Đề tài Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả Quản lý Vốn lưu động tại Công ty Xây dựng Bưu điện: Giai đoạn 1999 đến 2002

Quản lý sử dụng Vốn lưu động có hiệu quả nhằm dảm bảo và phát triển Vốn lưu động trong các DN quốc doanh là vấn đề cần thiết và khó khăn trong tình hình kinh tế hiện nay, khi Nhà nước đã thực hiện giao vốn cho các DN tự quản lý. Mở rộng quyền làm chủ đồng thời cũng tăng cường thêm trách nhiệm của các DN trước sự diễn biến phức tạp và tính cạnh tranh gay gắt của thị trường buộc các DN phải quan tâm hơn đến hiệu quả của mỗi đồng vốn được đưa vào sử dụng. Là một đơn vị hạch toán kinh doanh độc lập trong cơ chế thị trường, Công ty Xây dựng Bưu điện cũng như bao DN khác luôn phải đối mặt với tình hình cạnh tranh trên thương trường để tìm kiếm lợi nhuận và mở rộng quy mô. Những năm qua, Công ty đã có nhiều cố gắng, tích cực vươn lên trong hoạt động sản xuất kinh doanh và làm ăn có lãi, điều mà không phải DN Nhà nước nào cũng làm được, nhất là trong lĩnh vực xây dựng và lắp đặt với sức cạnh tranh gay gắt của cơ chế thị trường. Nhưng bên cạnh đó, trong công tác quản lý tài chính nói chung và công tác quản lý sử dụng Vốn lưu động nói riêng Công ty vẫn bộc lộ một số mặt còn hạn chế, làm ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty.

doc41 trang | Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 813 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả Quản lý Vốn lưu động tại Công ty Xây dựng Bưu điện: Giai đoạn 1999 đến 2002, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bảng 04. Ta nhận thấy rằng quy mô hoạt động của năm 2001 bị thu hẹp lại khá nhiều so với năm 2000 nhưng đến năm 2002 lại được mở rộng rất mạnh. Có thể nhận thấy rõ điều này qua 2 biểu đồ sau: Biểu đồ 2: doanh thu bán hàng qua các năm1 Biểu đồ 1 được xây dựng dựa trên số liệu ở bảng 01, Chỉ tiêu: Doanh thu thuần. 1999 2000 2002 2002 Năm Đồng Đồng Biểu đồ 3: lợi nhuận của công ty qua các năm 2 Biểu đồ 2 được xây dựng dựa trên số liệu ở bảng 01, Chỉ tiêu: Tổng lợi tức trước thuế. 1999 2000 2001 2002 Năm Biểu đồ 2 và 3 chỉ rõ trong những năm qua doanh thu bán hàng của Công ty thay đổi rất phức tạp. Năm 2000, doanh thu bán hàng tăng 25% so với năm 1999 khiến tổng lợi tức trước thuế cũng tăng thêm 20%. Đạt được kết quả như vậy là do năm 2000, Công ty đã củng cố và nâng cao năng lực sản xuất của dây chuyền gia công cửa gỗ Đài Loan để nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, tạo được chỗ đứng trong thị trường. Bước sang năm 2001, doanh thu bán hàng giảm đi 11.172.495.480 đồng tức 28,48% so với năm 2000 và tổng lợi tức trước thuế giảm 60,12% tức là 926.876.402 đồng. Qua tìm hiểu về tình hình hoạt động của Công ty được biết do năm 2001, Công ty tập trung xây dựng cơ bản nội bộ (tổng số tiền là 21 tỷ) nên doanh thu, lợi nhuận, các khoản nộp ngân sách giảm hẳn so với năm 2000 và quy mô hoạt động cũng bị thu hẹp. Năm 2002 Công ty đã điều chỉnh lại định hướngSXKD, đa dạng hoá sản phẩm và ngành nghề, mở rộng và phát triển lĩnh vực thi công..., tạo nên một bước ngoặt lớn trong hoạt động kinh doanh cũng như vượt trội về doanh thu bán hàng và lợi nhuận so với năm 2001 và các năm trước đây. Tổng doanh thu năm 2002 đạt 79.217.131.091 đồng, tăng hơn năm 2001 là 51.156.224.736 đồng, vượt 41% so với kế hoạch tổng Công ty giao là 56.000.000.000 đồng. Các sản phẩm mới theo định hướng đa dạng hoá sản phẩm chiếm tỷ trọng như sau trong doanh thu: - Sản phẩm công nghiệp : 32.211.131.091 đồng. - Các công trình xây dựng, thông tin truyền dẫn : 47.006.000 đồng Như vậy sản phẩm công nghiệp đã chiếm 40,6% doanh thu. Thêm vào đó, công tác tiếp thị, giao dịch và bán hàng năm 2002 đã được Công ty chú trọng hơn, thể hiện ở sự tăng chi phí bán hàng và chi phí quản lýDN. Điều đó cũng góp phần tăng nhanh doanh thu bán hàng và lợi nhuận cho Công ty. Thật vậy, trong năm qua, ban lãnh đạo Công ty đã thực sự biết lo lắng, chăm sóc cho sản phẩm từ khi sản xuất ra cho đến khi sử dụng vào công trình. Qua các chuyến đi vào Nam ra Bắc, tham gia triển lãm để quảng cáo sản phẩm, Công ty đã thu thập thông tin về chất lượng về mẫu mã sản phẩm và kịp thời điều chỉnh hoặc sửa chữa ngay các thiếu sót. Do đó, bước đầu đã tạo được lòng tin đối với người sử dụng, các sản phẩm công nghiệp và sản phẩm xây lắp của Công ty đã có mặt ở 60 tỉnh thành và các Công ty dọc, với tổng doanh thu hơn 79 tỷ như đã nói ở trên. Tuy vậy, chi phí bán hàng và chi phí quản lýDN cũng có ảnh hưởng tới kết quả kinh doanh vì nếu các loại chi phí này tăng quá cao so với mức tăng của cả doanh thu lẫn lợi tức gộp sẽ làm giảm tổng lợi tức trước thuế. Bởi vậy, tuy công tác tiếp thị là khâu quan trọng trong tiêu thụ sản phẩm, nhưng Công ty phải cố gắng hạn chế các chi phí này để tỷ trọng của chúng tăng, giảm tương ứng với sự tăng giảm của doanh thu bán hàng và lợi tức gộp. Bên cạnh đó các hoạt động tài chính và hoạt động bất thường của năm 2002 lại giảm mạnh so với năm 2001, cho thấy Công ty mới chỉ quan tâm thu lợi từ hoạt động KD mà chưa chú ý tham gia các hoạt động nào khác để tăng lơị nhuận, trong khi nền kinh tế mở tạo điều kiện cho các DN liên doanh, liên kết với nhau để hỗ trợ về vốn và sinh lời. Như vậy, tình hình hoạt động kinh doanh của Công ty như vậy là khả quan và có nhiều triển vọng trong tương lai, một sự hứa hẹn phát triển với tốc độ cao thể hiện ở sự tăng vọt về doanh thu và lợi nhuận năm 2002. Tuy nhiên, Công ty cũng cần xác định lại chiến lược kinh doanh cho phù hợp, bao gồm: Chiến lược mặt hàng kinh doanh, chiến lược thị trường tiêu thụ, chiến lược chiêu hàng chiêu khách, quảng cáo khuyếch trương cũng như điều chỉnh công tác tổ chức quản lý sao cho đạt hiệu quả cao nhất - chi phí thấp nhất. 1.2. Nhiệm vụ và chức năng - Tư vấn thiết kế các công trình dân dụng, công nghiệp, Bưu chính-Viễn thông và các công trình kỹ thuật hạ tầng, trang trí nội ngoại thất -Xây dựng các công trình dân dụng, công ngiệp, các công trình Bưu chính- Viễn thông điện, điện tử thông gió, điều hoà và cấp thoát nước -Xây dựng các trung tâm Bưu điện Tỉnh, Huyện , các nhà cơ vụ, các nhà máy sản xuất thiết bị Bưu chính- Viễn thông, các nhà máy lắp đặt tổng đài, các nhà trạm và cột cao phục vụ truyền dẫn thông tin -Sản xuất và xây dựng các sản phẩm nhựa dùng trong xây dựng và Bưu chính- Viễn thông bao gồm: * ống nhựa sóng các loại dùng để bảo vệ cáp ngầm, cáp quang, cáp điện, cáp thoát nước * Các loại thanh profail, các loại nhà nhựa, các loại cửa nhựa nhiều màu có lõi thép theo tiêu chuẩn Việt Nam và tiêu chuẩn Châu âu 2. Thực trạng quản lý vốn lưu động tại công ty xây dựng bưu điện 2.1 Phương pháp xác định vốn lưu động Xác định quy mô các loại VLĐ: Xác định VLĐ là tính toán số lượng cụ thể cho từng loại TSLĐ cụ thể, sao cho vừa tiết kiệm được vốn đầu tư cho TSLĐ, giảm chi phí lưu giữ và bảo quản vẫn đảm bảo để quá trình sản xuất kinh doanh được thông suốt, liên tục. Cụ thể, là xác định lượng tiền mặt tối thiểu cần phải duy trì trên tài khoản và tại quỹ, với mục tiêu là lưu giữ tiền mặt càng ít càng tốt. Đối với kho, các khoản phải thu...cũng xác định tương tự như vậy. Quy mô của từng hạng mục VLĐ phụ thuộc vào đặc điểm ngành nghề kinh doanh, mùa vụ kinh doanh, và các biến động khác của thị trường. Và đối với tỷ trọng hạng mục của TSLĐ thì người ta có phương pháp xác định lượng duy trì đầu tư khác nhau. Nhưng do đặc điểm của các TSLĐ là chúng nằm trong thời gian chờ để thực hiện giá trị và tạo ra lời nhuận, nên càng đầu tư vào TSLĐ nhiều, hoặc TSLĐ được quay vòng sử dụng càng chậm thì hiệu quả sử dụng VLĐ càng kém, và ngược lại. Sau khi đã xác định quy mô VLĐ phải tính toán sự thay đổi về quy mô trong từng hạng mụcVLĐ là: Tiền mặt, chứng khoán, hàng lưu kho, phải thu khách hàng, TSLĐ khác. Xác định VLĐ: Có hai cánh tính toán Cách 1: VLĐ ròng = Các loại vốn thường xuyên - Nợ ngắn hạn 1 PTS. Vũ Duy Hào, PTS. Đào Văn Huệ, T sĩ Nguyễn Quang Ninh, Quản trị tài chính Doanh nghiệp, Khoa NH- TC, ĐH Kinh tế Quốc dân, Năm 1999, Trang 135. Cách tính này nhấn mạnh nguồn gốc của VLĐ, cho phép hiểu được các nguyên nhân thay đổi của VLĐ. Cách 2 Một cách tính khác cho ta cùng kết quả: VLĐ ròng = Tài sản có lưu động - Nợ ngắn hạn Nhu cầu VLĐ = Dự trữ + Các khoản phải thu - Nợ ngắn hạn 2.2 Cơ cấu nguồn vốn, Cơ cấu tài sản lưu động và sự biến động của chúng 2.2.1 Cơ cấu tài sản và nguồn vốn kinh doanh của Công ty Tình hình tài sản và nguồn hình thành của Công ty trong 3 năm 2000, 2001, 2002 được thể hiện qua bảng 01 ở trang sau. Qua bảng 01, ta thấy TSLĐ luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản (năm 1999: 84,45%; năm 2000: 83,56%; 2001: 59,47%; năm 2002: 69,15%). Một DN sản xuất kinh doanh như Công ty Xây dựng Bưu điện có tỷ trọng TSLĐ cao là tất nhiên. Song với tỷ trọng cao như 2 năm 1999, 2000 (trên 80%) là chưa hợp lý. Liệu với lượng TSCĐ chỉ chiếm dưới 20% như vậy có đáp ứng được nhu cầu hoạt động của doanh nghiệp trên một lượng TSLĐ quá lớn không? Dĩ nhiên là không. Thật vậy, trong năm 1999 mặc dù Công ty đã bỏ vốn mua các thiết bị thi công cần thiết giao cho các đơn vị thi công, các cơ sở sản xuất cũng đã chú trọng đầu tư mua sắm phương tiện thi công như: Máy trộn bê tông, Giàn giáo, máy đầm... nhằm tăng năng suất lao động và nâng cao chất lượng công trình, đầu tư trang bị một dây chuyền cửa gỗ của Đài loan, một dây chuyền gia công cửa nhôm của Pháp với tổng vốn đầu tư là 960 triệu đồng trang thiết bị. Song còn xa mới đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi. Các phương tiện thiết bị hiện đại nhằm thắng thầu và để thi công công trình hầu như không có gì. Nguy cơ về cạnh tranh là rất lớn do thiếu cán bộ giỏi trong tiếp thị, đấu thầu, tụt hậu về kiến thức và khả năng thi công công trình, lạc hậu về công nghệ xây dựng hiện đại. Đến năm 2000, tình hình đã được cải thiện hơn đôi chút do Công ty chú trọng vào đầu tư xây mới nhà xưởng, mua sắm trang thiết bị hiện đại (Máy Vi tính COMPAQ, máy xoa nền bê tông MACKER, máy khoan bê tông MAKITA...) nhưng vẫn chưa bắt kịp với tốc độ phát triển nhanh và mạnh của công nghệ kỹ thuật hiện đại. Trong 2 năm gần đây (2001, 2002), tỷ trọng TSLĐ đã giảm hơn so với 2 năm trước nhưng vẫn chiếm trên, dưới 60%, cho thấy nhu cầu về VLĐ trong hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty đang ổn định và khá cao so với nhu cầu về vốn cố định. Với tỷ trọng TSLĐ và TSCĐ như vậy, nhìn chung cơ cấu tài sản của Công ty đã hợp lý hơn so với các năm trước, đặc biệt về TSCĐ được chú trọng đầu tư mua sắm nhằm nâng cao chất lượng sản xuất và thi công công trình, tạo uy tín để mở rộng thị trường kinh doanh. Về cơ cấu nguồn vốn ta nhận thấy rằng: Tỷ trọng nợ phải trả trong tổng nguồn vốn của Công ty luôn lớn hơn tỷ trọng nguồn vốn chủ sở hữu (thường chiếm trên 70% trong tổng nguồn vốn) và ngày càng tăng. Tại thời điểm năm 1999, tỷ trọng nợ phải trả chiếm 72,23%, năm 2000 chiếm 75,92%, năm 2001 chiếm 82,98% và năm 2002 chiếm 82,49%. Điều này cho thấy để tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra liên tục, ổn định, Công ty phải thường xuyên huy động các nguồn lực từ bên ngoài. Nguồn nợ phải trả chủ yếu của năm 1999 và 2000 là nợ ngắn hạn, đến năm 2001 và 2002 nguồn nợ phải trả được cân đối giữa nợ ngắn hạn và nợ dài hạn, thể hiện sự năng động của Công ty. Tuy nhiên, nguồn vốn chủ sở hữu có xu hướng giảm dần cũng có nghĩa là khả năng tự tài trợ của Công ty ngày càng giảm. Công ty cần quan tâm tới vấn đề này trong thời gian tới để tránh bị thiếu tự chủ về mặt tài chính 2.2.2 Tình hình biến động của tài sản và nguồn vốn Để đánh giá một cách cụ thể hơn nữa về tài sản và nguồn vốn kinh doanh của Công ty ta cần xem xét sự biến động của chúng thông qua bảng 02 ở trang sau. ở bảng 02 cho thấy tài sản và nguồn vốn cuối năm 2001 tăng nhanh so với cuối năm 2000 và 1999 (59,89%) tức 22.359.218.529 đồng, nhưng đến cuối năm 2002 lại tăng chậm lại (29,61%) tức 17.674.244.076 đồng. Có thể biểu diễn sự biến động của tổng tài sản và nguồn vốn vào cuối các năm 1999 đến 2002 qua biểu đồ sau:1 Biểu đồ được xây dựng dựa vào số liệu trong bảng 01 - Chỉ tiêu “Tổng cộng tài sản , tổng cộng nguồn vốn’ Đồng BIểU Đồ 1: tổng tài sản và nguồn vốn của Công ty xây dựng bưu điện cuối các năm 1999, 2000, 2001, 2002 1999 2000 2001 2002 Năm Qua biểu đồ này có thể thấy tài sản và nguồn vốn Công ty có xu hướng tăng dần và khá cao (cuối năm 2002 lên tới 77.365.097.767 đồng), điều này chứng tỏ Công ty chú trọng vào việc mở rộng quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh. Thật vậy, trong 2 năm gần đây (2001, 2002), Công ty đã thành lập thêm 01 Xí nghiệp công trình thông tin, 01 Xí nghiệp Xây dựng nhà, thành lập nhà máy nhựa Bưu điện và chi nhánh Công ty Xây dựng Bưu điện tại Thành phố Hồ Chí Minh. Đầu tư 03 dây chuyền sản xuất công nghiệp là: Dây chuyền sản xuất thanh nhựa cửa thay thế gỗ, Dây chuyền gia công lắp ghép cửa nhựa có lõi thép và dây chuyền sản xuất ống PVC sóng bảo vệ cáp ngầm. Ngoài ra, Công ty còn mua sắm thêm nhiều thiết bị hiện đại phục vụ nhu cầu trao đổi thông tin, phương tiện giao dịch, đi lại... như: Máy điện thoại di động, máy Vi tính, máy điều hoà, ôtô, máy phát điện... Trở lại bảng 02, ta thấy: Về mặt tài sản: cuối năm 2000 hầu hết các loại TSCĐ đều giảm, trừ các khoản phải thu tăng 48,32% tức 7.697.719.409 đồng, đặc biệt là tiền tại quỹ và tiền gửi ngân hàng giảm 74,34%, TSLĐ khác giảm 144,69% trong khi đó TSCĐ lại tăng khá cao (121,91%). Điều này cho thấy nguyên nhân các khoản phải thu tăng có thể do chính sách tín dụng khách hàng của Công ty, cũng có thể do nguyên nhân khách quan từ phía khách hàng không có khả năng trả nợ. Đến cuối năm 2002, các khoản phải thu tăng cao tới 67,88% tức 17.473.494.858 đồng, như vậy Công ty đã để tình trạng chiếm dụng vốn quá lớn, cần phải có biện pháp như thay đổi chính sách tín dụng, hoàn tất các thủ tục Xây dựng cơ bản để nhanh chóng thu hồi vốn... Cuối các năm 2001 và 2002 hầu hết các loại tài sản đều tăng lên so với thời điểm cuối năm 2000. Nhất là vào năm 2001, tăng mạnh về tiền mặt và tiền gửi ngân hàng (147,79%) và TSCĐ tăng 470,97%, năm 2002 chi phí Xây dựng cơ bản tăng đến 416,58%, chỉ có TSCĐ giảm không đáng kể (11,51%). Điều này chứng tỏ Công ty chú trọng vào việc mở rộng hoạt động xây dựng cơ bản nội bộ và đầu tư trang thiết bị, máy móc hiện đại. Về mặt nguồn vốn: Nhìn vào bảng 02 ta nhận thấy các khoản mục nguồn vốn của Công ty đều tăng lên qua các năm. Năm2001, nợ phải trả tăng 74,76 % so với năm 2000, trong đó chủ yếu là tăng nợ dài hạn (tăng 19107690648 đồng). Trái lại, năm 2002 lại chủ yếu tăng nợ ngắn hạn (tăng 41,55 % tức 12226597373 đồng). Điều này cho thấy Công ty đã phải vay ngân hàng để có vốn mở rộng hoạt động SXKD. Nguồn vốn chủ sở hữu của Công ty cũng tăng dần lên tuy giá trị tăng không lớn song nó cho thấy một dấu hiệu khả quan về sự tự chủ tài chính trong những năm gần đây. 2.2.2 Cơ cấu tài sản lưu động và sự biến động * Cơ cấu tài sản lưu động Để khái quát tình hình quản lý sử dụng VLĐ, ta cần phân tích cơ cấu TSLĐ qua bảng 07 ở trang sau. Bảng 07 cho thấy các khoản phải thu và hàng lưu kho chiếm phần lớn trong tổng TSLĐ của Công ty, tiền mặt và TSLĐ khác chiếm tỷ lệ không đáng kể. Thật vậy, tại thời điểm cuối năm 2000, 2001, 2002, tỷ lệ tiền mặt tại quỹ và tiền gửi ngân hàng trong TSLĐ chỉ trên dưới 3%, tuy nhiên cuối năm 1999 tỷ lệ này đạt tới 7,2%. Với cơ cấu tiền mặt như vậy, Công ty dễ mất khả năng thanh toán đối với các khoản phải trả ngay lập tức. Cũng qua bảng 07, ta nhận thấy tỷ trọng của các khoản phải thu và hàng lưu kho trong tổng TSLĐ có quan hệ tỷ lệ nghịch với nhau. Quả vậy, cuối năm 1999 tỷ trọng của các khoản phải thu là 61,27%, thì hàng lưu kho là 31,38%, năm 2000 các khoản phải thu chiếm 75,75 %, hàng lưu kho chiếm 22,76 %, năm 2001 tương ứng là 75,52% và 22,96%, và năm 2002 tương ứng là 80,78% và 17,34%. Như vậy, chính sách tín dụng khách hàng có liên quan chặt chẽ đến khả năng tiêu thụ của Công ty. Tuy chính sách tín dụng khách hàng có lợi như vậy (giải toả hàng lưu kho), song cần phải sử dụng với mức độ hợp lý. Tỷ trọng các khoản phải phải thu cuối các năm 2000, 2001 là quá cao (trên 72%) đặc biệt là cuối năm 2002 tỷ trọng này chiếm tới 80,78%. Công ty cần phải điều chỉnh khoản mục này vì nó không những liên quan đến khả năng thanh toán, mà thường các khoản nợ càng lớn đi đôi với rủi ro đạo đức càng cao. Mặt khác, tuy chính sách tín dụng khách hàng được coi như một trong các biện pháp để đẩy nhanh tiêu thụ nhưng vì thế lại làm chập kỳ luân chuyển vốn, giảm số vòng quay VLĐ. Để hiểu rõ hơn về tình hình quản lý hàng lưu kho tại Công ty trong thời gian qua. Chúng ta sẽ xem xét cụ thể sự biến động của hàng lưu kho qua biểu đồ thể hiện giá trị nguyên vật liệu trong hàng lưu kho - một thành phần chủ yếu trong tổng số hàng lưu kho của Công ty.1 Biểu đồ được xây dựng dựa trên số liệu của bảng 07 - Chỉ tiêu Hàng tồn kho, Nguyên vật liệu tồn kho. BIểU Đồ 4: giá trị nguyên vật liệu trong hàng lưu kho  Hàng tồn kho u NVL tồn kho Đồng 1999 2000 2001 2002 Năm Qua biểu đồ 4 cho thấy: Trong 4 năm qua, giá trị nguyên vật liệu lưu kho luôn chiếm trên 70% tổng số giá trị hàng lưu kho. Có nghĩa là công tác đảm bảo cho sản xuất kinh doanh tại Công ty rất vững chắc bởi như đã biết, Công ty Xây dựng Bưu điện là một doanh nghiệp trực thuộc Tổng Công ty Bưu chính - Viễn thông, được giao nhiệm vụ thực hiện kế hoạch tăng tốc độ phát triển Bưu chính Viễn thông của ngành Bưu điện. Do đó, đòi hỏi nguồn nguyên vật liệu phục vụ sản xuất phải luôn đầy đủ và phải có sẵn để nhanh chóng bắt tay vào thi công các công trình, hoàn thành kế hoạch trên giao. * Biến động của tài sản lưu động Để có thể thấy rõ hơn tình hình TSLĐ của Công ty ta sẽ phân tích sự biến động của nó qua số liệu của bảng 08 ở trang sau. Thông qua bảng 08 ta nhận thấy rằng TSLĐ cuối năm 2002 được mở rộng nhanh chóng so với cuối năm 2001 (tăng 50,71%). Còn các năm trước đó (1999, 2000, 2001) thì TSLĐ tăng ở mức độ vừa phải (từ 13% -> 20%). Xem biểu đồ sau:1 Biểu đồ được xây dựng trên số liệu của Bảng 07 - Chỉ tiêu TSLĐ và đầu tư ngắn hạn. 1999 2000 2001 2002 Năm Đồng Biểu đồ 5: biến động tài sản lưu động Năm 2002, VLĐ chủ yếu sử dụng nhằm tăng khoản phải thu khách hàng: 18.705.970.776 đồng, tăng 144,66% so với năm 2001, trả trước cho người bán: 294.610.776 đồng, thành phẩm lưu kho 1.227.632.794 đồng và tạm ứng: 135.676.617 đồng, tăng 197,74% so với cùng thời điểm năm 2001. Điều này chứng tỏ thành phẩm của Công ty cuối năm 2002 khó tiêu thụ, Công ty đã phải sử dụng chính sách tín dụng khách hàng để đẩy nhanh việc tiêu thụ sản phẩm. Hơn nữa, quy mô kinh doanh của Công ty được mở rộng như đã nói ở trên, nên các khoản phải thu khách hàng và hàng lưu kho tăng lên là tất nhiên. Song, với xu hướng tăng các khoản phải thu và hàng lưu kho như vậy cho thấy công tác quản lý, theo dõi công nợ và quản lý tài sản kho của Công ty chưa tốt. Khoản mục trả trước cho người bán và tạm ứng tăng ở cuối năm 2001 và 2002 cho thấy, Công ty đã dự đoán là nhu cầu khách hàng sẽ cao hơn nên đã có hoạch đặt hàng trước, song thực tế lại ngược lại bởi tỷ trọng thành phẩm lưu kho tăng lên đáng kể như : Năm 2001 là 507.112.094 đồng và năm 2002 là 1.227.632.794 đồng chứng tỏ Công ty không tiêu thụ được sản phẩm nhiều như dự đoán. Qua tìm hiểu hoạt động của Công ty cho biết do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế tài chính khu vực Đông Nam á và đứng trước sự cạnh tranh quyết liệt trong lĩnh vực xây lắp, xây dựng nên năm 2002, sản phẩm xây lắp của Công ty bị tồn đọng, các công trình xây dựng nhà trong nghành hầu như không thắng thầu. Ngoài ra, ta còn thấy các khoản thế chấp, ký gửi vào cuối năm 2000 và 2001 tăng lên cao (năm 2000 tăng 100% so với cuối năm 1999, năm 2001 tăng 94,18% so với cuối năm 2000) chứng tỏ Công ty rất chú trọng đến phương thức bán hàng qua các kênh trung gian, tạo điều kiện để tiêu thụ thêm hàng hoá. Song tại thời điểm cuối năm 2002, tỷ trọng của khoản thế chấp, ký gửi lại giảm xuống 21,74%, đó là một điểm yếu của Công ty. Bởi trong khi quy mô mặt hàng kinh doanh của Công ty được đa dạng hoá, phát triển lĩnh vực thi công và mở rộng sản xuất các sản phẩm công nghiệp mà hệ thống tiêu thụ lại giảm năng lực hoạt động là điều chưa hợp lý. Cuối cùng, bảng 08 còn cho thấy, cuối năm 2002 khoản mục tiền mặt tại quỹ và tiền gửi ngân hàng giảm đáng kể (29,66%). Mặc dầu, nhu cầu về vốn bằng tiền luôn luôn biến động và không phải lúc nào cũng có thể dự đoán chính xác được nhưng với lượng tiền mặt quá ít Công ty sẽ mất khả năng thanh toán tức thời (như nhu cầu tiền mặt để thực hiện các cuộc giao dịch, trả tiền mua sắm hàng ngày...), không ứng phó kịp với những nhu cầu vốn bất thường và không tranh thủ được những thời cơ hấp dẫn (mua sắm tài sản Công ty...). Tuy nhiên, mức tồn quỹ thay đổi theo mức tiêu thụ và chính sách tín dụng của Công ty. 2.2.3 Nguồn vốn lưu động và sự biến động của nó *Nguồn vốn lưu động của Công ty Như đã nói ở các phần trên, nhu cầu về VLĐ tại Công ty Xây dựng Bưu điện là khá cao (thường chiếm trên 60% trong tổng tài sản) và biến động rất phức tạp. Bởi vậy, Công ty phải quan tâm tới việc tìm nguồn vốn để đáp ứng tốt cho nhu cầu đó. Có thể sử dụng nhiều cách thức khác nhau để huy động VLĐ cho doanh nghiệp. Căn cứ vào thời gian huy động vốn thì VLĐ của doanh nghiệp bao gồm: Nguồn VLĐ thường xuyên và nguồn VLĐ tạm thời. Nguồn VLĐ thường xuyên là phần còn lại của nguồn vốn SXKD dài hạn sau khi đã tài trợ đủ cho nhu cầu về TSCĐ. Còn nguồn VLĐ tạm thời thời chính là các khoản nợ ngắn hạn của DN. Tình hình huy động nguồn VLĐ tại Công ty Xây dựng Bưu điện trong 4 năm gần đây được trình bầy trong bảng 09 ở trang sau. Qua bảng 09 có thể thấy rõ một điều rằng: Nguồn VLĐ thường xuyên của Công ty luôn lớn hơn không (và luôn chiếm trên 12% trong tổng nguồn vốn). Do đó, nguồn vốn dài hạn của Công ty không những đáp ứng đủ cho việc mua sắm TSCĐ mà còn góp phần tài trợ cho TSLĐ. Điều này cũng có nghĩa là TSLĐ lớn hơn nợ ngắn hạn nên Công ty hoàn toàn có khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn. Tình hình tài chính của Công ty như vậy là lành mạnh. Tuy nhiên, với tỷ trọng nguồn VLĐ thường xuyên chiếm dưới 20% tổng nguồn vốn (năm 1999: 14,46%, năm 19996: 12,34%, năm 2001: 17,1%), trừ năm 2002 nguồn VLĐ thường xuyên chiếm 22,14% tổng nguồn vốn, do đó VLĐ của Công ty được tài trợ chủ yếu bằng nguồn VLĐ tạm thời (thường chiếm trên dưới 80% tổng nguồn VLĐ). Cũng qua bảng 09 cho thấy, trong cơ cấu nợ ngắn hạn thì các khoản vay ngắn hạn ngân hàng chiếm tỷ trọng cao (thường trên 35%), giá trị của chúng ngày một tăng tương ứng với sự gia tăng giá trị của nguồn VLĐ tạm thời.Có thể thấy rõ điều này qua biểu đồ sau. Biểu đồ 6: Biến động của vay ngắn hạn so với nợ ngắn hạn 1999 2000 2001 2002 Năm Bên cạnh nguồn vốn vay ngắn hạn, một nguồn vốn nữa cũng góp phần đáng kể trong việc tài trợ cho nhu cầu về VLĐ của Công ty là các khoản phải trả cho các đơn vị nội bộ (chiếm trên 20% ---> trên 30% trong nguồn VLĐ tạm thời). Như vậy, để giảm chi phí huy động vốn, Công ty phải dùng tới hình thức chiếm dụng một phần vốn của các đơn vị nội bộ. So với việc đi vay ngân hàng, chi phí huy động vốn của cách thức này nhỏ hơn rất nhiều. Tuy nhiên, tỷ trọng nguồn vốn này cao sẽ ảnh hưởng không tốt tới hoạt động của các đơn vị nội bộ, gây làn sóng ảnh hưởng chung tới toàn bộ hoạt động SXKD của Công ty. Nhìn vào bảng 07 ta nhận thấy các khoản mua chịu của Công ty cũng góp phần tài trợ cho nhu cầu về VLĐ (thường chiếm tỷ trọng từ 8 --->12% tổng nguồn VLĐ tạm thời). Trong nền kinh tế thị trường, việc mua chịu hàng hoá là một chính sách của các doanh nghiệp. Mức độ chiếm dụng vốn của đơn vị ngoài Công ty như vậy là khá hợp lý, nó cho thấy Công ty khá sòng phẳng trong quan hệ thương mại và đó cũng là dấu hiệu khả quan trong quan hệ thanh toán của Công ty. Ngoài các nguồn trên, để thoả mãn cho nhu cầu về VLĐ, Công ty cũng đã tận dụng tới nguồn vốn từ các khoản thuế và phải nộp ngân sách nhà nước, phải trả công nhân viên và các khoản phải trả, phải nộp khác (chi phí dịch vụ mua ngoài chưa trả...). Tuy các nguồn vốn này chỉ chiếm vị trí thứ yếu (thường nhỏ hơn 4% trong cơ cấu nợ ngắn hạn), nhưng chúng đã góp phần đáp ứng cho nhu cầu về VLĐ của Công ty trong thời gian qua. *Biến động của nguồn VLĐ Qua biểu đồ 5 kết hợp với số liệu của bảng 10 ở trang sau, có thể thấy trong năm 2000 khi nguồn VLĐ tạm thời tăng thêm 22,94% so với năm 1999 thì vay ngắn hạn cũng tăng thêm 9,5%. Sang năm 2001, khi nguồn VLĐ tạm thời tăng thêm 7,52% so với năm 2000 thì vay ngắn hạn cũng tăng thêm một phần (1,31%). Đến năm 2002, tốc độ tăng của nguồn VLĐ tạm thời rất cao, lên tới 41,55% so với năm 2001 và vay ngắn hạn cũng tăng tốc không kém, lên tới 48,53% so với năm 2001. Điều này cho thấy, ở các năm 1999, 2000, 2001 Công ty đã có biện pháp hạn chế việc vay ngắn hạn ngân hàng. Nhìn vào bảng 10, có thể nhận ra rằng, Công ty đã dùng hình thức chiếm dụng vốn của các đơn vị nội bộ thay vì vay ngân hàng, tỷ trọng khoản phải trả các đơn vị nội bộ năm 2000 tăng 66,05% so với năm 1999, năm 2001 tăng thêm 36,68% so với năm 2000. Năm 2002, so với các năm trước đó, tỷ trọng mỗi khoản mục của nguồn VLĐ đều có biến động tăng thêm, trừ khoản phải trả các đơn vị nội bộ giảm đi 8,58% so với năm 2001. Trong khi đó, như đã phân tích ở trên, tỷ trọng khoản phải trả các đơn vị nội bộ ở các năm 1999, 2000, 2001 đều tăng lên đáng kể và khoản vay ngắn hạn chiếm vị trí quan trọng trong nguồn VLĐ tạm thời ở năm 2002. Ngoài ra, ta còn thấy năm 2002 khoản phải trả cho người bán cũng tăng không kém cả về giá trị lẫn tỷ trọng so với năm 2001 (tăng 4.265.860.096 tức là 203,18%), nghĩa là thay vì chiếm dụng vốn của các đơn vị nội bộ, Công ty đã tích cực chiếm dụng vốn của các đơn vị bên ngoài để tài trợ cho hoạt động SXKD của đơn vị mình. Hơn nữa, sự tăng tỷ trọng của các khoản mục nguồn VLĐ cho thấy, mục tiêu của Công ty năm 2002 là mở rộng phạm vi hoạt động SXKD. Quả vậy, năm 2002 Công ty thấy trước được diễn biến phức tạp của thị trường Xây dựng, đã điều chỉnh lại định hướng SXKD với mục tiêu “Nâng cao chất lượng Xây dựng công trình để cạnh tranh được ở các công trình vừa và nhỏ, đa dạng hoá sản phẩm và ngành nghề. Phát triển thi công sang lĩnh vực chuyên ngành Bưu chính Viễn thông, sản xuất các sản phẩm công nghiệp mà thị trường Bưu chính Viễn thông và thị trường Xây dựng còn tiềm năng ”.1 Phần 5 “Những ảnh hưởng quan trọng đến tình hình kinh doanh trong năm 2002’, Thuyết minh Báo cáo tài chính, Công ty Xây dựng Bưu Điện. 2.3 Quản lý vốn bằng tiền và các khoản phải thu Để giúp cho việc quản lý được các khoản phải thu thì phải biết cách theo dõi các khoản phải thu, trên cơ sở đó có thể thay đổi chính sách tín dụng thượng mại kịp thời. Thông thường, người ta dựa vào các chỉ tiêu, phương pháp và mô hình sau: - Kỳ thu tiền bình quân 1 George E. Pinches, Essentials of Financial Management, Harpen & Row, New York, 1992, Trang 486. Thuật ngữ nguyên bản bằng tiếng Anh: “The Average Collection Period” (ACP) Các khoản phải thu ACP = ------------------------ ( ngày) Doanh thu tiêu thụ 365 Khi kỳ thu tiền bình quân tăng lên mà doanh số bán và lợi nhuận không tăng thì cũng có nghĩa là vốn của DN bị ứ đọng ở khâu thanh toán. Khi đó nhà quản lý phải có biện pháp can thiệp kịp thời. - Xác định số dư khoản phải thu. Theo phương pháp này, khoản phải thu sẽ hoàn toàn không phụ thuộc vào yếu tố thay đổi theo mùa vụ của doanh số bán và DN hoàn toàn có thể thấy được nợ tồn đọng của khách hàng đối với DN. Quản lý tốt các khoản phải thu tức là DN đưa ra chính sách tín dụng hợp lý, giảm số ngày của kỳ thu tiền bình quân, giúp DN nhanh chóng thu được tiền bán hàng, tạo điều kiện mua sắm vật tư cho chu kỳ sản xuất tiếp theo. * Quản lý các khoản phải thu Trong cơ cấu VLĐ, các khoản phải thu luôn chiếm tỷ trọng rất cao (thường trên 70%). Điều này có thể ảnh hưởng đến khả năng thu hồi vốn và tốc độ quay vòng vốn của Công ty. Để có thể đánh giá chính xác về việc quản lý các khoản phải thu ta hãy xem xét chỉ tiêu kỳ thu tiền bình quân. Dựa vào số liệu ở bảng 07 và báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty trong 4 năm qua, ta tính được như sau: Bảng 2.1 Sự thay đổi của kỳ thu tiền bình quân (ACP) Năm 1999 2000 2001 2002 Kỳ thu tiền bình quân (ngày) 189 224 343 202 Bảng 2.1 cho thấy công tác quản lý các khoản phải thu của Công ty trong thời gian qua chưa được tốt. Công ty đã để cho khách hàng chiếm dụng khá lớn gây hiện tượng ứ đọng vốn trong khâu thanh toán lam cho việc sử dụng đồng vốn kém hiệu quả. Để thu hồi được một khoản phải thu, Công ty phải mất tới trên 7 tháng. Như vậy tốc độ luân chuyển VLĐ thấp. Tuy nhiên ta biết rằng do đặc điểm sản xuất của Công ty là sản phẩm cung cấp trong ngành Bưu chính - Viễn thông và cung cấp ngoài ngành là rất ít. Khách hàng thường mua dưới dạng cung cấp cho công trình dự án và thường các công trình này kéo dài ít nhất là một năm mới hoàn thành. Khi hoàn thành phẩi hoàn tất các thủ tục XDCB thì khách hàng mới quyết toán cho Công ty hoặc tạm ứng mỗi quý 1 lần, do vậy mà gây ra việc các khoản phải thu lớn trong tổng TSLĐ, làm chậm kỳ thu tiền bình quân. Năm 1999, kỳ thu tiền bình quân ngắn nhất so với các năm sau (189 ngày) do các khoản phải thu chỉ chiếm 61,27%, chiếm tỷ trọng ít nhất so với 3 năm sau. Bước sang năm 2002, thời gian thu hồi vốn bình quân đã giảm hẳn so với năm 2001 (giảm 141 ngày) và 202 ngày là khoảng thời gian có thể chấp nhận được đối với một DN như Công ty Xây dựng Bưu điện. Như vậy, công tác quản lý các khoản phải thu của Công ty đã có biến chuyển tốt hơn, việc thu hồi nợ có bài bản hơn, kết quả khá hơn các năm trước nhưng so với nợ đọng hiện đang nằm ở các công trình, ở các chủ đầu tư thì đòi hỏi Công ty phải nỗ lực hơn nữa. Trong năm qua Công ty đã bảo vệ tốt quyết toán của 20 công trình XDCB trước cơ quan kiểm toán, số thu thanh quyết toán, thu nợ được 46.335 triệu đồng như vậy chủ các công trình chủ các đầu tư còn nợ 32.399 triệu đồng. Tuy nhiên, tốc độ luân chuyển VLĐ không cao chỉ làm hạn chế hiệu quả sử dụng VLĐ chứ không phải là Công ty làm ăn kém hiệu quả bởi doanh số bán ra và lợi nhuận tại Công ty vẫn tăng qua các năm (trừ năm 2001, doanh thu và lợi nhuận giảm do Công ty chú trọng vào xây dựng cơ bản nội bộ), như đã phân tích ở các phần trên. * Quản lý vốn bằng tiền Về công tác quản lý sử dụng vốn bằng tiền trong thời gian qua chưa được tốt. Tỷ trọng vốn bằng tiền trong VLĐ là rất nhỏ mà khả năng chuyển đổi TSLĐ thành tiền của Công ty rất khó thực hiện. Điều này hiện rõ qua tỷ suất thanh toán của VLĐ như sau: Bảng 2.2: tỷ suất thanh toán của vốn lưu động Chỉ tiêu 1999 2000 2001 2002 Tỷ suất thanh toán của VLĐ 0,07 0,02 0,03 0,02 Như vậy, tỷ suất thanh toán của VLĐ luôn nhỏ hơn 0,1. Thực tiễn hoạt động của các DN trong nền kinh tế thị trường đã cho thấy, nếu tỷ suất này mà lớn hơn 0,5 hoặc nhỏ hơn 0,1 đều không tốt cho hoạt động sản xuất kinh doanh của DN. 2.4 Quản lý hàng lưu kho và vấn đề thanh khoản Hàng lưu kho và vấn đề thanh khoản là hai lĩnh vực vô cùng quan trọng đối với việc quản lý vốn nói chung và vốn lưu động nói riêng. Chúng ta làm rõ vấn đề nói trên như sau: 2.4.1 Quản lý hàng lưu kho Cùng với các khoản phải thu, hàng lưu kho cũng có vị trí quan trọng trong cơ cấu VLĐ tại Công ty. Đặc biệt là một đơn vị sản xuất, Công ty rất cần chú ý tới công tác quản lý hàng lưu kho. Để đánh giá một cách cụ thể về việc quản lý hàng lưu kho trong thời gian qua, ta hãy xem xét chỉ tiêu “Vòng quay hàng lưu kho”. Bảng 2.3: Sự thay đổi của vòng quay hàng lưu kho Chỉ tiêu 1999 2000 2001 2002 Vòng quay hàng lưu kho (Vòng) 3,72 5,34 3,31 8,27 Thời gian 1 vòng quay (ngày) 97 67 108 43 Bảng 2.3 cho thấy: Vòng quay hàng lưu kho có xu hướng tăng dần, ngoại trừ năm 2001, vòng quay này giảm xuống còn 3,31 do Công ty chỉ chú trọng vào đầu tư xây dựng cơ bản nội bộ, không có điều kiện quan tâm tới tình hình bán hàng. Đây cũng là thiếu sót trong công tác quản lý chung của lãnh đạo Công ty vì đã không phối hợp nhịp nhàng các hoạt động sản xuất với hoạt động đầu tư phát triển cơ sở vật chất, kỹ thuật. Tuy vậy, nhờ sự đầu tư xây dựng cơ bản nội bộ, trang bị thêm máy móc, thiết bị của năm 2001, nên năm 2002 tốc độ luân chuyển hàng hoá của Công ty tăng nhanh, hàng hoá bán được nhiều hơn với doanh thu rất cao. Đồng thời, ta cũng thấy trừ năm 2001 thì thời gian một vòng quay giảm dần, chứng tỏ công tác quản lý hàng lưu kho của Công ty đang có chuyển biến tốt và có nhiều triển vọng. 2.4.2 Quản lý thanh khoản Khả năng thanh toán của Công ty tốt hay xấu ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động của Công ty. Bởi vậy, để đánh giá hiệu quả sử dụng VLĐ, không thể không đánh giá tình hình và khả năng thanh toán của Công ty trong 4 năm gần đây. Để phân tích dược chính xác hơn chúng ta tiến hành tính toán các nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán sau. Nhóm các chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán 1 George E. Pinches, Essentials of Financial Management, Harpen & Row, New York, 1992, Trang 65. Tổng TSLĐ Khả năng thanh toàn hiện hành = ---------------------------- Tổng nợ ngắn hạn Tuỳ thuộc vào từng ngành kinh doanh và từng thời kỳ kinh doanh, song chủ nợ ngẵn hạn sẽ tin tưởng hơn nếu chỉ tiêu này lớn hơn 2 lần. Nếu chỉ tiêu này <1; có nghĩa là DN có khả năng thanh toán thấp. Nếu chỉ tiêu này <2; lượng tài sản Có của DN là hợp lý. Tổng TSLĐ - Lưu kho Khả năng thanh toán nhanh = ----------------------------------- Tổng nợ ngắn hạn Nếu chỉ tiêu này ³1; nghĩa là DN không có nguy cơ rơi vào tình trạng vỡ nợ. Nếu chỉ tiêu này <1; DN dự trữ tài sản có tính thanh khoản cao ở mức hợp lý. Tiền mặt Khả năng thanh toán tức thời = ------------------------ Tổng nợ ngắn hạn Tỷ lệ an toàn của chỉ tiêu này là bằng1. Bảng 2.4: Khả năng thanh toán qua 4 năm Chỉ tiêu 1999 2000 2001 2002 Hệ số thanh toán hiện hành Hệ số thanh toán nhanh Hệ số thanh toán tức thời 1,17 0,8 0,084 1,14 0,88 0,018 1,21 0,93 0,04 1,28 1,06 0,02 Bảng 2.4 cho thấy, hệ số thanh toán hiện hành tại Công ty luôn lớn hơn 1, có nghĩa là Công ty luôn có khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn. Tuy nhiên, hệ số này ở mức thấp cho thấy Công ty luôn ở trong tình trạng tài chính căng thẳng, khả năng thanh toán các năm của Công ty chưa thật sự bảo đảm. Tuy nhiên, hệ số này tăng dần trong 3 năm gần đây cho thấy Công ty đã sử dụng VLĐ có hiệu quả hơn và công tác quản lý VLĐ cũng tốt hơn. Bên cạnh đó, hệ số thanh toán nhanh của năm 1999, 2000, 2001 đều nhỏ hơn1. Như vậy trong những năm đó nếu Công ty có thu hồi được hầu hết các khoản phải thu thì cũng không đáp ứng được nhu cầu thanh toán nhanh. Năm 2002, hệ số này khả quan hơn và lớn hơn 1 (=1,28), có nghĩa là lượng hàng lưu kho năm qua chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng TSLĐ (chiếm 17,37%) và công tác tiếp thị, tiêu thụ sản phẩm của Công ty tốt hơn, bán được nhiều hàng hơn. Như vậy năm vừa qua Công ty đã có khả năng đáp ứng được yêu cầu thanh toán nhanh. Thêm vào nữa, hệ số thanh toán tức thời trong thời đoạn qua đều rất thấp (nhỏ hơn 0,1). Năm 1999, hệ số này được 0,084 (cao nhất trong 4 năm), các năm sau giảm mạnh và thấp nhất vào năm 2000 (= 0,018). Đặc biệt phải lưu ý đến hệ số này ở năm 2002, bởi như đã biết đây là năm quy mô SXKD của Công ty được mở rộng, cơ cấu tài sản và nguồn vốn cũng lớn hơn song lượng tiền mặt lại qúa ít, chỉ chiếm 1,57% với trị giá là 838.802.540 đồng do đó mà hệ số thanh toán tức thời rất thấp (bằng 0,02). Điều đó chứng tỏ lượng tiền mặt tồn quỹ và gửi ngân hàng đóng vai trò rất mờ nhạt trong thanh toán và dễ đẩy Công ty rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán tức thời. Song, như đã trình bày ở phần lý thuyết thì dự trữ càng ít tiền mặt tại quỹ và tiền gửi ngân hàng thì càng tốt. Nói tóm lại, để đảm bảo khả năng thanh toán Công ty đã có những biện pháp tạo nguồn có hiệu quả. Song đấy chỉ là những biện pháp mang tính tạm thời. 2.5 Hiệu quả sử dụng vốn lưu động Hiệu quả sử dụng vốn của DN là tổng hợp hiệu quả sử dụng của từng khoản mục vốn. Đối với DN sản xuất, hiệu quả sử dụng VLĐ đóng vai trò quan trọng hơn cả. Nó phản ánh công tác quản lý VLĐ là tốt hay tồi, có năng động hay không, có hợp lý hay không. Thông thường để phản ánh hiệu quả sử dụng vốn lưu động người ta dùng các chỉ tiêu sau: Các chỉ tiêu cơ bản phản ánh hiệu quả sử dụng VLĐ. Quản lý VLĐ là đảm bảo cho việc sử dụng VLĐ đạt hiệu quả cao nhất. Hiệu quả sử dụng VLĐ là một phạm trù rộng, bao hàm nhiều mặt tác động. Vì vậy đánh giá hiệu quả sử dụng VLĐ cần xem xét từ nhiều khía cạnh, góc độ khác nhau. Thông thường để phản ánh hiệu quả sử dụng VLĐ, người ta hay dùng các chỉ tiêu sau : Số vòng quay của VLĐ (Vv) Tổng số doanh thu thuần Vv = ---------------------------------- VLĐ bình quân. Chỉ tiêu này cho biết VLĐ quay được mấy vòng trong kỳ phân tích. Nếu số vòng quay tăng chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn tăng và ngược lại. Mọi DN đều phải hướng tới tăng nhanh số vòng quay của VLĐ để tăng nhanh tốc độ SXKD nhằm đem lại nhiều lợi nhuận cho DN. Muốn vậy DN phải cố gắng làm tăng nhanh doanh thu bán hàng, đồng thời quản lý chặt chẽ VLĐ sao cho phù hợp với năng lực cũng như nhu cầu SXKD của mình. Chỉ tiêu này còn được gọi là “Hệ số luân chuyển VLĐ”. Thời gian của một vòng luân chuyển (kỳ luân chuyển bình quân) Thời gian của kỳ phân tích 360 K = ------------------------------------ = -------- (ngày/lần) Số vòng của VLĐ trong kỳ Vv Chỉ tiêu này càng nhỏ tức là số ngày của một vòng (kỳ) luân chuyển VLĐ càng ngắn thì hiệu quả sử dụng VLĐ càng cao, DN tiết kiệm được VLĐ sử dụng trong kỳ. Mức tiết kiệm VLĐ (M): M = Mức lưu chuyển VLĐ bình quân ngày x Số ngày giảm của 1 vòng luân chuyển Hệ số đảm nhiệm VLĐ (H): VLĐ bình quân H = --------------------------------- Tổng số doanh thu thuần Hệ số này càng nhỏ, chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn càng cao, số vốn tiết kiệm được càng nhiều. Qua chỉ tiêu này ta biết được để có 1 đồng doanh thu thì cần có bao nhiêu đồng VLĐ Hệ số sinh lợi của VLĐ (Hsl) Lợi nhuận trước thuế Hsl = ----------------------------- VLĐ bình quân Chỉ tiêu này phản ánh khả năng tạo ra lợi nhuận của VLĐ. Chỉ tiêu này càng cao thì khả năng tạo ra lợi nhuận của VLĐ càng lớn.Do vậy, muốn tăng hệ số sinh lợi của VLĐ thì DN phải tối đa hoá lợi nhuận, đó chính là phương châm SXKD của DN. Để phản ánh hiệu quả quản lý sử dụng VLĐ, người ta còn sử dụng các chỉ tiêu sau: Doanh thu tiêu thụ Số vòng quay lưu kho =----------------------------- Giá trị lưu kho Đây là chỉ tiêu phản ánh trình độ quản lý VLĐ của DN. Có thể hình dung, nếu chỉ tiêu này từ 9 trở lên là một dấu hiệu tốt về tình hình tiêu thụ và dự trữ. Các khoản phải thu Kỳ thu tiền bình quân =-------------------------- (ngày) Doanh thu tiêu thụ ------------------------ 365 Số ngày ở đây phản ánh tình hình tiêu thụ, mà cụ thể là sức hấp dẫn của sản phẩm mà DN đang tiêu thụ cũng như chính sách thanh toàn mà DN đang áp dụng. Thông thường 20 ngày là một chu kỳ thu tiền chấp nhận được (đương nhiên số ngày này còn phải xem xét gắn với giá vốn và chính sách bán chịu của DN) Ngoài các chỉ tiêu trên, trong phân tích và quản lý người ta còn sử dụng một số chỉ tiêu khác như các chỉ tiêu trong nhóm các chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán, các chỉ tiêu phản ánh tình hình quản lý nợ, nhóm các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả hoạt động, các chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời,... Để đánh giá hiệu quả sử dụng VLĐ của Công ty Xây dựng Bưu điện ta dựa vào bảng trang sau: Bảng Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng VLĐ Chỉ tiêu Đ.vị 1999 2000 2001 2002 .Doanh thu thuần .Lợi tức gộp .VLĐ bình quân .Hệ số luân chuyển VLĐ .Thời gian 1 vòng luân chuyển .Hệ số đảm nhiệm VLĐ .Hệ số sinh lợi VLĐ đồng đồng đồng lần/ năm ngày/ lần đồng % 30322604883 2236667001 24538464150 1,24 290,3 0,8 9,1 37903256083 236666704 28597222085 1,33 276,9 0,75 11,32 26992267363 2235165575 33345169549 0,8 450 1,24 6,7 76755166149 11835824546 44498447661 1,7 211,7 0,58 26,6 Qua bảng trên ta nhận thấy, các năm 1999, 2000, 2002 cùng với sự tăng lên của VLĐ bình quân, lợi tức gộp và doanh thu thuần tăng lên tương ứng. Duy có năm 2001, VLĐ bình quân tăng hơn so với năm 2000 nhưng lợi tức gộp và doanh thu thuần lại giảm hẳn. Nguyên nhân là năm 2001, quy mô kinh doanh bị thu hẹp lại, Công ty chỉ chú trọng vào xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật. Kết quả là năm 2001 là năm có hệ số luân chuyển VLĐ thấp nhất (bằng 0,8 < 1), vì thế mà thời gian một vòng luân chuyển lớn nhất so với các năm khác. Và để có được 1 đồng doanh thu, năm 2001 phải cần tới 1,24 đồng VLĐ (dựa vào chỉ tiêu “Hệ số đảm nhiệmVLĐ”), trong khi các năm khác, hệ số này luôn nhỏ hơn 1. Như vậy, đây là năm mà hiệu quả sử dụng VLĐ kém nhất. Ngược lại với năm 2001, năm 2002 có vòng quay của VLĐ cao nhất (bằng 1,7 lần/năm) do tổng doanh thu thuần lớn nhất, tăng thêm 184,4% so với năm 2001, trong khi đó mức tăng của VLĐ bình quân lại thấp hơn nhiều so với mức tăng của doanh thu thuần (tăng 33,45%). Bởi thế mà các chỉ tiêu khác cũng khả quan hơn so với năm 2001 và các năm trước đó: Thời gian một vòng luân chuyển VLĐ chỉ bằng 211,7 ngày/lần (Năm 2001 bằng 450 ngày/lần), 1 đồng doanh thu chỉ cần 0,58 đồng VLĐ, với hệ số sinh lợi của VLĐ khá cao (bằng 26,6%). Có thể kết luận rằng, năm 2002 là năm có hiệu quả sử dụng VLĐ cao nhất, chứng tỏ công tác quản lý VLĐ chặt chẽ hơn, tốt hơn, phù hợp với năng lực cũng như nhu cầu SXKD của Công ty. 3. Những tồn tại chủ yếu trong quản lý vốn lưu động 3.1 Chưa xác đinh được kế hoạch thu chi ngân quỹ một cách hợp lý, công tác lập kế hoạch huy động và sử dụng vốn lưu động chưa hiệu quả Trong những năm gần đây do có sự chuyển đổi cơ chế, tự hạch toán độc lập nên Công ty còn nhiều lúng túng trong công tác xác định và lập kế hoạch sử dụng vốn nói chung và vốn lưu động nói riêng. Hiện nay, Công ty không chỉ trông chờ vào nguồn vốn ngân sách cấp vì thế mà công tác lập kế hoạch vốn lưu động không thể bị sao nhãng. Bởi thực chất công tác lập kế hoạch vốn lưu động là nhằm xác định nhu cầu hoạt động kinh doanh, giúp cho Công ty xác dịnh được phương hướng, biện pháp huy động vốn. Hiện nay cơ cấu nguồn vốn của Công ty là chưa hợp lý. Vốn ngắn hạn của Công ty chiếm tỷ trọng khá cao so với nguồn vốn lưu động thường xuyên và thường chiếm trên 70% trong tổng nguồn vốn lưu động. Do đó, nó làm ảnh hưởng đến tình hình tài chính cũng như khả năng thanh toán của Công ty. Bởi tỷ lệ nợ phải trả cao có nghĩa là khả năng tự tài trợ của Công ty đạt thấp nên sự độc lập về tài chính không cao. Đồng thời Công ty cũng phải đối mặt với áp lực về yêu cầu thanh toán các khoản nợ. Mặt khác, trong nợ phải trả thì đa số là nợ vay ngân hàng. Điều này không những buộc Công ty phải chịu chi phí trả lãi vay lớn mà còn làm hạn chế kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh có thể đạt được. Đó là do dự trữ tiền mặt của Công ty quá thấp trong tổng tài sản có, kế hoạch thu chi không hợp lý. 3.2 Việc thu hòi các khoản nợ tồn đọng còn quá chậm, đặc biệt là các khoản phải thu khách hàng, chưa quản lý chặt chẽ chính sách tín dụng thương mại Các khoản phải thu chiếm tỷ trọng quá cao trong cơ cấu tài sản lưu động cho thấy Công ty cần lưu ý hơn về việc quản lý thu hồi công nợ. Những năm qua các khoản phải thu chiếm tỷ trọng trên 70% trong tổng tài sản lưu động đã khiến cho Công ty phải vất vả trong việc tìm nguồn vốn khác thay thế cho khoản vốn bị chiếm dụng này. Thời gian thu hồi vốn lại quá dài, để thu hồi được một khoản phải thu Công ty phải mất tới trên 7 tháng. Như vậy tốc độ luân chuyển vốn lưu động rất thấp. Điều này thể hiện Công tác thu hồi công nợ của Công ty còn rất hạn chế, chưa đạt hiệu quả cần thiết làm cho nợ đọng kéo dài ảnh hưởng nghiêm trọng tới vốn lưu động của Công ty làm cho khả năng thanh toán và hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty cũng bị ảnh hưởng, không đạt được kết quả như mong muốn. Vì như đã biết là mọtt đơn vị kinh doanh trong lĩnh vực xây dựng và xây lắp thiết kế các công trình xây dựng dân dụng cũng như chuyên ngành Bưu chính Viễn thông thì vốn lưu động là vô cùng cần thiết. Mỗi một Công trình đều có một giá trị lớn do vạy mà công tác thu hồi vốn nợ quá chậm như hiện nay sẽ làm cho công ty lâm vào tình trạng thiếu vốn nghiêm trọng và làm chi phí sản xuất kinh doanh tăng cao. Chúng ta hãy xem xét khả năng thanh toán của Công ty để có thể hiêurox được tình hình nghiêm trọng của vấn đề này. Khả năng thanh toán của Công ty chủ yếu là các khoản phải thu, hàng lưu kho, còn tiền mặt chiếm tỷ trọng không đáng kể. Do vậy mà với tình trạng nợ đọng như hiện nay thì khả năng thanh toán của Công ty là rất thấp, để đáp ứng được nhu cầu thanh toán của Công ty nên Công ty đã phải tiến hành vay ngoài và vay ngân hàng giá trị của các khoản vay ngắn hạn này tăng dần qua các năm và năm 2002 tăng thêm 48,52% so với năm 2001. đồng thời với việc vay ngắn hạn công ty còn chiếm dụng vốn của các đơn vị nội bộ để hạn chế bớt việc vay ngân hàng . tuy nhiên đây chỉ là những biện pháp tạm thời và chỉ giúp cho Công ty thanh toán những khoản nợ với giá trị nhỏ không thể áp dụng trong lâu dài. Qua đó cho thấy việc thu hồi nợ của Công ty là hết sức quan trọng, nếu muốn phát triển trong tương lai và tự chủ trong kinh doanh thì công ty cần phải sớm giả quyết tồn tại này. 3.3 Chưa xác định được mức dự trữ hàng hoá tối ưu cho từng thời điểm Để xác định đượcợc mức dự trữ tối ưu cần xem xét cả hai mặt đó là yếu tố thị trường cung cấp và yếu tos thị trường tiêu thụ Đối với thị trường cung cấp mặc dù Công ty đã tìm cho minh những nhà cung cấp tin cậy và luôn có thể đáp ứng đượcợc số lượng cũng như chất lượng của Công ty. Tuy nhiên Công ty vẫn chưa xác định đượcợc cho mình lượng nhà cung cấp hợp lý, dẫn đến có tình trạng bị nhà cung cấp ép giá lam cho giá các yếu tố đàu vào tăng cao dẫn đến giá thành sản phẩm cao ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Đồng thời cũng phải xét tới thòi gian chuyên chở cũng là một vấn đè dáng chú ý. Vì không ít lần nhà cung cấp chuyển hàng đén cho công ty không dúng thời gian quy điịnh do công ty chưa có được sự tự chủ đối với các nhà cung cấp dẫn đến tình trạng nhà cung cấp chền ép. Đối với thị trường tiêu thụ Công ty còn rất hạn chế trong việc dự toán khả năng tiêu thụ về số lượng, chủng loại, giá cả và thời gian. Trong bốn năm qua không ít lần hàng tồn kho của Công ty là không có gì và cũng có lúc hàng tồn kho quá nhiều dẫn đến tình trạng kinh doanh bị bế tắc và không có hiệu quả. Điều đó cho thấy rằng việc dự trữ hàng hoá cho từng thời điểm là chưa hợp lý lúc thì quá thừa lúc lại quá thiếu làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới kết quả sản xuất kinh doanh nói chung và vốn lưu động nói riêng. Nếu muốn tiếp tục phát triển một cách vững chắc trong tương lai Công ty cần phải chú ý tới vấn đề này và đưa ra những giải pháp tối ưu. 3.4 Chưa đa dạng hoá được nguồn vốn lưu động, cưa giảm được tỷ trọng của nợ ngắn hạn trong cơ cấu vốn lưu động Là một đơn vị có tiềm năng như Công ty thì nhu cầu vốn lưu động là rất lớn, đặc biệt là nhu cầu vốn bằng tiền của Công ty khi sản xuất kinh doanh. Với quy mô ngày càng mở rộng thì vấn đè này trở nên bức xúc hơn bao giờ hết.Với số liệu năm 2002 cho thấy doanh thu của Công ty tăng hơn 184,35%, làm cho nhu cầu vốn lưu động cũng tăng cao. Điều này được thể hiện rõ ở cơ cấu tài sản dự trữ và các khoản phải thu của Công ty tăng rất cao và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản lưu động. Với tốc đọ phát triển như vạy chúng ta dám khẳng định rằng Công ty sẽ không đủ lượng vốn lưu động để đảm bảo cho nhu cầu sản xuất của Công ty. Trên thực tế cho thấy Công ty huy động nguồn vốn lưu động của mình bằng cách vay ngắn hạn là chính và chủ yếu là từ chiếm dụng vốn của các đơn vị nội bộ. Theo bảng cơ cấu nguồn vốn lưu động của các năm từ 1999-2002 ta nhận thấy cuối năm 2002 thì nợ ngắn hạn của Công ty chiếm tới 77,86% trong tổng nguồn vốn tức là 41.652.633.309 đồng đay là một tỷ trọng quá cao và có thể nói là rất nguy hiểm nếu kéo dài tình trạng này thì Công ty sẽ không có khả năng thanh toán. Trong nợ ngắn hạn như đã nói ở trên thì vay ngắn hạn là 18.967.664.760 đồng chiếm 35,46% trong tổng nguồn vốn dây là một tỷ lệ cao nó làm giảm uy tín của Công ty trên thị trường và gây khó khăn cho Công ty trong quá trình huy động vốn. Cũng qua đó cho chúng ta thấy Công ty chưa có biện pháp huy động vốn lưu động một cách hưu hiệu và chỉ thực hiện huy động vốn bằng những phương pháp có tính chất tạm thời, không ổn định và không mang lại hiệu quả cao, gây nguy hiểm trong tương lai. Trong khi với xu hướng hội nhập, liên doanh liên kết đang diễn ra hết sức mạnh mẽ, tạo cơ hội kinh doanh cho các bên và đồng thời cũng là mọtt biện pháp huy động vốn lưu động một cách hiệu quả thì Công ty lại chua chú ý đến. Nói một cách khác thì hiện nay Công ty chỉ mới thành Công trong việc huy động các nguồn vốn ngắn hạn còn việc huy động các nguồn vốn dài hạn để tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh thì cồn rất yếu kém. Đây là một tồn tại mà Công ty cần sớm khác phục để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của mình, đồng thời cũng góp phần quản lý cố hiệu quả nguồn vốn lưu động của mình hơn nữa. Kết luận Quản lý sử dụng Vốn lưu động có hiệu quả nhằm dảm bảo và phát triển Vốn lưu động trong các DN quốc doanh là vấn đề cần thiết và khó khăn trong tình hình kinh tế hiện nay, khi Nhà nước đã thực hiện giao vốn cho các DN tự quản lý. Mở rộng quyền làm chủ đồng thời cũng tăng cường thêm trách nhiệm của các DN trước sự diễn biến phức tạp và tính cạnh tranh gay gắt của thị trường buộc các DN phải quan tâm hơn đến hiệu quả của mỗi đồng vốn được đưa vào sử dụng. Là một đơn vị hạch toán kinh doanh độc lập trong cơ chế thị trường, Công ty Xây dựng Bưu điện cũng như bao DN khác luôn phải đối mặt với tình hình cạnh tranh trên thương trường để tìm kiếm lợi nhuận và mở rộng quy mô. Những năm qua, Công ty đã có nhiều cố gắng, tích cực vươn lên trong hoạt động sản xuất kinh doanh và làm ăn có lãi, điều mà không phải DN Nhà nước nào cũng làm được, nhất là trong lĩnh vực xây dựng và lắp đặt với sức cạnh tranh gay gắt của cơ chế thị trường. Nhưng bên cạnh đó, trong công tác quản lý tài chính nói chung và công tác quản lý sử dụng Vốn lưu động nói riêng Công ty vẫn bộc lộ một số mặt còn hạn chế, làm ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. Sau một thời gian thực tập tại Công ty Xây dựng Bưu điện, em đã tiếp thu được những kiến thức thực tế về quản lý VLĐ và cũng mạnh dạn đưa ra một số ý kiến nhằm góp phần nâng cao hiệu quả quản lý sử dụng VLĐ của Công ty. Tuy nhiên, do sự hạn chế về thời gian và tầm hiểu biết nên việc phân tích, đánh giá của đề tài chưa thật sâu sắc, các biện pháp chưa đầy dủ và hoàn thiện. Song em cũng hy vọng một phần nào giúp ích được cho công tác quản lý VLĐ của Công ty trong thời gian tới. Một lần nữa, em xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới các thầy cô giáo trường Đại học kinh tế quốc Dân, các cô chú, anh chị công tác tại Công ty Xây dựng Bưu điện và đặc biệt là giảng viên chính nguyễn thị tứ đã tận tình dạy bảo, hướng dẫn, giúp đỡ em hoàn thành . Mục lục Bảng 01 : phân tích cơ cấu tài sản và nguồn vốn cuối các năm 1999, 2000, 2001, 2002 1999 2000 2001 2002 Số tiền đồng Tỷ trọng % Số tiền đồng Tỷ trọng % Số tiền đồng Tỷ trọng % Số tiền đồng Tỷ trọng % Tài sản i. Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn 1. Tiền tại quỹ và tiền gửi ngân hàng 2. Các khoản phải thu 3. Hàng lưu kho 4. Tài sản lưu động khác II. Tài sản cố định và đầu tư dài hạn 1. Tài sản cố định 2. Các khoản đầu tư tài chính dài hạn 3. Chi phí xây dựng Cơ bản dở dang 26.001.470.142 1.875.718.343 84,45 31.192.974.029 83,56 35.497.365.070 59,47 53.499.530.253 69,15 Tổng cộng tài sản Nguồn vốn I. Nợ phải trả 1. Nợ ngắn hạn 2. Nợ dài hạn II. Nguồn vốn chủ sở hữu 1. Nguồn vốn_ quỹ 2. Nguồn kinh phí Tổng cộng nguồn vốn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc9524.doc
Tài liệu liên quan