Đề tài Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác lập và phân tích báo cáo tài chính

Luật thuế GTGT là luật thuế mới được đi vào áp dụng năm 1999, để hiểu nó đã khó, áp dụng nó lại càng khó hơn. Từ trước đến nay chưa có luật thuế nào có nhiều Thông tư hướng dẫn, bổ sung và sửa đổi như thuế GTGT. Trong đó, có hướng dẫn lập phần III- Thuế GTGT được khấu trừ, được miễn giảm, được hoàn lại và đã đưa ra mẫu sổ hạch toán chi tiết thuế GTGT được khấu trừ, được hoàn lại, được miễn giảm của BCKQHĐKD. Nếu căn cứ vào mẫu sổ này ta sẽ nhận thấy được dễ dàng thuế GTGT được khấu trừ, được hoàn lại, được miễn giảm phát sinh tăng, giảm khi nào, vì sao lại phát sinh và đồng thời đây cũng là căn cứ để lập BCKQHĐKD- phần III. Do vậy, việc áp dụng mẫu sổ kế toán chi tiết thuế GTGT được khấu trừ, được hoàn lại, được miễn giảm là cần thiết (Mẫu sổ xem Phụ lục 3.2). Mặt khác, Nhà máy nên lập thêm cột “Kỳ này” và cột “Kỳ trước” ở BCKQHĐKD.

doc107 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1269 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác lập và phân tích báo cáo tài chính, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hoả đáng được vì kỳ thu tiền gần 3 tháng thì vẫn quá chậm, làm khoản vốn của Nhà máy bị chiếm dụng quá lâu. Do đó, sẽ gây bất lợi cho hoạt động kinh doanh. Xét vòng quay HTK: Tương tự các khoản phải thu, HTK của Nhà máy cũng chiếm tỷ trọng lớn. Vì vậy, cần xem xét vòng quay HTK để xem xét tốc độ luân chuyển từ đó đánh giá được mức độ ảnh hưởng của nó đến rủi ro TC. Qua hệ số vòng quay HTK có thể thấy, nếu rút ngắn được chu kỳ sản xuất, sản xuất đến đâu bán hết đến đó sẽ làm giảm HTK, do đó làm tăng hệ số vòng quay HTK và lúc này rủi ro về TC sẽ giảm và ngược lại. Mặt khác, khi hệ số vòng quay HTK tăng, thời hạn hàng hoá ở trong kho sẽ ngắn, làm giảm được chi phí bảo quản, giảm được hao hụt và do đó làm tăng hiệu quả việc quản lý vốn lưu động của Nhà máy. Trong phân tích: HTK không bao gồm NVL, CCDC và chi phí sản xuất kinh doanh dở dang. Căn cứ vào bảng D2 trong 3 năm 2000, 2001, 2002 thì vòng quay HTK của năm 2000 là lớn nhất, nghĩa là thời gian sản phẩm, hàng hoá ở trong kho ngắn nhất (bình quân hơn 45 ngày tức là một năm HTK quay được gần 8 lần), năm 2002 và năm 2001 vòng quay HTK giảm xuống, cụ thể năm 2001 là 6,1 lần, năm 2002 thấp hơn là 3,71 lần. Như vậy, HTK ngày càng nhiều, hệ số vòng quay còn chậm, rủi ro TC ở Nhà máy ngày càng cao, có nguy cơ ứ đọng vốn và tăng nhu cầu tài trợ về TSLĐ. Đây là vấn đề mà các nhà quản trị cần chú ý để giải quyết. HTK càng nhiều, vốn càng “bị chết” dẫn đến tình trạng rủi ro TC cao và ảnh hưởng đến lợi nhuận của Nhà máy. Phân tích hệ số thanh toán lãi vay: Hệ số thanh toán lãi vay = Lãi thuần từ hoạt động kinh tế Lãi vay phải trả Chỉ tiêu này chỉ ra rằng, nếu hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả, Nhà máy không những hoàn trả được vốn vay mà còn trả được lãi tiền vay. Do đó, Nhà máy dễ dàng vay vốn của Ngân hàng, rủi ro về TC cũng giảm và ngược lại. Qua bảng D3 cho thấy: Lãi vay trước thuế ngày càng tăng, lãi vay cũng ngày càng tăng nhưng không đồng đều làm cho hệ số thanh toán lãi vay cũng tăng, giảm không đồng đều. Cụ thể năm 2000 là 3,69 năm 2001 là 2,7, năm 2002 là 3,54. Năm 2001 giảm so với năm 2000 là 37%, năm 2002 tăng so với năm 2001 là 31%. Như vậy, đến năm 2002 Nhà máy đã có khả năng trả lãi vay Ngân hàng hơn so với năm 2001. Trên cơ sở đó có điều kiện huy động được vốn vay khi có nhu cầu, đồng thời rủi ro TC đã giảm xuống. 2.2.2.3.5. Phân tích hiệu quả việc quản lý sử dụng vốn cố định và vốn lưu động Để tiến hành sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp phải có một khối lượng nhất định về vốn. Nói cách khác, vốn là yếu tố có tính chất quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Nhu cầu về vốn của doanh nghiệp, theo nghị định 59/CP do Nhà nước đầu tư một phần còn lại do doanh nghiệp tự huy động. Kết quả của việc quản lý, sử dụng vốn ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả kinh doanh của Nhà máy, như vậy ảnh hưởng đến giá trị sản xuất, DT, lợi nhuận của Nhà máy. Việc phân tích khả năng sinh lời của Nhà máy mới chỉ dừng lại ở phân tích khả năng sinh lời của doanh thu, tài sản và vốn chủ sở hữu. Nhưng để đưa ra giải pháp hữu hiệu cần phân tích thêm hiệu quả sử dụng vốn lưu động và vốn cố định. Phân tích hiệu quả sử dụng vốn lưu động (VLĐ): ở phần phân tích trước, nhận thấy rằng HTK và các khoản phải thu năm 2001 giảm nhưng đến năm 2002 tăng lên làm cho vòng quay HTK và các khoản phải thu chậm, dẫn đến tình trạng sử dụng VLĐ kém đi. Để thấy rõ hơn tình hình này, cần phân tích hiệu quả sử dụng VLĐ của Nhà máy. Qua bảng E cho thấy: Nhà máy sử dụng VLĐ không đồng đều, tăng dần. Năm 2000 VLĐ bình quân gần 200 tỷ đồng, đến năm 2001 tăng lên 1,03 lần so với năm 2000. Với nhu cầu VLĐ bình quân hơn 101 tỷ đồng. Năm 2002 tăng 1,01 lần so với năm 2001 và VLĐ bình quân tăng lên hơn 109 tỷ đồng. Nhưng lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh lại không tăng như vậy. Năm 2000 Nhà máy đạt hơn 1 tỷ đồng, năm 2001 lại tăng đến 9,25 lần tức hơn 10 tỷ đồng - tăng quá lớn. Nhưng sang năm 2002 lại giảm xuống chỉ còn hơn 9 tỷ đồng, giảm 13%. Như vậy, nhu cầu VLĐ ngày càng nhiều mà hiệu quả sử dụng VLĐ lại không tăng lên. Cụ thể: hiệu quả sử dụng của TSLĐ năm 2000 là 0,01 (có nghĩa một đồng VLĐ tạo ra 0,01 đ lợi nhuận), năm 2001 là 0,11; năm 2002 lại chỉ 0,09. Như thế, tốc độ tăng giảm không đồng đều. Năm 2001 tăng vọt lên, năm 2002 lại giảm xuống. Năm 2001 tăng 11% so với năm 2000, còn năm 2002 lại giảm 18%. Đây là một vấn đề mà các nhà Quản trị cần tìm hiểu vì sao năm 2001 lại tăng vọt còn năm 2002 lại bị giảm xuống, không duy trì được như năm 2001. Đó là do việc quản lý VLĐ chưa tốt. Vòng luân chuyển TSLĐ thì tăng lên từ năm 2000 đến năm 2002. Năm 2000 VLĐ luân chuyển được 1,5 lần; năm 2001 luân chuyển được 1,51 lần còn đến năm 2002 lại tăng lên 1,94 lần. Vì vòng luân chuyển ngày càng lớn nên số ngày luân chuyển ngày càng ít. Cụ thể: năm 2000 số vòng luân chuyển là gần 8 tháng, năm 2001 là hơn 7 tháng, còn năm 2002 là hơn 6 tháng. Đây là điều tốt đối với Nhà máy. Qua đây, ta cũng tính được số tiền tiết kiệm hay lãng phí của VLĐ trong năm (theo công thức (*) ở bảng E1). Theo tính toán cho thấy: Năm 2001 Nhà máy đã sử dụng tiết kiệm 523.839.193đ so với năm 2000 và năm 2002 sử dụng tiết kiệm 31.689.682.015đ so với năm 2001, đây là điều đáng ghi nhận. Nhà máy cần tiếp tục phát huy hơn nữa. Mặc dù năm 2002 hiệu quả sử dụng VLĐ có giảm nhưng vì DT thuần tăng, số ngày luân chuyển VLĐ giảm nên số VLĐ vẫn được tiết kiệm. Vì vậy, đó không hẳn là điều không tốt đối với Nhà máy. Phân tích hiệu quả sử dụng TSCĐ: Theo chuẩn mực kế toán Quốc tế số 16 (IAS 16), tài sản được sử dụng trong quá trình sản xuất, cung cấp hàng hoá dịch vụ, hoặc cho các mục đích hành chính và có thời gian sử dụng nhiều hơn một kỳ kế toán được gọi là TSCĐ. TSCĐ là khoản đầu tư nhằm mục đích sử dụng lâu dài của Nhà máy. Quá trình đầu tư đó được coi là có hiệu quả hay không còn phụ thuộc vào khả năng sử dụng chúng để tạo ra DT, lợi nhuận và thời gian hoàn vốn mong muốn. Việc phân tích hiệu quả sử dụng TSCĐ sẽ được xem xét theo hai nội dung: Nguyên giá bình quân và giá trị còn lại của TSCĐ. Qua bảng E2 cho thấy Nguyên giá TSCĐ năm 2001 tăng so với năm 2002 rất nhiều, tăng 2,53 lần, còn sang năm 2002 thì lại giảm xuống 0,59 lần. Năm 2002 Nguyên giá TSCĐ là 103.354.252.819đ, năm 2001 là 175.628.584.758đ và năm 2000 là 69.660.750.855đ. Điều đó chứng tỏ qua các năm Nhà máy đã chú trọng đầu tư mua sắm TSCĐ, nhưng năm 2002 lại giảm xuống so với năm 2001 song vẫn kém hơn năm 2000. Tuy nhiên để xem hiệu quả sử dụng, ta xem xét hiệu quả sử dụng và khả năng sinh lời của chúng. Trong 3 năm 2000, 2001 và năm 2002: năm 2000 hiệu quả sử dụng của TSCĐ là cao nhất (2,13), rồi đến năm 2002 (2,06). ở 2 năm này TSCĐ đầu tư ít nhưng tạo ra DT tương đối cao - một đồng tạo ra 2,13 đ DT, năm 2000 và năm 2002 là 2,06đ. Năm 2001 giảm đi 0,41 lần còn năm 2002 tăng 2,37 lần so với năm 2001. Cùng với hiệu quả sử dụng VCĐ, khả năng sinh lời cũng tăng dần do lợi nhuận ngày càng tăng tương đối. Cụ thể, năm 2000 một đồng TSCĐ tạo ra được 0,02 đ lợi nhuận. Năm 2001, một đồng Nguyên giá TSCĐ tạo ra được 0,06đ lợi nhuận; tăng gấp 3 lần so với năm 2000, năm 2002, một đồng Nguyên giá TSCĐ tạo ra được 0,08đ lợi nhuận, tăng 1,33 lần so với năm 2001. Như vậy, khả năng sinh lời của TSCĐ ngày càng tăng lên, chỉ có điều năm 2001 tăng nhanh hơn năm 2002. Nhìn chung, nếu chỉ đứng trên góc độ xét Nguyên giá TSCĐ bình quân để đánh giá hiệu quả sử dụng TSCĐ, kết luận hiệu quả sử dụng TSCĐ của Nhà máy là ngày càng tốt. Nhưng chỉ xét ở góc độ Nguyên giá thì chưa đủ để phản ánh đúng hiệu quả sử dụng vì có thể những TSCĐ đã mua sắm từ lâu và được khấu hao gần hết, năng lực sản xuất cũng bị giảm dần. Nếu đứng trên góc độ xem xét Nguyên giá TSCĐ để đánh giá thì có thể bị sai lệch. Vì thế, ta cần xem xét hiệu suất sử dụng giá trị còn lại của TSCĐ và hiệu quả sử dụng giá trị còn lại của TSCĐ. Khi đó, việc đánh giá hiệu quả sử dụng VCĐ sẽ được chính xác hơn. Giá trị còn lại của TSCĐ năm 2000 là: 27.795.216.377đ, năm 2001 giảm xuống 27.765.455.420đ tương ứng 0,01 lần. Nhưng đến năm 2002 lại 33.346.505.243đ, tăng 1,21 lần so với năm 2001. Năm 2002, một đồng giá trị còn lại của TSCĐ tạo ra được 5,35đ DT. Năm 2001 là 5,48đ và năm 2002 là 6,42đ. Kết luận, hiệu suất ngày càng tăng. Đây là dấu hiệu tốt đối với Nhà máy. Nếu kết hợp với việc xem xét khả năng sinh lời giá trị còn lại của TSCĐ thì tuy hiệu suất sử dụng giá trị còn lại của TSCĐ càng ngày càng tăng nhưng hiệu quả sử dụng giá trị của TSCĐ không phải vậy. Năm 2000 hiệu quả sử dụng giá trị còn lại của TSCĐ là 0,04; năm 2001 là 0,39 tăng lên 9,75 lần, nhưng sang năm 2002 là 0,27 lần, đã giảm đi 0,69 lần so với năm 2001. Vậy, mức sinh lời của năm 2001 so với năm 2000 tốt còn năm 2002 so với năm 2001 không tốt, mặc dù nó lớn hơn năm 2000. Nếu nhìn một cách tổng quát, xét hiệu quả sử dụng TSCĐ trên cả hai góc độ: Nguyên giá TSCĐ và giá trị còn lại ta đi đến kết luận là việc quản lý và sử dụng TSCĐ của Nhà máy có hiệu quả nhưng nếu xét chi tiết thì chưa được như vậy.Và đây cũng là thành tích của Nhà máy trong 3 năm qua. Theo số liệu kỳ kế toán trước thì trong 3 năm 1998, 1999, 2000 việc quản lý và sử dụng TSCĐ chưa có hiệu quả. Đây là sự cố gắng nổ lực rất lớn của toàn Nhà máy, cần nâng cao và phát huy hơn nữa về khía cạnh này, giúp lợi nhuận của Nhà máy ngày càng nhiều, đứng vững trong môi trường cạnh tranh gay gắt của nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. 2.3. Một số so sánh giữa việc lập và phân tích BCTC giữa Kế toán Việt Nam và Kế toán Quốc tế 2.3.1. So sánh với chuẩn mực kế toán Quốc tế Trong quan hệ hội nhập với thế giới, với tư cách là một thành viên, Việt Nam đang từng bước tiếp cận dần với các chuẩn mực kế toán Quốc tế. Về cơ bản, quá trình lập, phân tích BCTC, nước ta cũng được tiến hành tương tự như quá trình lập, phân tích BCTC theo kế toán Quốc tế, tuân theo các chuẩn mực kế toán được chấp nhận rộng rãi. Tuy nhiên, do điều kiện cũng như trình độ chưa hoàn toàn bắt kịp với thế giới, những công việc trên ở Việt Nam vẫn còn một số khác biệt. Theo chuẩn mực kế toán Quốc tế số 1(IAS – Internationnal Accauting Standard-1) hệ thống đầy đủ các BCTC bao gồm: Bảng tổng kết tài sản, Báo cáo thu nhập, Thay đổi vốn cổ đông, BCLCTT, Chế độ kế toán và thuyết minh. Ngoài các BCTC, các tổ chức thường được khuyến khích cung cấp các thông tin TC và phi TC khác có liên quan. Trong khi đó, hệ thống BCTC theo chuẩn mực kế toán do Bộ tài chính ban hành bao gồm: BCĐKT, BCKQHĐKD, BCLCTT, Thuyết minh BCTC. Theo IAS số 7 (đã sửa đổi năm 1992 được thông qua vào tháng 7 năm 1997) yêu cầu tất cả các doanh nghiệp phải trình bày BCLCTT vì 1 BCLCTT khi được dùng cùng với các phần khác của các BCTC sẽ cung cấp thông tin giúp cho người sử dụng đánh giá các thay đổi trong các tài sản ròng của doanh nghiệp, cơ cấu TC của nó (kể cả tính thanh toán và khả năng thanh toán) và khả năng của một doanh gnghiệp trong việc cải tạo ảnh hưởng tới số lượng các yếu tố thời gian của các luồng tiền nhằm thích nghi với các điều kiện và cơ hội luôn thay đổi. Thông tin về luồng tiền rất hữu dạng cho việc đánh giá khả năng của doanh nghiệp, tạo ra tiền và các khoản tương đương tiền giúp người sử dụng phát triển các mô hình đánh giá và so sánh giá trị hiện tại của các luồng tiền trong tương lai của các doanh nghiệp khác nhau. Bởi vì, nó loại trừ các ảnh hưởng của việc sử dụng các phương pháp Hạch toán kế toán khác nhau cho cùng các giao dịch hiện tượng. Thông tin luồng tiền gốc thường được sử dụng như một chỉ số về số lượng thời gian và mức độ chắc chắn của các luồng tiền trong tương lai. Nó cũng hữu ích trong việc kiểm tra tính chính xác của các đánh giá trước kia về các luồng tiền trong tương lai và trong việc kiểm tra mối quan hệ giữa khả năng sinh lời và luồng tiền ròng cùng các thay đổi về giá. Trong lúc đó, tại Việt Nam BCLCTT không phải là BCTC bắt buộc mà chỉ khuyến khích sử dụng. Không những thế, theo IAS, BCLCTT được lập cho doanh nghiệp không phải là một tổ chức tài chính với mẫu biểu khác nhau, còn nước ta tất cả các doanh nghiệp đều lập BCLCTT theo mẫu B03- DN do Bộ tài chính ban hành. 2.3.2. So sánh với kế toán các nước Hệ thống BCTC của Việt Nam là một bộ báo cáo gồm 4 bản báo cáo kế toán liên quan với nhau… BCTC của Mỹ gồm 4 báo cáo: BCĐKT, BCLCTT, Báo cáo thu nhập, Báo cáo vốn chủ sở hữu và đính kèm theo là các thuyết minh giải thích sự biến động của các báo cáo trên. Do điều kiện kinh tế Mỹ phát triển cao với nhiều hình thức sở hữu tương ứng với các loại hình công ty khác nhau. Một công ty có thể gồm nhiều sở hữu nên cần thiết phải có một báo cáo theo dõi chi tiết sự biến động về vốn chủ sở hữu. Còn ở Việt Nam, nền kinh tế thị trường chủ yếu tồn tại nhiều loại hình doanh nghiệp một hoặc một vài chủ sở hữu nên báo cáo vốn chủ sở hữu chưa được đề cập tới. Trong BCĐKT ở Việt Nam, các khoản mục bên tài sản thường được liệt kê theo tính giảm dần của khả năng chuyển đổi thành tiền của các loại tài sản từ tiền mặt đến các khoản đầu tư rồi đến TSCĐ còn BCĐKT Pháp lại sắp xếp các khoản mục này theo hướng ngược lại. Đồng thời các loại TSCĐ được thể hiện trên BCĐKT Pháp với số liệu là Nguyên giá bất động sản sau khi trừ đi các khoản khấu hao. Do đó, trên BCĐKT Pháp không xuất hiện khoản mục khấu hao bất động sản, chỉ có khoản mục dự phòng theo quy định xuất hiện bên phần nguồn tài trợ. Theo kế toán Việt Nam, đất đai chỉ được theo dõi về mặt quyền sử dụng đất và được xếp vào loại TSCĐ vô hình, có tính khấu hao hàng tháng. Còn theo kế toán Pháp, Mỹ thì đất đai được theo dõi như một loại tài sản nhưng không được tính khấu hao chỉ trừ đất đai có hầm mỏ và nhà cửa; do đất đai là tài sản sử dụng lâu dài và không thể ước tính được thời gian sử dụng loại tài sản này. Nhưng ở Việt Nam đất đai thuộc quyền sở hữu Quốc gia nên các doanh nghiệp chỉ có quyền sử dụng và phải tính khấu hao. BCTC Việt Nam sau khi lập thường chỉ được kiểm tra lại bởi người lập báo cáo và hàng năm cơ quan thuế có xuống từng đơn vị để kiểm tra các doanh nghiệp chưa có thói quen kiểm tra bởi cơ quan kiểm toán độc lập tiến hành. Còn ở Mỹ, các BCTC đều được hai bộ phận Kiểm toán nội bộ và Kiểm toán độc lập kiểm toán thường xuyên, đều đặn. Việc tiến hành phân tích BCTC ở nước ta cũng sử dụng các chỉ tiêu, tỷ suất cơ bản giống các nước khác. Nhưng ở Mỹ, do thông tin tài chính phát triển nên việc phân tích còn phải đề cập đến mảng hoạt động sôi động của các công ty, đó là đầu tư chứng khoán, cổ phiếu. Do đó, việc phân tích có sử dụng một số chỉ tiêu sau: Tỷ suất chuyển đổi dòng tiền = Tiền mặt + chuyển khoản + dòng tiền từ HĐKD Nợ ngắn hạn Chỉ tiêu này phản ánh khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của doanh ngiệp từ các khoản có thể coi là tiền Tỷ suất lợi nhuận thu được từ giá cả = Giá thị trường cổ phiếu của cổ phiếu tháng Thu nhập mỗi cổ phiếu Tỷ suất trả cổ tức = Mức cổ tức trả cho mỗi cổ phiếu Nợ ngắn hạn Chương III Một số ý kiến nhằm hoàn thiện tổ chức kế toán lập và phân tích BCTC trong Nhà máy thiết bị Bưu điện Hà Nội Phương hướng kinh doanh của NM trong những năm tới Mặc dù gặp nhiều khó khăn nhưng Nhà máy cũng đã và đang cố gắng hết sức để vô hiệu hoá chúng và phát huy lợi thế của mình trong những năm tới. Mục tiêu trước mắt cần đặt ra cho Nhà máy hiện nay là phấn đấu trong năm 2003 tổng Doanh thu sẽ là 250 tỷ VND và lợi nhuận sẽ là 15 tỷ VND. Thu nhập lao động bình quân sẽ là 1,8 triệu đồng/1 người/1 tháng. Đây là con số mà toàn thể Nhà máy cần phải nổ lực phấn đấu rất nhiều nếu không nói là rất khó có thể thực hiện được. Định hướng phát triển của Nhà máy giai đoạn 2003-2007 như sau: (Xem sơ đồ 2.1) Đổi mới công nghệ. Đầu tư chiều sâu. Tăng sản lượng. Tăng doanh thu. Tăng lợi nhuận. Tăng thu nhập của cán bộ công nhân viên. Tăng khoản nộp Ngân sách. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác lập và phân tích BCTC Yêu cầu của nội dung hoàn thiện Qua thực trạng lập và phân tích BCTC tại Nhà máy Thiết bị Bưu điện, dựa trên định hướng xây dựng BCTC thực tiễn việc lập và phân tích BCTC của một số doanh nghiệp khác, xin đề xuất một số ý kiến nhằm nâng cao chất lượng công tác lập BCTC tại các doanh nghiệp hiện nay nói chung và tại Nhà máy nói riêng nhằm đảm bảo yêu cầu: Công tác kế toán tiến hành phải đúng với chế độ kế toàn hiện hành. Công tác kế toán phải phù hợp với đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Công tác lập và phân tích phải kịp thời, có hiệu quả và thuận tiện. Thông tin trên BCTC đảm bảo tính trung thực và khách quan. Nội dung hoàn thiện Thứ nhất: Phân công trách nhiệm trong công tác lập BCTC. Hệ thống BCTC doanh nghiệp hiện nay ở Việt Nam được quy định trong QĐ số 167/2000/QĐ-BTC ngày 25/10/2000 của Bộ trưởng Bộ Tài chính với bốn báo cáo. Theo quy định gồm các chỉ tiêu liên quan đến nhiều hoạt động kinh tế tài chính; vừa mang tính tổng quát vừa chi tiết. Vì vậy, xác định và phân công trách nhiệm lập cho mọi người, cho các bộ phận cùng thực hiện chuẩn bị số liệu, sẽ giảm bớt số lượng công việc của kế toán tổng hợp - người trực tiếp tính toán và lập các chỉ tiêu trên BCTC. Đồng thời làm cho việc lập BCTC nhanh hơn, chính xác hơn. Vậy, việc phân công trách nhiệm lập BCTC có thể thực hiện như sau: BCĐKT do kế toán tổng hợp trực tiếp lập. BCKQHĐKD phần I nên giao cho kế toán tiêu thụ và xác định kết quả kinh doanh lập. - BCKQHĐKD phần II nên giao cho kế toán phụ trách Thuế kết hợp với kế toán tiền lương và Bảo hiểm xã hội. BCLCTT nên giao cho kế toán thanh toán. Thuyết minh BCTC có thể phân công chi tiết như sau: Phần “Chi phí sản xuất kinh doanh theo yếu tố” giao cho kế toán chi phí và giá thành. Phần “Tình hình thu nhập của công nhân viên” giao cho kế toán tiền lương. Phần “Tình hình tăng giảm các khoản phải thu và nợ phải trả” giao cho kế toán thanh toán. Phần còn lại sẽ giao cho kế toán tổng hợp lập. Tuy nhiên, để phân công trách nhiệm như trên, đòi hỏi các kế toán viên phải có trình độ chuyên môn nhất định, không chỉ nắm vững các phần hành kế toán do mình phụ trách mà phải hiểu biết cần thiết và đầy đủ về bản chất, nội dung, kết cấu, nguyên tắc lập và tính toán các chỉ tiêu trên BCTC đồng thời phải tâm huyết với công việc mình làm. Thứ hai: Hệ thống sổ kế toán. Đối với hệ thống tài khoản kế toán doanh nghiệp ban hành theo Quyết định 1141/TC/QĐ ngày 1/11/1995, có thể một số TK doanh nghiệp không sử dụng đến vì không có nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Còn các tài khoản có nghiệp vụ kinh tế phát sinh thì Nhà máy nên áp dụng để các chỉ tiêu phản ánh trên BCTC được trung thực và chính xác hơn.Ví dụ như tài khoản 113-“ Tiền đang chuyển” ở Nhà máy nghiệp vụ thanh toán qua Ngân hàng tương đối nhiều (các khoản khách hàng trả cho Nhà máy với giá trị lớn, các khoản thanh toán cho nhà cung cấp nước ngoài thông qua mở L/C. Như vậy, trong quá trình làm thủ tục thanh toán, các khoản phải thu của Nhà máy chưa thực sự thu, các khoản nợ phải trả chưa thực sự trả mà đang trong quá trình làm thủ tục thanh toán. Số tiền này nên được phản ánh vào tài khoản 113- “Tiền đang chuyển”- phản ánh đúng nội dung các nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Và tài khoản 151- “Hàng mua đang đi đường” phản ánh giá trị vật tư hàng hoá Nhà máy đã mua, đã thanh toán tiền hoặc đã chấp nhận thanh toán nhưng chưa về nhập kho và đang đi đường cuối tháng trước. Nghiệp vụ này ở Nhà máy cũng có xảy ra nhưng không được phản ánh trên BCTC. Như vậy, Nhà máy nên hạch toán vào tài khoản này. Mặt khác, Nhà máy đang sử dụng cả hai hình thức kế toán là Nhật ký chung và Nhật ký chứng từ. Nhà máy nên sử dụng hình thức Nhật ký chung, vì Nhật ký chung thuận lợi hơn cho việc áp dụng kế toán máy. Hơn nữa, nó khắc phục tính phức tạp, đòi hỏi chuyên môn cao, mẫu sổ cồng kềnh… của hình thức Nhật ký chứng từ. Và hình thức Nhật ký chung kế toán có thể mở nhật ký đặc biệt để ghi riêng các nghiệp vụ kinh tế có số lượng phát sinh lớn mà hình thức Nhật ký chứng từ không có (trình tự ghi sổ xem ở Phụ lục 3.1). Thứ ba: Về BCKQHĐKD Luật thuế GTGT là luật thuế mới được đi vào áp dụng năm 1999, để hiểu nó đã khó, áp dụng nó lại càng khó hơn. Từ trước đến nay chưa có luật thuế nào có nhiều Thông tư hướng dẫn, bổ sung và sửa đổi như thuế GTGT. Trong đó, có hướng dẫn lập phần III- Thuế GTGT được khấu trừ, được miễn giảm, được hoàn lại và đã đưa ra mẫu sổ hạch toán chi tiết thuế GTGT được khấu trừ, được hoàn lại, được miễn giảm của BCKQHĐKD. Nếu căn cứ vào mẫu sổ này ta sẽ nhận thấy được dễ dàng thuế GTGT được khấu trừ, được hoàn lại, được miễn giảm phát sinh tăng, giảm khi nào, vì sao lại phát sinh và đồng thời đây cũng là căn cứ để lập BCKQHĐKD- phần III. Do vậy, việc áp dụng mẫu sổ kế toán chi tiết thuế GTGT được khấu trừ, được hoàn lại, được miễn giảm là cần thiết (Mẫu sổ xem Phụ lục 3.2). Mặt khác, Nhà máy nên lập thêm cột “Kỳ này” và cột “Kỳ trước” ở BCKQHĐKD. Thứ tư: Về thuyết minh BCTC. Trong phần thuyết minh BCTC chi tiết phần các khoản phải thu và nợ phải trả, số đầu năm và số cuối kỳ Nhà máy nên ghi rõ tổng số và trong đó số quá hạn, số tiền tranh chấp mất khả năng thanh toán. Theo cách như vậy thì sẽ giúp cho các đối tượng sử dụng thông tin trên BCTC nhất là các nhà đầu tư và các chủ nợ có cách nhìn cụ thể có hướng đi đúng (Xem Phụ lục 3.3). Và Nhà máy nên lập Bảng tổng hợp các chỉ tiêu đánh giá tình hình kết quả SXKD (Xem Phụ lục 3.4). Thứ năm: Về BCLCTT. Năm 2002 Nhà máy chưa lập BCLCTT, năm 2001 lập theo mẫu chỉ có cột năm 2001 không có cột kỳ trước (2000). Do vậy có thể lập theo Phụ lục 3.5. Thứ sáu: Phân tích BCTC Nếu nhìn vào những con số trên BCTC cũng như các con số mà kế toán Nhà máy tính toán trên nội dung phần năm của Thuyết minh BCTC chưa nói lên được nhiều. Vì vậy, các đối tượng cần thông tin phải mất nhiều thời gian để tính toán và phân tích; hơn nữa, không phải ai cũng đều có khả năng phân tích được BCTC. Do đó, để phát huy hiệu quả cao nhất của thông tin trên BCTC một cách cụ thể hơn và công việc này cần giao cho người có năng lực, am hiểu về các vấn đề tài chính, tiến hành phân tích BCTC một cách nghiêm túc, cụ thể, chi tiết, diễn giải bằng lời các chỉ tiêu trên thuyết minh BCTC và phân tích thêm một số chỉ tiêu cần thiết như đã được trình bày ở chương II. Kết quả phân tích phải được công khai trên tập thể cán bộ công nhân viên, chỉ rõ thực trạng tài chính của Nhà máy, tình hình và kết quả hoạt động kinh doanh, triển vọng trong tương lai…Để từ đó Ban lãnh đạo cũng như những người nhiệt huyết gắn bó với Nhà máy kịp thời đưa ra những giải pháp nhằm khai thác được những tiềm tàng và nhanh chóng nắm bắt được cơ hội cũng như có biện pháp tháo gỡ những khó khăn để không ngừng đưa Nhà máy phát triển, phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế thế giới. Bên cạnh đó, khi tiến hành phân tích khả năng thanh toán, kế toán có thể sử dụng các hệ số phân tích sau: Thứ bảy: Về thời hạn gửi BCTC Bộ tài chính quy định thời hạn gửi BCTC quý chậm nhất là 20 ngày kể từ ngày kết thúc quý, BCTC năm chậm nhất là 30 ngày kể từ ngày kết thúc năm tài chính. Như vậy, Nhà máy có thể kiến nghị để có thêm thời gian, nếu theo quy định đó sẽ ảnh hưởng đến chất lượng BCTC do hạn chế cố hữu của việc lập BCTC của Nhà máy. Một số giải pháp nhằm ổn định tình hình TC và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh tại Nhà máy thiết bị bưu điện Qua một số nét về những thuận lợi và khó khăn của Nhà máy đã nêu ở chương II phần “Đặc điểm tình hình chung của Nhà máy” có thể khái quát lại như sau: Về thuận lợi chung: Nhà máy đang tiến hành sản xuất kinh doanh sản phẩm phục vụ cho ngành Bưu chính viễn thông- là lĩnh vực quan trọng, phát triển nhất hiện nay và đang được Đảng và Nhà nước tiếp tục cho mở rộng quy mô để hoạt động, bộ máy quản lý và trình độ tay nghề của công nhân ngày càng được nâng cao. Nhưng bên cạnh đó, Nhà máy cũng đang phải đối diện với những khó khăn nhất định đó là: Sự phát triển của khoa học công nghệ rất mạnh mẽ, lĩnh vực sản xuất của Nhà máy đòi hỏi phải bắt kịp tiến bộ khoa học, phải thường xuyên đổi mới khoa học công nghệ, tình hình cạnh tranh ngày càng gay gắt, nhu cầu xã hội ngày càng cao, chuẩn bị gia nhập AFTA vào năm 2006 cho nên mọi vấn đề về phát triển sản xuất kinh doanh của Nhà máy là rất khó khăn. Cùng với việc phân tích tình hình TC của Nhà máy (ở chương II) nếu đứng trên các khía cạnh khác nhau thì Nhà máy cũng có những xu hướng tốt, góp phần làm tình hình TC khả quan hơn như: các khoản nợ phải thu có xu hướng giảm, tỷ trọng nguồn vốn chủ sở hữu có xu hướng tăng và nguồn vốn chủ sở hữu không những để trang trải các khoản đầu tư dài hạn mà còn một phần để bổ sung TSLĐ. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng không ít những khó khăn, tồn tại làm tình hình TC của Nhà máy không tốt lắm, hoạt động sản xuất kinh doanh gặp nhiều vấn đề. Các khoản nợ phải trả có xu hướng tăng lên từ năm 2001 đến năm 2002. Cụ thể, năm 2001 là 94.741.722.373đ đến năm 2002 tăng lên đến 106.608.083.123đ. Như vậy, cho thấy Nhà máy đã đi chiếm dụng vốn cho nên khả năng tự chủ về mặt TC bị giảm xuống, rủi ro TC tăng lên. Nhà máy dùng nguồn vốn chủ sở hữu đầu tư cho tài sản không nhiều, khả năng thanh toán còn chưa linh động, HTK và các khoản phải trả, phải thu còn chiếm tỷ trọng lớn, hiệu quả sử dụng TSLĐ và TSCĐ có chiều hướng giảm sút, lượng tiền mặt tồn quỹ quá ít, nợ phải trả tăng lên, hiệu quả sử dụng vốn chưa cao… Như vậy, để phát huy những lợi thế, khắc phục những tồn tại, góp phần cải thiện tình hình TC, nâng cao hiệu quả sản xuất của Nhà máy có thể có một số kiến nghị như sau: Thứ nhất: Tăng tỷ trọng TSCĐ Nhà máy nên tăng tỷ trọng TSCĐ lên để tăng năng lực sản xuất, tăng hiệu quả sử dụng vốn; cần chủ trọng vào việc mua sắm máy móc thiết bị, nhà cửa, phương tiện vận tải… nhằm phục vụ tốt cho quá trình sản xuất, cho quá trình chuyên chở và bảo quản sản phẩm. TSCĐ là một phần không thể thiếu được trong doanh nghiệp sản xuất. Nếu có cơ cấu hợp lý, tận dụng triệt để năng lực sản xuất, sử dụng tối đa công suất thì có thể tạo khả năng tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. Đối với Nhà máy qua xem xét thực tiễn cho thấy số máy móc thiết bị cũ rất nhiều, hơn nữa Nhà máy đang trong quá trình thực hiện chủ trương “ Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước”. Do vậy, việc mua sắm, đổi mới tăng số lượng và chất lượng TSCĐ là cần thiết nhất là trong giai đoạn này. Sản phẩm của Nhà máy mang tính đặc thù, rất dễ bị lạc hậu, lỗi thời nhất là trong giai đoạn Khoa học công nghệ đang phát triển nhanh. Cho nên, việc chú trọng đầu tư đổi mới máy móc thiết bị là rất quan trọng và thiết yếu. Việc đầu tư mua sắm nhằm tăng năng lực sản xuất, tạo điều kiện để bắt kịp với thị trường Quốc tế. Trong mấy năm vừa qua, giá trị còn lại của TSCĐ ngày càng giảm. Tuy Nhà máy có đầu tư mua sắm nhưng chưa chú trọng đến việc bù đắp những TSCĐ đã khấu hao nay đã giảm năng lực sản xuất, nếu cứ tiếp tục xu hướng này thì Nhà máy sẽ gặp khó khăn trong việc giữ vị thế của mình hiện tại và trong tương lai. Thứ hai: Tăng khả năng thanh toán. Nhà máy cần tăng khả năng thanh toán nhất là khả năng thanh toán nhanh. Với khả năng thanh toán nợ ngắn hạn ngày càng giảm thể hiện ít có khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn trong năm mặc dù năm 2001 là 1,51 và năm 2002 là 1,37; chúng đều lớn hơn 1 nhưng năm 2002 có sự giảm sút so với năm 2001. Mặt khác, HTK và các khoản nợ phải thu quá nhiều nên mức độ linh động của khả năng thanh toán kém. Khả năng thanh toán nhanh năm 2001 là 0,05 và năm 2002 là 0,03. Cả hai năm đều không đủ khả năng thanh toán, nhưng khả năng thanh toán nhanh của Nhà máy cho thấy tình hình TC của Nhà máy là không tốt. Hệ số khả năng thanh toán nhanh quá thấp có nghĩa là lượng tiền rất ít. Tiền mặt là tài sản có tính thanh khoản cao nhất có thể dùng để thanh toán nhanh các khoản nợ, trang trải các khoản chi phí, giúp Nhà máy chủ động trong hoạt động của mình, từ đó có thể chớp lấy những thời cơ có lợi nhất, tạo điều kiện và triển vọng tốt cho sau này. Như vậy, việc tăng khả năng thanh toán có thể theo con đường tăng lượng tiền hiện có. Muốn vậy, Nhà máy phải nhanh chóng thu hồi các khoản phải thu, giải phóng HTK, tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm thu tiền ngay. Thứ ba: Tăng tỷ suất tự tài trợ Qua tìm hiểu tình hình thực tế những năm gần đây, với nguồn vốn chủ sở hữu của mình, Nhà máy đã dùng để trang trải các khoản đầu tư dài hạn là một phần dùng để bổ sung TSLĐ. Đây là biểu hiện khả quan. Nếu xét về tỷ trọng thì nguồn vốn chủ sở hữu chiếm trong tổng tài sản không lớn lắm. Năm 2001 chiếm 32,8%. Năm 2002 tăng lên 33,27%, đây là xu hướng tốt nên phát huy để không ngừng nâng cao tỷ trọng nguồn vốn chủ sở hữu, chủ động độc lập trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, giảm chi phí lãi vay, tăng lợi nhuận, tránh những rủi ro trong kinh doanh khi Nhà máy làm ăn không có hiệu quả, giảm nhanh tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (khi tỷ suất sinh lời của vốn đầu tư nhỏ hơn lãi suất tiền vay). Tuy nhiên, để tăng được nguồn vốn chủ sở hữu thì Nhà máy phải hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả. (Còn vốn ngân sách cấp sẽ không có vì Nhà nước chỉ cấp một lần khi Nhà máy mới thành lập, nếu không bổ sung nhiệm vụ mới sẽ không được cấp thêm). Ngoài ra, Nhà máy có thể tăng nguồn vốn chủ sở hữu bằng cách xin Tổng công ty Bưu chính Viễn thông trợ cấp thêm vốn hoặc nhận vốn góp liên doanh… Thứ tư: Tăng vòng quay các khoản phải thu Đây là một vấn đề rất cần thiết và quan trọng đối với Nhà máy, khoản phải thu của khách hàng hiện nay rất lớn, năm 2002 là 43.349.094.737đ, DT bán chịu nhiều. Đây cũng là một đặc trưng, sản phẩm của Nhà máy có giá trị lớn, cung cấp cho mạng Bưu chính Viễn thông và có ưu điểm là ít mất khả năng thanh toán, ít có khoản nợ khó đòi. Nhưng việc bán chịu này sẽ làm cho vốn của Nhà máy bị chiếm dụng gây thiếu vốn giả tạo, ảnh hưởng xấu đến hoạt động sản xuất kinh doanh bình thường. Mặt khác, khi thiếu vốn Nhà máy phải đi vay và phải trả một khoản lãi suất nhất định. Như vậy, chi phí sẽ tăng lên và lợi nhuận sẽ giảm đi. Bên cạnh đó, các khoản phải thu lớn, nó sẽ ảnh hưởng đến khả năng thanh toán, gây nghi ngờ đối với các nhà đầu tư, gây tác động tới tình hình sản xuất kinh doanh của Nhà máy. Để giải quyết được vấn đề này, Nhà máy nên yêu cầu Tông công ty Bưu chính Viễn thông giúp đỡ. Mặt khác, các hợp đồng mua bán phải rõ ràng, minh bạch, ghi thời hạn thanh toán ngắn hơn; nếu quá thời hạn ghi trong hợp đồng có thể yêu cầu khách hàng trả lãi theo lãi suất quá hạn. Qua tìm hiểu chi tiết tình hình của Nhà máy thấy rằng ở đây có những khoản phải thu của khách hàng kéo dài nhiều năm, điều này gây bất lợi đối với Nhà máy. Các nhà Quản trị cần tìm biện pháp giảm thiểu tình trạng này. Thứ năm: Tăng nhanh vòng quay HTK Để cải thiện tình hình thanh toán, giảm rủi ro TC thì tăng nhanh HTK là một vấn đề quan trọng. Thực tế ở Nhà máy cho thấy năm 2000, 2001 và 2002 càng ngày càng chậm. Cụ thể năm 2000 là 7,93, năm 2001 là 6,10 và năm 2002 là 3,71, mà xu hướng thành phẩm và hàng gửi bán lại ngày càng tăng. Đây là biểu hiện rất xấu cho tình TC của Nhà máy. Sản phẩm sản xuất bán ra ngày càng chậm, tồn kho ngày càng nhiều. Đây là vấn đề rất cấp bách và khó khăn, cần phải có giải pháp khắc phục ngay, nếu không hàng sẽ ứ đọng, dẫn tới “vốn chết” và cuối cùng giảm DT, kéo theo giảm lợi nhuận, gây nguy hiểm cho sự tồn tại của Nhà máy. Bên cạnh đó, sản phẩm lạc hậu rất nhanh, nếu thời gian ở trong kho nhiều nó sẽ bị giảm giá trị do sự tiến bộ của Khoa học công nghệ, do nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng. Nếu Nhà máy không có giải pháp để giải phóng lượng HTK này thì sau một thời gian sản phẩm sẽ bị giảm giá, nhiều khi sự giảm giá đó cũng không có người mua. Đây là một rủi ro rất lớn có thể gây mất uy tín của Nhà máy, mất vị thế trong thương trường dẫn đến tình trạng rất xấu đối với tương lai. Hiện nay, theo nhận định thực tế và kiến thức đã được học thấy rằng: cần có một số giải pháp nhằm giải toả khó khăn này như sau: Một là: Cuối kỳ kế toán năm, khi giá trị thuần có thể thực hiện được của HTK nhỏ hơn giá gốc thì phải lập dự phòng giảm giá HTK. Số dự phòng giảm giá HTK được lập là số chênh lệch giữa giá gốc của HTK lớn hơn gia trị thuần có thể thực hiện được của chúng. Trường hợp khoản dự phòng giảm giá HTK phải lập ở cuối kỳ kế toán năm nay lớn hơn số đã lập cùng kỳ năm trước thì số chênh lệch được lập thêm, ghi: Nợ TK632-Giá vốn hàng bán (chi tiết dự phòng giảm giá HTK). Có TK159-Dự phòng giảm giá HTK. Ngược lại trường hợp trên thi số chênh lệch nhỏ hơn được hoàn nhập, ghi: Nợ TK159- Dự phòng giảm giá HTK. Có TK632- Giá vốn hàng bán Hai là: Nhà máy phải có giải pháp để xúc tiến quá trình bán hàng nhanh chóng, có thể: Đào tạo, tuyển dụng độ ngũ bán hàng, tiếp thị có năng lực, trình độ, có tâm huyết với nghề. Thêm vào đó là tổ chức bán hàng theo chiều dọc (nghĩa là một nhóm nhân viên bán hàng đảm nhiệm một số sản phẩm mà họ am hiểu tính năng, tác dụng của nó. Từ đó, họ có thể tiếp cận với khách hàng, giới thiệu sản phẩm, xúc tiến quá trình bán hàng nhanh hơn). Hiện nay, Nhà máy đang tổ chức bán hàng theo chiều ngang (có nghĩa là mỗi độ ngũ nhân viên bán hàng phụ trách một khu vực, đảm nhiệm tất cả các loại sản phẩm mà Nhà máy có). Như vậy, sẽ hạn chế năng lực, trình độ của người bán hàng, vì không được chuyên môn hoá, những người bán hàng này không thể hiểu hết tính năng, tác dụng của tất các sản phẩm trong Nhà máy; thậm chí nhiều khi họ không nhớ hết tên mặt hàng, điều này làm cho quá trình bán hàng không có hiệu quả, dẫn đến ứ đọng hàng, gây ảnh hưởng tới lợi nhuận của Nhà máy. áp dụng các hình thức chiết khấu thương mại, chiết khấu thanh toán, giảm giá hàng bán…Hiện nay, Nhà máy cũng áp dụng các biện pháp này nhưng còn ở mức độ hạn hữu. Để đẩy nhanh quá trình bán hàng, Nhà máy có thể thực hiện niêm yết giảm giá cho khách hàng mua với khối lượng lớn (chiết khấu thương mại). Hoặc giảm trừ tiền mua hàng cho người mua, do họ thanh toán tiền mua trước thời hạn theo hợp đồng (chiết khấu thanh toán). Ngày nay, Nhà máy đã có Trung tâm bảo hành, bộ phận này nên phát huy hơn nữa để gây niềm tin cho khách hàng vào sản phẩm. Trong thời gian bảo hành, nếu sản phẩm bị hư hỏng thì cần được sửa chữa nhanh chóng, kịp thời với thái độ sẵn lòng; điều này càng tạo tâm lý thoải mái, tin cây cho khách hàng khi mua sản phẩm của Nhà máy. Mặt khác, hiện nay có rất nhiều doanh nghiệp đã áp hình thức “dịch vụ giao sau” tức là khi khách hàng mua xong sẽ được người bán chở về tận nhà và bảo hành trong một thời gian nhất định. Nhà máy cũng nên áp dụng hình thức này. Nhà máy nên tăng cường nghiên cứu thị trường, tìm hiểu nhu cầu thị hiếu của khách hàng để có kế hoạch sản xuất những mặt hàng cần chứ không phải sản xuất và bán những mặt hàng mình có, mở rộng thị phần, tăng tiêu thụ sản phẩm. Tìm hiểu và thu thập các thông tin để đưa ra các chiến lược Marketing dài hạn và ngắn hạn. Tăng chất lượng sản phẩm, tạo nhiều mẫu, kiểu phù hợp với nhu cầu thị hiếu người tiêu dùng…Đặc biệt là nắm bắt được sự phát triển của Khoa học công nghệ trong khu vực và trên thế giới để không những tăng thị phần trong nước mà cả Quốc tế. Ba là: Định giá bán sản phẩm trong Nhà máy. Giá bán sản phẩm là nhân tố ảnh hưởng lớn, trực tiếp đến DT và lợi nhuận. Giám đốc Nhà máy biết rằng, giá bán sản phẩm cho lợi nhuận tối đa khi mà số chênh lệch dương giữa tổng doanh thu và tổng chi phí là lớn nhất. Hơn nữa, tổng DT lớn nhất khi khối lượng tiêu thụ lớn nhất và giá bán đơn vị cao nhất. Còn tổng chi phí ảnh hưởng bởi khối lượng sản phẩm tiêu thụ và chi phí tính cho một đơn vị sản phẩm tiêu thụ. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, những quyết định quan trọng mà các nhà quản trị doanh nghiệp phải luôn luôn xem xét và cố gắng thực hiện sao cho phù hợp với những quy luật khách quan vốn có của nền kinh tế, đó là quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh, quy luật giá trị… Chính vì sự nhận thức không đầy đủ những quy luật vốn có của nền kinh tế thị trường mà một số không ít các nhà Quản trị doanh nghiệp cho rằng: việc định giá bán của sản phẩm là không cần thiết vì theo họ quan niệm đó là do thị trường điều tiết bởi cung- cầu do sự thoả thuận giữa người mua- người bán. Nếu chỉ đơn thuần suy nghĩ theo quan điểm đó thì doanh nghiệp khó có thể tồn tại được chứ chưa nói đến khả năng phát triển để cạnh tranh đứng vững trên thị trường. Có thể định giá bán sản phẩm dựa vào lý thuyết kinh tế vi mô để định giá bán sản phẩm theo những phương pháp thông thường nhằm mục đích trang trải bù đắp chi phí liên quan đến khối lượng sản phẩm tiêu thụ và đạt được mức lợi nhuận mong muốn. Các phương pháp đó có thể là: Phương pháp định giá bán sản phẩm thông thường: Nội dung chủ yếu của phương pháp này là việc xác định giá bán sản phẩm trên cơ sở các bộ phận chi phí gồm: Chi phí gốc là chi phí cơ sở gồm chi phí để sản xuất, chế tạo sản phẩm như chi phí nguyên vật liệu trực tiếp (CPNVLTT), chi phí nhân công trực tiếp (CPNCTT), chi phí sản xuất chung (CPSXC) và toàn bộ biến phí về sản xuất, tiêu thụ và biến phí quản lý. Phần chi phí cộng thêm vào chi phí gốc: Đó là một tỷ lệ để đảm bảo cho Nhà máy có thể bù đắp tất cả chi phí và thoã mãn mức hoàn vốn mong muốn. Mức hoàn vốn mong muốn được tính như sau: Mức hoàn vốn mong muốn = Tỷ lệ hoàn vốn mong muốn ´ Vốn hoạt động bình quân. Phương pháp này có thể chia là thành hai phương pháp nhỏ: - Định giá bán dựa vào giá thành sản xuất sản phẩm: Tức là giá bán gồm (CP gốc): Và căn cứ vào chính sách định giá sản phẩm của Nhà máy để xác định tỷ lệ phần trăm chi phí cộng thêm vào chi phí gốc ở trên sao cho bù đắp được phần chi phí bán hàng (CPBH), chi phí quản lý doanh nghiệp (CPQLDN) tính cho sản phẩm tiêu thụ và đạt được mức lãi mong muốn. - Định giá bán sản phẩm dựa vào biến phí trong giá thành toàn bộ sản phẩm tiêu thụ: Chi phí gốc gồm: CPNVLTT CPNCTT Biến phí SXC Biến phí CPBH Biến phí QLDN Và cũng tương tự trên xác định chi phí cộng thêm theo một tỷ lệ hợp lý so với chi phí gốc để bù đắp đủ phần định phí về CPSXC, CPBH và CPQLDN, đồng thời có lãi. - Phương pháp định giá bán sản phẩm hàng hoá theo CPNVL và CPNC: Bao gồm định giá CPNVL và định giá CPNC. Phương pháp này áp dụng thích hợp với các doanh nghiệp dịch vụ cho nên Nhà máy có thể không cần theo phương pháp này. - Phương pháp xác định giá bán sản phẩm mới: Sản phẩm mới hiểu theo nghĩa rộng bao gồm những sản phẩm chưa có trên thị trường hoặc những sản phẩm tương tự như sản phẩm đã có nhưng khác về mẫu mã, thay đổi về chất lượng,… loại này Nhà máy cũng có. Đối với mặt hàng này, việc định giá là rất khó khăn, có tính chất thách thức và không chắc chắn; nhưng không phải là không làm được. Nếu biết vận dụng mọi khả năng của mình thì vẫn có thể xác định được giá bán, đảm bảo được lợi nhuận và chống tồn kho hàng hoá quá lâu. Trên thực tế cho thấy, việc định giá bán sản phẩm mới thường định trên cơ sở tiếp thị, giới thiệu, quảng cáo sản phẩm. Điều này cần được tiến hành ở những nơi đã xác định, lựa chọn mà có khả năng tiêu thụ được nhiều nhất ở những vùng khác nhau. Căn cứ vào khối lượng sản phẩm tiêu thụ và giá bán sản phẩm mới ở những vùng, khu vực khác nhau đó mà tiến hành phân tích, đánh giá, để đưa ra một mức giá hợp lý nhất cho việc sản xuất tiêu thụ sản phẩm mới trong các kỳ sản xuất kinh doanh tiếp theo. Và Nhà máy có thể áp dụng một số phương pháp khác trong các trường hợp đặc biệt như ở thị trường tiêu thụ mới, khách hàng nước ngoài, khối lượng đơn đặt hàng nhiều, định giá chuyển giao nội bộ… Trong các trường hợp trên, Nhà máy phải nghiên cứu đánh giá đúng được năng lực sản xuất, khả năng cạnh tranh và những khó khăn cuả mình để có thể dành được những hợp đồng, thị trường tiêu thụ mới với khối lượng lớn. Từ đó, có chính sách định giá sản phẩm hợp lý và làm giảm sự ứ đọng của HTK. Với cách định giá bán sản phẩm trong các trường hợp trên thì: Song Nhà máy cũng cần phải chú ý: Nếu khả năng, năng lực sản xuất chưa tận dụng hết nhưng doanh số hàng bán không thể tăng thêm với giá bán hiện tại thì Nhà máy có thể phải chấp nhận sản xuất sản phẩm theo đơn đặt hàng và bán với giá thấp hơn với giá mong muốn nhưng cao hơn giá gốc (tức biến phí tiêu thụ sản xuất sản phẩm). Nếu Nhà máy gặp khó khăn trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm nên chấp nhận giảm giá chứ không nên đình chỉ sản xuất kinh doanh. Nếu Nhà máy phải cạnh tranh để thầu các đơn đặt hàng mới hoặc để có thị trường tiêu thụ mới thì việc định giá theo “giá linh hoạt” nêu trên để Nhà máy đưa ra giá trúng thầu. Thứ sáu: Nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ. Thực tế cho thấy, hiệu quả sử dụng vốn của Nhà máy nói chung, hiệu quả sử dụng VCĐ của Nhà máy nói riêng ngày càng tốt lên. Đối với TSCĐ hiệu quả sử dụng và khả năng sinh lời của nguyên giá và giá trị còn lại ngày càng có hiệu quả. Qua tìm hiểu thì Nhà máy sản xuất theo quy trình công nghệ khép kín chứ không phải sản xuất hàng loạt. Vì vậy, TSCĐ không được sử dụng hết công suất (chỉ đạt 60-70%). Thế mà hiệu quả sử dụng VCĐ năm 2001 giảm trầm trọng so với năm 2000, còn năm 2002 lại tăng khá nhiều so với năm 2001. Đây là điều không bình thường, nên điều tra nghiên cứu và áp dụng một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định. Việc tăng giảm bất thường như thế này không có lợi, có thể ảnh hưởng đến uy tín trong kinh doanh. Nhà máy có thể áp dụng một số giải pháp sau: Xem xét những TSCĐ, nếu còn phù hợp với kế hoạch sản xuất thì có kế hoạch tu bổ, sửa chữa. Kịp thời và mạnh dạn thanh lý, nhượng bán những tài sản không có nhu cầu sử dụng, những TSCĐ cũ, lạc hậu, năng suất thấp để thu hồi vốn, đầu tư và những máy móc thiết bị có năng suất cao hơn. Tính toán lựa chọn các dự án đầu tư đổi mới TSCĐ một cách tối ưu để tăng năng lực sản xuất, giảm chi phí, tăng chất lượng sản phẩm. Thực hiện liên doanh liên kết với các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài để thu hút trình độ công nghệ, trình độ quản lý của các đối tác. Huy động tối đa năng lực của máy móc thiết bị hiện có vào sản xuất… Hiện nay, Nhà máy đã áp dụng phương thức thuê TC. Đây là một phương thức tín dụng trung và dài hạn, đó cũng là một giải pháp hữu ích với Nhà máy trong giai đoạn trước mắt cũng như về lâu dài. Việc sử dụng phương thức này mang lại cho Nhà máy những lợi ích: giúp cho Nhà máy không phải huy động tập trung tức thời một lượng vốn để mua TSCĐ. Với số vốn hiện có vẫn có khả năng mở rộng quy mô kinh doanh. Đồng thời giúp nhanh chóng thực hiện được dự án đầu tư, chớp được thời cơ kinh doanh. Phương thức này rất phù hợp trong tình hình thiếu vốn hiện nay. Do đó, Nhà máy nên phát huy hơn nữa hình thức này. Thứ bảy: Nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng vốn lưu động Trong Nhà máy, TSLĐ chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng số tài sản. Vì vậy, nâng cao hiệu quả sử dụng TSLĐ góp phần rất lớn vào việc tăng hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Để nâng cao hiệu quả sử dụng TSLĐ, vấn đề đầu tiên là tăng tốc độ luân chuyển VLĐ. Điều này có nghĩa là việc giải phóng HTK và đôn đốc thu hồi các khoản phải thu vẫn là vấn đề hàng đầu. Thực tế cho thấy, TSLĐ của Nhà máy trong mấy năm vừa qua là rất lãng phí. Do đó, cần chú trọng hơn nữa việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Trên đây là những giải pháp được rút ra từ thực trạng tình hình TC của Nhà máy. Những giải pháp này không mong muốn cùng một lúc Nhà máy sẽ áp dụng mà Ban lãnh đạo Nhà máy nên xác định được mục tiêu trước mắt và mục tiêu lâu dài để áp dụng những giải pháp này phù hợp với điều kiện thực tế của Nhà máy hiện nay. Điều kiện hoàn thiện các nội dung trên Với các giải pháp đã nêu, nếu Nhà máy cân nhắc xem xét để áp dụng, tin chắc rằng hoàn toàn có thể thực hiện được. Nó phù hợp với các yêu cầu đã đặt ra và điều kiện hiện tại của Nhà máy vì: - Về phía Nhà nước: Xây dựng và hoàn chỉnh luật kế toán. Xây dựng và hoàn chỉnh chuẩn mực kế toán. Xây dựng và hoàn chỉnh chế độ kế toán doanh nghiệp . Đây là hành lang pháp lý đối với các doanh nghiệp. Một chế độ kế toán thông thoáng, chuẩn mực kế toán và luật kế toán phù hợp với tất cả các loại hình doanh nghiệp hiện nay không phải là vấn đề dễ làm. Do vậy, tuỳ vào từng hình thức kinh doanh của các doanh nghiệp, Nhà nước cần có những Thông tư hướng dẫn cụ thể để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đứng vững trong nền kinh tế thị trường và hội nhập với kinh tế Quốc tế. Đối với chuẩn mực kế toán đã có chín chuẩn mực ra đời, nhưng hiện nay chưa thực sự đi vào thực tiễn; chế độ kế toán hiện hành cũng thực sự vẫn còn một số giới hạn. Cụ thể: Hệ thống các chỉ tiêu trên BCĐKT do Bộ tài chính ban hành theo Quyết định 1121TC/QĐ/CĐKT ngày 1-11-1995 và Quyết định 1199TC/QĐ/CĐKT ngày 23-12-1996 chưa thật sự đáp ứng được đầy đủ thông tin phục vụ cho công tác phân tích BCTC. Trong phần này, khoản phải thu của khách hàng dùng để tính khả năng thanh toán nợ ngắn hạn kể cả trong trường hợp doanh nghiệp có phát sinh nghiệp vụ bán trả chậm hoặc bán trả góp là không hợp lý.Vì vậy, để làm rõ chỉ tiêu phải thu của khách hàng đã được phản ánh trên BCĐKT và để giúp cho đối tượng sử dụng thông tin ở đây nhằm phân tích khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của doanh nghiệp được chính xác, nên công bố phần công nợ phát sinh từ nghiệp vụ bán hàng trả chậm hoặc bán trả góp (có thời hạn tín dụng trên 1 năm) trên Thuyết minh BCTC của doanh nghiệp phần III mục 3.6: Các khoản phải thu và nợ phải trả. Chỉ tiêu người mua trả tiền trước trong BCĐKT cũng có bất cập: Thông tư số 10TC/CĐKT do Bộ tài chính ban hành ngày 20-3-1997 và sau đó là Quyết định 167/2000 QĐ-BTC ngày 25-10-2000 có quy định TK3387-“Doanh thu nhận trước” khi lên BCĐKT, sẽ được tổng hợp cộng với số dư Có chi tiết TK131 “ Phải thu của khách hàng” để lên trên cùng chỉ tiêu “ Người mua trả tiền trước” ở mục Nợ ngắn hạn”. Cũng theo Thông tư này, quy định chỉ hạch toán vào TK3387 số tiền của khách hàng đã trả trước cho một hoặc nhiều kỳ kế toán về lao vụ, dịch vụ…đơn vị đã cung cấp cho khách hàng, như số tiền đã nhận của khách hàng trả một lần cho một hoặc nhiều niên độ kế toán về việc đơn vị đã cho thuê nhà ở, văn phòng làm việc, kho hàng…Như vây, khoản DT nhận trước khi phát sinh có thể là khoản phải trả ngắn hạn hoặc dài hạn. Do đó, nếu sử dụng thông tin ở mục: “ Nợ ngắn hạn” làm căn cứ để phân tích khả năng thanh toán nợ ngắn hạn, khi doanh nghiệp có phát sinh DT nhận trước cho nhiều niên độ là không chính xác. Để khắc phục nhược điểm này, nên công bố chỉ tiêu DT nhận trước mà khách hàng trả trước cho nhiều năm trên Thuyết minh BCTC phần 3; mục 3.6- khoản phải thu và nợ phải trả và chỉ tiêu này sẽ được loại ra khỏi Nợ ngắn hạn khi phân tích khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của doanh nghiệp …. - Về phía Nhà máy: Đội ngũ kế toán viên của Nhà máy đều có trình độ chuyên môn nhất định.Tất cả đều đã được đào tạo qua các trường Đại học, cao đẳng… cho nên việc phân công trách nhiệm từng phần BCTC cho từng bộ phận kế toán thực hiện là có thể tin cậy được. Cũng chính điều này tạo điều kiện cho Nhà máy có thể thực hiện việc công việc phân tích BCTC như đã kiến nghị ở trên. Để lên được phần chi tiết các khoản phải thu và các khoản nợ phải trả trên Thuyết minh BCTC; trong đó “Số đầu kỳ” và “Số cuối kỳ”được chi tiết cho số nợ quá hạn, tổng số tiền tranh chấp mất khả năng thanh toán là công việc tương đối khó và phức tạp. Vì Nhà máy có nhiều bộ phận hạch toán phụ thuộc, do vậy để lên được phần này trên Thuyết minh BCTC, yêu cầu kế toán phải tập hợp được số liệu từ các đơn vị hạch toán phụ thuộc. Tuy có phức tạp nhưng không có nghĩa là không làm được. Bởi vì, đây là một bút toán tổng hợp số liệu như những bút toán khác. Do đó, nên xem xét và đưa kiến nghị này áp dung vào thực tiễn.Việc phản ánh này sẽ cho đối tượng sử dụng thông tin biết được chính xác khả năng thanh toán mà Nhà máy cũng không bị ảnh hưởng gì cả. Hiện nay, Nhà máy đã được trang bị một hệ thống máy tính đầy đủ, cần thiết cho các bộ phận kế toán tạo điều kiện cho kế toán Nhà máy hạch toán đúng, đủ, kịp thời, sử dụng thống nhất các loại sổ sách theo hình thức kế toán Nhật ký chứng từ. Nhà máy có thể chuyển từ kế toán thủ công sang kế toán máy và chuyển sang hình thức Nhật ký chung để phù hợp với việc sử dụng phần mềm kế toán. Nhà máy là một trong những doanh nghiệp hàng đầu cung cấp thiết bị viễn thông cho thị trường trong nước và cả nước ngoài. Mặt khác, Nhà máy được Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam đảm bảo khả năng thanh toán, hội nhập kinh tế Quốc tế, chuẩn bị gia nhập AFTA vào năm 2006, khoa học công nghệ phát triển nhanh, Bưu chính viễn thông lại là ngành độc quyền…Đó là điều kiện tiên quyết mở ra con đường thành công, vững bước tiến vào thế kỷ XXI, thế kỷ Khoa học và công nghệ của Nhà máy. Kết luận Một lần nữa ta khẳng định rằng: tổ chức công tác kế toán lập và phân tích BCTC có tác dụng to lớn trong việc cung cấp thông tin và quản lý kinh tế. Thông qua lập và phân tích BCTC cho các nhà Quản trị doanh nghiệp cũng như các đối tượng sử dụng thông tin khác đưa ra được những quyết định đúng đắn, kịp thời và phù hợp. Tính khoa học của kế toán lập và phân tích BCTC thực sự đã phát huy tác dụng như một công cụ sắc bén, có hiệu lực phục vụ yêu cầu quản lý kinh tế trong điều kiện hạch toán độc lập hiện nay. Sau hơn 2 tháng thực tập tại Nhà máy giúp em rất nhiều trong việc củng cố lại kiến thức về lý thuyết lập, phân tích BCTC và việc vận dụng lý luận vào thực tiễn. Qua đó, để thấy được một kế toán giỏi toàn diện, một người làm được việc không chỉ cần đến sự hiểu biết cặn kẽ về lý thuyết mà còn phải biết vận dụng linh hoạt lý luận đã học vào thực tiễn công việc. Thời gian ấy em đã được giúp đỡ tận tình của các cô, các chú, các anh chị trong phòng Kế toán thống kê của Nhà máy, đặc biệt là sự hướng dẫn tận tình, cụ thể của kế toán tổng hợp. Thêm vào đó là sự truyền đạt kiến thức và sự góp ý quý báu của các thầy giáo, cô giáo trong bộ môn Phân tích hoạt động kinh tế, bộ môn Kế toán doanh nghiệp cùng các bộ môn khác đã giúp em nghiên cứu một cách khoa học hơn, đầy đủ hơn về đề tài đã chọn. Vì thời gian thực tập ngắn, trình độ hiểu biết còn có hạn lại chưa có kinh nghiệm thực tế bản luận văn này không thể không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong sự góp ý của thầy giáo, cô giáo và bạn đọc để bản luận văn này hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn Ban giám đốc, tập thể phòng Kế toán thống kê Nhà máy Thiết bị Bưu điện và đặc biệt là thầy giáo Trần Văn Dung đã giúp em hoàn thành bản luận văn này. Ký hiệu viết tắt BCTC : Báo cáo tài chính BCĐKT : Bảng cân đối kế toán BCKQKD : Báo cáo kết quả kinh doanh BCLCTT : Báo cáo lưu chuyển tiền tệ TSCĐ : Tài sản cố định TSLĐ : Tài sản lưu động TK : Tài khoản DT : Doanh thu

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docK0477.doc
Tài liệu liên quan