúng các điều khoản đã được ghi rõ trong QĐ 217/QĐ - NH ngày 17/8/1999. Nói tóm lại: Sự ra đời của quyết định 217/QĐ - NH (17/8/1999) của ngân hàng Nhà nước và văn bản hướng dẫn 2043/ NHCT - TD ngày 15/10/1999 của Tổng giám đốc Ngân hàng công thương Việt Nam đáp ứng đòi hỏi thực tiễn nhu cầu của nền kinh tế và công cụ pháp lý để cán bộ tín dụng thực thi trong quá trình kinh doanh tiền tệ trong nền kinh tế thị trường hạn chế tối đa được sự rủi ro ngân hàng tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho người vay vốn giúp ngân hàng và người vay vốn cùng hướng tới mục tiêu cuối cùng là lợi nhuận. 3.2. Hình thức bảo lãnh: Hiện nay chi nhánh NHCT Đống Đa áp dụng hình thức cho vay có bảo lãnh theo như qui định 1187/NMHCT-TD. Theo quy định này cụm từ bảo lãnh để vay vốn ngân hàng được hiểu như sau: Bảo lãnh tài sản để vay vốn ngân hàng là sự bảo đảm bằng tài sản thuộc quyền sở hữu của người nhận bảo lãnh và phải chịu trách nhiệm vật chất thay cho người vay vốn, khi người vay vốn không trả được nợ cho ngân hàng. Người bảo lãnh phải viết giấy cam kết bảo lãnh theo mẫu qui định của ngân hàng (kèm theo). Những người đồng sở hữu của tài sản bảo lãnh phải ký tên vào giấy bảo lãnh. Giấy bảo lãnh phải có chữ ký của người được bảo lãnh và xác nhận của công chức. Giấy bảo lãnh chỉ bảo lãnh cho từng món vay hoặc từng lần vay. Mọi điều kiện, tiêu chuẩn tài sản bảo lãnh, thủ tục, phương pháp định giá tài sản bảo lãnh và xử lý tải sản bảo lãnh thực hiện như các quy định về thế chấp tài sản. Đối với hình thức bảo lãnh này ở NHCT Đống Đa: là người bảo lãnh dùng nhà ở của mình để thế chấp cho người đi vay. 3.3. Hình thức cho vay tín chấp Cho vay được hình thức tín chấp có thể được hiểu như việc cho vay dựa vào sự tín nhiệm của người vay. Tuy nhiên, việc cho vay tín chấp đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh chứa đựng nhiều rủi ro. Có thể khách hàng có quan hệ lâu dài với ngân hàng, quan hệ vay trả sòng phằng, làm ăn có lãi, phương án kinh doanh có tính khả thi. Nhưng tất cả những điều này thì không chắc chắn được rằng khách hàng sẽ trả đúng hạn cho ngân hàng. Mặt khác khách hàng có thể gặp một số rủi ro mang lại như hạn hán, thiên tai, hoả hoạn, mất cắp, hàng giả... Điều này nếu có xảy ra sẽ làm cho ngân hàng bị tổn thất vì đã không nắm được những vật bảo đảm của khách hàng. Và để tránh rủi ro, các ngân hàng thương mại ở nước ta hiện nay thường không muốn và không dám đầu tư vào cho vay tín chấp. Tại chi nhánh NHCT Đống Đa thực tế trong vài năm gần đây không có trường hợp doanh nghiệp ngoài quốc doanh nào được vay tín chấp. Điều này một mặt hạn chế những rủi ro các khoản tín dụng cho ngân hàng, nhưng mặt khác nó không khuyến khích được một số hợp tác xã có quan hệ với ngân hàng trong thời kỳ bao cấp tiếp tục phát triển. Hoạt động kinh doanh càng phát triển, nhu cầu về vốn càng lớn. Song một số doanh nghiệp chưa có đủ tài sản để đảm bảo cho những khoản vay lớn. Việc ngân hàng không cho vay tín chấp đã phần nào hạn chế đi sự phát triển của các doanh nghiệp. Đây là vấn đề ngân hàng cần xem xét lại vì hoạt động của ngân hàng cần thận trọng. Nhưng thận trọng quá sẽ hạn chế đi sự mở rộng đầu tư tín dụng của ngân hàng. 3.4. Hình thức cầm cố tài sản: Theo quy định số 217/QĐ - NH1 ngày 17/8/1999 của Thống đốc ngân hàng nhà nước quy định cầm cố tài sản trong trường hợp bên nhận cầm cố chỉ giữ giấy tờ về quyền sở hữu tài sản của bên cầm cố mà không giữ tài sản và được thực như qui định đối với thế chấp tài sản. Dịch vụ cầm cố tài sản thực hiện theo quy chế về dịch vụ cầm cố tài sản thực hiện theo quy chế về dịch vụ cầm cố ban hành theo quyết định số 185/QĐ-NH5 ngày 6/9/1997 của Thống đốc ngân hàng nhà nước Việt Nam. Ngân hàng công thương có bổ sung thêm một số điểm. Đối với tài sản cầm cố là các chứng từ có giá trị cầm cố các loại cụ thể sau: trái phiếu, tín phiếu kho bạc nhà nước, kỳ phiếu, thẻ tiết kiệm của các NHTM quốc doanh. Các loại chứng từ có giá trị nói trên đang còn trong thời hạn thanh toán và phải có xác nhận của người có thẩm quyền của đơn vị phát hành. Lãi suất cầm cố do giám đốc chi nhánh ngân hàng cho vay quyết định phù hợp với lãi suất thị trường ở địa phương và mức chi phí bảo quản vật cầm cố nhưng không thấp hơn mức lãi suất cho vay ngắn hạn cùng kỳ. Đối với NHCT Đống Đa, để thuận tiện cho ngân hàng trong việc định hướng quyền rút tiền trong trường hợp khách hàng không trả được nợ, ngân hàng chỉ nhận cầm cố các chứng từ có giá của những khách hàng có hộ khẩu thường trú trên địa bàn 5 quận nội thành. Ngân hàng áp dụng mức cho vay phù hợp tuỳ theo, mức độ ổn định giá trị của từng loại tài sản cầm cố (tỷ lệ cho vay của sổ tiết kiệm, kỳ phiếu, trái phiếu kho bạc là 80%, vàng bạc ngoại tệ là 70%, những vật dụng có giá không ổn định (50-60%) ngoài ra ngân hàng còn dự định sẽ áp dụng hình thức cho vay cầm cố kho hàng, đại diện của ngân hàng đã cùng bên vay đến tận nơi xem xét, kiểm hàng, đại diện của ngân hàng đã cùng bên vay đến tận nơi xem xét, kiểm tra chất lượng hàng hoá, xác định giá trị của kho hàng trên cơ sở hoá đơn, hợp đồng mua bán, mọi chi tiết được ghi cụ thể trong văn bản giám định. Nếu kho hàng có đầy đủ tiêu chuẩn để có thể cầm cố thì khách hàng phải đưa toàn bộ số hàng đến kho của ngân hàng, ngân hàng sẽ nhận và làm phiếu nhập kho. Mọi chi phí liên quan do bên vay chịu. Trong thời gian cầm cố, để thuận lợi cho công việc kinh doanh của khách hàng, ngân hàng sẽ cho phép người đi vay xuất kho sử dụng lượng hàng hoá tương đương với số tiền khách hàng đã trả nợ ngân hàng. Nếu đến hạn trả nợ (kể cả gia hạn nợ nếu có) mà người có tài sản cầm cố không trả được nợ thì ngân hàng có quyền bán vật cầm cố để thu hồi nợ. Tuy nhiên, vĩ mỗi một khách hàng khi mang tài sản của mình đến cầm cố, họ hiểu về giá cả của thị trường triêu thụ những tài sản này, do vậy khi khách hàng gặp khó khăn chưa trả được nợ mà phải bán vật cầm cố đi thì ngân hàng nên phối hợp với khách hàng để bán vật cầm cố đó với giá thị trường, vừa thu hồi gốc và lãi vừa tạo điều kiện cho khách hàng nhận lại số tiền thừa nếu có. Như vậy ngân hàng mới bảo đảm an toàn vốn trong mối quan hệ chặt chẽ, gây được lòng tin và giữ được mối quan hệ lâu dài với khách hàng. Trên đây là 1 số giải pháp để an toàn vốn tín dụng đối với lĩnh vực kinh tế ngoài quốc doanh mà Ngân hàng Công thương Đống Đa đã áp dụng có hiệu quả trong mấy năm qua. Với sự cố gắng nỗ lực của ban lãnh đạo cùng toàn thể cán bộ ngân hàng trong việc tăng trưởng kinh tế ngoài quốc doanh nói riêng, trong nền kinh tế thị trường nói chung. Cho đến nay chi nhánh NHCT Đống Đa đã ngày càng khẳng định chủ trương mở rộng cho vay các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh là vô cùng đúng đắn và cần thiết đối với sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Thể hiện ngân hàng ngày càng nhạy bén trong việc thay đổi cơ cấu tín dụng cải tiến và mở rộng nhiều hình thức cho vay gắn với an toàn vốn, đưa tín dụng ngân hàng đến với tất cả các tụ điểm dân cư, các trung tâm buôn bán. Thị trường đầu ra của ngân hàng được mở rộng với chất lượng tín dụng ngày càng cao giúp cho ngân hàng tăng lợi nhuận, đóng góp vào ngân sách nhà nước và cải thiện đời sống cho cán bộ công nhân viên. IV. Đánh giá hoạt động tín dụng và các biện pháp bảo đảm an toàn tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh đa áp dụng ở ngân hàng công thương Đống Đa. Sự phát triển của thành phần kinh tế ngoài quốc doanh là một tất yếu khách quan của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong thời gian qua kinh tế ngoài quốc doanh đã đạt được những thành tựu đáng kể góp phần thúc đẩy phát triển nền kinh tế và cải thiện đời sống nhân dân, thúc đẩy sự lớn mạnh của các ngân hàng. Tuy nhiên trong thực tế việc đảm bảo an toàn tín dụng vẫn còn là một vấn đề. 1/ Thẩm định và kiểm tra việc sử dụng vốn vay của khách hàng: Cán bộ tín dụng đã rất cố gắng trong khâu thẩm định và kiểm tra việc sử dụng vốn vay của khách hàng nhưng vẫn chưa khai thác và vận dụng triệt để biện pháp này. Điều đó do một số nguyên nhân khách quan và chủ quan gây nên. Nguyên nhân khách quan: Đặc điểm của kinh tế ngoài quốc doanh là thành phần kinh tế mới, hầu hết mới lao vào thương trường trong mấy năm gần đây. Việc kinh doanh của thành phần kinh tế này ít khi cố định mà lại có xu hướng chạy theo những mặt hàng được coi là ăn khách trên thị trường. Hầu hết các khách hàng là kinh doanh hàng hoá và dịch vụ, rất ít đơn vị sản xuất. Do đó tuy lợi nhuận có cao, nhưng lại chứa đựng rất nhiều rủi ro. Hơn nữa, để đạt được lợi nhuận các đơn vị này sẵn sàng mạo hiểm. Và điều này gây khó khăn cho cán bộ tín dụng trong khâu thẩm định khách hàng. Khi kiểm tra tình hình tài chính của đơn vị, cán bộ tín dụng phải đối phó với các vấn đề như: Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hạch toán không đúng chế độ kế toán hiện hành. Ngoài ra, các khách hàng nhất là tư nhân còn ghi chép theo sổ chợ làm cho cán bộ mất thời gian và khó nhận biết được tình hình tài chính của đơn vị đó. Mặt khác số liệu của họ lại không chính xác nên gây nhiều khó khăn cho cán bộ tín dụng. Nguyên nhân chủ quan: Cán bộ tín dụng khi thẩm định chưa quan tâm đến việc nghiên cứu quyết định tổ chức một cách đúng mức. Đây là vấn đề quan trọng vì trong một doanh nghiệp vai trò của người lãnh đạo rất lớn, nó quyết định thành bại của doanh nghiệp. Do đó ngân hàng phải đánh giá trình độ về kinh tế, kỹ thuật và quản lý của người lãnh đạo. Thông qua quyết định tổ chức, cán bộ tín dụng sẽ có được các thông tin về người lãnh đạo và trình độ của ông ta. Có thể trong 1 doanh nghiệp khi quy mô nhỏ thì trình độ quản lý còn tương xứng. Nhưng khi đầu tư mở rộng kinh doanh thì quy mô và phạm vi quản lý lại không phù hợp dẫn đến phá sản. Đây là một trong những nhân tố ảnh hưởng không nhỏ đến rủi ro vốn cho vay của ngân hàng. Do đó việc điều tra trình độ của người lãnh đạo tuy khó khăn nhưng rất quan trọng đối với việc bảo đảm an toàn tín dụng kinh tế ngoài quốc doanh. - Định kỳ hạn nợ, do đặc điểm của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động không ổn định, phương án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp lập ra để đối phó với cán bộ tín dụng. Có một số doanh nghiệp vay để sản xuất kinh doanh hoặc xây dựng vì nguồn huy động của ngân hàng chủ yếu là ngắn hạn do kỳ hạn nợ quá ngắn (thường là 6 tháng). Khách hàng không kịp thu hồi vốn để trả nợ. Đối với một số doanh nghiệp vay vốn để kinh doanh hàng hoá, thu hồi vốn nhanh, nhưng do cán bộ tín dụng định kỳ hạn nợ đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh rất phức tạp, đòi hỏi cán bộ tín dụng phải nắm bắt sâu sát thực tế và am hiểu thị trường hàng hoá để có thể định kỳ hạn nợ một cách linh hoạt, không cứng nhắc nhằm giảm tối đa các món nợ quá hạn và sử dụng vốn sai mục đích. 2. Một số tồn tại trong việc thực hiện các bảo đảm tín dụng: 2.1. Việc định giá tài sản thế chấp: Vì Ngân hàng Công thương chưa có quy định cụ thể về vấn đề này nên cán bộ tín dụng gặp khó khăn trong việc đánh giá giá trị tài sản thế chấp. Việc đánh giá tài sản thế chấp chỉ mang tính chất ước đoán theo sự thoả thuận giữa ngân hàng và khách hàng theo thời giá trên thị trường. Mặc khác giá cả thị trường luôn biến động, để tránh rủi ro khi phát mại cán bộ tín dụng thường đánh giá giá trị bất động sản thấp hơn giá thực tế. Nhưng khách hàng lại muốn đánh giá cao lên để có thể vay được những khoản tiền lớn hơn. Do đó nếu khách hàng không thoả mãn với sự đánh giá của ngân hàng thì cán bộ tín dụng cũng không có cơ sở cụ thể nào để chứng minh việc định giá là hợp lý. Trong trường hợp cán bộ tín dụng cố gắng giải thích cho khách hàng, nhưng không đủ sức thuyết phục, không tạo ra được sự tin tưởng của khách hàng, làm ảnh hưởng xấu đến quan hệ giữa khách hàng và ngân hàng. 2.2. Điều kiện an toàn tài sản: Trong cho vay bằng hình thức thế chấp bất động sản, ngân hàng chỉ giữ giấy tờ sở hữu gốc và trường hợp thế chấp bằng động sản, tài sản là phương tiện sản xuất kinh doanh của người cho vay, không thể giao cho ngân hàng quản lý. Ngân hàng chỉ giữ giấy tờ sở hữu và giấy bảo hiểm. Phần lớn các tài sản đảm bảo theo hình thức cho vay trên (nhà cửa, máy móc, thiết bị, ô tô...) vẫn nằm trong tay khách hàng và do họ bảo quản sử dụng. Mặc dù những tài sản này đã được đem làm đảm bảo cho các khoản vay nhưng ngân hàng không trực tiếp quản lý được nên sự biến động của chúng trong thời gian lưu hành tín dụng sẽ gây ra nhiều khó khăn. 2.3. Nhiều khách hàng có nhu cầu vay vốn nhưng không thoả mãn các điều kiện cho vay của ngân hàng: Có nhiều khách hàng có tài sản thế chấp nhưng những tài sản này phần lớn là nhà ở, nhà ở Hà Nội phần lớn lại không đủ giấy sở hữu hợp pháp do vậy rất nhiều trường hợp không đủ điều kiện thế chấp vay vốn, dẫn tới người vay không vay được vốn ở ngân hàng buộc họ phải đi vay nặng lãi hoặc vay ở các tổ chức tín dụng khác. Do đó ngân hàng để mất một đối tượng lớn, trong khi nguồn vốn của ngân hàng vẫn ứ đọng gây thiệt hại cho ngân hàng. 2.4. Hình thức cho vay tín chấp đối với kinh tế ngoài quốc doanh tại NHCT Đống Đa còn hạn chế: Nguyên nhân do ngân hàng không muốn cho vay dưới hình thức này vì nó chứa đựng rủi ro cao. Trong thể lệ tín dụng hiện hành đối với tâm lý cán bộ tín dụng rất sợ cho vay loại này vì các thành phần kinh tế này có tổ chức và hoạt động rất đa dạng. Mặt khác, tâm lý sợ chịu trách nhiệm đã hạn chế việc mở rộng hoạt động cho vay các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh dưới hình thức tín chấp. Chương III Các giải pháp góp phần bảo đảm an toàn tín dụng đối với KTNQD tại NHCT Đống Đa. I/ Các giải pháp đối với NHCT Đống Đa: 1/ Chú trọng hơn nữa công tác thẩm định khách hàng. Nhận thấy mối quan tâm hàng đầu của các NHTM và khả năng trả nợ và lãi vay đúng hạn là kết quả kinh doanh của người vay chứ không phải là việc phát mại tài sản để thu hồi nợ. Đó là: Khi cấp phát tiền vay, cán bộ tín dụng nên tiến hành phân tích tín dụng kỹ lưỡng đối với khách hàng. Đặc biệt cần nghiên cứu kỹ càng các trình độ, kinh tế, kỹ thuật, năng động sáng tạo của người giám đốc. Ngoài những việc lập hồ sơ theo dõi việc cho vay vốn và trả nợ của khách hàng cán bộ tín dụng nên định kỳ kết hợp với các bộ thông tin phân tích rủi ro, phân loại, đánh giá đúng mức độ tín nhiệm của từng khách hàng. Việc làm này thường xuyên sẽ giúp cán bộ tín dụng sâu sát được tình hình sản xuất kinh doanh và tài chính của đơn vị vay vốn... Trên cơ sở đó, mở rộng hình thức cho vay tín chấp đối với khách hàng có kết quả kinh doanh tốt, có thu nhập ổn định, đảm bảo trả nợ cho ngân hàng đúng hạn. 2/ Cần đảm bảo tài sản thế chấp có đầy đủ điều kiện pháp lý cần thiết: a/ Giấy tờ sở hữu tài sản thế chấp. Trong số những tài sản là nhà cửa mà khách hàng muốn dùng để thế chấp vay vốn nhưng không đủ giấy tờ sở hữu gốc, có thể có những nhà cửa chính phủ nhưng do giấy tờ bị mất, do thừa kế, mua đi bán lại nhiều lần, cơi nới. .. Những trường hợp này về nguyên tắc ngân hàng không giải quyết trong khi nhu cầu cần vốn của họ là rất cần thiết, mặc dầu tài sản này thực sự là của họ và có giá trị cao nhưng ngân hàng không thể phát mại tài sản thế chấp được và không tránh được rủi ro trong trường hợp khách hàng đem tài sản thế chấp ở ngân hàng khác. Để tạo điều kiện cho hoạt động tín dụng của ngân hàng đáp ứng nhu cầu vay vốn để phát triển sản xuất kinh doanh, UBND thành phố Hà Nội cần sớm phối hợp với các ngành liên quan tổ chức một cuộc tổng điều tra thống kê về nhà ở của dân, cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu để hợp pháp hoá tài sản của họ giúp họ có đủ thủ tục pháp lý khi làm hồ sơ vay vốn ngân hàng. b. Tài sản thế chấp phải có điều kiện bảo đảm an toàn: Do đặc điểm của hình thức thế chấp là tài sản thế chấp vẫn cho người đi vay bảo quản sử dụng, nên ngân hàng cần có những quy định để bảo đảm an toàn vốn cho ngân hàng. Toàn bộ công trình được sửa chữa nâng cấp xây dựng trên diện tích mặt bằng của ngôi nhà đã thế chấp đều thuộc tài sản thế chấp vay vốn ngân hàng theo điều kiện mà khách hàng đã cam kết. Đối với những tài sản là động sản như xe máy, phương tiện vận tải... Ngân hàng phải yêu cầu có bảo hiểm. Cán bộ tín dụng nên kiểm tra đánh giá tài sản thế chấp trong từng trường hợp cụ thể để yêu cầu mức bảo hiểm phù hợp. Trên thực tế khách hàng rất ngại mua bảo hiểm vì sợ tốn thêm 1 khoản tiền nữa làm cho chi phí vay vốn ngân hàng trở nên cao hơn. Do đó ngân hàng có thể yêu cầu khách hàng chỉ cần mua bảo hiểm phần tài sản tương ứng với số tiền vay để bảo đảm an toàn vốn cho ngân hàng. Ngoài ra trong quá trình khách hàng sử dụng tiền vay của ngân hàng, cán bộ tín dụng cần thường xuyên kiểm tra việc bảo quản và sử dụng tài sản thế chấp để kịp thời có biện pháp xử lý trong trường hợp bên vay vốn vi phạm cam kết. 3/ Mở rộng hình thức bảo đảm tín dụng: Để giúp các doanh nghiệp ngoài quốc doanh vay vốn trung và dài hạn để đầu tư mua sắm máy móc, thiết bị, ngân hàng nên mở rộng hình thức tín dụng thuê mua. Tín dụng thuê mua là loại tín dụng trung và dài hạn, không phải nhận bằng tiền mà là tài sản, phương thức thanh toán là trả dần (trả góp) khi thanh toán lại chủ yếu dưới hình thức tiền tệ. Tín dụng thuê mua được đảm bảo chắc chắn, an toàn hơn hình thức thế chấp tài sản. Người thuê mua sau thời gian sử dụng có thể mua lại. Đặc điểm nổi bật của loại tín dụng thuê mua là máy móc, thiết bị phù hợp theo yêu cầu cảu sử dụng của người thuê, nên các nhà doanh nghiệp phát huy được tính sáng tạo và bảo đảm chất lượng sản phẩm làm ra, khả năng tiêu thụ nhanh nên sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Các doanh nghiệp có thể đầu tư đổi mới thiết bị, mở rộng sản xuất mà không cần có vốn tự có tham gia như cho vay trung và dài hạn thông thường. Trong khi đó, để một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả và có đủ tài sản thế chấp là hai điều kiện khó khi cần vay trung và dài hạn nhằm hiện đại hoá máy móc thiết bị, cải tiến dây chuyền sản xuất. Việc áp dụng phương thức tín dụng thuê mua có thể giải quyết phần khó khăn khi vay trung và dài hạn. Vì dưới phương thức thuê mua này chỉ cần doanh nghiệp sản xuât kinh doanh có hiệu quả, điều kiện thế chấp được đặt ở hàng thứ yếu vì bản chất của phương thức tín dụng thuê mua đã bao hàm tài sản thế chấp ở trong hợp đồng thuê mua. Đây là phương thức bảo đảm chặt chẽ, vừa có lợi cho doanh nghiệp, vừa an toàn vốn vay cho ngân hàng. Tuy nhiên để phương thức này được mở rộng thì đòi hỏi phải có vốn dài hạn, mà huy động vốn ở ngân hàng lại đa phần là ngắn hạn. Do vậy ngân hàng nên cải tiến công tác huy động vốn, để đáp ứng được nhu cầu vay trung dài hạn của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. 4. Tăng cường đầu tư vào cơ sở vật chất và con người. Việc mở rộng quan hệ tín dụng với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh dẫn tới hàng ngàn khách hàng quan hệ với ngân hàng, do đó ngân hàng phải quản lý một khối lượng lớn hồ sơ, ngân hàng cần nhanh chóng đưa chương trình quản lý hồ sơ vay vốn của khách hàng vào xử lý trên hệ thống máy vi tính. Thiết bị này sẽ bảo đảm và cung cấp kịp thời các thông tin cần thiết giúp cán bộ tín dụng trong việc kiểm tra, đánh giá chính xác khách hàng để có biện pháp cho vay thích hợp. Trình độ của cán bộ ngân hàng còn chưa đáp ứng cho yêu cầu của phát triển hoạt động ngân hàng hiện nay và trong tương lai. Kinh doanh trong cơ chế thị trường đòi hỏi các cán bộ tín dụng ngân hàng không chỉ giỏi việc chuyên môn mà còn phải am hiểu về các lĩnh vực như pháp luật, kinh tế, xã hội. Hiện nay ngân hàng đã có chương trình đào tạo lại cán bộ, tuy nhiên để đáp ứng kịp thời yêu cầu hiện đại hoá ngân hàng, đòi hỏi mỗi người phải tự trau dồi kiến thức để nâng cao trình độ. Mức thâm nhập của tín dụng ngân hàng vào khu vực kinh tế ngoài quốc doanh còn hạn chế. Do đó ngân hàng cần phải sớm đưa ra các phương thức để phát huy tính năng động sáng tạo, động viên tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu. Đồng thời cần có sự khuyến khích bằng lợi ích vật chất xứng đáng cho những cán bộ tín dụng cho vay có hiệu quả. II/ Các giải pháp đối với Ngân hàng Công thương Việt Nam: 1/ Việc định giá tài sản thế chấp phải xác thực. Trong quy định 1187/NHCT - TD ngày 10/10/1997 của Ngân hàng công thương Việt Nam có hướng dẫn căn cứ định giá đối với những tài sản thế chấp là nhà cửa, vật kiến trúc và quyền sử dụng đất theo giá thị trường, nhưng không vượt quá khung giá theo quy định của cơ quan thuế, tài chính, xây dựng của địa phương và đảm bảo nếu phát mại phải thu hồi được gốc và lãi. Tuy nhiên khung giá Nhà nước hiện hành là thấp. Nếu mọi trường hợp đều áp dụng chặt chẽ như vậy sẽ dẫn đến cho vay được ít nhất hoặc mất khách hàng. Do vậy ngân hàng Công thương Việt Nam xây dựng một biểu giá phù hợp dựa vào giá cả thị trường và khung giá Nhà nước để là căn cứ cho cán bộ tín dụng định giá tài sản. Đề nghị Ngân hàng Công thương Trung ương cho phép định giá thêm "giá trị quyền thuế đất" bằng 50% giá quy định hiện hành tại khung giá Nhà nước trong trường hợp tài sản thế chấp là nhà xưởng xây dựng trên đất thuê của Nhà nước vì trong chỉ thị 18 Thủ tướng cho phép được chuyển quyền thuê đất sang người mua trong trường hợp phát mại tài sản thế chấp. 2/ Cần lập các chương trình thông tin tín dụng để phòng ngừa rủi ro ở các địa bàn có nhiều tổ chức tín dụng vay. Lập chương trình phòng ngừa rủi ro theo các dạng như tập hợp những người cùng họ tên, cùng chứng minh thư, cùng địa chỉ dùng tài sản vay nhiều nơi để có biện pháp ngăn ngừa rủi ro xảy ra. 3/ Cần hình thành quỹ bảo hiểm tín dụng: Kinh doanh tiền tệ thường đi đôi với rủi ro lớn. Do đó để giảm bớt rủi ro cho hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại trong cơ chế thị trường, nên hình thành quỹ bảo hiểm tín dụng. Nguồn thu của quỹ là một tỷ lệ nhất định của phần vốn được bảo hiểm và bảo đảm đủ để bảo tồn, tăng trưởng quỹ nhằm bù đắp những rủi ro mất mát có thể xảy ra cho người đi vay và người cho vay. III/ Kiến nghị với nhà nước 1/ Nhà nước sớm ban hành chính sách cụ thể về việc cho thuê đất hoặc có thể giao đất trong một thời gian dài để ổn định đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh yên tâm đầu tư vốn kinh doanh. Đương nhiên mọi vấn đề xây dựng nhà máy, lắp đặt dây chuyền công nghệ có liên quan đến môi trường, cảnh quan phải được các cấp có thẩm quyền phê duyệt quy hoạch và cho phép xây, làm được như vậy chính là tạo môi trường lành mạnh giúp các tổ chức tín dụng yên tâm đầu tư hỗ trợ phát triển nền kinh tế ngoài quốc doanh. 2/ Ngân hàng nhà nước sớm trình lên chính phủ và quốc hội về việc ban hành luật thế chấp tài sản và những văn bản hướng dẫn việc xác định quyền sở hữu tài sản, đặc biệt về nhà cửa, máy móc thiết bị và quyền sử dụng đất. Ngoài ra do thiếu môi trường pháp lý an toàn đã khiến cho hoạt động tín dụng của ngân hàng hiện nay còn gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh luật thế chấp, Quốc hội cần tiếp tục cho ra đời một số đạo luật có liên quan đến hoạt động của ngân hàng như luật thương mại, luật bảo lãnh. Trên cơ sở được pháp luật ủng hộ, tạo điều kiện cho Ngân hàng mở rộng quy mô hoạt động của mình. 3/ Nhà nước phải có 1 quy định buộc các ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng và công ty tài chính chịu sự giám sát của hệ thống kiểm toán quốc gia. Hơn nữa phải có công ty chuyên trách kiểm toán riêng cho ngành ngân hàng. Kết quả kiểm toán nhất thiết phải được thông báo công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng và phải chịu trách nhiệm về kết quả công bố đó. 4/ Cần có các công ty dịch vụ đánh giá tài sản thế chấp vốn vay. Công ty dịch vụ đánh giá tài sản hoàn toàn chịu trách nhiệm vật chất về việc đánh giá sai tài sản thế chấp. Việc này ta mới có công chứng xác nhận quyền ở hữu của chủ tài sản mà thôi. 5/ Tại quy định 198/QĐ - NH4 ngày 19/6/1997 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước và các văn bản hướng dẫn của Tổng giám đốc các ngân hàng thương mại đều quy định một trong các điều kiện cho vay vốn của doanh nghiệp ngoài quốc doanh là phải tuân thủ chế độ kế toán thống kê của Nhà nước. Tuy nhiên qua thực tế thanh tra kiểm tra của các cấp, các ngành đều tổng kết các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chưa chấp hành nghiêm túc. Điều này thể hiện rõ nhất qua thu nhập phản ánh tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đều thấy rõ có lãi song thông tin ngành thuế hoặc ngược lại hoặc kêu lỗ không có nguồn để nộp thuế đây là nghịch lý khó chấp nhận nên theo tôi thanh tra ngân hàng Nhà nước kết hợp với bộ Tài chính có biện pháp chặt chẽ để buộc các doanh nghiệp này tuân theo đúng chế độ hoạch toán kiểm toán của nhà nước tạo điều kiện cho các tổ chức thu thập được rủi ro tín dụng đối với thành phần kinh tế này. Trên đây là một số kiến nghị, theo tôi là cần thiết nhằm hoàn thiện các biện pháp bảo đảm an toàn và hạn chế khi rủi ro tín dụng trên cơ sở đó tăng cường tín dụng đối với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Phần kết luận Kinh nghiệm các quốc gia cho thấy kinh tế ngoài quốc doanh là một môi trường đầu tư mang hiệu quả cao. Song nó lại là ngành chứa đựng nhiều rủi ro nhất. Trên đây là toàn bộ các vấn đề tình hình thực hiện các biện pháp an toàn tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh tại Ngân hàng công thương Đống Đa. Trên cơ sở những biện pháp đã thực hiện cùng với những định hướng và giải pháp mới sẽ giúp cho các Ngân hàng thương mại nói chung và Ngân hàng Công thương Đống Đa nói riêng sẽ có những kế hoạch kịp thời, những chuyển biến tích cực trong công tác đầu tư tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh gắn với an toàn tín dụng, hạn chế rủi ro, mang lại lợi nhuận cho ngân hàng và xã hội . Góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội mà Đảng, Quốc hội đã đề ra. Tài liệu tham khảo 1/ Ngân hàng thương mại. Edward. W.Reed và Edwrdk.Gill. Nhà xuất bản Thành Phố Hồ Chí Minh. 2/ Những vấn đề cơ bản về Ngân hàng trong nền kinh tế thị trường. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. 3/ Tiền tệ Ngân hàng và Thị trường tài chính. Edwrds. Mishkin. NXB Khoa học và Kỹ thuật HN 1997. 4/ Những vấn đề cơ bản về tiền tệ, tín dụng, Ngân hàng trong bước đầu đổ mới ở Việt Nam. Cao Sỹ Khiêm - Viện khoa học Ngân hàng 1996. 5/ Phân tích tài chính doanh nghiệp. 6/ Doanh nghiệp nhỏ Việt Nam. 7/ Các tạp chí nghiên cứu kinh tế các năm 2000, 2001 và đầu năm 2002. 8/ Tạp chí Ngân hàng các năm 2000, 2001 và các số đầu năm 2002. 9/ Báo cáo tổng kết năm của Ngân hàng công thương Đống Đa. 10/ Các văn bản pháp quy và các quy định có liên quan đến hoạt động ngân hàng của ngân hàng nhà nước và ngân hàng công thương Việt Nam.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0207.doc
Tài liệu liên quan