Đề tài Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác xuất khẩu lao động ở Việt nam

Với lực lượng lao động đông đảo như hiện nay thì vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động quả là một vấn đề rất bức xúc với nước ta đòi hỏi Đảng , Nhà nước phải có các biện pháp , chủ trương , chính sách đúng đắn ,linh hoạt và một trong những chủ trương , chính sách đó là xuất khẩu lao động ra thị trường quốc tế . XKLĐ đem lại nhiều lợi ích rất to lớn như đã phân tích ở trên , nó không những mang lại lợi ích to lớn cho Đất nước và thu nhập cao cho người lao động mà còn giải quyết được các vấn đề Xã hội do thất nghiệp gây ra . Tuy nhiên vì đây là một lĩnh vực còn mới mẻ và thiếu kinh nghiệm nên công tác XKLĐ còn nhiều hạn chế đòi hỏi Đảng và Nhà nước quan tâm đầu tư đúng mức để hiệu quả của công tác XKLĐ ngày càng được nâng cao .

doc31 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1414 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác xuất khẩu lao động ở Việt nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ết bao gồm ba phần: Phần thứ nhất: Lý luận và mục đích của vấn đề nghiên cứu . Phần thứ hai: phân tích thực trạng. Phần thứ ba: Các giải pháp và một số kiến nghị. Phần thứ nhất : lý luận và mục đích của vấn đề nghiên cứu. 1. Một số khái niệm liên quan a. Định nghĩa nguồn nhân lực Nguồn nhân lực là một bộ phận của dân số trong độ tuổi nhất định theo quy định của luật pháp có khả năng tham gia lao động . Nguồn nhân lực được biểu hiện trên hai mặt : về số lượng đó là tổng số những người trong độ tuổi lao động và thời gian làm việc có thể huy động được của họ . Việc quy định cụ thể độ tuổi lao động của mỗi nước ( kể cả cận trên và cận dưới ) rất khác nhau tuỳ theo yêu cầu của trình độ phát triển của nền kinh tế xã hội trong từng giai đoạn . ở Việt Nam , trước đây độ tuổi lao động quy định từ 16 đến 60 tuổi ( với nam ) và 16 đến 55 tuổi ( với nữ ) . Hiện nay theo Bộ luật Lao động quy định lại là 15 đến 60 tuổi ( với nam ) và 15 đến 55 tuổi ( với nữ ) .Về chất lượng nguồn nhân lực , đó chính là trình độ chuyên môn và sức khỏe của người lao động . b. Định nghĩa nguồn lao động Nguồn lao động ( hay lực lượng lao động ) là một bộ phận dân số trong độ tuổi quy định thực tế có tham gia lao động ( đang có việc làm ) và những người không có việc làm nhưng đang tích cực tìm việc làm . Cũng như nguồn nhân lực , nguồn lao động được biểu hiện trên hai mặt số lượng và chất lượng .Như vậy theo khái niệm nguồn lao động thì có một số người được tính vào nguồn nhân lực nhưng lại không phải là nguồn lao động . Đó là những người lao động không có việc làm nhưng không tích cực tìm kiếm việc làm ; những người đang đi học ; những người đang làm việc nội trợ trong gia đình mình và những người thuộc tình trạng khác (nghỉ hưu trước tuổi theo quy định ). Cũng cần chú ý là trong nguồn lao động chỉ có bộ phận những người đang tham gia lao động là trực tiếp góp phần tạo ra thu nhập của xã hội . c. Định nghĩa xuất khẩu lao động Qua tìm hiểu các sách báo và tạp chí nhưng vẫn chưa tìm được một khái niệm chính xác về xuất khẩu lao động nên em mạnh dạn đưa ra một khái niệm tương đối như sau : Xuất khẩu lao động là hoạt động tổ chức đưa người lao động trong nước đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài thông qua các hợp đồng cung ứng nhằm giải quyết việc làm cho ngườo lao động đồng thời tạo nguồn thu cho đất nước . Việc đưa người lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài thể hiện tính quy luật của sự di chuyển nguồn lao động trong phạm vi quốc tế . Đây chính là một hình thức phân công lao động , là cơ sở để tăng thu nhập cho người lao động , làm cho đời sống của họ dễ chịu hơn và góp phần tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước . d. Hiệu quả và hiệu quả kinh tế Hiệu quả là thuật ngữ dùng để chỉ mối quan hệ giữa kết quả thực hiện các mục tiêu hoạt động của chủ thể và chi phí mà chủ thể bỏ ra để có kết quả đó trong những điều kiện nhất định . Hiệu quả kinh tế là hiệu quả nếu chỉ xét về khía cạnh kinh tế của vấn đề , là một nội dung đặc biệt của hiệu quả tổng hợp có ý nghĩa quyết định trong hoạt động kinh tế của các chủ thể khác nhau . Hiệu quả kinh tế mô tả mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế mà chủ thể nhận được và chi phí bỏ ra để nhận được lợi ích kinh tế đó . 2. Cơ sở lý luận của đề tài nghiên cứu . Tuy hoạt động xuất khẩu lao động là một hình thức xuất khẩu đặc biệt vì đối tượng xuất khẩu là người lao động nhưng nó cũng giống như các hoạt động xuất khẩu hàng hoá khác do đó để nghiên cứu cơ sở lý luận của đề tài em xin đứng trên giác độ của một nhà Marketing là chủ yếu để nghiên cứu . Hoạt động xuất khẩu lao động của các tổ chức kinh tế là hoạt động dịch vụ . Do đó , việc nghiên cứu các đặc trưng Marketing của sản phẩm dịch vụ này sẽ góp phần giúp các doanh nghiệp nâng cao hiệu quả hoạt động của mình và tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài . Đặc trưng của sản phẩm dịch vụ xuất khẩu lao động Có 4 nhân tố đồng nhất trong sản phẩm dịch vụ Tính chất vô hình : dịch vụ có đặc điểm không hiện hữu , nó không tồn tại dưới dạng vật thể , không thể sờ mó , tiếp xúc hay nhìn thấy được khi ra quyết định mua xắm . Tuy nhiên , mức độ hiện hữu này có mức độ biểu lộ khác nhau với từng loại dịch vụ , nó có mối quan hệ tới chất lượng dịch vụ và tiêu dùng của khách hàng . Đối với lĩnh vực xuất khẩu lao động , yếu tố không hiện hữu là các thủ tục trước và sau khi làm việc ở nước ngoài diễn ra thuận tiện , đảm bảo uy tín , chất lượng cũng như trợ giúp người lao động hoà nhập với chủ sử dụng lao động hay các hoạt động đào tạo nghề nghiệp , ngoại ngữ , phong tục tập quán lối sống , luật pháp và cả hoạt động BHXH , bảo đảm quyền lợi của người lao động trước khi cũng như sau khi về nước . Tính chất không xác định : Dịch vụ có tính không đồng nhất , sản phẩm dịch vụ tiêu chuẩn hoá , có giá trị cao . Do đặc trưng cá biệt hoá và cung ứng tiêu dùng dịch vụ , Marketing dịch vụ đang tự thách thức bởi chất lượng dịch vụ thường không xác định bởi vì các dịch vụ phụ thuộc vào con người cung cấp chúng . Tính chất không xác định dịch vụ dẫn đến Marketing dịch vụ có rất nhiều vấn đề cần giải quyết hơn trong Marketing sản xuất vật chất. ở lĩnh vực xuất khẩu lao động cũng vậy , các hoạt động Marketing cũng có sự khác biệt hơn so với Marketing ở các ngành khác, như Marketing xã hội , Marketing đạo đức... Bởi vì, ngành xuất khẩu lao động là một ngành có đặc thù riêng, đối tượng là con người, mục tiêu XKLĐ vừa mang tính kinh tế, vừa mang tính xã hội nên hoạt động này rất nhạy cảm . Tính không thể chia cắt: Sự khác nhau thứ ba giữa hàng hoá và dịch vụ liên quan tới vấn đề không xác định là tính chất không thể phân chia dịch vụ từ người phân phối dịch vụ hay từ một sự sắp đặt mà trong đó dịch vụ xuất hiện. Việc tiêu dùng sản phẩm dịch vụ từ người phân phối dịch vụ hay từ một sự sắp đặt mà trong đó dịch vụ xuất hiện. Việc tiêu dùng sản phẩm dịch vụ song song với việc cung ứng dịch vụ , vì thế sản phẩm dịch vụ được tiêu dùng ở mọi thời điểm với sự tham gia trực tiếp của người tiêu dùng, các hoạt động đào tạo hướng dẫn người lao động diễn ra cùng lúc với sản phẩm được cung cấp. Sự tồn kho: Việc tạo ra sản phẩm dịch vụ và tiêu dùng dịch vụ là một thể thống nhất, sản phẩm dịch vụ tiêu dùng trực tiếp và chóng hỏng, không có khả năng cất trữ lưu kho. Với các dịch vụ, sự lưu kho kéo theo chi phí rất lớn và có nhiều khó khăn hơn liên quan tới sản phẩm dư thừa đó là khi việc cung cấp dịch vụ đã sẵn sàng nhưng thị trường lại không có nhu cầu. Chi phí tồn kho của XKLĐ là thời gian. Chậm thời gian các chuyến bay, ở khâu làm thủ tục hợp đồng là làm mất thời gian, cơ hội cho người lao động cũng bị ảnh hưởng tới thu nhập và lợi nhuận của họ, đương nhiên cũng làm ảnh hưởng tới công ty. Những đặc trưng cơ bản của hoạt động Marketing trong lĩnh vực xuất khẩu lao động . Nghiên cứu thị trường, tìm đối tác, đàm phán ký kết hợp đồng lao động. Quá trình này cần sự tổng hợp các kiến thức Marketing dịch vụ trong lĩnh vực Marketing quan hệ nhằm nghiên cứu, khai thác và hoàn thiện quy trình đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài. Tổ chức thực hiện đầy đủ các thủ tục về kinh tế, hành chính, luật pháp để đưa người lao động đi ra nước ngoài làm việc. Thiết lập mạng lưới quản lý lao động tuân thủ hợp đồng cung ứng lao động của cả người lao động và người nhập khẩu sức lao động . Trên đây là những nội dung cơ bản của xuất khẩu lao động . Trên thực tế để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu lao động cần phải có sự ứng dụng linh hoạt các kiến thức của Marketing vào lĩnh vực đầy nhạy cảm này: Marketing dịch vụ, Marketing quốc tế, Marketing quan hệ, Marketing giao dịch, Marketing pháp luật , Marketing xã hội... Các chiến lược Marketing quốc tế trong kinh doanh dịch vụ cung ứng lao động nước ngoài là : a. Lựa chọn thị trường xuất khẩu Việc chọn một chính sách mở rộng thị trường là chiến lược chủ chốt được chọn trong Marketing xuất khẩu . Các chiến lược mở rộng thị trường giải quyết các vấn đề là làm thế nào Công ty nhận biết và phân tích lựa chọn thị trường xuất khẩu qua thời gian, xác định số lượng thị trường. Nhìn chung có hai chiến lược lớn để xâm nhập thị trường là tập trung thị trường và phân tán thị trường. Tất nhiên đối với nhà Marketing xuất khẩu để lựa chọn chiến lược nào thì cũng phải xem xét các nhân tố, như sản phẩm, hoàn cảnh, và khả năng của doanh nghiệp. Chẳng hạn trong lĩnh vực Marketing XKLĐ thì tuỳ vào “ sản phẩm” là sức lao động , người lao động là lao động phổ thông hay chuyên gia. Nếu như lao động phổ thông thì Công ty sẽ chọn chiến lược phân tán vì nó tốn kém ít về chi phí đào tạo và cũng như quản lý. Ngược lại, nếu xuất khẩu chuyên gia thì công ty lại chọn chiến lược tập trung vào một số thị trường trọng điểm. Nhân tố hoàn cảnh cũng tác động không nhỏ tới việc lựa chọn thị trường, đó là đặc tính của từng loại thị trường ( ví dụ như phạm vi, sự tăng trưởng, tính ổn định, mức độ bất ổn định của thị trường cũng như tính không thống nhất của nhu cầu, sự tín nhiệm của khách hàng đối với công ty), tiềm năng thị trường lớn với những đặc tính ổn định và hoàn thiện thì chiến lược tập trung thị trường sẽ chiếm ưu thế nhưng trái lại, tiềm năng nhỏ, thị trường chưa ổn định lại hợp với chiến lược phân tán. Đồng thời khi lựa chọn thị trường, công ty phải ước lượng được thị trường cũng như cơ sở để quyết định các khu vực thị trường quốc tế thích hợp. Cụ thể như khi lượng lao động chủ yếu là lao động phổ thông, công nhân, thuyền viên,... thì nhà Marketing phải lựa chọn những nước có nhu cầu phát triển, có thu nhập cao ( do lao động dân bản địa không muốn làm những công việc này ). Ngược lại, những nước đang phát triển thì thị trường của công ty sẽ là chuyên gia vì ở những nước này các công việc cần kỹ thuật, trình độ tay nghề cao nhưng ở trong nước thiếu. b. Chiến lược xâm nhập thị trường xuất khẩu Chiến lược xâm nhập vào thị trường ngoài nước phải được xem như là một chiến lược toàn diện . Phải đặt ra những mục tiêu , những thủ đoạn về chính sách để hướng dẫn những hoạt động của Công ty trong một thời gian dài. Khi phát triển chiến lược xâm nhập cần phải nhớ rằng mỗi một thị trường– mục tiêu duy nhất là một vài cách thức xâm nhập và mỗi sản phẩm đều có thị trường duy nhất cần đến nó . Bởi vậy , người làm Marketing quốc tế phải lập kế hoạch cho mỗi loại sản phẩm ở mỗi thị trường nước ngoài . Nhìn chung , để xâm nhập vào một thị trường lao động nước ngoài thì cần phải có thời gian dài dựa trên sự phân tích về tiềm năng thị trường cũng như xác định vị trí thị trường lâu dài . Nếu đứng trên góc độ Marketing thì chiến lược xâm nhập thị trường xuất khẩu là một sự quyết định kênh . Công ty luôn luôn phải cố gắng lựa chọn được kênh xuất khẩu tốt nhất , nhằm thoả mãn mục tiêu khách hàng cũng như phù hợp với mục tiêu tổng thể của Công ty . Sự hình thành , phát triển XKLĐ ở nước ta còn kém , chủ yếu là các Công ty XKLĐ vẫn chưa đánh giá đúng tầm quan trọng của chiến lược xâm nhập thị trường cũng như phương thức thâm nhập thị đó như thế nào ? Các phương thức xâm nhập thị trường xuất khẩu Trong hoạt động xuất khẩu thường có hai phương thức thâm nhập thị trường: phương thức gián tiếp và phương thức trực tiếp . Phương thức xuất khẩu gián tiếp : là hình thức khi doanh nghiệp xuất khẩu thông qua những tổ chức độc lập trong nước để tiến hành xuất khẩu hàng hoá của mình . Các Công ty thường bắt đầu từ xuất khẩu gián tiếp . Có 4 kiểu trung gian mà Công ty có thể lựa chọn : Xuất khẩu thông qua hãng xuất khẩu trong nước : người trung gian này mua sản phẩm của nhà sản xuất rồi bán chúng ra nước ngoài .Xuất khẩu thông qua đại lý xuất khẩu . Xuất khẩu thông qua hiệp hội xuất khẩu . Xuất khẩu thông qua việc sử dụng kênh - phương pháp thông qua người thứ 3 đã tồn tại để tiêu thụ sản phẩm . Phương thức xuất khẩu trực tiếp: là hình thức mà Công ty trực tiếp xuất khẩu ra thị trường nước ngoài. Công ty có thể thực hiện theo một số cách: Tổ chức một bộ phận xuất khẩu riêng của Công ty. Thành lập một chi nhánh xuất khẩu ở nước ngoài. Sử dụng văn phòng đại diện ở nước ngoài. Ký kết hợp đồng với các hãng phân phối nước ngoài. Nhìn chung thì phương thức xuất khẩu gián tiếp , trực tiếp đều có những ưu nhược điểm của nó, như xuất khẩu trực tiếp cho phép công ty có lợi nhuận cao, có lợi thế về định vị nhãn hiệu của Công ty trên thị trường. Hoặc Công ty sẽ chủ động nắm bắt được nhu cầu, mong muốn của khách hàng tốt hơn. Ngược lại, Công ty sẽ phải đầu tư tài chính nhiều và chịu rủi ro cao... lĩnh vực XKLĐ thường mang đặc tính ở phương thức xuất khẩu gián tiếp. Xuất khẩu dựa trên quan hệ giao dịch ngoại giao giữa hai nước hay qua trung gian môi giới vì bản thân chủ sử dụng lao động không đủ điều kiện về tài chính, kinh nghiệm cũng như thời gian so với các Công ty trong nước. Marketing là một khoa học mới phát triển ở Việt Nam trong những năm gần đây ; Marketing trong lĩnh vực XKLĐ lại càng mới đối với chúng ta và với các doanh nghiệp XKLĐ. Do đó việc nghiên cứu một cách thấu đáo các đặc trưng của Marketing của lĩnh vực xuất khẩu lao động là tương đối khó khăn nhưng đó là cần làm và cấp thiết đối với mọi tổ chức, cá nhân tham gia xuất khẩu lao động nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động. 3. Tình hình chung xuất khẩu lao động của Việt Nam & Thái Lan, nghiên cứu & so sánh ở các nước đang phát triển , tỷ lệ tăng dân số hàng năm vẫn còn cao , giải quyết việc làm cho người đến tuổi lao động là một gánh nặng cho các quốc gia . Do đó , xuất khẩu lao động trở thành vấn đề cấp thiết. ở mỗi nước có các chính sách khác nhau , nghiên cứu so sánh này sẽ cung cấp những thông tin về các chính sách và giải pháp xuất khẩu lao động của Việt Nam và Thái Lan , từ đó tìm kiếm những bài học có ích cho Việt Nam trong thời gian tới . a. Xuất khẩu lao động của Việt Nam . Việt Nam đã thực hiện các hiệp định xuất khẩu lao dộng với các nước Liên Xô, Đông Âu và một số quốc gia châu phi vào những năm đầu thập kỷ 80. Các nước xã hội chủ nghĩa trước đây như Liên Xô, Cộng hoà dân chủ Đức, Bungari, Tiệp Khắc là những đối tác nhập khẩu lao động chính từ Việt Nam. Cuối thập kỷ 80 đầu thập kỷ 90 khi Liên Xô và các nước Đông Âu tan rã, các hiệp định xuất khẩu lao động của Việt Nam sang các nước này không còn hiệu lực. Phần lớn lao động Việt Nam chưa hết hợp đồng lao động đã phải trở về nước, hoặc ở lại bất hợp pháp . Trong tình hình khó khăn đó , chính phủ Việt Nam vẫn kiên trì , mở rộng các hướng hợp tác lao động khác nhau để đưa lao động Việt Nam sang các quốc gia Châu á .Đầu thập kỷ 90 , các hiệp định về xuất khẩu lao động đã được khôi phục lại .Cho tới năm 1996 trở đi tình hình xuất khẩu lao động của Việt Nam mới bắt đầu được sáng sủa. Theo thống kê của cục Quản Lý Lao Động từ năm 1996 đến năm 2000, Việt Nam xuất khẩu sang các nước là 65.000 lao động . Mặc dù lao động Việt Nam đã xuất sang 38 thị trường nhưng các thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam hiện nay là Đài Loan , Hàn Quốc , Nhật Bản và một số quốc gia Châu Phi như Libi . Lao động Việt Nam hoạt động trong 30 nhóm ngành, nhưng chủ yếu thuộc các lĩnh vực xây dựng , công nghiệp , dịch vụ, vận tải biển, chế biến thuỷ sản, chuyên gia về y tế, giáo dục và nông nghiệp. Thu nhập bình quân của mỗi lao động vào khoảng 400 USD/ tháng.Tính từ năm 1996 đến năm 2000, hàng năm lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài đã chuyển về nước khoảng 220 triệu USD. Ngoài ra nếu tính cả 20 vạn lao động hết hợp đồng đang sinh sống, hoạt động trong nhiều lĩnh vực kinh doanh ở Liên Xô cũ và các nước Đông Âu, thì số tiền về nước hàng năm của lao động , các chuyên gia ... lên tới 1,25 tỷ USD. Tại hội nghị toàn quốc về xuất khẩu lao động được tổ chức tại Hà Nội trong hai ngày 8 và 9/6/2000, thủ tướng Phan Văn Khải nhấn mạnh :” xuất khẩu lao động và chuyên gia đối với chúng ta là một vấn đề có ý nghĩa chiến lược quan trọng “ . Bởi vì qua đó , có thể phất triển nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá , tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước , góp phần mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế văn hoá với các nước khác . b. Xuất khẩu lao động của Thái Lan Ngay từ đầu thập kỷ 70 , chính phủ Thái Lan đã khuyến khích các công dân Thái Lan tìm kiếm các cơ hội việc làm ở nước ngoài . Theo thống kê của Bộ Lao Động Thái Lan, trong thời kỳ 1996-1999 Thái Lan đã xuất khẩu được 270.000 lao động, hàng năm thu về 3 tỷ USD và lao động của Thái Lan chủ yếu đến ba khu vực chính trên thế giới . Khu vực Trung Đông, trong thời kỳ 1990-1997 có khoảng 20.000 đến 22.000 lao động làm việc , chiếm tỷ trọng 12% tổng số lao động của Thái Lan xuất khẩu sang các nước . Isaren là nước nhập khẩu nhiều nhất lao động từ Thái Lan , chủ yếu là lao động nông nghiệp , khoảng 10.000 người. Ngoài Isaren , có một số nước khác nhập khẩu lao động từ Thái Lan như : Quata , Arập xê út , Libi . Trong thời kỳ 1995-1997 , cứ mỗi năm Thái Lan xuất khẩu sang các nước này từ 1.500 đến 2.000 lao động , họ làm công nhân xây dựng, lái xe , thợ hàn . Khu vực Châu á, là khu vực thu hút số lượng lớn nhất lao động xuất khẩu của thái lan. Trong thời kỳ 1994-1999 , hàng năm thái lan xuất khẩu sang khu vực Châu á từ 150.000 đến 180.000 lao động chiếm tỷ trọng 86% tổng số lao động xuất khẩu của Thái lan sang các thị trường của thế giới . Trong số các nước lãnh thổ của Châu á , Đài loan là nước nhập khẩu nhiều nhất lao động từ Thái lan . Trong hai năm 1998-1999 , mỗi năm Đài loan nhập khẩu từ Thái lan khoảng 100.000 lao động , tại thị trường này có khoảng 70% lao động của Thái lan lao động trong các Xí nghiệp may , lắp ráp điện tử , giúp việc gia đình , xây dựng . Nước tiếp theo nhập khẩu nhiều lao động từ Thái lan sang trong 3 năm gần đây là Xingapo . Năm 1994 , số lao động của Thái lan tại Xingapo là 15.000 thì năm 1999 con số đó là 24.000 . Brunây , Malaixia là hai nước láng giềng nhập khẩu lao động từ Thái lan nhiều năm trước đây . Ngoài ra Nhật bản , Hồng kông cũng là những nước nhập khẩu số lượng khá lớn lao động từ Thái lan . Trong thời kỳ 1994-1998 , mỗi năm Nhật bản nhập khẩu từ 8.000 đến 10.000 lao động của Thái lan , Hồng kông nhập khẩu khoảng 1/2 số lượng lao động so với Nhật bản. Khu vực thứ ba, nhập khẩu lao động của Thái lan là các nước công nghiệp như Hoa kỳ, Anh, Đức, Đan mạch, Ôxtrâylia. Trong thời kỳ 1995-1999, bình quân mỗi năm Thái lan xuất khẩu sang các thị trường này hơn 3.000 lao động. Chủ yếu là lao động trong các ngành công nghiệp, dịch vụ . Phần đông lao động của Thái lan xuất khẩu sang các nước có trình độ văn hoá thấp, không có tay nghề, chủ yếu xuất thân từ nông thôn. Những người có trình độ văn hoá cao, hầu như có thể tìm kiếm việc làm ở trong nước. Không vì thế mà những người có trình độ chuyên môn ở Thái lan không rời bỏ tổ quốc ra đi. Do hoàn cảnh lịch sử Thái Lan và Hoa Kỳ có quan hệ kinh tế, văn hoá với nhau lâu, hiện tại có nhiều gia đình Thái lan đang định cư tại Hoa kỳ, đó là nguyên nhân thôi thúc một số lao động Thái lan xin nhập cư tại Hoa kỳ và hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Thái lan thực hiện chính sách tự do hoá xuất khẩu lao động, năm 1997 ở Thái lan có hơn 200 Công ty có giấy phép hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu lao động. Đạo luật năm 1983 của Thái Lan cho phép các Công ty tư nhân tuyển mộ lao động, xuất khẩu lao động ra nước ngoài, đồng thời đạo luật này cũng không ngăn cấm người Thái Lan tự do đi ra nước ngoài theo cách riêng của họ. Có 5 con đường khác nhau đi tự đi, thông qua dịch vụ của Bộ lao động; đi cùng với người chủ ( người nước ngoài đến Thái Lan tuyển mộ); thông qua các Công ty tư nhân; đi học tập nghiên cứu và tham quan khảo sát . Nhiều người Thái Lan thích dùng dịch vụ xuất khẩu lao động của các Công ty tư nhân bởi vì khả năng ra đi nhanh chóng , đến nơi mà lao động cần đến . Tuy nhiên giá cả dịch vụ lại khá cao. Thí dụ muốn sang Nhật bản, lao động phải chi trả dịch vụ 4.000 USD, sang Đài Loan 2.000 USD. Tất nhiên hầu hết lao động phải huy động vốn từ gia đình bạn bè, bà con. Nhưng để hỗ trợ cho lao động Thái Lan , chính phủ có ba ngân hàng giải quyết yêu cầu của lao động xuất khẩu như cho vay với lãi suất thấp, vay dài hạn. Giống như Việt Nam, cũng có nhiều Công ty không thực hiện được các hợp đồng xuất khẩu lao động .ở Thái lan , trong những năm gần đây đã có một số Công ty bị thu hồi giấy phép , năm 1996-1997 con số các Công ty bị thu hồi giấy phép là 10 . Không riêng gì Việt Nam , tình trạng lao động Thái Lan bỏ việc , định cư bất hợp pháp để làm việc cho các Công ty khác có thu nhập cao hơn là phổ biến . Theo báo cáo của Cục xuất khẩu lao động , trong hai năm 1997-1999 đã có hơn 70 lao động bị trrả về nước . Trong những năm gần đây do việc áp dụng quy chế miễn thị thực trong nội bộ khối ASEAN , đã làm cho di cư lao động bất hợp pháp từ Thái Lan sang các nước ASEAN có xu hướng gia tăng , đặc biệt qua Malayxia , nước có chung biên giới với Thái Lan . c. Những đánh giá so sánh Việt Nam và Thái Lan là hai nước Châu á , trong ASEAN nhưng so với Thái Lan , Việt Nam có mức độ phát triển chậm hơn hai thập kỷ . Nghĩa là cơ cấu lao động của Thái Lan so với Việt Nam là khác biệt , cụ thể là lao động trong các ngành công nghiệp của Thái Lan cao hơn Việt Nam . Tuy nhiên nhu cầu xuất khẩu lao động của Thái Lan trong tương lai vẫn lớn . Bởi vì nếu tăng số lượng lao động xuất khẩu , sẽ giúp giảm áp lực di cư lao động từ nông thôn vào thành phố . Băng Cốc là thành phố 10 triệu dân , nhưng có hơn 2 triệu dân di cư từ nông thôn đến , họ làm đủ các nghề để kiếm sống . ở các thành phố lớn của Việt Nam như Hà Nội , thành phố Hồ Chí Minh , Hải Phòng tình hình cũng xảy ra tương tự . Như vậy xuất khẩu lao động trở thành vấn đề không chỉ có ý nghĩa kinh tế mà còn cả vấn đề xã hội rất bức bách của Việt Nam . Hiện tại Việt Nam có dân số lớn hơn Thái Lan 18 triệu , tỷ lệ tăng trưởng dân số hàng năm 1,7% trong khi Thái Lan đã đạt được mức sinh thay thế . Trong thời kỳ 1996-1999 , Việt Nam chỉ xuất được 65.000 lao động , nhưng Thái Lan đã xuất được 270.000 lao động ( gấp 4 lần ) trong cùng thời kỳ . Đến tháng 10 năm 2000 Việt Nam đã xuất sang Hàn Quốc hơn 6.000 , Đài Loan hơn 7.000 , Nhật Bản 13.000 , Libi gần 1.000 , các con số này quá thấp . Theo kế hoạch từ năm 2000 đến năm 2005 , Việt Nam phải xuất được 50.000 lao động và chuyên gia , năm 2005 đến năm 2010 , hàng năm phải xuất khẩu được 150.000 đến 200.000 lao động và chuyên gia do đó thực hiện được mục tiêu này không phải là dễ dàng . 4. Lợi ích của xuất khẩu lao động Xuất khẩu lao động hiện nay đang là một vấn đề quan trọng của Đất nước ta. Lợi ích trước hết của việc xuất khẩu lao động là giải quyết việc làm cho nhân dân, đặc biệt là thanh niên, đồng thời qua việc đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài chúng ta sẽ có đội ngũ công nhân kỹ thuật, công nghệ tiên tiến và cán bộ , chuyên gia được nâng cao về trình độ khoa học, kinh nghiệm quản lý trở về góp phần xây dựng và phát triển Đất nước. Mặt khác, phần lớn những người đi XKLĐ trong thời gian vài năm có thể xây dựng được nhà cửa, cải thiện được đời sống gia đình và có tiền đầu tư phát triển nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xí nghiệp vừa và nhỏ... nhằm xoá đói giảm nghèo, tạo thêm công ăn việc làm cho những người khác. Trong tình hình sản xuất hàng xuất khẩu còn khó khăn của nước ta hiện nay, 1 tỷ USD của những người đi làm việc ở nước ngoài gửi về là nguồn quan trọng và nếu chúng ta tổ chức tốt thì nguồn ngoại tề thu được từ XKLĐ sẽ ngày càng tăng. Phần thứ hai Phân tích thực trạng 1. Công tác xuất khẩu lao động qua các năm ở nước ta, công tác XKLĐ những năm qua đã đạt một số thành tích đáng kể. Theo số liệu của Bộ lao động -Thương binh và Xã hội, số thị trường lao động ngoài nước mà lao động nước ta đến làm việc thời gian qua tăng khá nhanh. Nếu năm 1992 Việt Nam chỉ XKLĐ sang 12 nước thì đến năm 1999 đã tăng lên 38 nước. Năm 2000, lao động Việt Nam đã có mặt ở trên 40 quốc gia và vùng lãnh thổ. Số lượng lao động đưa đi tăng đều hàng năm và có xu hướng tiếp tục gia tăng. Năm 2000 nước ta đã xuất khẩu được trên ba vạn lao động. Tỷ trọng lao động có tay nghề trong tổng số lao động đi làm việc ở nước ngoài ngày càng tăng, hiện nay đã đạt gần 65 %. Về cơ cấu nghề nghiệp mà lao động Việt Nam đảm nhận có tới 45% làm trong nghề công nghiệp nhẹ, 26% trong xây dựng, 20% nghề cơ khí, 6% nghề nông nghiệp và chế biến thực phẩm... XKLĐ thời gian qua cũng mang lại hiệu quả kinh tế đáng khích lệ, góp phần quan trọng trong việc cải thiện đời sống cho người lao động và tăng thu ngoại tệ cho Nhà nước ( xem bảng 1) Riêng 4 năm 1991 - 1994, 14.000 lao động được các tổ chức dịch vụ hợp tác lao động đưa đi đã thu về cho Nhà nước khoảng 300 triệu USD. Hai năm 1996 - 1997 Việt Nam có khoảng 50.000 lao động làm việc ở nước ngoài đã gửi về nước 350 triệu USD. Nếu tính cả số lao động của ta đi theo các hình thức khác nhau đang làm việc ở nước ngoài thì con số lao động vào khoảng 250 nghìn, thu nhập hàng năm lên tới khoảng 1 tỷ USD. Đây là con số mà chỉ một số ít ngành sản xuất đạt được Bảng 1. Kết quả hoạt động xuất khẩu lao động giai đoạn 1991-1999 . ( chỉ tính số thu ngoại tệ qua các tổ chức lao động đưa đi ) Nguồn : [4, tr.6] tạp trí Kinh Tế Châu á - TBD số 2(31), 4 -2001 Năm Số lao động xuất khẩu ( người ) Số ngoại tệ thu về ( 1.000 USD ) 1991 1.020 2.500 1992 810 6.800 1993 3.960 15.800 1994 9.230 43.100 1995 10.050 77.900 1996 12.660 100.800 1997 18.470 129.200 1998 12.240 148.300 1999 20.700 150.800 Tổng cộng 89.140 675.200 Sang năm 2000 chúng ta đã đưa được 31.468 người và thu về lợi nhuận ròng đạt 1,25 tỷ USD. Năm 2001 chúng ta đưa đi được 42.151 ngưòi và thu về lợi nhuận ròng đạt 1.5 tỷ USD Doanh thu từ XKLĐ chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng doanh thu của những đơn vị hoạt động ở lĩnh vực này. Theo báo cáo của một số DN tỷ xuất lợi nhuận bình quân trên doanh thu của hoạt động XKLĐ đạt khoảng 15 -20%. Đối với Nhà nước, mức đầu tư chi phí quản lý Nhà nước bình quân cho một lao động mỗi năm khoảng 30 USD và thu về cho ngân sách khoảng 36,7 USD, quả là chưa có suất đầu tư nào có lợi như vậy. Tính chung người lao động đi làm ở nước ngoài bình quân thu nhập bằng 10 - 15 lần so với thu nhập trong nước. Do vậy, XKLĐ là cơ hội tốt để người lao động tích luỹ vốn, cải thiện đời sống và điều kiện làm việc của bản thân và gia đình họ. XKLĐ thời gian qua đã tạo việc làm cho một bộ phận người lao động góp phần tích cực vào công tác giải quyết việc làm cho xã hội. Bình quân trong 10 năm 1980 - 1990 theo Hiệp định Chính phủ, hàng năm Việt nam đưa đi được khoảng 26.000 lao động chiếm khoảng gần 3% lực lượng lao động tăng hàng năm . Từ 1991 đến nay đã đưa đi được trên 66.000 người, nghĩa là đã giải quyết việc làm tạm thời cho họ cùng với hàng ngàn người khác qua các tổ chức kinh tế làm dịch vụ XKLĐ. Đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài giúp Nhà nước giảm được khoản chi phí đầu tư đào tạo nghề và tạo chỗ làm việc mới cho người lao động . Ngoài ra, thông qua lao động ở nước ngoài, người lao động đã nâng cao được trình độ chuyên môn kỹ thuật, ngoại ngữ, tiếp thu được những công nghệ và tác phong sản xuất công nghiệp tiên tiến, do đó từng bước đáp ứng các yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước khi họ trở về. Như vậy, hoạt động XKLĐ nước ta đã đem lại lợi ích kinh tế - xã hội không nhỏ, góp phần trực tiếp và gián tiép vào việc tăng tích luỹ vốn cho công nghiệp hoá. 2. Kết quả hoạt động của một số doanh nghiệp xuất khẩu lao động Tính đến nay, cả nước có 136 doanh nghiệp được cấp giấy phép xuất khẩu lao động, trong đó có 79 doanh nghiệp thuộc Bộ, ngành, 46 doanh nghiệp thuộc các địa phương và 11 doanh nghiệp thuộc các đoàn thể trung ương. Trong số các đơn vị này thì một số hoạt động rất hiệu quả, điển hình là một số doanh nghiệp sau: a. Hoạt động xuất khẩu lao động của công ty Xây dựng và Thương mại Giao thông Vận tải Công ty Xây dựng và Thương mại Giao thông Vận tải ( gọi tắt là TRAENCO) là doanh nghiệp nhà nước độc lập trực thuộc Bộ Giao thông Vận tải. Công ty hiện đang hoạt động với ba chức năng lớn là: xây dựng công trình, sản xuất công nghiệp và xuất nhập khẩu trực tiếp, xuất khẩu lao động và chuyên gia. Trong đó chức năng xuất khẩu lao động và chuyên gia là non trẻ nhất với hơn ba năm tuổi nghề. Nhưng hoạt động này đang tăng trưởng ổn định, đạt tốc độ cao.Trong 8 tháng cuối của năm 2000, công ty đưa gần 1000 công nhân đi làm việc ở nước ngoài và năm 2001 công ty đã đưa 1460 công nhân đi làm việc, dự kiến năm 2002 công ty sẽ đưa khoảng 1500 người và ổn định ở mức quy mô trung bình là 1000 người hàng năm. Điều quan trọng là thương hiệu TRAENCO đang được hai trung tâm ở miền Bắc và miền Nam phát huy cao độ trong hoạt động xuất khẩu lao động, đã đạt được sự tín nhiệm cao của các đối tác nước ngoài , đã có thoả thuận cung cấp công nhân dài hạn cho các đối tác này. b. Hoạt động xuất khẩu lao động của công ty VINACONEX VINACONEX trực thuộc Bộ Xây dựng hoạt động theo mô hình Tổng công ty 90, bao gồm trên 40 đơn vị là các công ty, nhà máy, trường đào tạo và 6 văn phòng đại diện ở nước ngoài. Trong định hướng phát triển, VINACONEX sẽ trở thành một tập đoàn kinh tế mạnh, đa doanh, đa dạng sản phẩm: thi công xây lắp, đầu tư, kinh doanh xuất nhập khẩu, xuất khẩu lao động, sản xuất vật liệu xây dựng, đào tạo du học nước ngoài...Trong đó xuất khẩu lao động được coi là lĩnh vực hoạt động kinh tế - xã hội quan trọng. Sau 12 năm thành lập, hoạt động xuất khẩu lao động cuae VINACONEX đã đưa được trên 30.000 người sang làm việc trên 68 nghề ở trên 16 nước trên thế giới, thu về 250 triệu USD, nộp ngân sách từ thuế và lợi nhuận trên 30 tỷ đồng, số lao động thường xuyên của VINACONEX ở nước ngoài khoảng 5 ngàn người, có năm lên đến 1 vạn người. c. Kết quả hoạt động xuất khẩu lao động của Bộ Giao thông vận tải nói chung Cho tới nay đã có 23 doanh nghiệp thuộc Bộ giao thông vận tải được làm nhiệm vụ đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. Trong đó có 11 tổng công ty nhà nước; 5 công ty trực thuộc Bộ, 7 doanh nghiệp thành viên trực thuộc Tổng công ty. Có nhiều doanh nghiệp có thâm niên làm công tác này với hiệu quả cao. Đội ngũ cán bộ quản lý, lãnh đạo và cán bộ chuyên môn nghiệp vụ này đã có sự trưởng thành, có kinh nghiệm đảm đương công việc này khá tốt. Thị trường lao động tuy còn hạn chế nhưng cũng được dần mở ra như: Hàn quốc, Nhật bản, Châu âu,Irắc, Lào, Mỹ...có những thị trường truyền thống như Hàn quốc, Nhật bản, Lào và gần đây là thị trường Đài loan.Từ năm 1986 tới nay, bình quân mỗi năm Bộ giao thông vận tải đã đưa từ 3 đến 4 nghìn lao động đi làm việc ở nước ngoài. Tại thời điểm này có trên 11 nghìn lao động đang lao động ở nước ngoài theo các hợp đồng đã kí với các đối tác: Hàn quốc là 5.970 lao động; Nhật bản là 1.740 lao động; Đài loan là 2.141 người; các nước khác là 260 người. Đó là chưa kể đến số lao động của Tổng công ty liên doanh 18 liên tục từ năm 1993 lại đây đấu thầu cầu đường cho nước bạn Lào, mỗi năm là 500-700 lao động và đang tiếp tục mở rộng sang Campuchia. 3. Chất lượng lao động và nhu cầu ngành nghề a. Chất lượng lao động Trong khuôn khổ hiệp định và nghị định thư đã được ký kết giữa nước ta với các nước XHCN ở Đông Âu, giai đoạn 1980 – 1990 ta đã đưa được gần 30 vạn lao động và chuyên gia đi làm việc ở nước ngoài, bình quân mỗi năm đưa được 2,7 vạn lao động . Nhìn chung trong giai đoạn này lao động có nghề là 101.084, chiếm khoảng 42 %, lao động không có nghề chiếm tỷ trọng khá lớn, khoảng 57%, trong đó các năm 1988, 1989, 1990 lao động không có nghề chiếm khoảng 70%. Đa số lao động trước khi đi không được đào tạo, bồi dưỡng, lao động được bố trí làm việc tại các nhà máy, xí nghiệp theo hình thức tập trung thành đoàn, đội, dơn vị, vùng và được đào tạo nghề theo hình thức kèm cặp tại các nhà máy, xí nghiệp của bạn. Về nghề nghiệp có 45% làm trong lĩnh vực công nghiệp, 26% trong lĩnh vực xây dựng, 20% nghề cơ khí, 6% trong lĩnh vực nông nghiệp và có khoảng 3% làm việc trong các ngành nghề khác. Lao động ta cung ứng hoàn toàn do bạn bố trí sử dụng, tổ chức và chịu chi phí đào tạo. Từ 1991 đến nay, cơ chế đưa lao động Việt nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo quan hệ cung cầu và khả năng khai thác, mở rộng thị trường của các doanh nghiệp cung ứng lao động , theo định hướng và quản lý của Nhà nước. Trong những năm đầu, việc đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài gặp nhiều khó khăn do ta phải chuyển đổi thị trường , tâm lý các nước có nhu cầu sử dụng nhân lực nước ngoài chưa quen sử dụng lao động Việt nam , chính sách chưa hoàn thiện, mô hình quản lý và tổ chức thực hiện còn bất cập, lúng túng. Nhưng dần dần, ta đã thiết kế và mở rộng được thị trường lao động mới , số lượng người lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài tăng và số ngành nghề phong phú, đa dạng hơn, đến nay đã có khoảng 40 nước trên thế giới sử dụng lao động Việt nam . Tính từ 1991 đến 1998 ta đã đưa được khoảng 68.202 lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, trong đó số có nghề chiếm 65%; một số thị trường như Nhật bản, Libi lao động có nghề chiếm gần 100%. Riêng thị trường Hàn quốc có nhu cầu sử dụng lao động phổ thông là chủ yếu, còn nhìn chung các thị trường khác đều có xu hướng tăng dần nhu cầu sử dụng lao động có nghề . Nhà nước, các Công ty cung ứng nhân lực trú trọng nâng cao chất lượng nguồn cung ứng, tăng năng lực cạnh tranh nhằm giữ vững , ổn định và phát triền thị trường lao động , nên sau khi tuyển dụng nguồn nhân lực có sẵn từ các nhà máy, xí nghiệp, các tổ chức kinh tế, các cơ quan, trường học, hoặc từ ngoài xã hội đều ít nhiều có đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực trước khi đi từ 2 đến 6 tháng. Trong thời gian này chủ yếu đào tạo ngoại ngữ , giáo dục định hướng và bồi dưỡng tay nghề. Nhưng do quỹ thời gian đào tạo ngắn, học lực của lao động có hạn, nên cũng chỉ mới trang bị cho người lao động những kiến thức cần thiết trước khi đi. Trong thời gian qua mặc dầu lao động Việt nam đã dược thị trường lao động quốc tế biết đến bởi các ưu điểm vốn có như cần cù trong lao động , chịu khó , say mê học tập, tiếp thu các tiến bộ khoa học công nghệ nhanh, có kỷ luật lao động tốt , dễ thích nghi với điều kiện của môi trường mới nhưng vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế như kỹ năng nghề nghiệp, ngôn ngữ giao tiếp, khả năng ứng xử trong quan hệ lao động chủ thợ, tính cộng đồng và năng lực chuẩn hoá trong sinh hoạt. Vì thế, số lao động Việt nam đi làm việc ở nước ngoài còn hạn chế, khả năng mở rộng ngành nghề, lao động làm việc ở các vị trí trọng yếu ít hoặc không có, là hàng rào cản trở việc mở rộng và nâng cao quy mô xuất khẩu lao động . Kinh nghiệm cho thấy các nước có quy mô xuất khẩu lao động lớn như Philipin, Thái Lan, Inđônêsia... đều rất coi trọng đào tạo cho lao động xuất khẩu , họ coi đây là một hoạt động đặc thù có tính chuyên biệt và được chính phủ quan tâm chỉ đạo nằm trong chương trình chuẩn bị nguồn nhân lực đáp ứng chương trình việc làm ngoài nước trong kế hoạch ngắn hạn và dài hạn của Chính phủ. b. Nhu cầu ngành nghề Trong thời gian tới, theo dự báo , thị trường và nhu cầu sử dụng nguồn nhân lực có những dịch chuyển nhất định những những thị trường ta đã thiết lập tỷ lệ lao động có nghề ngày càng tăng, trong năm 2000 ta đã đưa được khoảng 30.000 lao động thì lao động phổ thông chỉ chiếm khoảng 20%. Hiện nay thị trường còn cần nhiều lao động kỹ thuật mà ta chưa đáp ứng được yêu cầu. Thị trường Đài loan còn cần nhiều lao động kỹ thuật các nghề xây dựng, cơ khí, điện tử, chế biến thực phẩm... các nước vùng vịnh cần lao động may mặc, dịch vụ và xây dựng, Trung đông và Châu phi cần thợ điều khiển thiết bị công nghiệp, lao động xây dựng, thợ hàn công nghiệp có chất lượng cao, thị trường Lào cần nhiều lao động xây dựng... Dự báo năm 2001 ta đưa đi 50.000 lao động , lao động có nghề chiếm 85% trong đó có khoảng 5.000 chuyên gia nông nghiệp, y tế, 15.000 thợ xây dựng, 1.000 thợ điện tử, 4.000 thợ cơ khí, 5.000 thợ may, 5.000 thợ dệt, 4.000 thuyền viên tàu cá, 1.000 sỹ quan và thuyền viên vận tải biển, 5.000 lao động giúp việc gia đình ( theo số liệu của Cục quản lý lao động với nước ngoài). Năm 2002 và các năm tiếp theo số lượng đưa đi khoảng 100.000 người trong đó lao động có nghề chiếm 90% và các nghề đưa đi trong năm 2001 vẫn được đặc dụng ở năm 2002 và những năm tiếp theo. 4. Nguyên nhân hoạt động kém hiệu quả. Về vai trò quản lý nhà nước : Một số Bộ , ngành chủ quản chưa quan tâm đầu tư thích đáng cho công tác quản lý XKLĐ của ngành mình , thiếu kiểm tra, giám sát nên còn có một số doanh nghiệp vi phạm pháp luật . Thị trường lao động nước ta chưa được mở rộng , ngoài nguyên nhân khách quan là phải cạnh tranh với nhiều nước trong khu vực song về chủ quan các doanh nghiệp nước ta chưa đủ lực ( kể cả con người và về vốn ) để khai thác các thị trường mới mà chỉ tập chung vào một số thị trường quen thuộc lân cận, có thu nhập cao . Mặc dù nhà nước đã có sự khảo sát , định hướng và tạo mở thông thoáng về cơ chế song còn có khoảng 1/3 doanh nghiệp được phép đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài vẫn chưa ký được hợp động cung ứng lao động . Đã có nhiều tiêu cực , cạnh tranh không lành mạnh , tranh dành đối tác của nhau bằng việc tăng phí môi giới , giảm các điều kiện trong hợp đồng xuống để cho đối tác nước ngoài lợi dụng , làm thiệt hại cho nhà nước , doanh nghiệp và người lao động . Tại không ít doanh nghiệp không đăng ký hợp đồng với cơ quan quản ký nhà nước ; sau khi ký được hợp đồng đã không trực tiếp tuyển lao động theo quy định mà giao lại cho các công ty TNHH đứng ra tuyển chọn , thu phí quá cao , chất lượng lao động thấp trái với quy định trong XKLĐ nhằm mục đích kinh doanh kiếm lời ; hợp đồng ký kết không chặt chẽ gây bất lợi cho người lao động là nguyên nhân chính dẫn đến các tranh chấp lao động ; không thực hiện nghiêm túc chế độ báo cáo làm ảnh hưởng tới công tác quản lý nhà nước, nên nhiều vụ việc sử lý vi phạm chậm , gây thiệt hại không nhỏ đến sự nghiệp chung của ngành . Về phía đội ngũ lao động xuất khẩu của ta , những tồn tại bấy lâu nay vẫn là trình độ ngoại ngữ yếu kém ; tay nghề chưa vững ; nhận thức của người lao động về quan hệ chủ thợ chưa rõ ràng , ý thức pháp luật , kỷ luật yếu , một bộ phận người lao động đơn phương phá vỡ hợp đồng , bỏ trốn gây phương hại không những cho doanh nghiệp của cả hai phía mà một số vụ việc gần đây đã ảnh hưởng xấu tới dư luận xã hội , tới sự nghiệp XKLĐ của cả nước . Phần thứ ba Các giải pháp và kiến nghị 1. Các giải pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả XKLĐ Một là, đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường lao động quốc tế. Nắm chắc thị trường là nhân tố quyết định chất lượng, hiệu quả của công tác xuất khẩu lao động. việc nghiên cứu, tiếp cận và mở rộng thị trường phải được các doanh nghiệp quan tâm đầy đủ và nhà nước cần có sự hỗ trợ, giúp đỡ về mọi mặt . Nhà nước cần có chính sách khuyến khích những doanh nghiệp dám mạnh dạn tiếp cận và xâm nhập vào các thị trường lao động mới bằng những ưu đãi về tài chính, kể cả hỗ trợ một phần kinh phí. Đồng thời, xúc tiến thành lập các trung tâm nghiên cứu thị trường lao động quốc tế để cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp xuất khẩu lao động. Về phía các doanh nghiệp xuất khẩu lao động cần chủ động đầu tư cho hoạt động nghiên cứu mở rộng thị trường, nắm chắc nhu cầu về số lượng, chất lượng, chủng loại lao động mà thị trường đó cần, thu thập thông tin đầy đủ về đặc điểm môi trường lao động ,phong tục tập quán và tín ngưỡng của địa phương mà người lao động của nước ta sẽ đến làm việc. Hai là, cần đổi mới, nâng cao chất lượng công tác tuyển chọn và đào tạo bồi dưỡng nguồn lao động phục vụ cho chương trình xuất khẩu lao động ( đã nêu riêng ở phần trên ). Các doanh nghiệp thực hiện xuất khẩu lao động phải công bố công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng và tại nơi tuyển dụng về số lượng, tiêu chuẩn, mức đóng góp, các quyền lợi cũng như trách nhiệm của người lao động khi đi làm việc ở nước ngoài. Thực hiện được điều này sẽ góp phần giảm các tiêu cực trong xuất khẩu lao động. Chất lượng là nhân tố quyết định số lượng cung ứng lao động và duy trì, mở rộng thị trường lao động quốc tế của Việt Nam. Do vậy cần xây dựng một hệ thống các tiêu chuẩn tuyển chọn lao động dựa trên những yêu cầu chung nhất về học vấn, sức khoẻ, trình độ tay nghề, đạo đức và ý thức tổ chức kỷ luật. Đông thời tuỳ thuộc từng nghề, từng nước, từng chủ sử dụng khác nhau mà đặt những tiêu chuẩn riêng phù hợp. Trước khi đi lao động xuất khẩu, người lao động cần được đào tạo toàn diện cả về ngoại ngữ, trình độ chuyên môn kỹ thuật, kiến thức về pháp luật và sự hiểu biết khác... phục vụ cho quá trình làm việc và sinh sống tại các nước. Kinh nghiệm thế giới đã chỉ rõ rằng, ở đâu chuẩn bị được lực lượng lao động tốt, có chất lượng cao phù hợp sẽ nhanh chóng chiếm giữ được thị trường, dành thắng lợi trong cạnh tranh với các đối thủ khác. Ba là, xây dựng và hoàn thiện chính sách tài chính phục vụ cho công tác xuất khẩu lao động. Trong chính sách tài chính, điều quan trọng chủ yếu là phải quan tâm và bảo đảm hài hoà các lợi ích người lao động, lợi ích của doanh nghiệp xuất khẩu lao động và lợi ích quốc gia. Bên cạnh đó, cần chú ý thêm đến lợi ích của các chủ sử dụng lao động nước ngoài. Trong giai đoạn hiện nay, chính sách tài chính cần tập trung vào đầu tư xây dựng các doanh nghiệp xuất khẩu lao động đủ mạnh về cả người, trang thiết bị và vốn để cạnh tranh trên thị trường lao động quốc tế. Cho phép sử dụng cơ chế ba bên trong đào tạo lao động xuất khẩu: Nhà nước, doanh nghiệp và người lao động cùng đầu tư để tạo nguồn kinh phí trong điều kiện nguồn ngân sách Nhà nước, vốn của doanh nghiệp phục vụ cho công tác đào tạo còn hạn hẹp. Bốn là, đa dạng hoá các đối tượng và hình thức thực hiện để có thể tăng tối đa số lượng lao động xuất khẩu. Cần chú ý đến lao động nông thôn vì đây là nơi có số người thất nghiệp cao. Có chính sách để người nghèo, người không có việc làm có cơ hội đi lao động ở nước ngoài như vay vốn với lãi xuất ưu đãi và miễn giảm tiền đóng góp trong thời gian học tiếng, học nghề, đơn giản hoá thủ tục xuất nhập cảnh..., tạo cơ hội cho họ có việc làm có thu nhập, làm cho xuất khẩu lao động góp phần thiết thực vào chương trình quốc gia xoá đói giảm nghèo. Mở rộng phạm vi ngành nghề cho các đối tượng xuất khẩu lao động với phương châm sẵn sàng đáp ứng những nghề phía nước ngoài cần và phù hợp với điều kiện cũng như khả năng của Việt Nam, trong đó tập trung vào các ngành nghề truyền thống có nhiều lợi thế như thợ cơ khí, sửa chữa máy móc, xây dựng, công nghiệp nhẹ, vận hành máy móc, dịch vụ v.v.. Năm là, nhà nước cần có những thoả thuận và cơ chế phối hợp chặt chẽ với nước sở tại để quản lý lao động , giải quyết các bất đồng, tranh chấp ( nếu có), bảo vệ nhân phẩm và lợi ích chính đáng, hợp pháp của người lao động Việt Nam ở nước ngoài. Đó là cơ sở để lao động nước ta yên tâm làm ăn, không lo lắng vì bị sa thải một cách vô lý , tuỳ tiện. 2. Kiến nghị của bản thân Vì XKLĐ và chuyên gia là một trong những hướng để giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập cho công nhân và người lao động, đây là vấn đề cấp bách, vừa có tính chiến lược lâu dài của nước ta, vì vậy chúng ta phải suy nghĩ xem cách làm như thế nào để có hiệu quả nhất, vì thực tế cho thấy, chỉ mới xuất khẩu lao động như chúng ta hiện nay chúng ta đã đạt trên 1,2 tỷ USD/năm. Đi xuất khẩu lao động dù cực khổ nhưng có thu nhập giúp đỡ gia đình . Từ đó Em có kiến nghị phải tổ chức lại xuất kkẩu lao động một cách căn bản hơn, cơ bản hơn, có hiệu quả hơn để càng xuất khẩu lao động và chuyên gia thì càng có uy tín với nhà nước . Lao động của ta được đánh giá cần cù, siêng năng , tiếp thu nhanh nhưng cũng có mặt yếu kém là một số đối tượng phá vỡ hợp đồng, gây khó khăn rắc rối cho Doanh nghiệp Việt nam cũng như các công ty nước ngoài . Muốn tổ chức lại công tác XKLĐ Em đề nghị mấy ý như sau: Thứ nhất: phải nâng cao chất lượng của lao động Việt nam, dần dần phải xuất khẩu chuyên gia , công nhân kỹ thuật . Nhiều nước như Đài loan , Nhật Bản, Đức, Hàn Quốc đang có nhu cầu tuyển những chuyên gia công nghệ thông tin , công nghệ phần mềm, vì sản phẩm nhẹ, gọn nhưng giá trị cao . Vì vậy phải có hệ thống đào tạo người lao động từ người nội trợ,CNKT cho đến chuyên gia có trình độ cao, y tá, bác sỹ ... Vấn đề chất lượng đào tạo phải đặt ra như một yêu cầu lớn. Các Doanh nghiệp xuất khẩu lao động phải gắn với các trường dạy nghề , gắn với các trường đào tạo của chúng ta, làm thế nào để đào tạo cho phù hợp. Thứ nữa là đào tạo tiếng nước ngoài như tiếng Hoa , tiếng Nhật ,tiếng Hàn Quốc, tiến Anh, thậm chí tiếng ả rập nếu đi trung đông. Có ngoại ngữ sẽ tránh được sự thiếu hiểu biết dẫn đến xung đột với chủ sở hữu lao động và các đồng nghiệp nước ngoài . Thêm vào đó là giáo dục phong tục tập quán , văn hoá ,tôn giáo,pháp luật sở tại để cho họ thấy người lao động của ta có văn hoá, đi lao động nhưng có bản chất ,truyền thống văn hoá Việt nam , đi càng nhiều uy tín của Việt nam càng cao . Thứ hai, phải tìm hiểu thị trường, tìm kiếm đối tác, Doanh nghiệp nào cần lao động, cần loại lao động gì , bao nhiêu thì các cô , chú ở các Đại sứ quán , Bộ ngoại giao, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội phải phối hợp rất chặt chẽ trong vấn đề này. Các Doanh nghiệp, các địa phương cũng phải xúc tiến việc tìm kiếm đối tác để đi đến ký kết các hợp đồng lao động. Trong ký kết phải rất chặt chẽ , bảo đảm lợi ích của Việt nam và của người lao động đồng thời chúng ta cũng phải thực hiện các hợp đồng đó một cách nghiêm túc. Lao động của chúng ta đã phá vỡ khá nhiều hợp đồng. ở Nhật Bản, Hàn Quốc có rất nhiều lao động của ta bỏ trốn, chúng ta mới có vài trăm nghìn người đi làm việc ở nước ngoài mà đã vi phạm hợp đồng như vậy thì khó có thể đưa hàng triệu lao động đi làm việc ở nước ngoài như một số nước trong khu vực được. Các Doanh nghiệp xuất khẩu lao động, các trường dạy nghề, các Bộ ,các địa phương cần có một bộ phận chuyên nghiên cứu thị trường. Thứ ba , là phải nhận thức đúng đắn, bố trí lại hệ thống xuất khẩu lao động và tăng cường quản lý, cả trong và ngoài nước. Em đề nghị mấy điểm sau: Về tuyển chọn, tuyển dụng phải chặt chẽ , tuyển chọn rồi mới đưa đi đào tạo, giáo dục. Nếu tuyển thuyền viên nông thôn ở xã thì có cả dòng họ, Đảng uỷ, chính quyền , các đoàn thể đứng ra lo chuyện xuất khẩu lao động, giáo dục con em mình nghĩa vụ và trách nhiệm ra sao. Loại đối tượng thứ hai là công nhân xây dựng, dệt may, da giầy, cơ khí thì chúng ta rất nên muốn đưa được loại có tay nghề này đi lao động nước ngoài để nâng cao tay nghề hơn nữa. Đối tượng thứ ba là bộ đội hoàn thành nghĩa vụ nếu có nhu cầu thì tuyển chọn , đào tạo ... Nếu tuyển chọn tốt thì sẽ hạn chế việc phá hợp đồng . Các Đại sứ quán cần phối hợp chặt chẽ với cơ quan quản lý lao động ở nước ngoài của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội trong công tác quản lý lao động bên ngoài, phấn đấu giảm lao động trốn đi ra ngoài tự do. Khi ký kết các hợp đồng với các công ty nước ngoài, các Doanh nghiệp cần xem xét lương bổng như thế nào cho chặt chẽ và kỹ càng, sau một thời gian xem xét để chỉnh sửa , nâng mức lương , bảo đảm quyền lợi cho người lao động . Các Doanh nghiệp cần tăng cường quản lý, giáo dục người lao động; cần giảm nhanh việc phá vỡ hợp đồng với các nước. Phải khắc phục điều này vì người phá vỡ các hợp đồng , người trốn chạy dễ sa vào tội phạm , xì ke, ma tuý ... buộc nước sở tại phải đưa về, làm khó dễ cho chính phủ, Doanh nghiệp đưa đi và gia đình đối tượng. Khắc phục điều này, chúng ta mới xuất khẩu được nhiều lao động và thị trường chúng ta mới mở rộng ra được. Thứ tư, để làm tốt những điều trên, Doanh nghiệp xuất khẩu lao động không thể nhiều như hiện nay. Theo Em một Bộ không thể có đến 30 Doanh nghiệp xuất khẩu lao động. Nhiều Doanh nghiệp là làm phong trào, lừa gạt người lao động, lợi dụng để kiếm ăn. Cứ tranh giành nhau làm kiểu này người ta tưởng đâu xuất khẩu lao động rất béo bở. Phải xem xét tiêu chuẩn chặt chẽ, chỉ cho phép thành lập những Doanh nghiệp làm ăn đàng hoàng đủ điều kiện, tiếp cận được thị trường, thực hiện được nghĩa vụ mà Đảng và Nhà nước giao, đặt quyền lợi và nghĩa vụ của người lao động lên trên . Do đó Em đề nghị phải xem xét lại tiêu chí,tiêu chuẩn thành lập Doanh nghiệp xuất khẩu lao động chặt chẽ hơn, có điều kiện hơn, không tổ chức tràn lan như hiện nay . Song song với tăng cường kỷ luật, kỷ cương với người lao động, phải bảo vệ người lao động. Cái dở của chúng ta là ai cũng thấy ngay những yếu kém nhưng sửa như thế nào thì thường rất chậm chạp. Nên Em đề nghị Doanh nghiệp nào không đủ điều kiện thì phải đình chỉ hoạt động. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội là người chịu trách nhiệm chính trong việc quản lý Nhà nước, quản lý lao động phải cùng với Bộ ngoại giao, các địa phương, các công ty, Doanh nghiệp tìm kiếm thị trường , đối tác để ngày càng làm tốt hơn công tác này. Kết luận Với lực lượng lao động đông đảo như hiện nay thì vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động quả là một vấn đề rất bức xúc với nước ta đòi hỏi Đảng , Nhà nước phải có các biện pháp , chủ trương , chính sách đúng đắn ,linh hoạt và một trong những chủ trương , chính sách đó là xuất khẩu lao động ra thị trường quốc tế . XKLĐ đem lại nhiều lợi ích rất to lớn như đã phân tích ở trên , nó không những mang lại lợi ích to lớn cho Đất nước và thu nhập cao cho người lao động mà còn giải quyết được các vấn đề Xã hội do thất nghiệp gây ra . Tuy nhiên vì đây là một lĩnh vực còn mới mẻ và thiếu kinh nghiệm nên công tác XKLĐ còn nhiều hạn chế đòi hỏi Đảng và Nhà nước quan tâm đầu tư đúng mức để hiệu quả của công tác XKLĐ ngày càng được nâng cao . Tóm lại, Đề án môn học này đã giải quyết được một số vấn đề cụ thể như sau: nêu khái niệm và vai trò ,vị trí của XKLĐ đối với nền kinh tế cũng như lợi ích to lớn mà nó đem lại . Có sự đánh giá so sánh với một số nước trong khu vực để thấy sự khác nhau về các chính sách ở mỗi nước từ đó tìm kiếm những bài học có ích cho Việt nam trong thời gian tới . Tập trung làm rõ thực trạng của công tác XKLĐ trong những năm qua . Phân tích những tồn tại yếu kém đặc biệt là công tác đào tạo lao động xuất khẩu để thấy được những hạn chế và đi sâu nghiên cứu các giải pháp riêng cho công tác đào tạo lao động xuất khẩu . Nghiên cứu các giải pháp cơ bản tổng thể và đưa ra một số kiến nghị của bản thân đối với nhà nước , các cơ quan chức năng và các doanh nghiệp XKLĐ nhằm mục đích khắc phục những hạn chế và nâng cao hiệu quả của công tác XKLĐ , đạt được các mục tiêu đặt ra . Mục lục Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35384.doc
Tài liệu liên quan