Đề tài Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại Công ty Vật tư kỹ thuật xi măng

Với nguồn thông tin nội bộ của công ty, phòng Kế toán Tài chính nên lập đủ các báo cáo tài chính – nguồn thông tin chủ yếu cho việc phân tích . Điều đó có nghĩa là cần phải lập Báo cáo lưu chuyển tiền tệ, báo cáo tài chính còn lại duy nhất mà công ty chưa lập. Khi đó, các cán bộ phân tích sẽ không gặp khó khăn trong việc phân tích , đánh giá khả năng tạo ra luồng tiền trong tương lai, khả năng tài trợ, đầu tư ngắn hạn của công ty. Việc lập đủ các Báo cáo tài chính sẽ tạo ấn tượng tốt về sự quy củ trong quản lý tài chính của công ty đối với các đối tượng bên ngoài, tạo thuận lợi cho công ty trong thời gian tới – khi mà các quan hệ tương tác với các nước trong khu vực được mở rộng. Sử dụng đầy đủ các thông tin phải kết hợp với yêu cầu thông tin sử dụng phải có tính chính xác. Vì vậy, Trưởng phòng Kế toán tài chính nên chỉ đạo công tác kiểm tra kế toán trong công ty để đảm bảo thông tin được sử dụng là thông tin “sạch”. Bên cạnh đó, công ty còn khuyến khích sự phân tích , kiến nghị của CBCNV về tình hình sản xuất, kinh doanh bởi đây cũng là nguồn bổ sung thông tin cần thiết. Và khi đó, lãnh đạo Phòng Kế toán tài chính, Ban giám đốc công ty cũng phải chú ý đến những thông tin này. Việc này vừa đảm bảo tính dân chủ vừa góp phần làm tăng thông tin cho công tác phân tích. Sử dụng đầy đủ thông tin nhưng là các thông tin cập nhật, sự cập nhật cũng là một khía cạnh của sự chính xác. Hiện tại các phòng ban công ty đều có máy vi tính nhưng chưa tiến hành nối mạng trong toàn công ty và các chi nhánh, chỉ có các máy trong phòng Kế toán tài chính là kết nối với nhau. Kế toán ở các chi nhánh và xí nghiệp vận tải vẫn phải ghi số liệu vào đĩa mềm và đem về phòng Kế toán tài chính của công ty vào cuối tháng. Công ty cần nghiên cứu vi tính hoá hơn các hoạt động của mình, nên có nối mạng giữa máy tính của Ban giám đốc, trưởng phòng Kế toán tài chính và các phòng ban công ty, nếu có thể với cả các chi nhánh, xí nghiệp; Số lượng chứng từ của công ty rất lớn, khâu tập hợp, hạch toán, kiểm tra đều thuộc Phòng Kế toán Tài chính công ty làm chậm tiến độ công việc lập báo cáo, công ty cũng nên xem xét phương án có kế toán tổng hợp tại các trung tâm tiêu thụ và các chi nhánh và ở những nơi đó có nối mạng với phòng Kế toán tài chính của công ty.

doc88 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1077 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại Công ty Vật tư kỹ thuật xi măng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tài chính dài hạn 50.000.000 0,30% 7. Chi phí XDCB dở dang 528.055.681 3,13% 8. Nợ ngắn hạn 14.128.228.516 83,64% 9. Nợ khác 422.726.518 2,50% 10.Nguồn vốn chủ sở hữu 298.749.047 1,77% Tổng 16.890.887.391 100% 16.890.887.391 100% Năm 2000, nguồn vốn chủ sở hữu tăng 44% một phần do sự sát nhập của công ty vật tư vận tải xi măng , cũng vì thế mà tài sản cố định của công ty tăng. Do hàng bán được vì có nhiều công trình nên công ty phần lớn dùng tiền và nguồn vốn chủ sở hữu để mua hàng dự trữ, và một lượng hàng bán nhưng chưa thu được tiền hàng. Năm 2001, sử dụng vốn và nguồn vốn của công ty tăng 16.890.887.391 đồng nhưng phần lớn nguồn để tài trợ cho sử dụng vốn là nợ ngắn hạn (83%), sử dụng vốn nằm chủ yếu ở vốn bằng tiền (57%) và hàng tồn kho (29,31%) mà chủ yếu là hàng đi đường. Công ty cần có biện pháp nâng cao tỷ lệ sinh lời của tài sản hơn và giảm thời gian hàng đi đường góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động tài chính công ty. 4.4. Phân tích các tỷ lệ tài chính * Phân tích khả năng thanh khoản Thuyết minh báo cáo tài chính của công ty các năm khác nhau tính toán các tỷ lệ về khả năng thanh toán khác nhau và không ghi rõ cách tính toán, nhưng qua đối chiếu số liệu và kiểm tra các phép tính toán người viết tóm tắt qua bảng sau: Chỉ tiêu 1999 2000 2001 1 TSLĐ 83.441.608.023 91.565.772.097 107.455.877.289 2 Nợ phải trả 67.593.756.986 69.256.955.750 82.962.457.748 3 Nợ ngắn hạn 63.978.667.685 64.840.128.082 78.968.356.598 4 Tiền và chứng khoán ngắn hạn 72.253.259.203 61.609.435.188 71.294.200.913 5 Khả năng thanh toán hiện hành= (1)/(2) 1,32 1,30 6 Khả năng thanh toán Nợ ngắn hạn( tức thời)=(1)/(3) 1,3 1,41 1,36 7 Khả năng thanh toán nhanh=(4)/(2) Hoặc=(4)/(3) 1,13 0,89 0,95 0,86 Như vậy là các chỉ tiêu về khả năng thanh khoản rất sai khác và không đúng bản chất, chẳng hạn khả năng thanh toán hiện hành đáng lẽ bằng tài sản lưu động/nợ ngắn hạn lại được tính như khả năng thanh toán dài hạn (TSLĐ/Nợ phải trả). Khả năng thanh toán nợ ngắn hạn theo cách tính toán của công ty chính là khả năng thanh toán hiện hành (hiện thời, chung). Khả năng thanh toán nhanh (TSLĐ-Tồn kho/Nợ ngắn hạn) đã bị tính sai công thức, còn khả năng thanh toán tức thời bằng tiền và chứng khoán dễ bán/Nợ ngắn hạn. Đó là chưa kể đến khi tính nợ ngắn hạn, người phân tích thường bỏ qua nợ khác ngắn hạn. Công ty cũng không có nhận xét về khả năng thanh toán của công ty là cao hay thấp nhưng người phân tích có cho rằng công nợ phát sinh dù đã có quy chế tiêu thụ xi măng về chậm trả là do tiêu thụ xi măng có xu hướng tăng, do tư tưởng và thực tế thị trường muốn mua bán chịu. Công ty vẫn liên tục rà soát để duy trì hoạt động kinh doanh lành mạnh, loại trừ những thất thoát có thể xảy ra. Công ty đã lập bảng kê các khoản phải thu và phải trả chi tiết cho từng khách hàng để theo dõi Chỉ tiêu Đầu kì PS trong kì Cuối kì Tổng số quá hạn Tổng số Quá hạn Tăng Giảm Tổng số Quá hạn I. Phải thu 1. … II.Phải trả 1. … * Phân tích khả năng sinh lời: Các tỷ lệ về khả năng sinh lời được phân tích trong thuyết minh báo cáo tài chính rất tốt, với mỗi chỉ tiêu công ty tính cho cả lợi nhuận trước thuế và sau thuế, doanh lợi vốn chủ sở hữu chỉ tính cho lợi nhuận sau thuế. Tuy nhiên công ty chỉ nói một cách chung chung là lợi nhuận đạt được thấp hơn các doanh nghiệp khác trong ngành mà không có thông tin nào cụ thể. Trong báo cáo phân tích tình hình hoạt động kinh doanh năm 2000, công ty tiến hành phân tích tổng hợp: Tổng hợp tình hình thực hiện các chỉ tiêu tài chính (Trích) Đơn vị tính: đồng Chỉ tiêu 1996 1997 1998 1999 2000 Tổng doanh thu 69.077.982.304 65.046.270.217 363.671.940.805 549.749.142.313 773.341.354.075 LN trước thuế 8.619.481.165 6.021.063.302 3.403.560.210 2.506.520.552 7.597.811.409 Vốn chủ sở hữu 32.002.810.847 37.663.066.679 46.838.206.962 40.980.431.504 50.541.093.166 Tỷ suất Lợi nhuận/ vốn (SH) 26,93% 15,99% 7,27% 6,12% 15,03% Tỷ suất Lợi nhuận/ Doanh thu 12,48% 9,26% 0,94% 0,46% 0,98% Trong tổng số lợi nhuận thực hiện, từ năm 1998 trở lại đây, tỷ trọng lợi nhuận xi măng là thấp (năm 1998 = 57,72%; năm 1999 = 25,29%; năm 2000 =35,84%). Mức lợi nhuận thực hiện của công ty hàng năm cũng không cao, tỷ suất lợi nhuận trên vốn, trên doanh thu thấp và từ năm 1996 đến nay, công ty chưa bao giờ đạt mức lợi nhuận để trích lập đủ 3 tháng lương cho 2 quỹ phúc lợi và khen thưởng. Công ty cũng đã chỉ ra các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận thực hiện như sau: - Sự cạnh tranh gay gắt và quyết liệt của các đối tác tham gia kinh doanh xi măng làm cho giá xi măng thực tế trên thị trường liên tục có xu hướng giảm. - Chi phí bán hàng, chi phí vận tải, khuyến mại có xu hướng tăng. - Bù lỗ cho hoạt động của Xí nghiệp Vận tải - Việc tiếp nhận xi măng bằng đường sắt, đường thuỷ được tăng cường, đẩy mạnh làm tăng lợi nhuận. - Tỷ lệ qua kho thực hiện thấp, làm giảm chi phí bốc xếp, vận tải, trung chuyển, do đó tăng lợi nhuận thực hiện. - Mức tiêu thụ tăng, giảm làm lợi nhuận tăng, giảm - Thu nhập từ hoạt động tài chính và từ hoạt động khác được tăng cường. Tuy nhiên, một số chỉ tiêu mà cán bộ phân tích tính còn chưa chính xác chẳng hạn với chỉ tiêu Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu thì doanh thu trong các năm 1996,1997,1998 là doanh thu có thuế doanh thu, còn năm 1999, 2000 công ty lấy doanh thu có VAT. Như chúng ta biết thuế doanh thu và VAT là thuế gián thu đánh vào người tiêu dùng, doanh nghiệp chỉ là người thu hộ, trả hộ, vì vậy doanh nghiệp không thể coi đó là doanh thu của mình. Cũng chỉ tiêu này trong thuyết minh báo cáo tài chính lại đúng. * Phân tích cơ cấu tài chính Bố trí cơ cấu tài sản và cơ cấu nguồn vốn Chỉ tiêu Tỷ trọng Năm trước(2000) Năm nay(2001) Bố trí cơ cấu tài sản - TSCĐ/Tổng TS % 23,57 19,69 - TSLĐ/Tổng TS % 76,43 80,31 Bố trí cơ cấu nguồn vốn - Nợ phải trả/Nguồn vốn % 57,81 62,00 - Vốn chủ sở hữu/nguồn vốn % 42,19 38,00 (Nguồn: Thuyết minh báo cáo tài chính năm 2001- Phòng KTTC) Do sản lượng bán tăng nên các khoản phải trả người bán tăng nhanh vì thế tỷ lệ Nợ/Nguồn vốn năm 2001 tăng. Sử dụng nợ cao sẽ khuyếch đại lợi nhuận khi hoạt động kinh doanh tiến triển nhưng cũng mang lại rủi ro cao khi hoạt động kinh doanh không tốt, vì vậy công ty phải nghiên cứu để tìm một tỷ lệ nợ thích hợp nhất. * Phân tích về khả năng hoạt động: Là một doanh nghiệp thương mại nhưng công ty chưa tính toán các chỉ tiêu về vòng quay tiền, vòng quay hàng tồn kho, thời gian thu tiền bình quân, kì thu tiền bình quân, kì dự trữ… Tóm lại, các chỉ tiêu phân tích còn quá sơ sài, chưa xây dựng được hệ thống chỉ tiêu, bảng biểu cho doanh nghiệp để đảm bảo hiệu quả của công tác phân tích. Một số bảng biểu đặt tên quá tổng hợp nhưng lại chưa đủ các chỉ tiêu. Là doanh nghiệp thương mại nhưng công ty cũng chưa có các chỉ tiêu về khả năng hoạt động, vốn lưu động thường xuyên và nhu cầu vốn lưu động thường xuyên. Công ty cũng chưa có sự đánh giá phân tích để tìm các phương án huy động và sử dụng vốn tối ưu nhất chẳng hạn: tiền, hàng tồn kho nên là bao nhiêu để chi phí cơ hội cho việc giữ tiền, dự trữ hàng hoá (khả năng sinh lời nếu ta đầu tư khoản tiền này, lợi ích từ việc đủ tiền thanh toán ngay; thu lời từ cho thuê kho, giảm chi phí bảo quản, bốc xếp vào ra kho, vận chuyển, lợi ích sẽ mất, được nếu giá xi măng tăng, hàng trở nên khan hiếm) ít nhất, đầu tư nên như thế nào, sử dụng vốn chủ sở hữu thế nào cho hiệu quả vì vốn chủ sở hữu của công ty là nguồn vốn trung dài hạn duy nhất, công ty không tiến hành vay tổ chức, cá nhân nào mà sử dụng nguồn vốn chủ sở hữu đầu tư toàn bộ cho TSCĐ và một phần TSLĐ. 5. Dự báo và lập kế hoạch tài chính Từ việc phân tích, Công ty đã đi tìm các nguyên nhân của thuận lợi và hạn chế ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh từ đó các kế hoạch tài chính của công ty đã xuất phát từ thực tiễn tại công ty, căn cứ vào định hướng kế hoạch của Tổng công ty và công ty, căn cứ vào tình hình thị trường để đề ra. Theo kế hoạch năm 2002, công ty phấn đấu đạt doanh số 953 tỷ đồng, lợi nhuận 3 tỷ đồng, nộp ngân sách 9 tỷ đồng, cố gắng giảm chi phí xuống thấp nhất nhưng vẫn đảm bảo hiệu quả kinh doanh của công ty. Dựa vào mô hình tổ chức sản xuất, kinh doanh 4 cấp, đặc điểm thị trường, đặc điểm vận tải từng địa bàn (có vận tải đường sắt, thuỷ, bộ hay không), công ty sẽ giao kế hoạch từng tháng, từng quý cho từng đơn vị, tổ chức khai thác luồng vận chuyển cho hợp lý, có kế hoạch về cơ chế giá, chi phí bán hàng, vận chuyển, khuyến mại… Tuy nhiên, Kế hoạch tài chính và dự báo tài chính chưa thực sự dựa trên cơ sở khoa học. 6. Đánh giá chung về công tác phân tích tài chính tại Công ty VTKTXM. Tóm lại, công tác phân tích tài chính tại Công ty Vật tư Kỹ thuật xi măng còn có nhiều hạn chế do nhiều nguyên nhân cả khách quan lẫn chủ quan. * Nguyên nhân khách quan - Phân tích tài chính còn khá mới mẻ ở Việt Nam nhất là đối với các doanh nghiệp nhà nước. Điều này có một nguyên nhân là các doanh nghiệp nhà nước trước đây sản xuất kinh doanh cái gì, cho ai và như thế nào đều theo kế hoạch trên giao. Khái niệm chi phí vốn không hề được biết đến. Các quyết định của nhà quản trị không tính đến hiệu quả tài chính: tìm nguồn tài trợ nào để chi phí là thấp nhất và đảm bảo các lợi ích khác, làm thế nào với nguồn vốn nhàn rỗi trong doanh nghiệp, lượng tồn kho phải là bao nhiêu để vừa đảm bảo sự liên tục của nguồn hàng vừa giảm chi phí, với tiền mặt cũng vậy, nên mua hay đi thuê tài sản cố định,… - Thị trường tiền tệ, thị trường vốn chưa phát triển hoàn chỉnh nên phân tích tài chính chưa được quan tâm. Khi hai thị trường này phát triển thì rõ ràng các cơ hội đầu tư tăng lên. Đồng tiền có chi phí cơ hội nên người ta phải phân tích các cơ hội đâu tư bằng cách phân tích tài chính các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp mà họ sẽ đầu tư bất kể họ là nhà ngân hàng cho vay, nhà doanh nghiệp đầu tư, liên doanh hay cá nhân đầu tư. Khi hai thị trường này phát triển thì tình trạng dư thừa tiền mặt sẽ ít đi, để đảm bảo khả năng thanh toán các doanh nghiệp có thể đầu tư vào các chứng khoản vừa có tính thanh khoản vừa có độ sinh lời nhất định. - Công tác kế toán chưa hoàn thiện nên phân tích tài chính chưa đầy đủ, chính xác. Các quy định về thuế, kế toán hay thay đổi làm ảnh hưởng đến số liệu phân tích tài chính tuy sự thay đổi đó là tất yếu của quá trình hoàn thiện chế độ kế toán, thuế cho phù hợp với thông lệ quốc tế và thực tiễn của Việt Nam. - Hoạt động của công ty vẫn phụ thuộc vào các chỉ tiêu kế hoạch trên giao ngay cả vấn đề giá cả, sản lượng bán. Giá xi măng công ty là giá do Tổng công ty Xi măng Việt Nam, Bộ Xây dựng và Ban vật giá Chính phủ quy định. Khuyến mại của công ty phụ thuộc Bộ Thương mại. Các quy định này ảnh hưởng rất nhiều đến hoạt động của công ty trong đó có hạch toán kế toán và như vậy đã ảnh hưởng đến công tác phân tích tài chính. Tổng công ty cũng thường xuyên thay đổi tổ chức của công ty dẫn đến khó đánh giá và so sánh kết quả đạt được. - Bản thân 2 phương pháp phân tích công ty đang sử dụng cũng có những hạn chế của nó, đó là không cho thấy nguyên nhân sâu xa của các hiện tượng và đo lường sự thay đổi của yếu tố này đến yếu tố khác, tính dự báo không cao, và chỉ phát huy hiệu quả nếu được so sánh vỡi các doanh nghiệp cùng tính chất hoạt động. * Nguyên nhân chủ quan - Công tác phân tích tài chính chưa được trên và ban lãnh đạo thực sự quan tâm do chưa thấy hết tầm quan trọng của nó. - Từ sự đánh giá không đúng tầm quan trọng của hoạt động phân tích tài chính dẫn đến việc không có sự phân công cụ thể, chuyên trách, không có đội ngũ nhân viên đảm nhận trực tiếp. - Các cán bộ làm công tác phân tích hoạt động kinh doanh chưa có phương pháp và công nghệ phân tích tài chính hiện đại nên chỉ mới dừng lại ở phương pháp so sánh và tỷ lệ. Bản thân cán bộ phân tích cũng chưa được đào tạo hệ thống về phân tích tài chính vì phân tích tài chính mới được các trường đại học giảng dạy gần đây. - Tâm lý muốn giữ bí mật thông tin của các doanh nghiệp hiện nay vẫn phổ biến, vì vậy các báo cáo tài chính thường được sửa đổi khi nộp cho cấp trên, cơ quan thuế, thống kê…Báo cáo tài chính không được công khai lại đã được sửa nên tìm thông tin bên ngoài: thông tin bạn hàng, thông tin đối tác, đối thủ và xây dựng hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành là rất khó và không chính xác. - Phân tích tài chính chỉ được công ty thực hiện ở giữa năm và cuối năm nên chưa phản ánh hết hoạt động của công ty. Điều này do các quy chế về phân tích quy định. Trên đây chưa phải là toàn bộ những nguyên nhân ảnh hưởng đến thực trạng công tác phân tích tài chính của Công ty nhưng cũng cho thấy những điểm chính công ty cần khắc phục. Chương sau sẽ đề cập đến các giải pháp và kiến nghị để hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại công ty. Chương III: Giải pháp hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại Công ty vật tư kỹ thuật xi măng I. Giải pháp hoàn thiện công tác phân tích tài chính Cũng trong tình trạng chung của các doanh nghiệp nhà nước hiện nay, công tác phân tích tài chính tại công ty đã được thực hiện nhưng còn chưa hiệu quả. Từ đó người viết mong muốn đưa ra giải pháp để hoàn thiện công tác này nhằm nâng cao hiệu quả cuả công tác phân tích tài chính và hiệu quả kinh doanh của Công ty vật tư kỹ thuật xi măng. 1. Xây dựng và tổ chức thực hiện tốt một quy trình phân tích tài chính tại Công ty Cũng như hầu hết các doanh nghiệp nhà nước, công tác phân tích tài chính của công ty đã được triển khai nhưng chưa được thực hiện một cách thường xuyên, liên tục và chưa có một hệ thống cơ sở lý luận, phương pháp phân tích hoàn chỉnh. Các khâu thu thập và phân tích số liệu được thục hiện theo định kì quý, tháng, năm. Thậm chí các nhân viên coi hoạt động này như là một phần của công tác kế toán mà họ thường phải thực hiện. Trong khi đó ta biết rằng, để công tác phân tích tài chính thực hiện một cách toàn diện và hiệu quả thì nhà phân tích phải tách phân tích tài chính ra khỏi hoạt động kế toán, phân tích tình hình hoạt động kinh doanh thành hai hoạt động độc lập, phân chia thành nhiều giai đoạn, xác định được nhiệm vụ cũng như mục tiêu của từng giai đoạn phân tích. Sự phân tích như hiện nay gây hạn chế cho lãnh đạo công ty đưa ra các quyết định quản lý phù hợp. Để khắc phục hạn chế này, công ty nên thực hiện theo một quy trình riêng, hoàn chỉnh với đầy đủ mội dung phân tích , phương pháp và thông tin sử dụng, đảm bảo tốt chất lượng nhân sự cho công tác phân tích. Theo người viết, công ty nên tiến hành phân tích theo các bước sau: Quy trình phân tích tài chính Bước 1: Chuẩn bị cho công tác phân tích Đây là giai đoạn có ý nghĩa quyết định phương hướng cũng như hiệu quả của quá trình phân tích . Nhiệm vụ của giai đoạn này là chúng ta phải xác định được mục tiêu phân tích của mình để từ đó lên kế hoạch cho quá trình phân tích . Theo đó, ta có thể cụ thể hoá giai đoạn này như sau: - Xác định mục tiêu chung và mục tiêu trọng tâm (nếu có): Hoạt động phân tích tài chính tại công ty nhằm các mục tiêu chính: + Đánh giá thực trạng tài chính của công ty trong thời gian qua đồng thời xây dựng kế hoạch tài chính trong thời gian tới. + Xây dựng hệ thống báo cáo tài chính trình lên Tổng công ty Xi măng Việt Nam và các cơ quan hữu quan khác theo quy định. Như vậy, ngoài mục tiêu giải trình các số liệu về tài chính , các kết quả phân tích tài chính còn phải thể hiện được tình hình tài chính của công ty trên từng khía cạnh cụ thể và tìm ra khâu mạnh yếu của hoạt động tài chính hiện thời của công ty, chỉ ra các nguyên nhân gây ra sự suy giảm hay tăng trưởng khả năng sinh lợi, xác định khả năng, mức độ tác động đến các nguyên nhân tạo ra kết quả hoạt động của công ty, dự báo và lập kế hoạch tài chính, căn cứ vào đó, lãnh đạo công ty sẽ có kế hoạch khắc phục những yếu điểm, xây dựng phương hướng, chiến lược phát triển trong tương lai. - Lập kế hoạch phân tích : Sau khi đã xác định được các mục tiêu phân tích , ta tiến hành lập kế hoạch phân tích . Phần này yêu cầu phải xây dựng kế hoạch: + Nội dung phân tích : gồm có: Phân tích khái quát tình hình tài chính công ty Phân tích cơ cấu tài chính Phân tích các chỉ tiêu tài chính Nếu có thể thì phân tích độ co giãn Dự báo, lập kế hoạch + Thời gian tiến hành + Số lượng nhân sự và phân công chi tiết - Thông báo đến từng bộ phận, cá nhân theo kế hoạch - Thu thập và chuẩn bị thông tin: + Các thông tin, tài liệu nội bộ doanh nghiệp + Các thông tin bên ngoài cần thiết - Kiểm tra lại tính chính xác của thông tin Bước 2: Thu thập và xử lý thông tin Chất lượng của công tác phân tích tài chính trong doanh nghiệp phụ thuộc trước tiên vào nguồn thông tin sử dụng. Vì vậy, các thông tin sử dụng trong phân tích tại công ty vật tư kỹ thuật xi măng được thu thập từ hai nguồn: - Nguồn thông tin bên trong doanh nghiệp : đây là nguồn thông tin có sẵn và đóng vai trò quan trọng trong hoạt động phân tích tài chính tại bất kì doanh nghiệp nào. Đây cũng là nguồn thông tin có độ chính xác cao nhất và cũng được sử dụng thường xuyên nhất trong công tác phân tích tài chính thời gian qua. Trong hệ thống thông tin kế toán phục vụ cho công tác phân tích tài chính , tài liệu quan trọng nhất là các báo cáo tài chính . - Nguồn thông tin bên ngoài doanh nghiệp : đóng vai trò không nhỏ việc nâng cao tính hiệu quả, chính xác trong công tác phân tích, nguồn thông tin về môi trường kinh doanh bên ngoài doanh nghiệp , môi trường pháp lý, các quy chế tài chính…có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến hoạt động sản xuất, kinh doanh và hoạt động tài chính . Dựa trên các số liệu thu thập được, các nhân viên tiến hành tổng hợp, sắp xếp số liệu và xây dựng hệ thống các bảng biểu, chỉ tiêu phục vụ cho từng nội dung phân tích. Vấn đề đặt ra là, chúng ta cần phải tìm kiếm đầy đủ và lựa chọn chính xác những thông tin cần thiết. Bước 3: Tiến hành phân tích: - Tiến hành phân tích đầy đủ các nội dung phân tích theo mục tiêu chung. Nếu có vấn đề nào cần lưu ý thì đi sâu vào các nội dung có liên quan: + Phân tích khái quát hoạt động sản xuất, kinh doanh và tình hình tài chính + Phân tích cơ cấu tài chính + Phân tích các chỉ tiêu tài chính Bước 4: Báo cáo kết quả phân tích - Tổng hợp, đưa ra các nhận xét, đánh giá về hiệu quả kinh doanh của công ty trong kì phân tích so với kì trước. - Đưa ra một số biện pháp để phát huy những thành công đã đạt được và khắc phục những hạn chế còn tồn tại. - Lập kế hoạch tài chính cho những năm tới và đưa ra các dự báo tài chính chi tiết. Với quy định trên, Công ty nên tiến hành đầy đủ các bước. Tuy nhiên, để đảm bảo chất lượng phân tích , khi tiến hành phân tích theo quy trình trên, công ty cần phải có các biện pháp nâng cao chất lượng nhân sự, thông tin , phương pháp phân tích và phân tích đầy đủ, chặt chẽ các nội dung phân tích . 2. Nâng cao chất lượng nhân sự cho công tác phân tích tài chính 2.1. Nâng cao nhận thức về công tác phân tích tài chính Các cán bộ phân tích tài chính hiện nay vẫn chưa coi trọng công tác phân tích bởi họ chưa nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của công tác phân tích tài chính đối với quản lý tài chính của công ty. Để tác động và làm thay đổi nhận thức này, theo người viết, công ty cần đề ra những quy định cụ thể về công tác phân tích tài chính tại công ty, bao gồm: + Quy định về thời gian tiến hành phân tích + Quy định về trách nhiệm và yêu cầu công việc đối với cán bộ phân tích . Đặc biệt là đối với cán bộ có trách nhiệm chính, điều hành tổ chức toàn bộ công tác phân tích . + Quy định về đào tạo, bồi dưỡng trình độ chuyên môn các cán bộ phân tích + Quy định về các hình thức khen thưởng, kỉ luật đối với các cán bộ phân tích + Quy định về trách nhiệm các phòng ban chức năng có liên quan đến công tác phân tích + Quy định về kiểm tra, đánh giá chất lượng phân tích 2.2. Nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ phân tích Nâng cao chất lượng nhân sự còn có nghĩa là nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ phân tích . Công ty phải có kế hoạch bồi dưỡng nghiệp vụ phân tích cho cán bộ kế toán: - Tổ chức các khoá bồi dưỡng nghiệp vụ phân tích cho cán bộ kế toán. Thời gian tuỳ thuộc vào điều kiện công ty và tương quan về trình độ chuyên môn hiện tại so với mức yêu cầu. - Hiện tại, cần đào tạo và bồi dưỡng kiến thức về tài chính doanh nghiệp và phân tích tài chính một cách quy củ cho các bộ kế toán đang kiêm nhiệm vụ phân tích tình hoạt động kinh doanh để trong giai đoạn này cố gắng nâng cao chất lượng chuyên môn trong công tác phân tích tài chính của công ty. Công ty nên mời các chuyên viên về tài chính doanh nghiệp của Bộ Tài chính hay cơ quan chủ quản cấp trên về và tổ chức các lớp bồi dưỡng, đào tào ngay tại công ty. - Sau này, công ty cần tuyển bổ sung các cán bộ trẻ được đào tạo một cách chính quy về tài chính doanh nghiệp và phân tích tài chính doanh nghiệp , thành thạo ngoại ngữ và vi tính. Biện pháp này có tác dụng thúc đẩy sự chuyên môn hoá trong phòng, giảm bớt chi phí đào tạo và do đó cũng nâng cao trình độ chung về phân tích tài chính doanh nghiệp của Phòng Kế toán Tài chính. - Trong dài hạn Ban giám đốc công ty cần lựa chọn ra một số cán bộ phân tích có năng lực và phẩm chất để gởi đi đào tào nhằm tạo ra một số nhân chủ chốt cho công tác phân tích tài chính của công ty. - Tổ chức hướng dẫn cụ thể cho các cán bộ nói chung và các bộ phận nói riêng về việc áp dụng các văn bản pháp luật có liên quan đến lĩnh vực sản xuất, kinh doanh của Công ty mới được ban hành. 2.3. Tổ chức nhân sự cho công tác phân tích 2.3.1. Nhân sự phân tích trực tiếp: - Trước mắt, Trưởng phòng Kế toán Tài chính là người phụ trách toàn bộ công tác này, do đó là người chịu trách nhiệm trước Ban giám đốc Công ty về hoạt động của công tác này. Để đảm bảo hiệu quả phân tích Trưởng phòng Kế toán tài chính cần bố trí công việc kế toán cho cán bộ phân tích một cách hợp lý cả về số lượng và thời gian công việc bởi các cán bộ kế toán công ty đang phải kiêm nhiệm công tác phân tích tài chính, do đó có ít điều kiện theo dõi tình hình tài chính doanh nghiệp. - Về sau này nên tổ chức một cơ cấu phòng ban hợp lý và chắt chẽ hơn và có phòng chuyên trách về tài chính: Có thể chia Phòng Kế toán Tài chính thành hai bộ phận riêng biệt. Nhân sự cho hoạt động phân tích tài chính của phòng Tài chính sẽ là một số cán bộ ở Phòng Kế toán Tài chính cũ, Phòng Kỹ thuật đầu tư (cán bộ phân tích tài chính dự án), Phòng Quản lý thị trường và bổ sung mới. 2.3.2. Nhân sự gián tiếp: Muốn công tác phân tích đạt hiệu quả cao thì từ khâu thu thập thông tin đến khâu thực hiện đều phải kết hợp chặt chẽ. Muốn vậy phải xây dựng kế hoạch chung giữa các Phòng ban chức năng về công tác phân tích đặc biệt là Phòng Kinh tế Kế hoạch, Phòng Quản lý thị trường, Phòng Điều độ và quản lý kho, Phòng Tiêu thụ và các Chi nhánh. Kế hoạch này một mặt phải phù hợp với quy định của công ty về công tác phân tích, mặt khác phải thống nhất, kết hợp cả về số lượng nhân sự và thời gian thực hiện để phân tích tài chính, thể hiện vai trò của nó trong việc đẩy mạnh hoạt động bán hàng, tăng doanh thu, lợi nhuận. Các cán bộ thực hiện kế hoạch đã được xây dựng và thống nhất ở trên đúng thời gian, sau đó phải tiến hành đánh giá những kết quả đạt được để có những điều chỉnh thích hợp. 3. Sử dụng đầy đủ, chính xác thông tin 3.1. Với nguồn thông tin bên trong Với nguồn thông tin nội bộ của công ty, phòng Kế toán Tài chính nên lập đủ các báo cáo tài chính – nguồn thông tin chủ yếu cho việc phân tích . Điều đó có nghĩa là cần phải lập Báo cáo lưu chuyển tiền tệ, báo cáo tài chính còn lại duy nhất mà công ty chưa lập. Khi đó, các cán bộ phân tích sẽ không gặp khó khăn trong việc phân tích , đánh giá khả năng tạo ra luồng tiền trong tương lai, khả năng tài trợ, đầu tư ngắn hạn của công ty. Việc lập đủ các Báo cáo tài chính sẽ tạo ấn tượng tốt về sự quy củ trong quản lý tài chính của công ty đối với các đối tượng bên ngoài, tạo thuận lợi cho công ty trong thời gian tới – khi mà các quan hệ tương tác với các nước trong khu vực được mở rộng. Sử dụng đầy đủ các thông tin phải kết hợp với yêu cầu thông tin sử dụng phải có tính chính xác. Vì vậy, Trưởng phòng Kế toán tài chính nên chỉ đạo công tác kiểm tra kế toán trong công ty để đảm bảo thông tin được sử dụng là thông tin “sạch”. Bên cạnh đó, công ty còn khuyến khích sự phân tích , kiến nghị của CBCNV về tình hình sản xuất, kinh doanh bởi đây cũng là nguồn bổ sung thông tin cần thiết. Và khi đó, lãnh đạo Phòng Kế toán tài chính, Ban giám đốc công ty cũng phải chú ý đến những thông tin này. Việc này vừa đảm bảo tính dân chủ vừa góp phần làm tăng thông tin cho công tác phân tích. Sử dụng đầy đủ thông tin nhưng là các thông tin cập nhật, sự cập nhật cũng là một khía cạnh của sự chính xác. Hiện tại các phòng ban công ty đều có máy vi tính nhưng chưa tiến hành nối mạng trong toàn công ty và các chi nhánh, chỉ có các máy trong phòng Kế toán tài chính là kết nối với nhau. Kế toán ở các chi nhánh và xí nghiệp vận tải vẫn phải ghi số liệu vào đĩa mềm và đem về phòng Kế toán tài chính của công ty vào cuối tháng. Công ty cần nghiên cứu vi tính hoá hơn các hoạt động của mình, nên có nối mạng giữa máy tính của Ban giám đốc, trưởng phòng Kế toán tài chính và các phòng ban công ty, nếu có thể với cả các chi nhánh, xí nghiệp; Số lượng chứng từ của công ty rất lớn, khâu tập hợp, hạch toán, kiểm tra đều thuộc Phòng Kế toán Tài chính công ty làm chậm tiến độ công việc lập báo cáo, công ty cũng nên xem xét phương án có kế toán tổng hợp tại các trung tâm tiêu thụ và các chi nhánh và ở những nơi đó có nối mạng với phòng Kế toán tài chính của công ty. Để làm được như vậy, mạng lưới bán của công ty cần tập trung hơn, phải làm tốt công tác bảo mật, chế độ kiểm tra kiểm soát chặt chẽ, ý thức trách nhiệm lãnh đạo, cán bộ kế toán phải cao. 3.2. Với nguồn thông tin bên ngoài: Nguồn thông tin bên ngoài bao gồm những thông tin về tình hình kinh tế trong nước có liên quan đến hoạt động kinh doanh của công ty. Do đó, cán bộ phân tích tài chính công ty cần thực hiện theo các biện pháp sau: - Theo dõi sự biến động của lãi suất ngân hàng thường xuyên vì nó ảnh hưởng tới các khoản tiền gửi, đến chi phí các khoản phải thu (cho nợ thì không thu được lãi so với đem khoản đó đi gửi ngân hàng), đến các khoản đầu tư tài chính của công ty. - Thu thập các thông tin về sự thay đổi chỉ số giá các loại hàng hoá sử dụng trong hoạt động kinh doanh để kết hợp trong phân tích các giải pháp hợp lý trong trường hợp khan hiếm hàng hoá hoặc trong trường hợp chỉ số giá biến động thất thường… Ngoài ra, phải nắm bắt các chủ trương, chính sách của Nhà nước liên quan đến ngành xi măng, vật liệu xây dựng, xây dựng công trình: các khu đô thị, các tuyến đường giao thông… Để có được nguồn thông tin này, các cán bộ phân tích tài chính phải theo dõi trên các phương tiện thông tin đại chúng một cách thường xuyên. Công ty nên đặt mua dài hạn các loại báo: Nhân dân, Lao động, Thời báo Kinh tế Việt Nam, Tạp chí Xây dựng, Báo Đầu tư…, đặt mua hoặc đề nghị cơ quan quản lý cấp trên cung cấp các văn bản pháp luật mới ban hành liên quan đến hoạt động kinh doanh của công ty. Đấy là việc nên làm bởi chi phí không lớn và nó thực sự cần thiết cho công tác phân tích tài chính của công ty. Ngoài ra cần phối hợp với các Phòng Điều độ và quản lý kho, Phòng Quản lý thị trường, Phòng Tiêu thụ, các chi nhánh để nắm bắt các thông tin về cầu và cung thị trường, từng địa bàn tiêu thụ xi măng của công ty. Cán bộ phân tích sử dụng nguồn thông tin này chủ yếu trong việc dự đoán nhu cầu tài chính doanh nghiệp và xây dựng phương án kinh doanh năm tới. Đối với phương pháp phân tích tỷ lệ, hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành là thông tin quan trọng bởi đây là hệ thống chỉ tiêu phù hợp nhất cho việc lựa chọn hệ thống chỉ tiêu tham chiếu – cơ sở cho việc đánh giá kết quả phân tích theo không gian và theo thời gian. Hệ thống chỉ tiêu này là cơ sở để chúng ta đánh giá được điểm yếu và điểm mạnh của công ty theo một mức độ nào đó, xác định được vị trí của công ty trong toàn ngành để từ đó đưa ra phương hướng và giải pháp cụ thể. Hiện tại các công ty trong ngành vẫn biết được tình hình kinh doanh của nhau nhưng ở mức độ khái quát chứ không cụ thể. Hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành chưa có. Theo quy định hiện hành của Bộ Tài chính, hàng năm các doanh nghiệp nhà nước phải gửi Báo cáo tài chính cho Cục quản lý tài chính doanh nghiệp , cơ quan thuế, cơ quan thống kê. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài còn phải nộp cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Doanh nghiệp khác phải nộp báo cáo tài chính cho cơ quan thuế và cơ quan thống kê. Công ty có thể tìm các thông tin về ngành và các doanh nghiệp trong ngành, các doanh nghiệp cùng tính chất ở đây với một số đảm bảo về nguồn tin này. ở nước ta, hoạt động phân tích tài chính chưa trở thành việc làm thường xuyên và hệ thống thông tin chưa được hoàn hảo nên các chỉ tiêu ngành dù quan trọng nhưng hiện tại chỉ nên xem là tiêu chuẩn để tham khảo, ngay cả trong trường hợp sự tính toán thực sự khách quan. Chỉ có cán bộ phân tích giỏi về chuyên môn, am hiểu thị trường thì mới có thể đưa ra những nhận xét xác đáng. Nói chung, vì các thông tin trong các báo cáo tài chính là các thông tin “tĩnh” do đó cần gắn chúng hơn với các thông tin động kể cả trong và ngoài công ty. 4. Sử dụng đúng và hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu, bảng biểu, sơ đồ phân tích, kết hợp nhuần nhuyễn các phương pháp phân tích - Phương pháp tỷ lệ cung cấp cho chúng ta một bức tranh khá toàn diện về tình hình tài chính của công ty chỉ khi hệ thống chỉ tiêu của nó được sử dụng đúng, không có những chỉ tiêu không cần thiết, không bỏ qua các chỉ tiêu quan trọng, được đặt trong mối quan hệ so sánh với các doanh nghiệp cùng tính chất. Vì thế, Công ty nên thống nhất các khái niệm doanh thu, chi phí – nên hiểu chúng không bao gồm thuế gián thu. Bởi thuế gián thu là thuế đánh vào người tiêu dùng, người tiêu dùng là đối tượng chịu thuế chứ không phải là doanh nghiệp, doanh nghiệp chỉ là người thu hộ cho nhà nước, nộp hộ cho người tiêu dùng. Chẳng hạn như khái niệm doanh thu không được gồm VAT, thuế doanh thu. Công ty cũng cần thống nhất khái niệm chi phí bán hàng, tránh sự hiểu khác nhau trong khi phân tích. Việc lựa chọn cụ thể các chỉ tiêu nào phải được phân tích và tính toán, điều này tuỳ theo quan điểm của từng doanh nghiệp. Theo người viết, Công ty là doanh nghiệp thương mại nên ngoài các chỉ tiêu về thanh toán, sinh lợi cần quan tâm đến các chỉ tiêu về khả năng hoạt động và phân tích dòng ngân quỹ: Vòng quay tiền (= Doanh thu thuần/Tiền và chứng khoán dễ bán), Vòng quay dự trữ ( Doanh thu thuần/Dự trữ), Chu kì tiền mặt, Chu kì dự trữ, Chu kì chờ thu tiền (Kì thu tiền bình quân), Chu kì trả tiền, Vòng quay vốn lưu động, hiệu suất sử dụng tổng tài sản, hiệu suất sử dụng tài sản cố định, hiệu suất sử dụng tài sản lưu động,.. Công ty nên lập bảng sau để dễ theo dõi: STT Chỉ tiêu Năm N Năm N+1 Năm N+2 1 Doanh thu thuần 2 Dự trữ 3 Các khoản phải thu 4 Các khoản phải trả 5 Tài sản Tài sản cố định Tài sản lưu động 6 Chu kì dự trữ Vòng quay dự trữ 7 Chu kì chờ thu tiền(3)*360/(1) 8 Chu kì trả tiền(4)*360/(1) 9 Chu kì tiền mặt Vòng quay tiền 10 Hiệu suất sử dụng Tổng tài sản Hiệu suất sử dụng TSCĐ Hiệu suất sử dụng TSLĐ Công ty cần chú ý khi các chỉ tiêu có liên quan đến nợ ngắn hạn và dài hạn vì nợ khác cũng gồm ngắn hạn và dài hạn. Vì doanh thu thuần không gồm VAT nên các khoản phải thu, phải trả không nên gồm VAT. - Là doanh nghiệp thương mại, công ty nên phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh với các bảng biểu lập cho 3 năm như sau: Vốn lưu động thường xuyên STT Chỉ tiêu Năm N Năm N+1 Năm N+2 1 Tài sản cố định 2 Vốn chủ sở hữu 3 Nợ dài hạn 4 Vốn lưu động thường xuyên (4)=(2)+(3)-(1) Nhu cầu vốn lưu động STT Chỉ tiêu Năm N Năm N+1 Năm N+2 1 Khoản phải thu 2 Dự trữ có bao gồm TSLĐ khác 3 Nợ ngắn hạn 4 Tổng nhu cầu vốn lưu động (4)=(1)+(2)-(3) Tiền STT Chỉ tiêu Năm N Năm N+1 Năm N+2 1 Vốn lưu động thường xuyên 2 Nhu cầu vốn lưu động 3 Tiền (3)=(1)-(2) - Công ty cũng cần lưu ý đến đặc điểm mùa vụ của sản phẩm xi măng để dự tính tiền mặt và hàng dự trữ của công ty sao cho chi phí cơ hội của việc giữ tiền và dự trữ hàng giảm thiểu. Lý thuyết tài chính doanh nghiệp và mô hình toán kinh tế có phương pháp tính toán cho bài toán này nhưng do số liêụ không đầy đủ nên người viết không thể đưa ra ví dụ ở đây. Thông thường các tháng 3, 4, 5, 10, 11, 12 xi măng bán chạy và khan hiếm hơn các tháng khác do chủ công trình được duyệt vốn, thời tiết thuận lợi, yêu cầu hoàn thành công trình công ty cần có sự dự trữ hàng nhiều hơn để không lỡ các cơ hội sinh lời. - Để theo dõi các chi phí công ty nên lập biểu chi phí (chi tiết và tổng)/doanh thu thuần để biết được biến động của chúng không phụ thuộc vào doanh thu cao, thấp từ đó có các giải pháp quản lý đối với chi phí, tránh lãng phí…, tăng lợi nhuận cho công ty. - Cán bộ phân tích cũng nên phân tích các phương án huy động và sử dụng vốn để tìm phương án hiệu quả, rõ ràng thiếu vốn trung dài hạn để đầu tư cho nợ ngắn hạn là điều đáng lo ngại nhưng “ thừa vốn” chủ sở hữu như trường hợp của công ty cũng chưa hẳn là tốt vì chúng ta biết vốn chủ sở hữu là nguồn có chi phí cơ hội cao hơn nguồn vốn khác. Tiền có chi phí cơ hội của nó nên công ty cần có phương án sử dụng hiệu quả hơn . - Sơ đồ là một công cụ cho phép chúng ta dễ dàng so sánh các chỉ tiêu trong cùng thời điểm hoặc một chỉ tiêu trong các thời điểm, dễ thấy xu hướng vận động của chúng. Hơn nữa thực hiện công cụ này không phải là khó. Phần mềm Excel cho phép ta vẽ nếu có số liệu. Công ty nên sơ đồ hoá các chỉ tiêu tài chính nếu có sự so sánh chúng về thời gian, về tỷ trọng… Chẳng hạn như các chỉ tiêu doanh thu, chi phí, lợi nhuận theo các năm như trong Bảng Tổng hợp tình hình thực hiện các chỉ tiêu tài chính. - Trong nền kinh tế thị trường, việc xử lý nhanh chóng các thông tin và đưa ra ngay các giải pháp là việc rất cần thiết, nếu chỉ sử dụng riêng phương pháp so sánh và tỷ lệ thì khó có thể cho kết quả mong muốn. Vì vậy công ty cần ứng dụng cả phương pháp khác như phương pháp phân tích tách đoạn, độ co giãn, ước lượng theo mô hình hồi quy…để tìm nguyên nhân chủ yếu tạo ra bức tranh tài chính hiện thời, xác định liều lượng cần tác động vào các nhân tố có ảnh hưởng quan trọng tới kết quả cuối cùng để đạt được mục tiêu đề ra, dự báo các chỉ tiêu tài chính. Hệ số co giãn được xây dựng cho nhiều cặp yếu tố như Lợi nhuận/ Tài sản, Doanh thu/Tài sản…Việc xem xét các hệ số co giãn sẽ giúp công ty biết được sự thay đổi của yếu tố này theo yếu tố khác, từ đó nếu công ty có một quyết định thay đổi một yếu tố nào đó thì sẽ biết sự biến đổi tương ứng các yếu tố còn lại. Quả là các phương pháp sau đòi hỏi phải có trình độ cũng như kỹ năng tính toán, nhất là phương pháp phân tích kinh tế lượng trong dự báo tài chính thậm chí đòi hỏi phải có phần mềm chuyên dụng với nguồn số liệu lớn. Tuy nhiên, người viết tin tưởng rằng khi đã hiểu được tầm quan trọng của phân tích tài chính thì vừa học vừa làm, công ty sẽ làm được. Các phương pháp phải được áp dụng thuần thục, nhuần nhuyễn tuỳ mục tiêu của phân tích tài chính, không nên áp dụng dàn trải, phân tích rộng nhưng không sâu. Trong chuyên đề này, do số liệu không đầy đủ nên người viết không có điều kiện phân tích ví dụ dự báo tình hình tài chính. Tất nhiên, điều kiện không thể thiếu để áp dụng các phương pháp là công nghệ hỗ trợ phân tích. II. Kiến nghị 1. Kiến nghị với Công ty Để công tác phân tích tài chính của công ty ngày càng mang lại hiệu quả khi thực hiện theo quy trình phân tích đã xây dựng trong phần giải pháp thì yếu tố đầu tiên cần có là Bán giám đốc và Trưởng phòng Kế toán tài chính thực sự nhận thức được tầm quan trọng của công tác phân tích tài chính đối với hoạt động kinh doanh của công ty. Sự quan tâm thể hiện ở những quyết tâm và những việc làm thiết thực của cấp lãnh đạo công ty là điều kiện tiền đề cho sự thành công của hoạt động phân tích tài chính. Khi yếu tố này được đảm bảo, người viết xin đề xuất thêm một số kiến nghị sau: 1.1. Kiến nghị về quy định của công tác phân tích tài chính Các quy định về công tác phân tích tài chính phải được xây dựng một cách hợp lý tạo thành một bộ phận nội dung cơ bản của quy định quản lý tài chính của công ty. Cần quy định mục đích, ý nghĩa, tầm quan trọng, quy trình phân tích, quyền lợi và trách nhiệm của các bộ phận, cá nhân liên quan đến công tác phân tích tài chính, kinh phí cho hoạt động phân tích, công tác cán bộ cho phân tích… Báo cáo về công tác phân tích tài chính phải là một nội dung chính được đưa ra trình bày về công tác quản lý tài chính của công ty trong Hội nghị tổng kết hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng năm của công ty. Thời gian tiến hành phân tích tài chính nên quy định là ngay sau khi các báo cáo tài chính của công ty được lập xong, độ dài thời gian tiến hành cần được xác định rõ (Trưởng phòng Kế toán tài chính và các cán bộ phân tích thống nhất với nhau sau đó trình Ban giám đốc thông qua). 1.2. Kiến nghị về nâng cao chất lượng chuyên môn cho cán bộ phân tích Về hoạt động đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn cho cán bộ phân tích, công ty nên tạo điều kiện về kinh phí, thời gian…cho cán bộ phân tích để họ nâng cao trình độ chuyên môn của mình một cách sớm nhất. Công ty nên lựa chọn ra một số cán bộ phân tích để đào tạo chuyên sâu trong việc lập hồ sơ về tài chính, phân tích và thẩm định dự án (phù hợp với xu hướng đa dạng hoá hoạt động kinh doanh của công ty trong thời gian tới). Bên cạnh đó, để thích ứng với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế xã hội thì việc nâng cao trình độ chuyên môn không chỉ đơn thuần là nâng cao về phân tích tài chính doanh nghiệp mà còn phải nâng cao trình độ vi tính và ngoại ngữ thông dụng: Anh, Pháp, Trung Quốc…Công ty nên tạo điều kiện về vật chất, thời gian để cán bộ học ngoại ngữ và tin học, coi tin học và ngoại ngữ thành thạo là một trong các tiêu chuẩn tuyển dụng cho các vị trí như phân tích tài chính. 1.3. Kiến nghị về cung cấp và sử dụng thông tin trong phân tích Vì thông tin phân tích chính xác góp phần quan trọng đến chất lượng hoạt động phân tích và từ đó quyết định đến quyết định của Ban lãnh đạo để điều hành hoạt động công ty nên các thông tin sử dụng phải là các thông tin “sạch”, chứ không phải thông tin đã qua sửa chữa. Các cán bộ, nhân viên liên quan đến công tác phân tích nên tạo điều kiện cho cán bộ phân tích trong việc cung cấp tin chính xác, đầy đủ, kịp thời bởi đây là vì lợi ích của toàn công ty. Tất nhiên, với thông tin bên ngoài thì cán bộ phân tích cần phải xem xét nhiều chiều, biết lựa chọn thông tin đúng. Với các chỉ tiêu trung bình ngành, cán bộ phân tích của công ty nên chủ động thu thập trước khi tiến hành phân tích theo một số cách đã đề cập ở phần giải pháp. Công ty cần thực hiện tốt công việc này để đảm bảo bước một của quy trình được thực hiện tốt. 1.4. Kiến nghị về đầu tư trang thiết bị vi tính, thiết bị in và phần mềm phân tích Để việc phân tích thực hiện nhanh chóng, kịp thời phục vụ tốt cho công tác quản trị thì yếu tố thông tin, quy trình, con người thôi chưa đủ mà cần có yếu tố về công nghệ. Yêu tố công nghệ giúp cho việc lưu trữ thông tin, tính toán nhanh chóng và xử lý các trường hợp phức tạp. Chính vì thế lãnh đạo công ty cần xem xét cấp kinh phí đầu tư phần mềm phân tích, các máy tính có tốc độ xử lý cao, lưu trữ nhiều, hiện đại. 1.5. Kiến nghị khác - Để đảm bảo việc vận dụng thành thạo và linh hoạt các phương pháp phân tích thì cán bộ phân tích phải thực hiện phân tích thường xuyên. - Để kiểm tra chất lượng phân tích , vào cuối mỗi năm tài chính , các cán bộ phân tích dưới sự chỉ đạo của Trưởng phòng Kế toán tài chính phải tiến hành xem xét, đánh giá xem dự báo tài chính được xây dựng từ kết quả phân tích năm trước cho năm nay được thực hiện như thế nào, có chính xác hay sai lệch nhiều. ở đây, tinh thần phê bình và tự phê bình cần được phát huy một cách đúng đắn, có như vậy mới đánh giá được chất lượng của công tác phân tích tài chính nói riêng và công tác quản lý tài chính của công ty nói chung là cao hay thấp. Từ đó rút kinh nghiệm và đưa ra các biện pháp cải thiện phù hợp. 2. Kiến nghị với cơ quan quản lý cấp trên (Tổng công ty Xi măng Việt Nam, Bộ Xây dựng) - Sự phụ thuộc vào Tổng công ty xi măng và các cấp trên khác tuy có đem lại nhiều thuận lợi trong việc tìm kiếm cơ hội kinh doanh, được hỗ trợ về vốn, về nhân lực… nhưng cũng gây ra một số trở ngại cho quá trình kinh doanh của công ty. Sự ưu đãi hỗ trợ trong hầu hết các lĩnh vực cũng đồng nghĩa tính độc lập, tự chủ về hoạt động, về tài chính không cao. Chẳng hạn các quyết định đầu tư phải tuân theo kế hoạch của Tổng công ty, đợi Tổng công ty phê duyệt, cấp vốn, thời gian quá lâu sẽ làm lỡ cơ hội đầu tư, đến khả năng sinh lợi của đầu tư. Công ty không được tự quyết định giá mà tình trạng giá treo do Tổng công ty đề nghị Ban Vật giá Chính phủ và Bộ Xây dựng quy định kéo dài gây khó khăn cho hoạt động của công ty, giá bán trên thị trường thấp hơn rất nhiều so với mức giá quy định do vậy công ty phải tăng các chi phí vận chuyển, bốc xếp mới bù đắp được phần doanh thu thấp hơn quy định. Điều này ảnh hưởng đến việc các báo cáo tài chính của công ty không phản ánh đúng mức doanh thu và chi phí, số liệu không chính xác nên việc phân tích ít có tính thực tiễn. Tổng công ty nên xem xét giải quyết tình trạng giá treo như hiện nay để công ty tự chủ hơn về tài chính, để các thông tin trong các báo cáo tài chính phản ánh đúng thực trạng của công ty. Và xa hơn Tổng công ty nên nghiên cứu hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính đối với các công ty thành viên của mình để đảm bảo tính tự chủ sáng tạo của các công ty con, tránh can thiệp sâu vào mọi hoạt động. - Vì quy định của cấp trên nên công ty phải bán xi măng ở những địa bàn miền núi, đi lại khó khăn, phí vận chuyển lớn, sức tiêu thụ ít, giá rẻ dẫn đến thua lỗ, do vậy Tổng công ty cần có những chính sách hỗ trợ về giá khi chỉ đạo bán xi măng ở vùng sâu, vùng xa. - Sự biến động về tổ chức liên tục cũng làm thay đổi các chỉ tiêu trong các báo cáo tài chính gây ra sự không ổn định về thông tin, nhân sự, đánh giá không chính xác về tình hình tài chính. Tổng công ty cần xem xét phương án tổ chức tốt nhất cho công ty để thay đổi một lần, từ đó các CBCNV sẽ chuyên tâm làm việc hơn, thông tin sử dụng trong phân tích cũng thay đổi nhưng là vì hoạt động kinh doanh chứ không vì tổ chức, vì thế sẽ dễ dàng đánh giá hơn. - Tổng công ty theo hướng dẫn của Cục Tài chính doanh nghiệp nên có quy định về đào tạo, nâng cao trình độ cho cán bộ phân tích của Tổng công ty và các doanh nghiệp trực thuộc, quy định về mức kinh phí hoạt động, hướng dẫn quy trình phân tích, chế độ khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ làm công tác phân tích. 3. Kiến nghị đối với nhà nước 3.1. Kiến nghị về hoàn thiện chế độ kế toán Nền kinh tế nước ta trong hơn một thập kỷ qua đã có nhiều biến chuyển với sự phát triển của nhiều thành phần kinh tế trong cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Chế độ kế toán Việt Nam đã liên tục được đổi mới và hoàn thiện cho phù hợp. Trong những năm tới, xu hướng hoà nhập sẽ mạnh mẽ hơn, do đó nhà nước cần hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn kế toán Việt Nam và sớm ban hành Luật kế toán tạo cơ sở pháp lý hoàn chỉnh cho hoạt động kế toán và kiểm toán. 3.2, Kiến nghị về công tác kiểm toán, tư vấn thuế, kế toán ở Việt Nam, kiểm toán mới ra đời nhưng phát triển nhanh chóng. Công tác kiểm toán tiến hành kiểm tra tính thích hợp của việc thực hiện các chủ trương, chính sách và quy định về kế toán và tài chính ở các doanh nghiệp, góp phần lành mạnh hoá tình hình tài chính của các doanh nghiệp , giúp các doanh nghiệp chuẩn hoá công tác kế toán và tài chính theo đúng chế độ quy định. Các công ty kiểm toán khi thực hiện nhiệm vụ của mình nên thực hiện đúng thời gian quy định, thực hiện đầy đủ nội dung nghiệp vụ, tư vấn thúc đẩy tính chuyên nghiệp, quy củ trong công tác quản lý tài chính nói chung và công tác phân tích tài chính nói riêng của các công ty trong đó có Công ty Vật tư kỹ thuật xi măng. Bộ Tài chính cần nhanh chóng tổng hợp các bất hợp lý do các cơ quan kiểm toán, tư vấn báo cáo để hoàn thiện hơn chế độ quản lý tài chính của doanh nghiệp nhà nước. 3.3. Kiến nghị về xây dựng hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành Không phải bất cứ doanh nghiệp nào đạt được các chỉ tiêu theo hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành là doanh nghiệp làm ăn hiệu quả bởi còn nhiều yếu tố cần được xem xét mới mang lại kết luận chính xác, nhưng hệ thống này rõ ràng là một căn cứ quan trọng giúp cho các nhà quản lý tài chính tự giác đánh giá hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp mình. Trong điều kiện Tổng công ty xi măng chưa xây dựng được hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành, đề nghị nhà nước sớm có những văn bản cụ thể hơn về việc xây dựng và cung cấp hệ thống chỉ tiêu trung bình các ngành góp phần mang lại hiệu quả ở cả tầm vi mô và vĩ mô, các cơ quan đã có kinh nghiệm trong công tác này như Tổng cục Thống kê, Bộ Tài chính cần được giao xây dựng và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tìm hiểu các thông tin khác. 3.4. Kiến nghị về đào tạo cán bộ phân tích tài chính, công khai báo cáo tài chính và kiểm tra, xử lý các vi phạm Cục Tài chính doanh nghiệp – Bộ Tài chính cần có các chính sách về đào tạo, nâng cao trình độ cho các giảng viên tài chính doanh nghiệp ở các trường đại học, cao đẳng, nâng cao trình độ cho các chuyên gia phân tích tài chính, chỉ đạo mở các lớp bồi dưỡng, giảng dạy thường xuyên ở Cục, các trường đại học, cao đẳng về công tác phân tích tài chính doanh nghiệp cho các cán bộ làm công tác phân tích tài chính và những ai quan tâm đến công tác này. Cục cũng nên có chỉ đạo hệ thống tới các Sở Tài chính, các Tổng công ty và các doanh nghiệp khác về ý nghĩa, tầm quan trọng của phân tích tài chính, quy trình phân tích tài chính, đào tạo cán bộ cho công tác phân tích, kinh phí hoạt động, chế độ khen thưởng, kỷ luật. Tất nhiên, các quy định của Cục khái quát hơn các Tổng công ty, các doanh nghiệp cụ thể. Ơ nước ta, tâm lý giữ bí mật thông tin làm cho việc phân tích gặp nhiều khó khăn. Nhưng ở nước ngoài thì công khai báo cáo là việc làm hiển nhiên. Để tháo gỡ khó khăn cho công tác phân tích, Cục tài chính doanh nghiệp – Bộ Tài chính cũng nên nghiên cứu đưa quy định về công khai báo cáo tài chính vào văn bản pháp luật để các doanh nghiệp bắt buộc thực hiện, xây dựng hệ thống kiểm tra tình hình tài chính doanh nghiệp, nghiêm khắc xử lý hiện tượng thay đổi số liệu tài chính, tham ô, tham nhũng hoặc chiếm dụng tài sản của nhà nước 3.5 Kiến nghị về hoàn thiện các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng và thị trường chứng khoán Khi thị trường tiền tệ và thị trường vốn phát triển thì nguồn vốn của các công ty mới được sử dụng linh động, công ty có thể lựa chọn huy động vốn từ nhiều nguồn, khi đó khái niệm chi phí vốn mới được coi trọng và có tính thực tiễn, công tác phân tích tài chính được chú ý và phát huy hiệu quả, tình hình tài chính các công ty sẽ sáng sủa hơn. Vì thế nhà nước cần quan tâm đến công cuộc cải cách hệ thống ngân hàng và xây dựng hoàn thiện thị trường chứng khoán. kết luận Nền kinh tế theo cơ chế thị trường của Việt Nam hiện nay với sự cạnh tranh, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế tạo cơ hội cho nhiều doanh nghiệp vươn lên để khẳng định mình. Tuy nhiên nó cũng đặt ra nhiều thách thức phải giải quyết. Để doanh nghiệp tồn tại và phát triển được đòi hỏi nhà quản lý doanh nghiệp phải có những quyết định đúng đắn trên cơ sở lấy hiệu quả sản xuất, kinh doanh làm mục tiêu hàng đầu. Vì thế phân tích tài chính doanh nghiệp có vai trò rất quan trọng đối với các doanh nghiệp. Sau thời gian thực tập ở Công ty Vật tư kỹ thuật xi măng, công ty thành viên hạch toán độc lập trực thuộc Tổng công ty Xi măng Việt Nam, tôi nhận thấy công tác phân tích tài chính ở đây lại ngày càng cần thiết, nhất là trong thời gian tới công ty có hướng đa dạng hoá hoạt động của mình. Phân tích tài chính có ý nghĩa to lớn trong việc huy động và sử dụng vốn, đầu tư và bán hàng, đặc biệt là chính sách tín dụng thương mại vì công ty là một doanh nghiệp thương mại – công ty không chỉ cần hiểu mình mà cần phải hiểu cả khách hàng. Công ty cũng cần phải hiểu đối thủ cạnh tranh. Tuy nhiên, do những hạn chế về thông tin hiện nay và do chưa nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của phân tích tài chính nên việc phân tích tài chính tại công ty chỉ tiến hành phân tích tài chính của công ty vậy mà cũng chỉ mới phân tích tài chính rất sơ sài, không được tiến hành thường xuyên. Vì thế, theo tôi, ban đầu công ty nên hoàn thành tốt phân tích tài chính của công ty và cố gắng thu nhận nhiều nhất nếu có thể các thông tin về khách hàng, đối thủ để ra các quyết định đúng đắn và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty. Do nhiều hạn chế khác nhau, các giải pháp và kiến nghị đưa ra mới chỉ là khái quát và định tính. Tuy nhiên, nếu ban lãnh đạo và công ty quan tâm nghiên cứu hoàn thiện hơn và áp dụng sớm vào thực tiễn thì sẽ nhanh chóng thấy được tác dụng to lớn có được từ việc thực hiện phân tích tài chính một cách quy củ, hiện đại và thường xuyên. Cuối cùng, em xin gửi lời cám ơn chân thành nhất tới cô giáo – Tiến sỹ Phan Thu Hà đã tận tình hướng dẫn em trong quá trình làm luận văn. Cháu cũng cám ơn Giám đốc, các cô chú Phòng Kế toán tài chính, Phòng Tổ chức lao động Công ty VTKTXM giúp đỡ cháu nhiệt tình trong quá trình thực tập tại công ty. Tài liệu tham khảo 1. Tài chính doanh nghiệp. PTS Lưu Thị Hương – NXB Thống Kê - 1996. 2. Quản trị tài chính doanh nghiệp. TS Vũ Duy Hào – Phạm Văn Huệ – Phạm Long – NXB Thống kê - 2000. 3. Quản trị Tài chính doanh nghiệp. Nguyễn Hải Sản – NXB Thống kê - 1997. 4. Phân tích báo cáo tài chính. PTS Nguyễn Văn Công – NXB Giáo dục – 1996. 5. Phân tích tài chính doanh nghiệp. Josette Peyrard – NXB Thống kê - 1998. 6. Kế toán – Kiểm toán – Phân tích tài chính doanh nghiệp. PTS Nguyễn Thị Gái – NXB Giáo dục – 1996. 7. Tạp chí: Tài chính, Kế toán, Kiểm toán, Nghiên cứu kế toán, Xây dựng. 8. Tài liệu thực tiễn tại công ty: - Các quyết định về tổ chức hoạt động, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn. - Thoả ước lao động tập thể - Các báo cáo quyết toán. - Các báo cáo phân tích kết quả hoạt động kinh doanh - Các tài liệu kế toán khác

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docM0080.doc
Tài liệu liên quan