Đề tài Một số giải pháp nhằm nâng cao doanh thu và tiết kiệm chi phí tại công ty Điện máy – xe đạp – xe máy

Việc nâng cao doanh thu chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố, do vậy muốn nâng cao doanh thu đòi hỏi doanh nghiệp phải áp dụng rất nhiều các biện pháp để cải thiện tình hình doanh thu ở doanh nghiệp, đặc biệt là công tác tiêu thụ hàng hoá. Do đó một trong những mục tiêu hàng đầu của công ty là đẩy mạnh tiêu thụ hàng hoá nhằm tăng doanh thu. Như đã phân tích ở trên một trong những nguyên nhân quan trọng ảnh hưởng tới lợi nhuận của công ty đó là doanh thu tiêu thụ, doanh thu tiêu thụ có quan hệ tỷ lệ thuận với lợi nhuận của công ty. Doanh thu tăng thì lợi nhuận tăng và ngược lại doanh thu giảm thì lợi nhuận giảm. Tăng doanh thu tiêu thụ luôn là vấn đề hàng đầu, là điều trăn trở đối với các nhà quản trị doanh nghiệp. Vậy với Công ty điện máy – xe đạp – xe máy chuyên kinh doanh các loại mặt hàng xe máy, hàng điện tử, điện lạnh, nguyên vật liệu để tăng doanh thu ta phải làm gì?

doc92 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1194 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm nâng cao doanh thu và tiết kiệm chi phí tại công ty Điện máy – xe đạp – xe máy, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thu hàng năm 2,5 tỷ đồng để trang trải thuê đất và khấu hao. Một trong những tồn tại trước đây của công ty là bộ máy quản lí cồng kềnh, công tác quản lí lỏng lẻo, không có biện pháp quản lí kịp thời thì đến nay công ty đã sắp xếp lại cơ cấu bộ máy quản lí một cách hợp lí. Vì vậy sau khi đánh giá nguyên nhân và thực trạng, công ty đã tiến hành tổ chức lại một số bộ phận, phân công bố trí lại lao động phù hợp với năng lực từng người. Tích cực làm việc với ngân hàng và các cơ quan hữu quan để giảm nợ, từng bước cải thiện mối quan hệ vay trả để giảm bớt gánh nặng nợ nần cho công ty, đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cho các đơn vị, và sử dụng hiệu quả nguồn vốn bổ sung. Thị trường hàng hoá đang từng bước được khôi phục, các mặt hàng truyền thống (xe máy, tủ lạnh, điều hoà) đã dần khôi phục và lấy lại thị trường sau nhiều năm để mất, mặt hàng kinh doanh xe máy không ngừng gia tăng, sau nhiều năm trì trệ. Tới năm 2004 đạt 705 triệu trên tổng doanh thu. Bên cạnh đó xuất hiện một số mặt hàng kinh doanh mới như: hạt nhựa, máy xây dựng, điện thoại di động, đây là những mặt hàng có tiềm năng rộng lớn và có khả năng thay thế những mặt hàng truyền thống của công ty. Quản lí chặt chẽ các khoản chi, thực hiện phương châm tiết kiệm chi phí đến mức tối đa đã được thực hiện một cách nghiêm túc vì vậy chi phí đã giảm đáng kể, cụ thể là: - Được ngân hàng giảm nợ nên chi phí lãi vay giảm đáng kể (khoảng 2 tỷ đồng mỗi năm) - Chi phí điện nước văn phòng phẩm không để lãng phí, diện tích văn phòng phù hộ với nhu cầu, không để dàn trải như trước đây. Công ty đã giải thể 4 đơn vị thành viên năm 1999 nên chi phí gián tiếp giảm. - Thực hiện chính sách “thắt lưng buộc bụng” trong điều kiện hiện nay còn phải giải quyết những tồn tại của công ty. Với những biện pháp tích cực trên đã góp phần duy trì ổn định doanh thu và giảm chi phí, bước đầu hạn chế thua lỗ, tạo lợi nhuận cho công ty. Điều đó đã lấy lại phần nào lòng tin ở khách hàng, tạo sự hy vọng phấn khởi cho cán bộ công nhân viên trong công ty, tạo đà cho việc thực hiện những kế hoạch kinh doanh cho những năm tiếp theo. 2.4.2 Những hạn chế và những nguyên nhân ảnh hưởng đến công tác quản trị doanh thu, chi phí của công ty: 2.4.2.1 Hạn chế: Bên cạnh những thành quả đạt được, hoạt động kinh doanh và tình hình quản trị doanh thu, chi phí đã thể hiện nhiều mặt hạn chế sau: * Hạn chế trong hoạt động tài chính: Trong những năm qua hoạt động tài chính gặp rất nhiều khó khăn như: - Cơ cấu vốn chưa hợp lí: Nguồn vay nợ chiếm tới trên 90% nguồn vốn, trong đó chủ yếu là nợ ngắn hạn làm cho tình hình tài chính gặp nhiều khó khăn. Tuy đã có sự tích cực đàm phán từ phía công ty nhằm giảm nợ song hàng năm khoản chi phí lãi vay phải trả còn rất lớn (chiếm trên 20% chi phí gián tiếp) và có nguy cơ còn tăng cao trong các năm tới, điều này sẽ làm cho công ty gặp nhiều khó khăn trong việc hoàn trả các khoản nợ đến hạn. Các khoản thu còn tồn đọng lâu dài. Hiện nay, các khoản phải thu còn tồn đọng với số lượng lớn, trên 12 tỷ đồng, mặc dù đơn vị đã có nhiều biện pháp thu hồi, đôn đốc trực tiếp con nợ một cách thường xuyên song kết quả còn nhiều hạn chế. - Các khoản vốn chưa được sử dụng hợp lí: Tại công ty Điện máy – xe đạp – xe máy hiện nay công tác quản lí vốn chưa được quan tâm đặc biệt là vốn lưu động, khoản mục dự trữ thường xuyên mất cân bằng không đáp ứng kịp thời nhu cầu về tài chính của doanh nghiệp. Công tác quản lí tiền mặt còn nhiều bất cập, ngân quỹ thường xuyên thâm hụt. Công tác phân tích tài chính chưa được quan tâm một cách xác đáng do đó việc đánh giá tiềm năng, hiệu quả kinh doanh cũng như rủi ro không kịp thời, chính xác dẫn đến những sai lệch trong việc đưa ra quyết định phương hướng kinh doanh. Khả năng nâng cao lợi nhuận của công ty gặp rất nhiều khó khăn. Sau nhiều năm liên tiếp thua lỗ đã làm suy giảm nguồn vốn đặc biệt là vốn chủ sở hữu của công ty. Năm 2004 mặc dù công ty kinh doanh bắt đầu có lãi nhưng vẫn còn ở mức rất khiêm tốn, điều đáng quan tâm là tỷ lệ chi phí/doanh thu khá lớn và đang có xu hướng tăng lên, lợi nhuận đem lại cho doanh nghiệp vẫn chưa đủ bù đắp những khoản lỗ trước đây. * Những hạn chế trong công tác kinh doanh - Tiêu thụ hàng hóa đang có dấu hiệu chững lại Sản lượng tiêu thụ các loại hàng hoá trong những năm gần đây đang có xu hướng giảm đặc biệt là sự suy giảm nhanh của các loại mặt hàng truyền thống, một số loại mặt hàng mới xuất hiện và đang tìm kiếm thị trường song gặp khá nhiều khó khăn, việc tiêu thụ các loại mặt hàng này chỉ mới dừng lại ở các thương vụ nhỏ lẻ, không liên tục, chưa tạo được lợi nhuận thích đáng. Mặt hàng xe máy đem lại lợi nhuận chủ yếu cho công ty song lại phụ thuộc khá nhiều vào chính sách của nhà nước, đặc biệt hiện nay nhà nước đang hạn chế việc nhập khẩu, tiêu thụ xe máy. Doanh nghiệp liên tục bị truy thu thuế, thường xuyên bị Hải quan cưỡng chế thuế. - Các khoản chi phí lớn Các khoản chi phí đặc biệt là giá vốn hàng bán chiếm tỷ trọng tương đối cao trong tổng doanh thu, với tốc độ tăng nhanh qua từng năm, do đó đã làm suy giảm lợi nhuận. Mặt khác các chi phí gián tiếp chư chi phí bán hàng, chi phí quản lí doanh nghiệp cũng giữ một tỷ trọng đáng kể trong tổng chi phí cua doan nghiệp. Mặc dù mục tiêu của doanh nghiệp là tiết kiệm chi phí, song công tác tổ chức quản lí chi phí lại tỏ ra yếu kém thể hiện ở hoạt động kinh doanh của hệ thống các cửa hàng doanh thu chưa đủ để bù đắp chi phí. * Những hạn chế thuộc về công tác quản lí của doanh nghiệp: Ngoài những hạn chế trên thì công ty còn hạn chế trong việc áp dụng những biện pháp quản lí hiện đại vào hoạt động kinh doanh của công ty. Công ty chưa xây dựng được phong cách làm việc hiện đại, phù hợp với yêu cầu của cơ chế thị trường, thiếu chủ động trong công việc, chưa phát huy được hết khả năng sáng tạo trong công việc Công tác bình bầu thi đua khen thưởng chưa được thực hiện thường xuyên, cho nên chưa tạo ra được phong trào thi đua lao động, hiệu quả lao động kém. Về cơ chế điều hành, quản lí chưa có sự tách bạch trong việc phân công phân nhiệm để đánh giá, giám sát cũng như xét duyệt các phương án kinh doanh ở các phòng ban. Các bộ phận phòng ban còn chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ trong việc thực hiện các phương án. Tóm lại trong những năm qua doanh nghiệp gặp khá nhiều khó khăn và thử thách, đặc biệt doanh thu từ hoạt động kinh doanh còn quá ít, phải nói là rất thấp, doanh thu từ hoạt động này không đủ để trang trải các chi phí,cũng như các khoản nợ nần. Vậy nguyên nhân nào dẫn đến những hạn chế đó? Muốn hiểu kĩ hơn chúng ta cần xem xét các nguyên nhân chủ yếu sau: 2.4.2.2 Nguyên nhân: * Nguyên nhân chủ quan: - Công tác quản lí tài chính chưa được chú trọng: Các hoạt động trong công tác quản lí tài chính ở công ty như: công tác xây dựng kế hoạch tài chính, công tác phân tích tài chính chưa được quan tâm thích đáng. Công ty chưa có cán bộ chuyên trách về phân tích tài chính nên kết quả phân tích còn nhiều hạn chế, chưa phản ánh được thực chất hoạt động của công ty, do đó đôi khi dẫn đến những quyết định sai lầm. Mặt khác kết quả của công tác xây dựng kế hoạch tài chính còn chưa hợp lí, chưa sát thực đối với điều kiện của công ty nên chưa thể xây dựng được phương hướng cụ thể cho hoạt động kinh doanh của công ty mình. - Công tác xây dựng chiến lược kinh doanh ở doanh nghiệp còn quá sơ sài, chưa có sự đầu tư thoả đáng, công ty chỉ chú trọng tới lợi ích trước mắt mà chưa có chiến lược lâu dài. Mỗi doanh nghiệp thương mại đều tự xây dựng cho mình những chiến lược kinh doanh phù hợp với điều kiện của doanh nghiệp mình và công tác này đóng một vai trò quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, tuy nhiên ở công ty điện máy – xe đạp – xe máy thì hoạt động này chưa được quan tâm. Các kế hoạch mà công ty đưa ra đều mang tính bột phát chưa có một kế hoạch cụ thể. Cụ thể là năm 2001 công ty đã rhu được lợi nhuận rất cao từ việc nhập khẩu xe máy Trung Quốc tung ra thị trường, nhưng chỉ 2 năm sau việc tiêu thụ loại mặt hàng này gặp rất nhiều khó khăn do tác động của nhiều yếu tố như chất lượng xe kém so với nhiều loại xe hiện có trên thị trường thêm vào đó là việc nhà nước hạn chế việc tiêu thụ xe máy điều này làm đẩy giá xe máy lên cao trong khi nhu cầu trong nước giảm đi đối với mặt hàng xe máy này. Tuy nhiên do lợi nhuận từ việc kinh doanh loại mặt hàng này đem lại công ty vẫn tiếp tục nhập khẩu loại hàng này với số lượng lớn mà không chịu nghiên cứu rõ tình hình thị trường, không xây dựng chiến lược kinh doanh cụ thể. Đến khi kết quả kinh doanh cho thấy mặt hàng này còn tồn đọng quá nhiều, lợi nhuận thu lại không cao, thì đến lúc này doanh nghiệp mới đưa ra những giải pháp mang tính chất tình huống. Điều này cho thấy hoạt động của doanh nghiệp luôn ở trong thế bị động, hoạt động này là hoàn toàn không phù hợp với cơ chế thị trường hiện nay. - Công tác tổ chức hoạt động bán hàng của công ty tỏ ra yếu kém. Doanh thu của doanh nghiệp được tạo ra chủ yếu là từ doanh thu từ hoạt động kinh doanh là chính, nó chiếm tới gần 99,9% doanh thu của toàn doanh nghiệp. Nhưng thực tế ở công ty điện máy – xe đạp – xe máy cho thấy rằng doanh thu từ hoạt động này đem lại quá ít, chưa đủ bù đắp chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra. Điều này chứng tỏ công tác bán hàng của doanh nghiệp tỏ ra kém hiệu quả trong khâu giới thiệu sản phẩm tới người tiêu dùng. Công ty chưa có bộ phận tiếp thị hàng hoá cho khách hàng để mở rộng thị phần tiêu thụ hàng hoá của mình trên cả nước. Trong hoạt động bán hàng chưa có các dịch vụ khuyến khích khách hàng như giảm giá, , khuyến mại, chiết khấu đối với các khách hàng mua sản phẩm với số lượng lớn… dẫn đến việc tiêu thụ sản phẩm rất chậm. Hoạt động thu thập thông tin khách hàng về sản phẩm của công ty chưa được thực hiện, bên cạnh đó các hoạt động nắm bắt thông tin về thị trường các mặt hàng nhập khẩu còn chưa được chú trọng, các mặt hàng xuất khẩu lại không có, công ty cũng chưa thành lập được đội ngũ nhân viên chuyên trách Marketing. Do vậy công tác tiêu thụ sản phẩm, mở rộng thị trường gặp nhiều khó khăn. Xác định giá bán sản phẩm so với giá vốn chưa hợp lí. - Quy mô sản xuất nhỏ: Mặc dù công ty đã chú trọng đến việc trích lập quỹ lợi nhuận hàng năm để bảo dưỡng, sửa chữa máy móc, thiết bị nhà xưởng nhưng khả năng hạn chế, và gặp khó khăn. Vì quy mô sản xuất nhỏ nên sức sản xuất bị hạn chế khiến công ty chỉ kí hợp đồng sản xuất với khối lượng vừa phải, có khi rất nhỏ hay phải cùng hợp tác với công ty khác để cùng thực hiện. Hiện nay dây chuyền sản xuất của công ty còn thiếu, đòi hỏi cần có sự đầu tư thêm để quy mô sản xuất tăng lên. - Đội ngũ lao động của công ty: Dù luôn trả lương đúng hạn, đảm bảo đầy đủ quyền lợi cho người lao động nhưng năng suất lao động của công ty so với công ty khác chỉ xấp xỉ bằng hoặc thấp hơn. Nhiều bộ phận không làm việc hết công suất, ngược lại một số bộ phận lại không có việc làm. Việc tinh giảm đội ngũ lao động gián tiếp chưa được thực hiện một cách triệt để, công tác tuyển dụng lao động trong các phòng ban còn nhiều bất hợp lí. Phương châm triệt để tiết kiệm được quán triệt trong toàn công ty song kết quả thu được thấp. Chi phí cho đào tạo nâng cao trình độ lao động chưa được đầu tư thoả đáng. * Nguyên nhân khách quan: - Do hậu quả của cơ chế cũ để lại: Doanh nghiệp nhà nước quen được hưởng sự bao cấp và bảo hộ của nhà nước nên khi chuyển sang nền kinh tế thị trường gặp rất nhiều khó khăn, chưa nhạy cảm với các tín hiệu của thị trường như quan hệ cung cầu, lãi suất cạnh tranh, các chính sách của nhà nước… còn rất thấp. Phong cách làm việc tỏ ra thụ động, thiếu sáng tạo trong công việc. - Do chính sách của nhà nước: + Vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước còn eo hẹp, sự hỗ trợ vốn của cơ quan chủ quản để mở rộng kinh doanh còn rải rác và không thường xuyên. + Chính sách lãi suất của Ngân hàng nhà nước: Vì công ty phụ thuộc rất nhiều từ các khoản vay của ngân hàng do vậy chính sách lãi suất có ảnh hưởng rất nhiều đến lợi nhuận của công ty. Việc trả lãi tiền vay được khống chế theo chính sách lãi suất của Ngân hàng Nhà nước công bố và được xem là chi phí hợp lí của doanh nghiệp. + Chính sách thuế và các khoản phải nộp ngân sách Nhà nước: Thuế là nhân tố ảnh hưởng rất lớn tới lợi nhuận của công ty. Thuế suất tăng làm chi phí nộp thuế tăng, dẫn đến giá thành tăng. Khi giá thành tăng lên nếu doanh nghiệp tăng giá bán thì lượng tiêu thụ hàng hoá giảm, dẫn đến tổng doanh thu giảm và lợi nhuận giảm. - Giá cả thị trường thường xuyên biến động, cạnh tranh ngày càng gay gắt gây sức ép về giá cả. Do vậy doanh nghiệp muốn đứng vững trong cơ chế mới này đòi hỏi doanh nghiệp không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm tạo uy tín với bạn hàng, bên cạnh đó hạ giá thành sản phẩm, có như vậy doanh nghiệp mới cạnh tranh được với các doanh nghiệp khác khi cùng kinh doanh một loại mặt hàng. Trên đây là những nguyên nhân chủ yếu ảnh hưởng tới kết quả kinh doanh của công ty trong những năm qua. Để duy trì và phát triển hoạt động kinh doanh trong thời gian tới doanh nghiệp cần phải có định hướng mục tiêu kinh doanh phù hợp, thay đổi cách thức kinh doanh cũ, thay vào đó là các chiến lược kinh doanh sáng tạo, nhạy bén hơn trong việc tìm hiểu nhu cầu của người tiêu dùng. Chương iii: Một số giải pháp nhằm nâng cao doanh thu và tiết kiệm chi phí tại công ty điện máy xe đạp – xe máy 3.1. Định hướng phát triển của công ty trong thời gian tới: 3.1.1 Nhận định tình hình kinh doanh của công ty trong thời gian tới: Là một công ty ra đời trong hoàn cảnh kinh tế đất nước đang có sự phát triển mạnh mẽ về mọi mặt (kinh tế, xã hội, khoa học, văn hoá) đặc biệt là sự hội nhập kinh tế giữa Việt Nam với tất cả các nước trên thế giới, đã tạo ra những tiền đề phát triển cũng như các thách thức lớn đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Đứng trước thực trạng này, đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và Công ty Điện máy-Xe đạp – xe máy nói riêng cần phải đưa ra những định hướng kinh doanh chiến lược riêng của mình nhằm giúp công ty đứng vững trên thị trường và ngày càng phát triển. 3.1.1.1 Khó khăn Nhìn nhận lại những khó khăn của năm 2004, khi công tác kinh doanh xe máy (một trong những mặt hàng chủ yếu của đơn vị) đã gặp rất nhiều khó khăn do việc Nhà nước hạn chế đăng kí xe máy đã kéo theo việc giảm số lượng xe máy bán ra mặc dù số lượng xe máy bán ra ở năm 2004 có tăng so với năm 2003, đó là do những trở ngại của hàng rào thuế quan, đặc biệt là một số lượng lớn xe máy Trung Quốc nhập lậu trôi nổi trên thị trường làm cho giá xe máy của công ty bị rớt giá liên tục, ảnh hưởng tới lợi nhuận mà công ty thu về. Bên cạnh đó, một số mặt hàng truyền thống của công ty luôn bị cạnh tranh, đặc biệt là công ty vẫn chưa tìm được thị trường xuất khẩu… Kinh doanh xuất nhập khẩu chưa cân đối, mảng xuất khẩu chưa triển khai được thị trường và mặt hàng. Việc kinh doanh các mặt hàng truyền thống như hàng điện tử, điện lạnh cũng đang gặp rất nhiều khó khăn. Mặt hàng nguyên vật liệu chủ yếu làm dịch vụ uỷ thác. Mặt hàng hoá chất lợi nhuận thu lại còn thấp. Mặt hàng thiết bị máy móc chuyên dùng, phương tiện vận tải đang tổ chức và tìm thị trường. Vì vậy khó khăn lớn nhất của đơn vị là chưa thực hiện được mục tiêu đa dạng hoá mặt hàng để tạo được một số mặt hàng kinh doanh có thị trường ổn định đủ khả năng thay thế mặt hàng xe máy không còn điều kiện kinh doanh trực tiếp. Các khoản công nợ cũ đã được rà soát và thành lập tổ đI thu hồi nhưng do tính chất phức tạp, thời gian nợ quá lâu, chứng từ không đầy đủ nên vẫn chưa thu hồi được. Đơn vị không vay được vốn kinh doanh do nợ quá hạn Ngân hàng. Thường xuyên bị Hải quan cưỡng chế do nợ truy thu thuế nhập khẩu xe máy, nên khó khăn trong kinh doanh xuất nhập khẩu. 3.1.1.2 Thuận lợi Là đơn vị có tính tổ chức, kỉ luật cao, đoàn kết nội bộ, có tinh thần trách nhiệm và đội ngũ cán bộ có kinh nghiệm trong sản xuất kinh doanh. Công tác quản lí nhìn chung có tiến bộ. Tài sản, vốn, hàng hoá không bị thất thoát, vốn kinh doanh được bảo toàn. Thực hành tiết kiệm trong mọi khâu chi phí, theo dõi chặt chẽ phản ánh kịp thời mọi hoạt động của đơn vị. Công ty coi trọng công tác thị trường, phân tích dự báo và triển khai những mặt hàng mới, thị trường mới như: mặt hàng nguyên vật liệu, thiết bị máy móc chuyên dùng, phương tiện vận tải… Có chính sách giá cả linh hoạt, tạo mạng lưới đại lí bán hàng trong toàn quốc gắn bó chặt chẽ với công ty. Công ty có một cơ sở hạ tầng tương đối rộng lớn, đây chính là một lợi thế của đơn vị trong việc khai thác cơ sở hạ tầng bằng việc cho thuê tăng thêm nguồn thu cho đơn vị, cải thiện đời sống thu nhập cho cán bộ công nhân viên công ty. 3.1.2 Mục tiêu và phương hướng cụ thể năm 2005: Đất nước ta đang ngày càng phát triển với những chuyển biến mạnh mẽ trong tất cả các lĩnh vực: khoa học, kinh tế, văn hoá, xã hội. Cùng hoà trong sự phát triển đó Công ty Điện máy – xe đạp – xe máy đã tự xác định hướng đi đúng đắn cho mình nhằm khắc phục khó khăn, tận dụng mọi thời cơ thuận lợi để giữ vững vị thế và ngày càng phát triển hơn nữa quy mô sản xuất kinh doanh. Xuất phát từ đặc điểm và tình hình hiện tại của đơn vị với yêu cầu trụ vững và từng bước giải quyết khó khăn để có thể tồn tại, công ty đã xây dựng kế hoạch năm 2005 với các phương hướng hoạt động kinh doanh và một số chỉ tiêu sau: Các khoản mục ĐVT Thực hiện năm 2003 Ước thực hiện 2004 Kế hoạch 2005 I. Các khoản thuế phải nộp ngân sách 1. Thuế GTGT 2. Thuế xuất – nhập khẩu 3. Các loại thuế khác Trđ 5,329.041 3,165.492 861,946 1,301.603 7,620.000 4,500.000 1,800.000 1,320.000 8,470.000 5,100.000 2,000000 1,370000 II. Các khoản phải nộp khác Trđ III. Xuất khẩu Tổng kim ngạch xuất khẩu IV. Nhập khẩu 1.Tổng kim ngạch nhập khẩu Trong đó: Nhập khẩu uỷ thác 2. Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu: 1/Hạt nhựa Số lượng Trị giá 2/Ô tô, máy xây dựng Số lượng Trị giá 3/Nguyên liệu bóng đèn Trị giá 4/Các mặt hàng khác USD Tấn USD Chiếc USD USD USD 4,958,606 2,358,364 2,108 1,529.503 37 494,064 2,358,364 5,350,000 2,800,000 2,900 2,100,000 55 450,000 2,800,000 6,000000 2,900000 3,000 2,200000 70 600,000 2,900000 300,000 V.Tổng doanh thu Trong đó mặt hàng chủ yếu: 1/Xe máy 2/Tủ lạnh 3/Ti vi 4/Điều hoà 5/Máy giặt 6/Điện thoại di động 7/Hạt nhựa 8/Ô tô, máy xây dựng 9/ống thép các loại Trđ Chiếc Chiếc Chiếc Chiếc Chiếc Chiếc Tấn Chiếc Cây 214,998 2,157 1,327 746 232 193 1,441 2,439 6 250,000 3000 2,100 650 420 200 1,800 2,800 25 90,000 270,000 5,000 2,300 800 500 250 1,500 3,000 30 100,000 VI. Lợi nhuận trước thuế VII. Các chỉ tiêu lao động và tiền lương 1. Kinh doanh Chỉ tiêu tính đơn giá tiền lương (doanh thu) Mức định biên lao động Mức chi phí tiền lương Tổng quỹ tiền lương Người Trđ 214,998 481 16,300 3,549 250,000 455 18,000 4,500 270,000 450 21,666 5,850 (Nguồn: Công ty Điện máy – xe đạp – xe máy) Căn cứ vào thực trạng và yêu cầu tồn tại, phát triển của đơn vị, công ty đã đề ra mục tiêu cho năm 2005 là: - Duy trì và mở rộng kinh doanh nguyên vật liệu, hoá chất, máy móc, ô tô, xe máy, hàng điện máy... - Với mặt hàng nguyên vật liệu tiếp tục quan hệ với cơ sở sản xuất làm dịch vụ uỷ thác nguyên liệu cho sản xuất. Với mặt hàng hoá chất bước đầu đã có thị trường cần mở rộng thêm, rà soát lại các khoản chi phí và tích cực thu hồi tiền hàng để mức lợi nhuận cao hơn hiện nay. Với mặt hàng thiết bị máy móc chuyên dùng, phương tiện vận tải cần mở rộng thị trường và bạn hàng. - Nâng cao hiệu quả từ kinh doanh dịch vụ và khai thác cơ sở vật chất ở đơn vị. - Đẩy mạnh công tác thu hồi công nợ. Đặc biệt là cônh nợ khó đòi phải phân loại được tính chất các loại nợ, đối tượng nợ và có biện pháp thu hồi tích cực hơn. - Quản lí chặt chễ cụ thể các khoản chi phí. Thực hành tiết kiệm trong mọi khâu chi phí, đặc biệt quản lí chi phí lưu thông. - Về công tác tổ chức: tiếp tục sắp xếp, cơ cấu bộ máy tổ chức, quản lí, kinh doanh để tạo nên sự năng động, nhạy bén tính hiệu quả và đoàn kết toàn đơn vị. 3.2 Một số giải pháp tăng doanh thu và tiết kiệm chi phí trong hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty Điện máy – xe đạp – xe máy: 3.2.1 Các giải pháp nhằm tăng doanh thu: Việc nâng cao doanh thu chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố, do vậy muốn nâng cao doanh thu đòi hỏi doanh nghiệp phải áp dụng rất nhiều các biện pháp để cải thiện tình hình doanh thu ở doanh nghiệp, đặc biệt là công tác tiêu thụ hàng hoá. Do đó một trong những mục tiêu hàng đầu của công ty là đẩy mạnh tiêu thụ hàng hoá nhằm tăng doanh thu. Như đã phân tích ở trên một trong những nguyên nhân quan trọng ảnh hưởng tới lợi nhuận của công ty đó là doanh thu tiêu thụ, doanh thu tiêu thụ có quan hệ tỷ lệ thuận với lợi nhuận của công ty. Doanh thu tăng thì lợi nhuận tăng và ngược lại doanh thu giảm thì lợi nhuận giảm. Tăng doanh thu tiêu thụ luôn là vấn đề hàng đầu, là điều trăn trở đối với các nhà quản trị doanh nghiệp. Vậy với Công ty điện máy – xe đạp – xe máy chuyên kinh doanh các loại mặt hàng xe máy, hàng điện tử, điện lạnh, nguyên vật liệu để tăng doanh thu ta phải làm gì? Cũng giống như bao doanh nghiệp khác, muốn nâng cao doanh thu điều quan trọng nhất đối với công ty điện máy – xe đạp – xe máy đó là đẩy mạnh việc tiêu thụ hàng hoá, muốn vậy công ty cần phải giải quyết những nội dung sau: Thứ nhất: Mở rộng thị trường tiêu thụ Mở rộng thị trường tiêu thụ là một việc làm cần thiết đối với một doanh nghiệp muốn phát triển kinh doanh. Công ty có mở rộng được thị trường thì sản phẩm của công ty mới dễ dàng tiêu thụ được với số lượng lớn. Mục tiêu của doanh nghiệp là đa dạng hoá mặt hàng, muốn vậy đòi hỏi doanh nghiệp phải mở rộng thị trường nhằm tăng sức mua. Khối lượng hàng hoá bán ra nhiều thì mới làm cho doanh thu tăng lên. Một trong những yêu cầu đầu tiên của việc mở rộng thị trường tiêu thụ đó là công tác nghiên cứu thị trường. Nếu thực hiện tốt công tác này công ty có thể xác định được những yêu cầu, thị hiếu của khách hàng, cũng như sức mua của thị trường từ đó lập kế hoạch sản xuất và tiêu thụ một cách có hiệu quả nhằm thoả mãn nhu cầu của khách hàng, đồng thời nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Công tác này thực tế hiện nay chưa được thực hiện một cách triệt để, hoạt động chủ yếu của công ty dựa trên các đơn đặt hàng do khách hàng mang lại nên công ty ít quan tâm đến việc tìm hiểu nhu cầu thị trường hiện tại. Toàn bộ khách hàng của công ty là khách hàng truyền thống. Như vậy công ty điện máy – xe đạp – xe máy là do uy tín từ trước chứ không phải do công ty tự thiết lập, trong khi đó khách hàng tiêu dùng là khách hàng tiềm năng lớn thì công ty lại chưa khai thác một cách triệt để. Để công tác tìm hiểu thị trường, nắm bắt nhu cầu khách hàng được tốt đòi hỏi công ty phải thường xuyên cử những cán bộ của phòng thị trường trực tiếp đi đến các địa phương, các doanh nghiệp (khách hàng của công ty) để thu thập thông tin, phản ánh khách quan từ phía các đơn vị về mặt hàng mà công ty cung cấp, từ đó nghiên cứu khả năng cung ứng ra thị trường của công ty mình, đưa ra một mức giá phù hợp để có thể cạnh tranh với các doanh nghiệp khác... Khi nghiên cứu thị trường cần phải phân tích các thông tin, tìm ra các quy luật thị trường phục vụ cho việc ra các quyết định kinh doanh của công ty để đạt kết quả cao nhất. Công tác nghiên cứu thị trường là khâu mở đầu quan trọng của hoạt động kinh doanh. Công ty phải tìm ra đúng cái mà thị trường cần và phù hợp với điều kiện sản xuất kinh doanh của công ty. Công ty phải trả lời được nên kinh doanh loại mặt hàng nào? Với số lượng là bao nhiêu? Với mức giá nào là phù hợp? Bán dưới hình thức nào và ở đâu? Cùng việc nghiên cứu thị trường công ty phải thực hiện tốt công tác dự báo thị trường. Công tác này có vị trí quan trọng trong hoạt động của công ty. Công ty cần dự kiến về thị trường và đưa ra giải pháp kinh doanh phù hợp. Thứ hai: Đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh Đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh có nghĩa là doanh nghiệp đầu tư vào nhiều loại mặt hàng kinh doanh khác nhau. Hiện nay mặt hàng kinh doanh chính của công ty là xe máy không còn điều kiện khai thác trực tiếp do vậy công ty cần tạo ra được nhiều mặt hàng kinh doanh có thị trường ổn định để thay thế những mặt hàng truyền thống của công ty, nhằm giảm thiểu, phân tán những rủi ro vào các mặt hàng kinh doanh khác nhau, đảm bảo cho doanh nghiệp luôn hoạt động trong hành lang an toàn. Hiện nay các mặt hàng kinh doanh chủ yếu của công ty là xe máy, ti vi, điều hoà, ôtô, điện thoại là những mặt hàng phục vụ cho tiêu dùng. Để đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh, đồng thời khai thác tiềm năng các khách hàng công nghiệp công ty nên bổ sung vào danh mục những mặt hàng kinh doanh công nghiệp như nguyên vật liệu xây dựng, thiết bị công nghiệp khác. Bên cạnh đó công ty cần tiếp tục duy trì kinh doanh mặt hàng xe máy, khôi phục mặt hàng truyền thống như ti vi, tủ lạnh. Mặc dù tiêu thụ những mặt hàng này có dấu hiệu chững lại nhưng theo nhận định của các nhà kinh tế thì tốc độ mua bán mặt hàng này vẫn được duy trì trong 5 năm nữa. Do đó công ty cần tăng cường các dịch vụ hỗ trợ bán hàng như bảo hành sửa chữa, khuyến mại, mở rộng hình thức bán hàng trả góp, đồng thời xây dựng kế hoạch nhập khẩu linh kiện và lắp đặt xe máy một cách khoa học đảm bảo cung cấp kịp thời sản phẩm cho khách hàng. Công ty nên mở rộng thị trường tiêu thụ xe máy ra khu vực nông thôn nơi mà việc đăng kí xe máy chưa bị hạn chế và đây cũng là nơi có mức thu nhập thấp phù hợp giá bán xe máy của công ty. Thứ ba: Về chính sách giá cả. Các sản phẩm của công ty chủ yếu là nhập khẩu nên giá cả phần nhiều do yếu tố khách quan quy định. Vì vậy công ty định mức giá bán ra sao cho hợp lí, xây dựng nhiều mức giá khác nhau. Ví dụ: giá bán buôn, bán lẻ, giá bán cho khách hàng mua với số lượng lớn và thanh toán nhanh thông qua việc áp dụng linh hoạt các công cụ như chiết khấu, giảm giá. Vậy khi xây dựng mức chi phí có thể tiết kiệm được do tiêu thụ nhiều hàng hoá và do thanh toán nhanh, công ty nên dành mức chiết khấu giảm giá hợp lí cho khách hàng điều này không những thu hút khách hàng đến mua sản phẩm của doanh nghiệp mà còn giúp giữ những khách hàng mới trở thành bạn hàng lâu dài của doanh nghiệp. Thứ tư: Xây dựng chính sách phân phối hàng hoá hợp lí Việc xây dựng chính sách phân phối hàng hoá hợp lí đóng vai trò quan trọng trong quá trình tiêu thụ hàng hoá ở công ty. Công ty cần xây dựng cho minh một mạng lưới kinh doanh với nhiều kênh bán hàng khác nhau phù hợp với đặc điểm kinh doanh, cũng như quy mô, phạm vi kinh doanh của từng loại mặt hàng cũng khác nhau. Công ty cần hình thành một trung tâm giao dịch mua bán hoặc hệ thống các dịch vụ kĩ thuật lắp ráp sửa chữa, bảo hành để đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Trong khi các đối thủ cạnh tranh có một hệ thống mạng lưới bán hàng phân bố rộng khắp trên cả nước thì công ty điện máy – xe đạp – xe máy chưa thực sự quan tâm đến vấn đề này. Công ty cần bố trí một mạng lưới các kênh bán hàng hợp lí, trong đó tập trung đầu tư trang thiết bị, cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại vì đây là nơi trực tiếp tiếp xúc với khách hàng và cũng là nơi thích hợp nhất để giới thiệu quảng cáo sản phẩm của công ty. Mặt khác các cửa hàng cũng là nơi cung cấp những thông tin quan trọng về khách hàng, đối thủ cạnh tranh, sản phẩm. Chính vì vậy trong những năm tới công ty cần đầu tư thiết bị, cơ sở vật chất cho các cửa hàng với các nhãn hiệu, biển quảng cáo bắt mắt gây sự chú ý, đồng thời cần bố trí vị trí các cửa hàng đặt ở những nơi đông dân cư tập trung nhu cầu tiêu dùng, điều kiện đi lại thuận tiện, còn ở những nơi chưa có điều kiện hoặc chưa cần thiết mở cửa hàng thì công ty nên phát triển mạng lưới bán hàng đại lí nhằm nắm giữ phát triển thị trường theo cả chiều sâu lẫn chiều rộng. Bên cạnh đó doanh nghiệp có thể sử dụng nhiều hình thức bán hàng như bán theo hợp đồng và đơn đặt hàng. Thứ năm: Về hoạt động quảng cáo và xúc tiến bán hàng: Trong nền kinh tế thị trường, thì hoạt động quảng cáo nổi lên như một yếu tố kích thích cho các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp một cách hiệu quả. Mục tiêu của quảng cáo là giới thiệu sản phẩm của công ty tới mọi đối tượng khách hàng, đồng thời thông qua quảng cáo công ty có thể hiểu được nhu cầu của thị trường, nắm bắt được các thông tin phản hồi từ phía khách hàng được nhanh hơn. Đây là một phương tiện phục vụ đắc lực cho cạnh tranh. Do vậy công ty cần tăng cường công tác quảng cáo sản phẩm với phương tiện quảng cáo phù hợp với tình hình tài chính của công ty, có thể quảng cáo qua báo, tạp chí, quảng cáo bằng biển, panô, áp phích... Hiện nay công ty chỉ áp dụng những hình thức quảng cáo đơn điệu chưa gây được sự chú ý cho người tiêu dùng như những mẩu tin ngắn trên báo về tên công ty và một số mặt hàng hiện bán. Chi phí cho quảng cáo còn rất hạn chế một phần là do nguồn kinh phí có hạn của công ty, một phần là do công ty chưa thực sự quan tâm đến vấn đề này. Vì vậy, trong thời gian tới công ty cần đa dạng hoá nhiều hình thức quảng cáo, tăng chi phí cho quảng cáo. Mặc dù hiện tại nguồn kinh phí của công ty còn khá eo hẹp nên việc tăng chi phí này có thể coi là một hoạt động khá mạo hiểm tuy nhiên nếu xét về lâu dài thì đây lại là một biện pháp tích cực thúc đẩy hoạt động tiêu thụ sản phẩm của công ty. Bên cạnh đó công ty có thể sử dụng nhiều kĩ thuật xúc tiến bán hàng như: bán có thưởng, giảm giá tức thì, khuyến khích mua thử, quảng cáo tại các nơi bán hàng. 3.2.2 Các giải pháp nhằm tiết kiệm chi phí kinh doanh: Tiết kiệm chi phí là biện pháp cơ sở để tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. Tiết kiệm chi phí còn tạo tiền đề thuận lợi để doanh nghiệp có thể hạ thấp giá bán, tăng khả năng cạnh tranh mà vẫn đảm bảo mức lãi thoả đáng. Tiết kiệm chi phí không đồng nghĩa với việc cắt giảm chi phí, mà tiết kiệm chi phí là chi tiêu có hiệu quả hay nói cách khác một đồng chi phí bỏ ra phải thu được lợi ích lớn nhất. Để tiết kiệm chi phí doanh nghiệp cần tiến hành các biện pháp chủ yếu sau: Thứ nhất: Lựa chọn nguồn hàng thích hợp Trong nền kinh tế thị trường, một mặt hàng kinh doanh có thể có nhiều người cung cấp khác nhau, điều này dẫn đến giá trị hàng hoá, uy tín của hàng hóa cũng khác nhau. Do vậy doanh nghiệp cần lựa chọn cho mình nguồn cung cấp hàng hoá tối ưu. Muốn vậy công ty cần phải tìm kiếm khai thác được các nguồn hàng rẻ nhất mà vẫn đảm bảo được chất lượng. Công ty có thể khai thác nguồn hàng trực tiếp từ việc tìm kiếm các thông tin trên mạng Internet hoặc thông qua các bạn hàng hoặc khách hàng của mình. Để có thể trực tiếp nắm bắt các thông tin tìm kiếm các nguồn hàng, công ty nên đặt các văn phòng đại diện tại các nước mà công ty thường xuyên có quan hệ hợp tác. Khi có nhiều nguồn hàng, công ty mới có điều kiện lựa chọn nguồn hàng phù hợp nhất, với chi phí ít nhất. Với việc thanh toán nhanh, sòng phẳng công ty có thể nhận được sự giảm giá đồng thời gây dựng mối quan hệ làm ăn lâu dài. Thứ hai: Giảm chi phí tiền lương: Trong những năm tới công ty phải giảm được chi phí tiền lương thông qua việc sắp xếp lại cơ cấu tổ chức, biên chế lao động, giải quyết tình trạng dư thừa lao động như hiện nay. Công ty nên có những chủ trương khuyến khích người lao động không có khả năng làm việc về hưu sớm, đồng thời có trợ cấp xứng đáng bằng tiền trích ra từ quỹ lương, thực hiện được điều này công ty sẽ giảm được sự lãng phí trong chi phí tiền lương. Bên cạnh đó công ty cũng nên có những chính sách, cơ chế khen thưởng người lao động, tạo không khí thi đua trong toàn công ty, nâng cao hiệu quả làm việc của người lao động. Thứ ba: Giảm chi phí văn phòng và các dịch vụ mua ngoài: Để giảm được hai loại chi phí này, trước hết ban lãnh đạo phải quán triệt ý thức tiết kiệm đến từng phàng ban, từng nhân viên và có biện pháp quản lí chi phí chặt chẽ, tránh tình trạng “của chùa”. Ví dụ: đối với chi phí điện nước nên tắt những thiết bị không dùng đến, hoặc sử dụng hợp lí đối với điện thoại và internet, cần có hệ thống quản lí các cuộc gọi và truy cập vì hiện nay cước phí cho hai loại dịch vụ này là rất đắt. 3.2.2 Các giải pháp khác nhằm nâng cao doanh thu và tiết kiệm chi phí: 3.2.2.1 Các giải pháp tài chính: * Xây dựng cơ cấu vốn tối ưu: Cơ cấu vốn tối ưu là cơ cấu vốn mà ở đó chi phí vốn bình quân là thấp nhất. Việc nghiên cứu cơ cấu vốn ở công ty điện máy – xe đạp – xe máy cho thấy tỷ lệ nợ trong tổng nguồn vốn của công ty là rất lớn (chiếm khoảng 94% tổng nguồn vốn) trong đó chủ yếu là nợ ngắn hạn. Việc tỷ trọng nợ quá cao trong tổng nguồn vốn của công ty khiến cho sức ép trả lãi cũng như trả nợ của công ty là rất lớn. Mặt khác điều đó còn tạo ra khó khăn cho công ty khi công ty muốn tăng cường nguồn vốn để tài trợ cho các dự án kinh doanh của mình, bởi vì các nhà cung ứng vốn thường lựa chọn để tài trợ cho những doanh nghiệp có nguồn tài chính lành mạnh. Như vậy nhu cầu vốn trong tương lai va những hậu quả của thiếu vốn có ảnh hưởng quan trọng tới mục tiêu cơ cấu vốn của công ty. Bởi vậy trong thời gian tới công ty cần có những giải pháp để xây dựng cơ cấu vốn hợp lí hơn. Công ty cần xác định chính xác nhu cầu vốn lưu động. Nếu nhu cầu được xác định quá thấp sẽ gây khó khăn cho quá trình kinh doanh của công ty. Khi công ty thiếu vốn sẽ gây những tổn thất như kinh doanh đình trệ, không đảm bảo được hợp đồng đã kí kết với khách hàng do đó sẽ dẫn đến mất tín nhiệm với khách hàng, và không giữ được khách hàng. Ngược lại nếu nhu cầu vốn xác định quá cao cũng gây những khó khăn cho công ty như ứ đọng vật tư hàng hoá, lãng phí vốn, vốn lưu động chậm luân chuyển và phát sinh nhiều chi phí không hợp lí làm cho giá thành tăng lên ảnh hưởng tới lợi nhuận của công ty. Như vậy công ty cần xác định nhu cầu vốn lưu động là số vốn đủ để đảm bảo cho quá trình kinh doanh được tiến hành một cách liên tục và tiết kiệm hợp lí. Từ đó xây dựng một cơ cấu vốn hợp lí. Sau khi xác định được một cơ cấu vốn tối ưu, thì công ty cần có những biện pháp để xây dựng được cơ cấu vốn tối ưu đó bằng cách: Tích cực đàm phán với các ngân hàng để giảm bớt các khoản nợ và chi phí trả lãi vay. Trong năm 2003 đánh dấu thành công đáng kể của công ty đã kéo dài thời hạn trả nợ cho các khoản vay đến hạn 5 tỷ đồng, giảm gần một tỷ đồng lãi vay. Tuy nhiên đây vẫn là một con số nhỏ bé so với khoản nợ ngắn hạn của công ty hiện nay là 70 tỷ đồng, dự kiến năm 2005 khoản nợ đến hạn là 15 tỷ đồng, lãi vay (kể cả lãi vay quá hạn) là 3,5 tỷ đồng. Do đó công ty xin gia hạn với cam kết công ty sẽ thanh toán các khoản nợ dưới sự bảo lãnh của Bộ thương mại Doanh nghiệp cần khai thác nguồn vốn thương mại hay còn gọi là tín dụng của nhà cung cấp. Nguồn này được khai thác một cách tự nhiên, tiện lợi và linh hoạt trong kinh doanh, mặt khác nó còn tạo khả năng mở rộng quan hệ hợp tác lâu dài. Công ty nên duy trì mối quan hệ làm ăn lâu dài với các khách bán hàng cũng như mua hàng của minh để từ đó có thể được hưởng một số ưu đãi như mua hàng được trả chậm hay khách hàng đồng ý ứng trước một số tiền lớn. Công ty cũng nên tìm kiếm nguồn vốn ưu đãi của các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước để hưởng mức lãi suất cho vay thấp hơn. Chủ động tìm kiếm nguồn vốn trung và dài hạn như vốn ngân sách cấp bổ sung, vay ngân hàng, tìm kiếm các đối tác cùng góp vốn liên doanh, phát hành trái phiếu, vay vốn từ cán bộ công nhân viên công ty để dần thay thế nguồn vốn ngắn hạn. Trong cơ chế thị trường, với kết quả đạt được trong năm 2004 thì việc sử dụng vốn vay (từ ngân hàng, phát hành trái phiếu) sẽ khuyếch đại kết quả kinh doanh và tiết kiệm được thuế từ các khoản lãi vay. Mặt khác hiện nay việc vay vốn từ ngân hàng hết sức thuận lợi đã có mức lãi trần cho vay hợp lí nhằm đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của đơn vị. Đặc biệt đối với doanh nghiệp thế chấp, không giới hạn theo tỷ lệ vốn điều lệ của doanh nghiệp mà căn cứ vào hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty. Tuy nhiên đây là các khoản vay dài hạn, lãi suất phải trả cao, bên cạnh đó khoản nợ công ty còn tồn đọng khá lớn, việc huy động vốn từ ngân hàng sẽ gặp nhiều khó khăn, trước tình hình đó công ty cần nghiên cứu các hình thức huy động vốn trung và dài hạn bằng cách phát triển hình thức vay vốn từ cán bộ công nhân viên trong công ty. Đây được xem là hình thức huy động vốn hiệu quả nhất vì nó tránh được các thủ tục phiền hà khi đi vay, cắt giảm các khoản chi phí không cần thiết mà lại huy động vốn được kịp thời, phát huy nội lực bên trong công ty. Muốn vậy công ty cần xây dựng một mức lãi suất hợp lí, thời gian thanh toán linh hoạt, đảm bảo lợi ích người cho vay. * Sử dụng hiệu quả nguồn vốn: Xây dựng cơ cấu vốn tối ưu và huy động kịp thời nguồn vốn là điều kiện cần thiết để nâng cao hiệu quả kinh doanh. Nhưng vấn đề quan trọng là quản lí và sử dụng vốn đó như thế nào để có hiệu quả. Trong những năm qua, quản lí vốn của công ty còn lãng phí, chưa hiệu quả thu nhập mang lại chưa tương xứng với đồng vốn bỏ ra. Vì vậy công ty cần quản lí tốt hơn vốn lưu động và vốn cố định của mình. - Quản lí chặt chẽ vốn cố định: Quản lí chặt chẽ vốn cố định bao gồm quản lí hệ thống nhà xưởng, kho tàng, bến bãi. Trong năm 2004 công ty đã tiến hành cho thuê văn phòng, nhà xưởng giảm sự lãng phí trong sử dụng tài sản đồng thời mang lại nguồn thu nhập cho công ty. Trong tương lai khi nhu cầu sử dụng văn phòng và các nhà kho chưa tăng lên so với diện tích hiện nay đang sử dụng thì công ty nên tiếp tục kí kết hợp đồng cho thuê, mang về nguồn thu ổn định- đây cũng là một trong những mục tiêu của doanh nghiệp. - Tăng cường công tác quản lí vốn lưu động: Thứ nhất: Công ty cần thực hiện công tác quản lí dự trữ Một trong những vấn đề quan trọng đặt ra trong công tác quản lí vốn lưu động là cần xác định cho được mức dự trữ tiền mặt một cách hợp lí và có hiệu quả nhất. Tuy nhiên các nhà kinh tế cho rằng: để tìm được một mức dự trữ tiền mặt hợp lí nhất thì trước hết cần dựa vào mức dự trữ vật tư, mức vật tư hợp lí sẽ quyết định mức cân đối tiền mặt hợp lí. Trong quá trình luân chuyển vốn lưu động phục vụ cho kinh doanh thì việc tồn tại vật tư, hàng hoá dự trữ, tồn kho là một bước đệm cần thiết cho quá trình hoạt động bình thường của công ty. Nếu công ty dự trữ quá lớn sẽ tốn kém chi phí, ứ đọng vốn, còn nếu dự trữ quá ít sẽ làm cho quá trình kinh doanh sẽ bị gián đoạn gây ra hàng loạt các hậu quả tiếp theo. Do vậy công ty cần dự đoán nhu cầu thị trường đưa ra các khả năng của công ty trong việc đáp ứng nhu cầu đó để thực hiện việc quản lí, dự trữ cho phù hợp. Thứ hai: Công ty cần quan tâm hơn nữa tới việc quản lí tiền mặt Chi phí cơ hội cho việc giữ tiền mặt là lãi suất mà công ty bị mất đi. Do vậy công ty cần quan tâm hơn nữa đến công tác này để xác định nhu cầu tiền một cách hợp lí, đảm bảo lượng tiền mặt cần thiết phục vụ cho quá trình kinh doanh. Điều này giúp công ty có những lợi thế sau: Khi mua hàng hoá, dịch vụ nếu đủ tiền mặt công ty có thể được hưởng những lợi thế chiết khấu. Giữ đủ tiền mặt, duy trì tốt chỉ số thanh toán ngắn hạn giúp công ty có thể mua hàng với những điều kiện thuận lợi và được hưởng hạn mức tín dụng rộng rãi. Giữ đủ tiền mặt giúp công ty tận dụng những cơ hội thuận lợi trong kinh doanh do chủ động trong các hoạt động thanh toán, chi trả đáp ứng nhu cầu trong các trường hợp khẩn cấp như: đình công, chiến dịch Marketing của đối thủ cạnh tranh, vượt qua khó khăn do yếu tố thời vụ và chu kì kinh doanh. Như vậy quản lí tiền mặt là một việc làm cần thiết mà công ty phải thực hiện bằng được, trong đó việc lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ góp phần quản lí kinh doanh có hiệu quả, giảm chi phí lãi vay ngân hàng. Thứ ba: công ty cần quản lí chặt chẽ các khoản thu. Tuy chính sách cung cấp tín dụng cho khách hàng cũng là biện pháp tài chính của công ty nhằm đẩy mạnh công tác tiêu thụ hàng hoá, nâng cao doanh thu nhưng với tỷ lệ khoản phải thu như hiện nay (chiếm khoảng 10% doanh thu thuần) trong đó 70% là khoản phải thu từ khách hàng đã làm giảm kì luân chuyển vốn, giảm hiệu suất sử dụng vốn kinh doanh và số vòng quay vốn lưu động. Vì vậy công ty cần có biện pháp tích cực nhằm giảm khoản phải thu xuống 5% doanh thu thuần. * Hoàn thiện hơn công tác lập kế hoạch tài chính và công tác phân tích tài chính: Muốn phát triển bền vững, công ty cần phải dự đoán được sự thay đổi của môi trường kinh doanh để sẵn sàng thích nghi với nó. Phân tích tài chính là cơ sở để dự đoán tài chính, từ đó giúp cho nhà quản lí tài chính ra quyết định đúng đắn kịp thời. Đồng thời việc phân tích tài chính cũng là một cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch tài chính cho công ty. * Tăng cường hoạt động góp vốn liên doanh: Trong nền kinh tế thị trường, hướng đầu tư kinh doanh của doanh nghiệp thương mại không chỉ khép kín và giới hạn trong phạm vi nội bộ doanh nghiệp mà còn có thể đầu tư một bộ phận vốn kinh doanh bên ngoài doanh nghiệp. ở công ty điện máy – xe đạp – xe máy cũng vậy, khi thực hiện nhiệm vụ này công ty vừa thực hiện khả năng sinh lời từ sản phẩm, nguồn vốn hiện có vừa đảm bảo được an toàn trong kinh doanh nếu bản thân công ty gặp rủi ro. Mặt khác công ty nên tìm kiếm đối tác liên doanh chấp nhận góp vốn bằng tài sản cố định để dùng sản xuất, kinh doanh những mặt hàng mà xã hội luôn có nhu cầu. Nếu thực hiện tốt các pháp tài chính trên sẽ giúp công ty chuyển đổi sang hình thức công ty cổ phần. Đây là hình thức khá phổ biến ở Việt Nam hiện nay và đã phát huy những ưu điểm của nó như nâng cao hiệu quả quản lí, huy động thêm vốn cho công ty... Mặt khác, đây cũng là vấn đề nằm trong chính sách tổ chức sắp xếp lại doanh nghiệp của nhà nước ta. Do đó nếu công ty tiến hành cổ phần hoá được thì sẽ được hưởng những chính sách ưu đãi của nhà nước. Tuy nhiên đây cũng không phải là việc đơn giản bởi lẽ công ty sẽ gặp phải những khó khăn như: đánh giá lại tài sản, xác định giá trị của công ty. Hơn nữa hoạt động kinh doanh của công ty đang gặp rất nhiều khó khăn, các khoản nợ của công ty còn quá nhiều nên việc bán cổ phiếu ra ngoài công ty sẽ khó thực hiện. Muốn thực hiện điều này đòi hỏi sự cố gắng toàn thể cán bộ công nhân viên công ty đoàn kết, đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ hàng hoá, giúp doanh nghiệp đững vững trên thị trường và dần lấy lại lòng tin với khách hàng có như vậy doanh nghiệp mới có hy vọng cải thiện tình hình tài chính của mình. 3.2.2.2 Hoàn thiện bộ máy quản lí và sử dụng có hiệu quả nguồn lao động: Một điều quan trọng không thể không nhắc đến đó là: công ty cần chú trọng nhân tố con người vì nhân tố này đóng vai trò vô cùng quan trọng trong sự tồn tại và phát triển của công ty. Sau đây chúng ta sẽ xem xét cụ thể về giải pháp sử dụng con người tại công ty. Đối với mỗi công ty, tổ chức bộ máy quản lí đóng vai trò quyết định đối với sự thành công trong kinh doanh. Đây chính là bộ phận chỉ đạo mọi hoạt động của công ty, xây dựng các mục tiêu kế hoạch và hoạch định chiến lược kinh doanh. Không ngừng cải tiến và hoàn thiện bộ máy quản lí là cơ sở cho sự phát triển lâu dài của công ty. Nhìn chung cơ cấu quản lí phòng ban ở công ty là hợp lí, các phòng ban được sắp xếp có chức năng phù hợp với từng lĩnh vực chuyên môn như phòng kế toán tài chính, phòng tổ chức, phòng kinh doanh... Trong đó phòng kinh doanh được tách ra thành 3 phòng độc lập nhằm quản lí tốt hơn hoạt động kinh doanh của từng nhóm hàng, ngành hàng như phòng kinh doanh điện máy, phòng kinh doanh xe đạp – xe máy, phòng kinh doanh vật tư. Các chi nhánh, các cửa hàng của công ty hoạt động một cách độc lập, tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động kinh doanh của đơn vị mình. Do vậy công tác quản lí các chi nhánh và cửa hàng này đòi hỏi phải thường xuyên được giám sát tránh tình trạng gian lận, và các vấn đề phát sinh khác trong đơn vị kinh doanh. Công ty cần chú trọng đến công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ công nhân viên. Hiện nay công ty có khoảng gần 500 nhân viên, trong đó chỉ có gần 70% được đào tạo chuyên nghiệp, trong đó 87% được đào tạo trong cơ chế cũ, chưa đáp ứng được nhiệm vụ kinh doanh, mặt khác trong những năm qua hoạt động kinh doanh gặp nhiều khó khăn, nguồn kinh phí đào tạo còn eo hẹp. Vì vậy trong thời gian tới công ty cần chú trọng bồi dưỡng nghiệp vụ kinh tế và quản trị kinh doanh cho nhân viên công ty với phương châm nhân viên tự bỏ kinh phí là chính cùng với sự hỗ trợ của công ty. Cần tinh giảm bộ máy quản lí, giảm chi phí gián tiếp. Hiện nay lao động gián tiếp chiếm 30% tổng số lao động của công ty song hiệu quả lao động thấp. Theo đánh giá của ban lãnh đạo công ty thì chỉ cần 1/2 số lượng nhân viên gián tiếp này cũng có thể hoàn thành tốt khối lượng công việc của công ty. Do đó công ty cần tích cực vận động cán bộ, nhân viên đủ tiêu chuẩn về nghỉ theo chế độ. Tuy nhiên đây là một công việc không đơn giản muốn thực hiện thành công cần quan tâm tới lợi ích thoà đạng của người lao động khi về nghỉ hưu như trợ cấp hưu trí, trợ cấp khó khăn, ... Bên cạnh đó doanh nghiệp có thể áp dụng nhiều hình thức trả lương khác nhau. Ví dụ có thể trả lương theo sản phẩm, lương khoán, lương theo thời gian...Ngoài ra, doanh nghiệp cần có các chế độ đãi ngộ, khuyến khích người lao động làm việc như: nâng bậc lương, các chế độ tiền thưởng nếu người lao động hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao... điều này sẽ giúp cho người lao động thêm gắn bó với công ty đồng thời nâng cao năng suất lao động. iều nằm làm ăn thua lỗ. 3.3. Một số kiến nghị: Sau khi nghiên cứu về thực trạng hoạt động tại công ty Điện máy – Xe đạp – Xe máy, em xin mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị sau: Đứng trước thực tế của công ty Điện máy- xe đạp - xe máy, là một doanh nghiệp nhà nước cũng như bao doanh nghiệp nhà nước khác khi chuyển sang cơ chế thị trường đã vấp phải không ít những khó khăn đặc biệt là vấn đề vốn. Thực tế trong những năm gần đây nguồn vốn mà nhà nước cung cấp thực sự rất nhỏ bé không đáp ứng được nhu cầu kinh doanh những mặt hàng có giá trị lớn nên xét thấy nhà nước cần cung cấp thêm vốn cho doanh nghiệp nhằm giảm chi phí lãi vay ngân hàng. Hiện nay công ty đang có dự án hoàn thiện dây chuyền lắp ráp xe máy IKD đây là dây chuyền có tính kĩ thuật cao khi hoàn thành sẽ mang lại lợi ích cho công ty, vì vậy công ty cần có sự hỗ trợ vốn kịp thời từ phía nhà nước. Đồng thời nhà nước cần có sự điều chỉnh vĩ mô để hạn chế việc tăng giá các yếu tố đầu vào như điện, nước, xăng dầu… giúp doanh nghiệp giảm bớt giá thành sản xuất, từ đó xây dựng cơ cấu giá cả phù hợp với điều kiện sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, vừa với túi tiền của người tiêu dùng, nâng cao hiệu quả cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Thêm vào đó Bộ tài chính cần có chính sách giảm bớt mức thuế nhập khẩu một số mặt hàng như ti vi, tủ lạnh, điều hoà, linh kiện xe máy. Đặc biệt là việc Tổng cục hải quan cưỡng chế làm thủ tục nhập khẩu hàng hoá của công ty và truy thu thuế nhập khẩu linh kiện xe máy năm 2001 đã gây rất nhiều khó khăn cho công ty đặc biệt là trong lúc tình hình tài chính công ty không ổn định như hiện nay. Bên cạnh đó cơ quan hải quan cũng cần tăng cường công tác kiểm soát chặt chẽ các hoạt động buôn lậu, nhập khẩu xe máy trái phép, việc xe máy Trung Quốc tràn lan trên thị trường ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh của công ty. Công ty Điện máy – Xe đạp – xe máy là một trong những doanh nghiệp trực thuộc Bộ Thương Mại và chịu sự quản lý chung của ngành. Kết quả kinh doanh của công ty sẽ ảnh hưởng tới kết quả kinh doanh của cả ngành. Do vậy em xin đề xuất một số ý kiến với Bộ Thương Mại như sau: Để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty, đặc biệt là trong công tác quản trị doanh thu và chi phí tại công ty, thì Bộ Thương Mại cần có sự hỗ trợ về vốn cho công ty, nhờ đó mà công ty có thể mở rộng kinh doanh, tạo điều kiện cho công ty kí kết các hợp đồng kinh tế với các bạn hàng, có như vậy công ty mới có thể đẩy mạnh tốc độ tiêu thụ hàng hoá, nâng cao doanh thu, từ đó có thể trang trải các khoản nợ nần, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty. Thống nhất quản lý chế độ tài chính kế toán trong toàn ngành, giải quyết vốn thanh toán nội bộ. Trong thời gian qua tình trạng nợ đọng, chiếm dụng vốn lẫn nhau của các đơn vị vẫn tồn tại khá phổ biến. Riêng công ty điện máy – xe đạp – xe máy còn phải thu từ các đơn vị trong ngành chiếm tới 50% khoản phải thu của công ty. Tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị kinh doanh trong ngành trong việc kế toán tại cơ sở, đồng thời qua đó mà Bộ Thương Mại dễ dàng giám sát được hiệu quả hoạt động kinh doanh của từng đơn vị, để có những điều chỉnh kịp thời trong công tác nhân sự và quản lý. Phát huy vai trò của Hiệp hội các doanh nghiệp thương mại có thể tương trợ giúp đỡ lẫn nhau, xây dựng môi trường kinh doanh, cạnh tranh lành mạnh, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có thể học hỏi kinh nghiệm của nhau qua nhiều hình thức như tham quan, giới thiệu sản phẩm mới, tổ chức các cuộc triển lãm sản phẩm…Điều này sẽ tạo cơ hội cho doanh nghiệp được cọ sát, từ đó mở rộng thị trường tiêu thụ, tìm kiếm được nhiều đối tác kinh doanh. Đây cũng có thể nói là một động lực giúp các doanh nghiệp thương mại nói chung và công ty Điện máy - xe đạp – xe máy nói riêng tìm ra hướng đi đúng đắn cho doanh nghiệp mình cũng như cơ hội phát triển kinh doanh trong một môi trường kinh doanh lành mạnh. Kết luận Nền kinh tế thị trường với những quy luật của nó vừa tạo ra thời cơ, vừa đặt ra những thách thức đối với các doanh nghiệp. Doanh nghiệp muốn đứng vững trên thị trường đòi hỏi nhà quản trị doanh nghiệp phải biết nắm bắt tận dụng thời cơ, kịp thời đưa ra những chính sách kinh doanh hợp lí mà mục tiêu cần hướng tới đó là tăng doanh thu, giảm chi phí. Qua thời gian tiếp xúc với thực tế tại công ty Điện máy – xe đạp – xe máy được sự giúp đỡ của các cô chú phòng tài chính kế toán, và sự hướng dẫn tận tình của cô giáo TS. Lê Thanh Hoài, em đã hoàn thành luận văn tốt nghiệp của mình với đề tài “Một số giảI pháp nhằm nâng cao doanh thu và tiết kiệm chi phí tại công ty Điện máy – xe đạp – xe máy”. Do sự hạn chế trong thời gian thực tập tại công ty và trình độ có hạn, luận văn của em không tránh khỏi những sai sót. Em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô, các cô chú trong công ty để bàI viết của em được hoàn thiện hơn. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn cô giáo TS. Lê Thanh Hoài, các thầy cô giáo bộ môn tài chính và các cô chú trong công ty đã giúp em hoàn thiện luận văn này. Mục lục Mở đầu 1 Kết luận 89 Tài liệu tham khảo

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docM0345.doc
Tài liệu liên quan