Đề tài Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh công tác cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Hải Dương

- Chuyển hoá quyền sở hữu (từ đơn sở hữu sang đa sở hữu) và do đó sự thay đổi cả quyền quản lý và sử dụng, tạo nên sự gắn kết chặt chẽ giữa 3 quyền liên quan đến vốn và tài sản của doanh nghiệp. Đến lượt mình, điều đó lại là điều kiện thiết yếu để bảo đảm quyền làm chủ thực sự của những người góp vốn và để nâng cao hiệu quả sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp. - Thay đổi căn bản về tổ chức các quan hệ quản lý nội bộ. Với cơ cấu tổ chức chặt chẽ (Đại hội cổ đông hội đồng quản trị, ban kiểm soát, bộ máy điều hành) có sự phân công, phân cấp về giám sát chặt chẽ công ty cổ phần có khả năng bảo đảm hiệu quả cao trong hoạt động sản xuất - kinh doanh. - Thay đổi căn bản về quan hệ giữa Nhà nước và doanh nghiệp. Từ chỗ doanh nghiệp bị chi phối toàn diện của Nhà nước - chủ sở hữu sang quyền tự chủ kinh doanh được mở rộng và tích tụ chịu trách nhiệm được đề cao. ở Việt Nam, sự thay đổi về qui chế này thể hiện cụ thể ở chỗ doanh nghiệp từ chỗ hoạt động theo luật doanh nghiệp Nhà nước sang hoạt động theo những qui định về công ty cổ phần trong luật doanh nghiệp.

doc82 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1004 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh công tác cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Hải Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quản; Sở chủ quản đề nghị với UBND Tỉnh ra quyết định cho phép các doanh nghiệp tiến hành các thủ tục chuyển thành Công ty cổ phần theo qui định chung của Chính phủ. Giai đoạn II ( từ giữa năm 1999 về sau): Trên cơ sở phương án sắp xếp lại và đổi mới quản lý doanh nghiệp Nhà nước, Tỉnh thực hiện việc chỉ định doanh nghiệp tiến hành cổ phần hoá. Cách làm này thể hiện rõ vai trò và quyền lực của chính sách hữu trong việc định đoạt doanh nghiệp. 2.4. Xác định giá trị doanh nghiệp và xác nhận công nợ. Đây là công việc phức tạp hàng đầu trong quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. Việc triển khai công tác này được thực hiện theo các qui định của Chính phủ và hướng dẫn của Bộ Tài chính những công việc đã được thực hiện. - Doanh nghiệp thành lập hội đồng kiểm kê tài sản và tiến hành kiểm kê, đánh giá tài sản hiện có tại doanh nghiệp đến thời điểm cổ phần hoá. Những tài sản thuộc sở hữu của doanh nghiệp được chia thành 3 loại: tài sản doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng; tài sản không có nhu cầu sử dụng; tài sản hình thành từ quỹ phúc lợi và khen thưởng, trên cơ sở đó, doanh nghiệp đề xuất phương án xử lý kết quả kiểm kê tài sản. - Doanh nghiệp đối chiếu và phân loại công nợ, trong đó đặc biệt làm rõ các khoản công nợ khó đòi và đề xuất phương án xử lý công nợ. UBND Tỉnh thành lập hội đồng xác định giá trị doanh nghiệp do cục trưởng cục quản lý vốn và tài sản Nhà nước tại doanh nghiệp làm trưởng ban và các thành viên theo quy định, trong đó có đại diện doanh nghiệp hội đồng làm việc tích cực và tuân thủ đúng các qui định của Chính phủ và hướng dẫn của Bộ Tài chính. Nhưng cũng nảy sinh những bất đồng ý kiến giữa hội đồng và doanh nghiệp về một số vấn đề liên quan đến tài sản không cần dùng, đề nghị điều chuyển và giá trị còn lại của tài sản. Sự bất đồng này được dành cho Ban đổi mới và quản lý doanh nghiệp xem xét và quyết định. Do sự phức tạp của bản thân công việc và sự thiếu rõ ràng, chính xác của sổ sách kế toán của nhiều doanh nghiệp, công việc này không thực hiện được theo đúng thời gian qui định của Bộ Tài chính (15 ngày), mà thường kéo dài hàng tháng, làm chậm trễ quá trình cổ phần hoá. 2.5. Giải quyết các vấn đề liên quan đến người lao động. Công việc này có sự phức tạp riêng do liên quan trực tiếp đến tam tư và quyền lợi của người lao động trong doanh nghiệp. Những công việc chủ yếu đã được thực hiện là : - Lập danh sách lao động có mặt tại doanh nghiệp tại thời điểm cổ phần hoá (kể cả những người đóng bảo hiểm nhưng tạm nghỉ việc, những người chờ việc ..) với những nội dung cụ thể về số năm làm việc cho Nhà nước, mức lương cơ bản. Đây là cơ sở để xác định phương án phân chia quỹ phúc lợi, khen thưởng (bằng tiền) để người lao động sử dụng mua cổ phiếu và số lượng cổ phần được mua theo giá ưu đãi. - Xác định danh sách người lao động nghèo theo hướng dẫn của Bộ Lao động-Thương binh-Xã hội để giải quyết ưu đãi với người lao động nghèo. - Sở lao động-thương binh-xã hội phối hợp với liên hiệp công đoàn thành phố kiểm tra và xác nhận các danh sách đã được lập. - Trên cơ sở phương án kinh doanh mới, doanh nghiệp lên phương án kiến nghị với thành phố giải quyết các vấn đề liên quan đến lao động, số lượng người yêu cầu đào tạo lại và kinh phí thực hiện phương án giải quyết lao động dôi dư. 2.6. Xây dựng phương án kinh doanh và dự thảo Điều lệ tổ chức và hoạt động của công ty cổ phần. Phương án kinh doanh mới được coi là một tài liệu quan trọng hàng đầu để thu hút người mua cổ phần và tổ chức hoạt động của công ty cổ phần tương lai. Việc soạn thảo Điều lệ tổ chức và hoạt động của công ty cổ phần là công việc phức tạp. Nội dung của Điều lệ phải phù hợp với các qui định hiện hành của pháp luật và đặc điểm cụ thể cuả từng công ty; hình thức của Điều lệ phải đơn giản, dễ hiểu và ngắn gọn tránh cho các doanh nghiệp mắc phải những sai sót về luật pháp. Theo qui định, các tài liệu này phải được đưa ra thảo luận rộng rãi trong cán bộ CNV doanh nghiệp, song trên thực tế việc thảo luận chủ yếu được tập trung vào sự thảo Điều lệ công ty cổ phần tuỳ từng doanh nghiệp, việc thảo luận được thực hiện bằng 2 cách : -Thảo luận tại đại hội công nhân viên chức bất thường. -Thảo luận theo từng bộ phận trong doanh nghiệp (phòng ban, tổ chức) Trên cơ sở kết luận thảo luận và góp ý, các tài liệu trên được chỉnh lý, bổ xung đề đệ trình ban đổi mới quản lý doanh nghiệp Tỉnh thẩm định. 2.7. Thẩm định phương án và quyết định chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần. Công việc này thuộc trách nhiệm và quyền hạn cảu ban đổi mới quản lý doanh nghiệp thành phố. Nội dung thẩm định tập trung vào những vấn đề chủ yếu sau: - Giải quyết các tồn đọng về giá trị doanh nghiệp và về công nợ trong khuôn khổ thẩm quyền của thành phố theo qui định chung của Nhà nước. - Giaỉ quyết kiến nghị của doanh nghiệp về lao động. - Rà soát bảo đảm Điều lệ tuân thủ đúng pháp luật. Sau khi giải quyết hết những tồn đọng của việc chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần, văn phòng UBND Tỉnh làm tờ trình đề nghị chủ tịch UBND Tỉnh ra quyết định chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần. 2.8. Thực hiện quyết định chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần. Quyết định của UBND Tỉnh được thông báo rộng rãi cho người lao động trong doanh nghiệp. Trên cơ sở quyết định này, ban đổi mới quản lý của doanh nghiệp đã triển khai những công việc chủ yếu sau: * Thông báo công khai việc bán cổ phần và tổ chức bán cổ phần sau khi đã đăng ký mua tờ cổ phiếu trắng tại kho bạc Nhà nước. * Triệu tập và tổ chức đại hội cổ đông thành lập để thông qua Điều lệ, bầu hội đồng quản trị và ban kiểm soát. * Lãnh đạo doanh nghiệp Nhà nước bàn giao công việc, tài liệu và tài sản cho hội đồng quản trị. * Hội đồng quản trị hoàn tất những công việc còn lại. - Lựa chọn gíám đốc và các chức danh quản lý khác theo qui định của Điều lệ, hình thành bộ khung quản lý công ty cổ phần. - Xin khắc con dấu của công ty cổ phần. - Tổ chức thủ tục ra mắt công ty cổ phần. - Đăng ký kinh doanh với Sở khoa học và đầu tư theo qui định. Đến đây việc chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần đã hoàn thành, các công ty cổ phần triển khai các hoạt động sản xuất-kinh doanh của mình theo qui chế hoạt động mới. III. Kết quả của việc cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Hải Dương và một số khó khăn, vướng mắc. 1. Những kết quả của quá trình cổ phần hoá DNNN ở Hải Dương đến cuối năm 2000. 1.1. Những kết quả chủ yếu. Từ những năm 1994, Tỉnh uỷ, UBND Tỉnh Hải Dương đã có chủ trương về thí điểm cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước trên địa bàn cùng với các địa phương trong cả nước. Tỉnh Hải Dương là một trong những Tỉnh sớm ra quyết định thành lập ban chỉ đạo cổ phần hoá. Đến năm 1997, sau khi tái lập Tỉnh, UBND Tỉnh đã khẩn trương kiện toàn lại thành viên ban chỉ đạo đổi mới quản lý doanh nghiệp và tổ chuyên viên giúp việc. Từ năm 1994 đến hết năm 1999, Hải Dương mới tiến hành cổ phần hoá được 3 doanh nghiệp (có một doanh nghiệp chuyển tiếp sang năm 2000). Năm 2000 có thể nói là năm đầu tiên Tỉnh Hải Dương triển khai thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp khá đồng bộ, khoa học và kiên quyết vì xác định được đây vừa là mục tiêu, vừa là động lực của quá trình đổi mới sắp xếp doanh nghiệp trong năm 2000. Hải Dương đã tiến hành triển khai ở 5 doanh nghiệp. Đến 31/12/2000 đã có thêm 5 doanh nghiệp chính thức sang hoạt động theo mô hình công ty cổ phần. Đặc biệt có doanh nghiệp có quy mô khá lớn, giá trị doanh nghiệp hàng chục tỷ đồng với trên 1500 lao động như công ty giày Cẩm Bình, nhưng nhờ có kế hoạch triển khai và chuẩn bị chu đáo, sự phối hợp chặt chẽ giữa Ban đổi mới quản lý doanh nghiệp Tỉnh và Đảng uỷ, Công đoàn và lãnh đạo doanh nghiệp nên chỉ có trên 2 tháng (kể cả thời gian chờ đợi phê duyệt giá trị doanh nghiệp và phương án) đã hoàn thành toàn bộ các bước để chuyển thành công ty cổ phần. Đây là doanh nghiệp có thời gian chuyển đổi nhanh nhất và thành công nhất trong quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Hải Dương thời gian qua. Kết quả hoạt động của các công ty cổ phần ở Hải Dương sau khi chuyển đổi sở hữu có thể đánh giá khái quát ở một số khía cạnh sau: a - Khả năng huy động vốn. Khi còn là doanh nghiệp Nhà nước thì tổng số vốn Nhà nước ở tại 5 doanh nghiệp chỉ có là 8.346 triệu đồng (tính đến thời điểm cổ phần hoá) thì sau khi chuyển sang hoạt động theo hình thức công ty cổ phần, 5 công ty đã có số vốn điều lệ là 13.063 triệu đồng (tăng gần 60%), trong đó vốn Nhà nước tham gia là 1.967 triệu đồng (chiếm tỷ lệ 15%) còn lại 85% là vốn của CB CNV trong doanh nghiệp tham gia mua cổ phần. Số tiền Nhà nước thu về quĩ hỗ trợ cổ phần hoá sau khi cổ phần hoá các doanh nghiệp là gần 5 tỷ đồng để đầu tư vào các doanh nghiệp khác và giải quyết chính sách cho người lao động trong các doanh nghiệp Nhà nước thực hiện cổ phần hoá. Qua các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá ở Hải Dương khi xác định giá trị doanh nghiệp đều tăng hơn so với sổ sách kế toán đặc biệt phần vốn doanh nghiệp được tăng thêm. Điều đó chứng tỏ việc thực hiện cổ phần hoá đã thực sự thu hút được vốn nhàn rỗi của người lao động về đầu tư vào sản xuất, tạo ra động lực từ những người chủ đích thực ở doanh nghiệp cổ phần hoá. b-Về hiệu quả sản xuất kinh doanh. Tại 5 doanh nghiệp đã chuyển sang cổ phần hoá đều hoạt động có hiệu quả hơn xét trên tổng thể các mặt doanh thu, lơị nhuận nộp ngân sách và tích luỹ vốn. Trong 3 công ty cổ phần đã hoạt động từ 1 năm trở lên đều cho thấy đã khắc phục được tình trạng thua lỗ, bước đầu đều tăng doanh thu từ 10% đến 70% so với trước khi cổ phần hoá, đặc biệt là công ty cổ phần xi măng Duyên Linh đã có cổ tức trên 3%/tháng, tạo ra động lực và niềm tin thực sự cho người lao động khi bỏ tiền ra mua cổ phiếu của công ty cổ phần. Riêng công cổ phần chế biến gỗ và giầy Cẩm Bình mặc dù mới đi vào hoạt động được 3 tháng nhưng đã đảm bảo được doanh số và có tích luỹ. Kết quả này chứng minh cho chủ trương tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước của Đảng là thực sự đúng đắn. c- Về việc làm và thu nhập của người lao động. Trong 5 doanh nghiệp cổ phần ở Hải Dương sau khi cổ phần hoá đều thu hút được số lao động có việc làm bằng và cao hơn khi còn là doanh nghiệp Nhà nước, thu nhập của họ cũng được nâng lên. Mặc dù thời gian còn quá ngắn để chứng minh rằng công ty có điều kiện phát triển mở rộng thu hút thêm lao động hay không nhưng rõ ràng với cơ chế quản lý mới, người lao động với vai trò là chủ nhân thực sự đã nâng cao được tính tự giác kỷ luật và chủ động, họ giám sát và khuyến khích sự tiết kiệm làm cho hiệu quả hoạt động cuả doanh nghiệp cao hơn nhằm mang lại lơi ích thiết thực cho họ, công ty, Nhà nước và xã hội. 1.2- Một số bài học kinh nghiệm rút ra từ quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước của Hải Dương. Từ thực tế chỉ đạo công tác cổ phần hoá ở Hải Dương cho thấy sự chỉ đạo của Tỉnh uỷ, UBND Tỉnh và Ban đổi mới quản lý doanh nghiệp Tỉnh có vai trò hết sức quan trọng, nếu có sự chỉ đạo kiên quyết, thường xuyên và Ban đổi mới quản lý doanh nghiệp Tỉnh với một đội ngũ cán bộ tâm huyết, có tinh thần trách nhiệm cao, phối hợp tốt để giải quyết kịp thời các vướng mắc trong quá trình thực hiện sẽ đạt được kết quả tốt. Trong đó vai trò của các sở chuyên ngành trong chỉ đạo doanh nghiệp cũng có vai trò không kém phần quan trọng. Trong năm 2000 sự chỉ đạo của Sở công nghiệp và Sở Giao thông, Sở Xây dựng đã chứng tỏ kinh nghiêm này trong việc thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp thuộc ngành quản lý. Bên cạnh đó, việc tuyên truyền, phổ biến về chủ trương cổ phần hoá và chuyển đổi sở hữu các doanh nghiệp cũng rất cần thiết. Nên doanh nghiệp nào ban giám đốc, cấp uỷ và người lao động thông suốt và nhiệt tình hưởng ứng thì sẽ thuận lợi, nhanh chóng thực tế triển khai cổ phần hoá ở địa phương và Hải Dương năm 2000 đã cho bài học về tầm quan trọng và ý nghĩa quyết định của công tác tổ chức chỉ đạo đối với lĩnh vực hết sức mới mẻ, phức tạp và nhạy cảm này. Tóm lại, có thể rút ra một số bài học bước đầu sau: * Tạo sự thông suốt tư tưởng về chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. Trong việc thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước việc thông suốt tư tưởng từ cán bộ lãnh đạo đến người lao động lại có ý nghĩa trọng yếu. Trong quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, Tỉnh uỷ và các cấp chính quyền Tỉnh Hải Dương đã áp dụng nhiều hình thức đa dạng và ngày càng có hiệu quả về phổ biến, tuyên truyền chủ trương về cổ phần hoá. Nhờ đó, tuy chưa xoá bỏ hết sự băn khoăn nghi ngại, nhưng về cơ bản quá trình cổ phần hoá ở Hải Dương nhận được sự đồng tình của người lao động và không gây ra những xáo trộn xã hội. Hơn nữa, từ thực tiễn hoạt động có hiệu quả của các doanh nghiệp đã chuyển thành Công ty cổ phần, sự tin tưởng của cán bộ và quần chúng được nâng cao hơn. * Coi trọng việc hướng dẫn cụ thể cho các doanh nghiệp thực hiện các thủ tục liên quan đến quá trình chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành Công ty cổ phần. Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước là công tác mới mẻ và phức tạp. Trong khi đó, đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp cùng lúc phải lo hai việc lớn: duy trì và phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; thực hiện các thủ tục chuyển doanh nghiệp thành Công ty cổ phần. Biết rõ những gánh nặng ấy của doanh nghiệp. Ban đổi mới quản lý doanh nghiệp và các cơ quan hữu quan của Tỉnh Hải Dương đã hết sức coi trọng việc trợ giúp thiết thực và có hiệu quả cho các doanh nghiệp thực hiện các công việc cụ thể của việc chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần. Sự trợ giúp này, một mặt tạo nên sự yên tâm và tin tưởng của cán bộ doanh nghiệp với những công việc được triển khai, mặt khác cho phép tiết kiệm thời gian và chi phí. * Xác lập cơ cấu tổ chức thống nhất tập trung chỉ đạo công tác cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. Chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần gồm nhiều công việc khác nhau, nó quan hệ chặt chẽ với nhau, việc giải quyết những công việc đó liên quan đến nhiều cơ quan, nhiều cấp quản lý. Tỉnh Hải Dương đã thực hiện tốt công việc này qua sự lãnh đạo tập trung của Tỉnh uỷ, sự chỉ đạo của UBND Tỉnh, sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý hữu quan. * Kịp thời giải quyết một số vướng mắc trong quá trình cổ phần hoá. Ban đổi mới quản lý doanh nghiệp của Tỉnh Hải Dương đã kịp thời nắm bắt những vướng mắc nảy sinh trong quá trình cổ phần hoá và có phương án giải quyết cụ thể theo từng thời hạn trong phạm vi thẩm quyền của mình. Ngoài ra, Tỉnh còn giữ quan hệ chặt chẽ với Ban đổi mới doanh nghiệp TW, Bộ Tài chính, Tổng cục thuế... để nắm bắt kịp thời các chủ trương, chính sách mới, cũng như đề nghị tháo gỡ những vướng mắc vượt quá thẩm quyền của UBND Tỉnh. 2.Những khó khăn vướng mắc nảy sinh trong quá trình cổ phần hoá DNNN ở Hải Dương. 2.1- Những vướng mắc về nhận thức tư tưởng. Vẫn có nhiều cán bộ lãnh đạo doanh nghiệp e ngại một cương vị gắn liền với những quyền lợi về vật chất và tinh thần, với tâm lý e ngại cổ phần hoá sẽ làm họ mất đi quyền lực vốn có. Tư tưởng bao cấp đã ăn sâu vào suy nghĩ của nhiều doanh nghiệp, họ thực sự tiếc nuói cái thời “ được ăn, lỗ Nhà nước chịu” nên cố tình trì hoãn cổ phần hoá. Lảng tránh trách nhiệm nhiệm vụ mới kể cả những đòi hỏi thái quá của doanh nghiệp về tính hoàn thiện của cơ chế chính sách. Người lao động chưa hiểu rõ những vấn đề liên quan đến công ty cổ phần, e ngại mất việc làm, hoặc giảm thu nhập. ở doanh nghiệp đang làm ăn có lãi, cán bộ CNV không muốn có sự xáo động, ở doanh nghiệp đang gặp khó khăn trong sản xuất - kinh doanh lại nảy sinh tư tưởng cho rằng chuyển sang công ty cổ phần sự trợ giúp của Nhà nước không còn, công ty khó có thể vượt qua được khó khăn. Ngoài ra, trong cán bộ lãnh đạo vẫn còn e ngại thực hiện cổ phần hoá sẽ dẫn đến làm suy yếu hệ thống kinh tế Nhà nước là chệch hướng XHCN. 2.2- Những vướng mắc liên quan đến cơ chế chính sách. - Những qui định về ưu đãi với doanh nghiệp chuyển thành công ty cổ phần chưa thể hiện rõ việc tạo động lực mạnh mẽ và sự khuyến khích, trợ giúp doanh nghiệp Nhà nước chuyển sang công ty cổ phần trong điều kiện cạnh tranh gay gắt trên thị trường. - Chính sách ưu đãi với người lao động doanh nghiệp cổ phần hoá cũng chưa thể hiện rõ và chưa phù hợp với tình hình cụ thể của nhiều doanh nghiệp Nhà nước. Nhiều người lao động trong doanh nghiệp Nhà nước cảm nhận rằng việc Nhà nước giành cho họ sự ưu đãi bằng cách bán cổ phiếu theo giá ưu đãi là chưa phù hợp với thực tế. Bởi lẽ để mua được cổ phiếu theo giá ưu đãi, người lao động phải bỏ ra một khảon tiền nhất định, mà điều đó vượt quá khả năng tài chính của nhiều người. Cũng cần phải nói thêm rằng các doanh nghiệp Nhà nước thuộc các ngành, các lĩnh vực kinh tế khác nhau có những nét tương quan giữa số lao động và giá trị doanh nghiệp rất khác nhau. Trong khi đó, Nghị định 44 chỉ qui định một mức ưu đãi chung cho tất cả các doanh nghiệp. Điều đó dẫn đến tình trạng có doanh nghiệp không hưởng hết mức ưu đãi mà Nhà nước giành cho ngươì lao động và có doanh nghiệp lại vượt quá mức khống chế chung. “Tiêu chuẩn xác định người lao động nghèo” cũng được xác định chung cho cả nước, không tính đến mặt bằng giá sinh hoạt của các vùng rất khác nhau cũng là một bất hợp lý. - Việc qui định cán bộ chủ chốt của doanh nghiệp (giám đốc, kế toán trưởng...) không được mua cổ phần vượt quá mức bình quân chung của người lao động trong doanh nghiệp dường như hướng tới việc bảo đảm sự bình đẳng trong doanh nghiệp nhưng thực ra mang tính hình thức và vô hình dung lại hạn chế khả năng huy động vốn. - Việc xác định giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá gặp những vướng mắc liên quan đến xác định giá trị còn lại của tài sản, xử lý công nợ, xử lý tài sản không phù hợp với phương án kinh doanh của công ty cổ phần, xử lý hàng hoá khó tiêu thụ ...Trong quá trình đánh giá thưởng nảy sinh sự khác biệt ý kiến giữa hội đồng định giá của doanh nghiệp với hội đồng thẩm định giá trị doanh nghiệp, thậm chí có sự khác biệt ý kiến ngay trong các thành viên hội đồng thẩm định giá trị doanh nghiệp. Đồng thời, việc xác định những tồn đọng tài chính mà công ty cổ phần kế thừa từ doanh nghiệp Nhà nước cũng gặp nhiều khó khăn: Cơ quan tài chính muốn công ty cổ phần kế thừa toàn bộ những tồn đọng tài chính chưa giải quyết được trong quá trình cổ phần hoá (chẳng hạn nợ khó đòi ...), trong khi đó công ty cổ phần lại chỉ muốn kế thừa một số vấn đề có chọn lọc không ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của mình (chẳng hạn, XDCB dở dang), chính điều này dễ dẫn đến hậu quả là thời gian xác định giá trị doanh nghiệp kéo dài. 2.3- Những vướng mắc liên quan đến tổ chức quá trình cổ phần hoá. Là công việc hoàn toàn mới mẻ, Ban đổi mới quản lý doanh nghiệp Tỉnh và Ban cổ phần hoá của doanh nghiệp không tránh khỏi những lúng túng trong việc thực hiện những công việc khác nhau của qui trình chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần. Thành phần Ban đổi mới quản lý doanh nghiệp Tỉnh là cán bộ lãnh đạo hạot động có tính chất kiêm nhiệm, họ chưa thật sự giành thời gian thoả đáng cho việc chỉ đạo cổ phần hoá. Trong chỉ đạo, họ thường nặng về hô hào, nhắc nhở chung chung, thiếu sự trợ giúp, hướng dẫn giải quyết những khúc mắc cụ thể của doanh nghiệp. Ban cổ phần hoá doanh nghiệp cùng một lúc phải lo hai việc lớn : bảo đảm giữ vững hoạt động sản xuất-kinh doanh; thực hiện các công việc của quá trình cổ phần hoá. Sự phối hợp giữa các cơ quan hữu quan với nhau và giữa các cơ quan quản lý Nhà nước với doanh nghiệp chưa được thực hiện thường xuyên chặt chẽ. Bên cạnh đó có những ngành còn coi nhẹ việc cổ phần hoá nên chưa thực hiện đến nơi đến chốn thậm chí còn ngại không muốn thực hiện. Cuối cùng, do tính đặc trưng của các doanh nghiệp Nhà nước ở Hải Dương đa phần có qui mô quá nhỏ lại có tình hình tài chính, lao động khá phức tạp thì việc triển khai cổ phần hoá sẽ không thuận lợi bằng áp dụng các hình thức khác: bán, khoán, cho thuê. Phần thứ ba Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh công tác cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở hải dương phương hướng thực hiện sắp xếp lại các dnnn và đẩy mạnh quá trình chuyển đổi dnnn thành công ty cổ phần: I. Phương hướng đổi mới sắp xếp lại các DNNN trong năm 2001 và các năm tiếp theo: 1. Phương hướng chung: Theo kế hoạch đến hết năm 2005, cả nước cơ bản sẽ hoàn thành việc sắp xếp chuyển đổi cơ cấu sở hữu khu vực DNNN. Như vậy, khi triển khai dự án trong vòng 5 năm (2001-2005), khu vực DNNN sẽ được phân định rõ, doanh nghiệp Nhà nước nào cần củng cố và phát triển theo hình thức 100% sở hữu Nhà nước, doanh nghiệp Nhà nước nào làm nhiệm vụ công ích; số doanh nghiệp Nhà nước còn lại đại bộ phận sẽ chuyển đổi sở hữu thành công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân ở từng mức độ khách nhau. Một số DNNN khác thuộc các tổ chức chính trị xã hội (Công đoàn, Đoàn Thanh niên, Lao động vv...) quản lý, nếu không chuyển đổi sở hữu sẽ chuyển sang công ty trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên hoạt động theo Luật Doanh nghiệp. Chính phủ đẩy mạnh việc chỉ đạo sắp xếp, đổi mới DNNN , yêu cầu các Bộ, Ngành, địa phương, Tổng Công ty 91 xây dựng hoàn chỉnh đề án tổng thể sắp xếp DNNN thuộc phạm vi quản lý giai đoạn 2001-2005. Kiên quyết sắp xếp lại các Tổng Công ty Nhà nước không đủ điều kiện hoặc hoạt động kém hiệu quả, xây dựng kế hoạch cổ phần hoá và chuyển đổi sở hữu hàng năm. 2. Phương hướng đổi mới sắp xếp lại DNNN ở Hải Dương trong năm 2001 và các năm tiếp theo. Thực hiện chỉ thị số 20/1998/CT-TTg ngày 21-4-1998 của Thủ tướng Chính phủ về việc đẩy mạnh và sắp xếp đổi mới DNNN. UBND Tỉnh Hải dương đã xây dựng phương án đổi mới sắp xếp DNNN thuộc địa phương quản lý trình Chính phủ phê duyệt. Theo ý kiến chỉ đạo của chính phủ tại công văn số 61/CP-ĐMDN ngày 29/7/1999 về việc sắp xếp DNNN thuộc Tỉnh Hải dương. Ngày 20/2/2001 UBND Tỉnh Hải dương đã kiện toàn Ban đổi mới quản lý doanh nghiệp Tỉnh và đề ra phương hướng tiếp tục đổi mới sắp xếp nhằm phát triển DNNN thuộc địa bàn Tỉnh trong năm 2001 và các năm tiếp theo. Theo phương án sắp xếp lại các DNNN của Tỉnh Hải dương, trong những năm tới sẽ tiếp tục đẩy mạnh quá trình chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần. Trước hết, phải nắm rõ được các doanh nghiệp Nhà nước mà Nhà nước cần nắm giữ, có biện pháp để nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội và sức cạnh tranh của doanh nghiệp Nhà nước, phấn đấu không còn doanh nghiệp Nhà nước hoạt động kinh doanh thua lỗ không đủ sức cạnh tranh vơí các thành phần kinh tế khác. Hai là, khai thác triệt để tiềm năng sẵn có của Tỉnh. Theo kế hoạch đề ra, đến cuối năm 2001 số DNNN thuộc Tỉnh quản lý còn dưới 50 doanh nghiệp, đó là các doanh nghiệp công ích, các doanh nghiệp thực hiện nhiệm vụ sản xuất chế biến hàng nông sản thực phẩm, thủ công mỹ nghệ và các mặt hàng xuất khẩu khác. Các doanh nghiệp thu hút lực lượng lao động đông, có vốn đầu tư lớn, thiết bị tương đối hiện đại, sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên sẵn có của Tỉnh, có nguồn thu nộp Ngân sách lớn dẫn dắt các doanh nghiệp khác phát triển. Ba là, tích cực sắp xếp đổi mới doanh nghiệp thuộc diện Nhà nước không cần nắm giữ theo hướng chủ yếu là đa dạng hoá sở hữu các doanh nghiệp, trước hết là các doanh nghiệp có qui mô nhỏ, có nhiệm vụ chồng chéo, làm ăn thua lỗ. Phấn đấu trong năm 2001 thực hiện cổ phần hoá ít nhất là 10 doanh nghiệp Nhà nước. (Phụ lục 2) II. Mục tiêu sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước và chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần Đối với doanh nghiệp Nhà nước công ích được sắp xếp lại theo hướng vừa tăng cường được vai trò quản lý của Nhà nước, vừa tạo điều kiện để các doanh nghiệp tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh, nâng cao trách nhiệm phục vụ cung cấp đầy đủ, kịp thời các sản phẩm công ích theo yêu cầu. Mục tiêu cổ phần hoá là huy động vốn trong nước, đổi mới phương thức quản lý kinh tế và hiệu quả quản lý kinh doanh, tạo động lực mới cho sự phát triển, qua đó cơ cấu lại khu vực kinh tế Nhà nước và xác định quyền làm chủ thực sự của người lao động trong doanh nghiệp. Thu hút người lao động trong doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư vốn vào phát triển doanh nghiệp. đặc biệt là giải quyết thoả đáng với lực lượng lao động dôi dư hoặc mất việc làm trong quá trình cổ phần hoá. Phụ lục II: danh sách các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá năm 2001 Công ty ô tô vận tải hàng hoá Hải dương Công ty ô tô vận tải hành khách Hải dương Công ty Thương mại - Tổng hợp Hải dương Công ty xây lắp III Hải dương Công ty Giao thông Hải dương - cổ phần hoá theo hình thức Nhà nước giữ cổ phần chi phối Cảng Cống Câu - cổ phần hoá theo hình thức Nhà nước giữ cổ phần chi phối Công ty Tư vấn xây dựng giao thông Hải dương- cổ phần hoá theo hình thức Nhà nước giữ cổ phần chi phối Công ty Cơ khí-Điện Hải dương Công ty Giống gia súc Hải dương B. Một số biện pháp nhằm đẩy mạnh công tác cổ phần hoá DNNN ở hải dương Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước là một quá trình lâu dài, vừa làm vừa rút kinh nghiệm và có những bước đi cụ thể. Trong hoàn cảnh Hải dương đây thực sự là công việc hết sức phức tạp đòi hỏi phải thực hiện trong nhiều năm. Việc đẩy mạnh quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Hải dương là cần thiết nhưng phải chống những tư tưởng và biểu hiện nóng vội, chủ quan duy ý chí. Với tính chất quan trọng của chương trình cổ phần hoá, Chính phủ cần đảm bảo hoạt động có hiệu quả của một cơ quan chịu trách nhiệm quản lý, chỉ đạo và giải quyết mọi vấn đề liên quan đến chương trình này trên cơ sở những quan điểm đổi mới và phát triển đất nước của Đảng và Nhà nước. Chính sách cổ phần hoá luôn cập nhật được thông tin mới và sửa đổi trên cơ sở hướng tới lọi ích của doanh nghiệp và người lao động nhiều hơn thì chắc chắn kết quả cổ phần hoá sẽ rất khả quan. Theo cơ sở những mục tiêu, chính sách đã đề ra, nhằm đẩy mạnh quá trình chuyển đổi doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần. Dưới đây là một số giải pháp I. Đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả công tác phổ biến tuyên truyền chủ trương chính sách về cổ phần hoá. Thực tế cho thấy đây là công tác chiếm vị trí trọng yếu trong quá trình chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần. Trước hết về mặt quan đIểm, cần giải quyết hai vấn đề cơ bản sau đây: Thứ nhất, thực hiện cổ phần hoá một số doanh nghiệp Nhà nước không dẫn tới làm suy yếu kinh tế Nhà nước, bởi lẽ: Trong cơ cấu kinh tế quốc dân, Nhà nước vẫn nắm giữ các doanh nghiệp then chốt, trọng yếu , tạo nền tảng của sự phát triển nền kinh tế quốc dân và sức mạnh kinh tế của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. - Xét trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân, tài sản của Nhà nước không bị giảm đi, mà có khả năng tăng thêm nhờ lợi tức cổ phần của Nhà nước ở công ty cổ phần và các công ty cổ phần làm ăn có hiệu quả sẽ gia tăng mức đóng góp vào ngân sách Nhà nước. - Quá trình cổ phần hoá được tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Thứ hai, việc thực hiện cổ phần hoá không làm ảnh hưởng đến quyền lợi kinh tế và vị trí của mỗi người trong doanh nghiệp nếu họ thực sự có khả năng và có đóng góp tích cực vào nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đó chính là một trong những mục tiêu của cổ phần hoá mà chúng ta thực hiện. Khi thực hiện công tác phổ biến tuyên truyền chủ trương cổ phần hoá cần chú ý một số vấn đề cơ bản sau đây. Xác định những nội dung thiết thực : ngoài những nội dung chung về công ty cổ phần và chủ trương chính sách chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần, cần xác định nội dung trọng tâm cần phổ biến, tuyên truyền cho từng loại đối tượng cụ thể, tránh sự dàn trải. Chẳng hạn, với người lao động , cái người ta quan tâm hơn cả là những quyền lợi được hưởng và trách nhiệm mà phải gánh chịu khi doanh nghiệp hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần, họ cũng hết sức quan tâm đến kết quả hoạt động của những doanh nghiệp đã chuyển thành công ty cổ phần. Thực hiện với những hình thức đa dạng, coi trọng hiệu quả của công tác phổ biến và tuyên truyền. Cần bảo đảm thực sự dân chủ và cởi mở trong việc làm mỗi người bộc bạch một cách công khai và thẳng thắn những vướng mắc về tư tưởng . Những thắc mắc của người lao động dù lớn hay nhỏ dù phổ biến hay cá biệt đều phải được giải đáp một cách cụ thể. II. Hoàn thiện chính sách ưu đãi cho người lao động trong doanh nghiệp cổ phần hoá Theo Nghị định 44/CP Chính sách của Nhà nước đối với người lao động trong DNNN chuyển thành công ty cổ phần đã được điều chỉnh theo hướng tăng cường ưu đãi, tạo điều kiện cho người lao động có cổ phần và thực hiện quyền làm chủ, cũng như đảm bảo công ăn việc làm, thu nhập của khi DNNN chuyển thành công ty cổ phần. Đào thải lao động là hệ quả tất yếu của quá trình cải cách hoạt động của doanh nghiệp. Bước từ mô hình doanh nghiệp Nhà nước sang công ty cổ phần, nếu đặt yêu cầu đảm bảo việc làm và thu nhập của tất cả người lao động trong mối tương quan với nhu cầu thị trường thì đây là sự cầu toàn lý thuyết. Chuyển đổi hoạt động sang mô hình mới với cơ chế quản lý lao động mới mà vẫn giữ nguyền đòi hỏi về số lượng lao đôngj cũ là điều phi thực tế. Cái phi thực tế nằm ở chỗ một bộ phận trong số lao động cũ này không đáp ứng được yêu cầu về trình độ, tay nghề...nên để đảm bảo hiệu quả sản xuất kinh doanh trong một cơ chế bị giám sát chặt chẽ thì ban lãnh đạo công ty cổ phần chắc chắn phải cắt giảm soó lao động dôi dư này. Với người lao động thuộc diện dôi dư, một khoản tiền trợ cấp được qui định trong Nghị định 44/CP được lấy từ tiền bán cổ phần, việc chi trả phụ thuộc vào hoàn cảnh của từng doanh nghiệp nên thực tế lượng trợ cấp này không lớn. Trong khi yêu cầu thực chất của người lao động vẫn là việc làm để đảm bảo thu nhập ổn định. Vì vậy, giải quyết lao động dôi dư trong quá trình sắp xếp lại và cổ phần hoá DNNN là rất quan trọng. Phương án giải quyết lao động của các DNNN chuyển thành công ty cổ phần cần được xét trên hai mặt: Bảo đảm việc làm và cuộc sống của người lao động; bảo đảm điều kiện để công ty cổ phần đạt được yêu cầu nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, trong đó có hiệu quả sử dụng lao động. Trên cơ sở nhận thức đó, giải quyết việc làm là trách nhiệm của cả người lao động, doanh nghiệp và Nhà nước. Nhà nước cần ban hành các qui định cụ thể về xử lý các lao động dôi dư, đào tạo lại lao động. Bài toán việc làm cho người lao động sẽ được giải quyết trên cơ sở phối hợp sự nỗ lực từ nhiều phía: * Người lao động chủ động tìm kiếm cơ hội mưu sinh của mình với sự trợ giúp của Nhà nước và các tổ chức nghề nghiệp. * Các doanh nghiệp phát huy trách nhiệm và sự năng động tìm kiếm các cơ hội kinh doanh, mở rộng sản xuất kinh doanh để bảo đảm việc làm và thu nhập cho người lao động, tạo thêm chỗ làm việc mới. * Nhà nước tạo môi trường thuận lợi cho việc phát triển kinh tế phi Nhà nước để tạo thêm việc làm. * Nhà nước trực tiếp tổ chức việc đào tạo lại nghề nghiệp cho lao động đôi dự ở doanh nghiệp Nhà nước hoặc trợ cấp tài chính cho lao động này để học tự tìm cách học nghề. Hiện nay tiến trình cổ phần hoá đã có những dấu hiệu chững lại từ phía người lao động do lo ngại quyền lợi không được đảm bảo. Nếu để chậm sẽ có tác động bất lợi từ tâm lý này, e rằng ngày càng một lớn hơn. Vì vậy, Nhà nước cần có chương trình cụ thể để giải quyết vấn đề này, tránh trường hợp những người chống đối lợi dụng để trì hoãn tiến trình cổ phần hoá. * Xoá bỏ quy định mức khống chế cổ phần tối đa được mua của cán bộ chủ chốt trong doanh nghiệp. Theo quy định hiện hành, cán bộ chủ chốt của doanh nghiệp (Giám đốc, Phó giám đốc, kế toán trưởng) không được mua cổ phần quá mức bình quân chung của người lao động trong doanh nghiệp. Quy định này bộc lộ những khiếm khuyết trong việc tạo tâm lý tin tưởng của người lao động trong doanh nghiệp, hạn chế khả năng huy động vốn. Bởi vậy, để đảm bảo sự công bằng xã hội Nhà nước có thể sử dụng các công cụ kinh tế khác chứ không nên qui định hạn chế mức mua cổ phần của mọi người trong doanh nghiệp. * Sớm ban hành qui chế tuyển chọn và qui định rõ về chức năng quyền hạn của người đại diện phần vốn Nhà nước tại các công ty cổ phần. III. Hoàn thiện việc xác định giá trị doanh nghiệp khi tiến hành cổ phần hoá. Để chuyển doanh nghiệp Nhà nước sang công ty cổ phần phải tiến hành việc xác định giá trị doanh nghiệp, trong đó có xác định giá trị phần vốn của Nhà nước tại doanh nghiệp. Xác định giá trị doanh nghiệp không phải là công việc mang tính kỹ thuật nghiệp vụ thuần tuý, mà có ý nghĩa kinh tế - xã hội trọng yếu vì nó liên quan đến việc bảo toàn vốn của Nhà nước, đến quyền lợi của người lao động trong doanh nghiệp Nhà nước được cổ phần hoá và đến khả năng bảo đảm hiệu quả hoạt động sản xuất - kinh doanh của công ty cổ phần trong tương lai. Việc xác định giá trị thực tế của doanh nghiệp "là giá trị toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp tại thời điểm cổ phần hoá mà người mua, người bán cổ phiếu đều chấp nhận được" là phù hợp với nguyên tắc thị trường. Song việc áp dụng qui định này trong thực tế lại vấp phải nhiều khó khăn. Đó là: - Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường, các loại thị trường chưa phát triển đồng bộ. Hiện nay, Việt nam chưa có một phương pháp đánh giá tài sản doanh nghiệp thống nhất theo đúng chuẩn mực quốc tế. Việc tính toán và mua bán tài sản chưa có cơ sở, mang nhiều tính ước lệ, chủ quan. - Sự phức tạp này còn gia tăng bởi các yếu tố đi kèm như xử lý nợ khó đòi, thẩm định giá trị nhà xưởng máy móc thiết bị ( Có nhiều loại tài sản dùng trong doanh nghiệp Nhà nước đã hết thời hạn khấu hao lại được đánh giá và dùng lại, trình độ kỹ thuật hết sức thấp kém); quyền sử dụng đất (việc xác định giá trị này rất phức tạp do dính dáng tới hệ thống pháp luật về đất đai hiện đang trong quá trình chuyển đổi và chưa ổn định); tính toán lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp. - Hệ thống sổ sách kế toán của các doanh nghiệp chưa đầy đủ và rõ ràng gây khó khăn cho việc xác định chính sách giá trị doanh nghiệp. Việc xác định giá trị thực tế của doanh nghiệp cần đảm bảo: Không gây nên những thất thoát tài sản và vốn của Nhà nước; tạo tiền đề tài chính thuận lợi cho doanh nghiệp sau cổ phần hoá. Những nguyên tắc và phương pháp xác định giá trị thực tế của doanh nghiệp nêu trong nghị định 44/CP về cơ bản đáp ứng các yêu cầu này. Trong việc thực hiện thực tế cần chú ý thêm một vấn đề sau: * Phân loại các tài sản trước đây Nhà nước đầu tư cho doanh nghiệp Nhà nước để có biện pháp xử lý hợp lý.Theo đó: - Những tài sản của Nhà nước tại doanh nghiệp phù hợp với phương án kinh doanh mới của công ty cổ phần sẽ chuyển giao lại cho công ty cổ phần theo giá trị tại thời điểm chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần. - Những tài sản của Nhà nước không phù hợp với phương án kinh doanh mới sẽ chuyển giao lại cho Nhà nước để điều chuyển sang doanh nghiệp khác hoặc thanh lý, không ép buộc công ty cổ phần mới phải nhận. - Những tài sản đã hết tài sản khấu hao (tức là Nhà nước đã thu hồi vốn) sẽ được chuyển giao lại cho công ty cổ phần mà khôngtính vào giá trị của Nhà nước tại doanh nghiệp. * Với những tài sản trước đây doanh nghiệp Nhà nước vay vốn để đầu tư nay đã hoàn lại đủ vốn cho người cho vay, nên được chia thành hai phần: - Một phần thuộc sở hữu Nhà nước theo tinh thần doanh nghiệp của Nhà nước đầu tư, phần vốn tăng thêm thuộc sở hữu Nhà nước. - Một phần tính cho người lao động trong doanh nghiệp, coi đó là sự ưu đãi khuyến khích tích cực và chủ động phát triển vốn của người lao động trong doanh nghiệp. * Xác định hợp lý, hợp tình những tồn đọng tài chính mà công ty cổ phần có thể kế thừa từ doanh nghiệp Nhà nước. Có thể xoá bỏ cho doanh nghiệp những khoản nợ khó đòi, khoản lỗ phát sinh trong quá trình sản xuất - kinh doanh trước đây do những nguyên nhân khách quan (Ví dụ tình trạng lạm phát cao trong những năm đầu thập kỷ 90). * Nhà nước cần có cơ chế cụ thể xử lý đối với những tài sản và nợ loại ra khỏi giá trị doanh nghiệp, thành lập công ty quản lý tài sản và mua bán nợ để hỗ trợ các doanh nghiệp xử lý các vấn đề tồn tại về tài chính khi thực hiện đề án chuyển đổi sở hữu và giảm tối thiểu tổn thất của Nhà nước trong quá trình thuực hiện chuyển đổi sở hữu. Mặt khác, sự ra đời này giúp cho các doanh nghiệp lành mạnh hoá tình hình tài chính ngay trong quá trình sản xuất kinh doanh và hỗ trợ các doanh nghiệp cổ phần hoá không đủ điều kiện niêm yết thực hiện mua bán trao đổi cổ phiếu. * Đổi mới việc tổ chức xác định giá trị doanh nghiệp: - Thu hút các chuyên gia kinh tế - kỹ thuật của các cơ quan khoa học, các trường vào việc đánh giá tài sản. Thực sự tôn trọng ý kiến của các chuyên gia trong việc đánh giá giá trị thực tế của các tài sản. - Đề cao vai trò của đại diện doanh nghiệp trong việc xác định giá trị doanh nghiệp. Xét rộng ra có thể coi người đại diện này cũng chính là "đại diện của những người mua" theo tinh thần NĐ 44/CP đã xác định. Để thực sự quán triệt việc xác định giá trị doanh nghiệp theo nguyên tắc thị trường, theo đó người bán (Nhà nước) và người mua (đại diện các cổ đông của công ty cổ phần tương lai) thương lượng và thoả thuận với nhau về loại tài sản và giá cả của chúng, Nhà nước nên chuyển từ hội đồng xác định giá trị doanh nghiệp có tính chất áp đặt sang đấu giá tài sản của doanh nghiệp. Đây là công tác hết sức mới mẻ, cần tổ chức thí điểm rút kinh nghiệm trước khi triển khai rộng rãi trong thực tế. IV. Đổi mới tổ chức chỉ đạo thực hiện quá trình cổ phần hoá DNNN: 1. Xác định đối tượng thực hiện cổ phần hoá: Cần xác định có sự linh hoạt và mềm dẻo trong việc xác định DN cổ phần hoá trong từng thời kỳ để tránh sự gò ép. Việc xác định DN tiền hành cổ phần hoá nhất thiết phải trên cơ sở phân loại DN. Do vậy, việc phân loại DN phải tiến hành khẩn trương hơn. Từ sự phân loại DN đó, bản thân mỗi DN đã tự xác định sự tất yếu phải tiến hành cổ phần hoá. Cũng cần nhấn mạnh rằng khi cần chỉ định DN cổ phần hoá cần có sự trao đổi giải quyết vướng mắc tư tưởng cho đội ngũ lãnh đạo chủ chốt của DN. Đồng thời tăng cường công tác tuyên truyền về chủ trương cổ phần hoá trong DN cho người lao động trong DN. 2. Xây dựng và chỉ đạo thực hiện kế hoạch cổ phần hoá DNNN: Trong việc triển khai thực hiện cổ phần hoá, Ban đổi mới quản lý của DN cần chú ý tới nội dung sau: Xác định rõ những công việc phải quán xuyến trong toàn bộ quá trình cổ phần hoá (chẳng hạn công tác tuyên truyền, giải đáp thắc mắc của người lao động.) Trong việc tổ chức thực hiện cổ phần hoá DNNN cần chú ý tới một số vấn đề sau: - Đề cao trách nhiệm của Ban cổ phần hoá - Đơn giản hoá các thủ tục liên quan tới cấp giấy chứng nhận kinh doanh cho công ty cổ phần thành lập từ DNNN. Trong hồ sơ xin giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, cần tôn trọng những điểm mà công ty cổ phần đã kế thừa hợp lệ từ DNNN, như giấy phép sử dụng đất, đăng ký trụ sở... - Cổ phần hoá DNNN là công tác được tiến hành lâu dài. Bởi vậy để tổ chức công tác này một cách có hiệu quả cần tiến tới thành lập Ban chỉ đạo cổ phần hoá DNNN hoạt động có tính chất chuyên trách. Ban này sẽ trực thuộc trực tiếp UBND Tỉnh có trách nhiệm trực tiếp lập kế hoạch và tổ chức thực hiện các công tác liên quan đến chuyền DNNN thành công ty cổ phần và trợ giúp các DN sau khi cổ phần hoá. V. Tạo hành lang pháp lý ngày càng đồng bộ cho việc tổ chức và hoạt động của công ty cổ phần Tiến trình sắp xếp lại các DNNN và chuyển DNNN thành công ty cổ phần không ngoài việc là để các công ty hoạt động có hiệu quả hơn. Công ty cổ phần là kết quả của quá trình cổ phần hoá. Tuy nhiên, do tác động của yếu tố lịch sử, môi trường, thể chế cho hoạt động của các doanh nghiệp đang trong quá trình hình thành còn có những mặt thiếu ổn định và thiếu đồng bộ. Kinh nghiệm quản lý nội bộ của công ty cổ phần và quản lý Nhà nước với loại hình công ty này chưa nhiều. Bởi vậy, để phát huy vai trò của chúng trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước cần giải quyết nhiều vấn đề mà việc hoàn thiện thể chế pháp lý là một trong những vấn đề trọng yếu. Trong quá trình này, việc đòi hỏi sự đồng bộ các yếu tố pháp lý ngay trong điều kiện hiện nay là điều không thực tế. Việc vội vã ban hành các văn bản pháp qui không hợp lý, để rồi trong thời gian ngắn sau đó điều chỉnh hoặc thay thế bằng văn bản khác sẽ tạo ra những bất định trong môi trường kinh doanh. Có 3 vấn đề lớn sau: 1. Chú trọng hướng dẫn việc thi hành các điều khoản về công ty cổ phần trong Luật Doanh nghiệp. Luật Doanh nghiệp có hiệu lực thi hành từ 01/01/2000 là một bước quan trọng trong việc tạo ra khuôn khổ pháp lý bình đẳng cho các loại hình tổ chưcs kinh doanh trong nền kinh tế thị trường ở Việt nam. Các cơ quan quản lý Nhà nước cần chú trọng việc phổ biến, tuyên truyền và giải thích Luật Doanh nghiệp để công ty cổ phần hoạt động có hiệu quả. 2.Phát huy vai trò của thị trường chứng khoán trong việc hình thành và phát triển công ty cổ phần: Trong luật doanh nghiệp đã quy định những điều khoản chung về công ty cổ phần phát hành cổ phiếu. Nói chung, đây là một công việc mới mẻ và hết sức phức tạp. Bởi vậy, Nhà nước cần có hướng dẫn cụ thể cho các công ty cổ phần về việc phát hành cổ phiếu, tạo điều kiện cho các công ty hoạt động có hiệu quả có thể huy động thêm vốn phát triển sản xuất kinh doanh. Việc hình thành thị trường chứng khoán có vai trò to lớn với công ty cổ phần và quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. Với công ty cổ phần thị trường chứng khoán có hai tác dụng lớn: * Giúp công ty cổ phần tạo vốn và tăng vốn. - Tạo vốn: Khi mới thành lập, công ty cổ phần có thể tạo vốn bằng cách phát hành cổ phiếu, bán chúng ở thị trường chứng khoán để huy động vốn ban đầu. - Tăng vốn: Trong quá trình hoạt động, khi phát sinh nhu cầu tăng vốn vượt quá khả năng tự có của mình, công ty cổ phần có thể tăng vốn bằng cách phát hành cổ phiếu ở thị trường chứng khoán, người mua cổ phiếu là người hùn thêm vốn vào công ty cổ phần. * Giúp công ty cổ phần thấy rõ công chúng xác định giá trị liên tục của mình qua việc định mức giá thị trường cổ phần của công ty. Giá thị trường của công ty cổ phần được đo lường từ giá thị trường cổ phần và tổng số cổ phần cuả công ty. Dựa vào giá chứng khoán diễn biến liên tục trên thị trường, công ty cổ phần sẽ biết được lòng tin và đánh giá của công chúng với kết quả hoạt động và triển vọng phát triển của mình. Theo đó, rõ ràng là khi thị trường chứng khoán ra đời và hoạt động việc tổ chức và hoạt động của công ty cổ phần có nhiều thuận lợi hơn. Nhưng trong điều kiện hiện nay của nước ta, không thể chờ đợi có thị trường chứng khoán mới tiến hành cổ phần hoá, mà chính việc hình thành công ty cổ phần từ thành lập mới hoặc từ chuyển đổi doanh nghiệp Nhà nước lại tạo ra những điều kiện tiền đề cho sự hình thành vững chắc thị trường chứng khoán: Tạo các chủ thể mua bán và tạo hàng hoá cho thị trường chứng khoán. Thông qua thị trường chứng khoán, các doanh nghiệp Nhà nước có thể giải toả được khoản nợ khó đòi bằng cách số nợ của doanh nghiệp có thể được xử lý bằng biện pháp “chứng khoán hoá” các khoản nợ. Tức là chia nhỏ các khoản nợ thành các chứng khoán có mệnh giá thấp để bán trên thị trường chứng khoán. Điều này nếu thực thi sẽ giúp các doanh nghiệp có tình trạng tài chính lành mạnh hơn, từ đó hấp dẫn cổ đông và tạo điều kiện để doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, theo tiêu chuẩn mà UB Chứng khoán Nhà nước qui định, để đảm bảo chất lượng hàng hoá ra thị trưòng tập trung, các công ty muốn niêm yết và phát hành cổ phiếu trên thị trường phải có số vốn tối thiểu là 10 tỷ đồng, hoạt động kinh doanh có lãi 2 năm liên tục. Thực tế, số lượng doanh nghiệp cổ phần mạnh và để điều kiện niêm yết chỉ chiếm 1/10 tổng số các doanh nghiệp đã được cổ phần hoá. Tuy nhiên, nếu noí lỏng điều kiện niêm yết sẽ có nguy cơ làm mất tính ổn định của thị trường chứng khoán do lưu hành các loại hàng hoá không đủ chất lượng của doanh nghiệp cổ phần. Thực tế thị trưòng chứng khoán cần có thêm số lượng và hàng hoá lưu hành nhưng lời giải cho bài toán này vẫn là một ẩn số. Xúc tiến cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước với sự hỗ trợ của thị trường chứng khoán có ý nghĩa lớn cả về mặt tâm lý và điều kiện cổ phần hoá. Do đó, Nhà nước cần sớm hoàn thiện cơ chế hoạt động của thị trường chứng khoán nói chung và thị trường cổ phiêú nói riêng để tạo ra một công cụ hỗ trợ đắc lực, thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp cổ phần hoá. 3. Nhà nước cần sớm đưa ra văn bản pháp qui hướng dẫn về việc đánh giá, xếp hạng doanh nghiệp cổ phần. Đánh giá xếp hạng doanh nghiệp là sự đo lường nhằm xác định vị thế hiện tại, từ đó đưa ra dự báovề triển vọng của doanh nghiệp. Trong bối cảnh môi trường kinh doanh luôn luôn biến động, xu thế toàn cầu hoá đang diễn ra từng ngày từng giờ, việc phải tìm cách nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là hết sức cần thiết, khiến các doanh nghiệp phải luôn tục đổi mới để tồn tại và phát triển. Để trụ vưng trong môi trường như vậy, các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp cổ phần thường muốn biết rõ tình trạng “sức khỏe” của mình, trên cơ sở đó đề ra các kế hoạch điều chỉnh các hoạt động kinh doanh nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh. Điều này cho thấy việc đánh giá, xếp hạng doanh nghiệp cổ phần trở thành nhu cầu mang tính bức xúc. Việc đánh giá, xếp hạng doanh nghiệp cổ phần cũng rất cần thiết đối với các chủ nợ và chủ sở hữu doanh nghiệp vì qua đó họ có thể bảo vệ quyền lợi của mình trong doanh nghiệp. Chẳng hạn các cổ đông lớn của doanh nghiệp có thể dựa trên kết quả đánh giá mà quyết định tiếp tục ủng hộ Ban lãnh đạo hay phải thay thế họ. Đối với các nhà đầu tư chứng khoán, các cổ đông tiềm năng, thì kết quả đánh giá doanh nghiệp là cơ sở để họ quyết định đặt đồng vốn vào hay rút khỏi doanh nghiệp đó. Đối với các chủ nợ hiện tại, thì họ sẽ dựa vào kết quả đánh giá doanh nghiệp mà quyết định cho vay hoặc từ chối. Khủng hoảng tài chính Châu á cho thấy, do không đánh giá đúng tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong ngành kinh doanh bất động sản, nên các ngân hàng, các nhà đầu tư đã cho vay nhiều triệu USD. Sau khi những khách hàng này mất khả năng thanh toán thì các chủ nợ cũng bị phá sản theo. Riêng với khách hàng lớn, việc đánh giá doanh nghiệp chủ yếu nhằm xác định mức độ ổn định đối với nguồn nhiên liệu hay bán thành phẩm mà họ mua từ doanh nghiệp khác vì khi nhà cung ứng bị mất khả năng cung ứng nguyên liệu thì sản xuất của doanh nghiệp thường bị đình trệ, gây thiệt hại không nhỏ. Còn với nhà cung cấp, việc đánh giá doanh nghiệp lại nhằm xác định khă năng thanh toán các khoản tiền mua hàng của doanh nghiệp khách hàng và hạn chế tình trạng phát sinh các món “nợ khó đòi”, giúp nhà cung cấp đánh giá triển vọng hay khả năng trả nợ của khách hàng trong tương lai. Đối với đối thủ cạnh tranh, việc đánh giá doanh nghiệp nhằm biét rõ tiềm lực mọi mặt của doanh nghiệp cạnh tranh và triển vọng tương lai của nó ddể có thể sớm đưa ra những quyết định hoặc có giải pháp chống lại sự tấn công của các đối thủ. ở cấp vĩ mô, trên cơ sở đánh giá các doanh nghiệp, Nhà nước có thể đưa ra những quyết định liên quan đến doanh nghiệp như chính sách thuế, chính sách hỗ trợ đầu tư, tài trợ tín dụng...nhằm cải thiện các điều kiện của môi trường kinh doanh. Sự “đổ bể” của một số doanh nghiệp tại Việt nam trong những năm gần đây cho thấy các biện pháp đánh giá doanh nghiệp theo hướng chỉ chú trọng đến phương diện tài chính đã tỏ ra không hữu hiệu và dễ dàng bị vô hiệu hoá. Hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp là hệ quả tổng hợp xuất phát từ nhiều phương diện bao gồm: những tác động của môi trường kinh doanh, cho tới các quyết định quản trị trong doanh nghiệp hay chất lượng của đội ngũ nhân sự...Tình hình trên đòi hỏi các cơ quan chức năng cần phải có chính sách phù hợp dựa trên kết quả đánh giá thật xác thực các doanh nghiệp để giúp các đơn vị này nâng cao hiệu quả kinh doanh Kết luận Sắp xếp lại và đổi mới quản lý doanh nghiệp Nhà nước là nhiệm vụ trọng yếu và phức tạp phải thực hiện trong quá trình đổi mới kinh tế, chuyển nền kinh tế từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cổ phần hoá là một trong những nội dung quan trọng của quá trình sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước. Trong những năm qua, chủ yếu là trong những năm 1999-2000, Tỉnh Hải dương đã đạt được những kết quả tích cực trong việc chuyển một số doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần. Tuy nhiên, các kết quả đạt được ban đầu tuy khả quan nhưng còn chứa đựng rất nhiều thiếu sót cần được làm rõ và khắc phục. Chính vì vậy, trong thời gian thực tập tại Sở Kế hoạch và Đầu tư Hải dương (Cơ quan thường trực chỉ đạo Ban đổi mới quản lý doanh nghiệp Nhà nước của Tỉnh), em đã lựa chọn đề tài “Một số giải pháp nhằm thúc đẩy quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước Tỉnh Hải dương” với hy vọng qua đó làm rõ những vướng mắc và từng bước nêu ra những giải pháp nhằm góp phần đẩy mạnh công tác này. Tuy nhiên, do trình độ nhân thức còn nhiều hạn chế và những kiến thức trong lĩnh vực cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nưóc còn chưa được sâu sắc nên luận văn sẽ không thể tránh khỏi có những sai sót cũng như những quan điểm thiếu tính khách quan . Vì vậy, em mong có được những nhận xét đánh giá của thầy cô để luận văn của em đảm bảo các yêu cầu nghiên cứu cũng như có tính khả thi trong thực tế. Em xin chân thành cảm ơn. liệu tham khảo: Văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ VIII. Luật Doanh nghiệp Hệ thống các văn bản về đổi mới quản lý doanh nghiệp Nhà nước. Văn bản hướng dẫn cổ phần hoá DNNN tại Việt nam (NXB Thống kê năm 1999) Các văn bản hướng dẫn thành lập công ty cổ phần-UBND Tỉnh Hải Dương năm 2000. Báo cáo - Tổng kết tình hình đổi sắp xếp DNNN năm 2000 đối với các doanh nghiệp thuộc địa phương quản lý trên địa bàn Tỉnh Hải dương-UBND Tỉnh Hải dương, Ban đổi mới quản lý doanh nghiệp Tỉnh. Tạp chí cộng sản số 22 tháng 11 năm 2000 - Phan Thế Hải: Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước 8 năm nhìn lại. Nguyễn Kế Tuấn: Cổ phần hoá các DNNN - Mục tiêu thực trạng và kiến nghị. Tạp chí Kinh tế và Phát triển, năm 1997 PTS. Đoàn Văn Hạnh - Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước và chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần. Vì sao tiến độ cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước chậm - Báo Nhân dân, ngày 02 tháng 7 năm 2000. Giải quyết lao động dôi dư trong doanh nghiệp cổ phần hoá - Tạp chí Đầu tư chứng khoán Số 73 - 74 ngày 27 tháng 4 năm 2001 Thị trường chứng khoán thúc đẩy cổ phần hoá - Tạp chí Đầu tư chứng khoán số 46, ngày 20 tháng 10 năm 2000

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc4601.doc
Tài liệu liên quan