Đề tài Một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút FDI của EU, Mỹ, Nhật vào Việt Nam

Từ khi EU, Mỹ, Nhật đầu tư vào Việt nam, hoạt động FDI đã có những đóng góp tích cực cho quá trình phát triển nền kinh tế xã hội của Việt nam như góp phần quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Việt nam, góp phần giải quyết công ăn việc làm, đóng góp vào ngân sách nhà nước, việc chuyển giao công nghệ. Tuy nhiên, cũng có không ít những điều còn trăn trở như số dự án đầu tư của ba nước trọng điểm này vào Việt nam chỉ tập trung chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp tập trung mạnh vào dầu khí. Trong khi lĩnh vực nông nghiệp hầu như còn bỏ ngỏ chỉ có Pháp có một số dự án trong nông nghiệp có quy mô đáng kể còn hầu hết đều rất nhỏ, vốn đầu tư của EU, Mỹ, Nhật vào Việt nam còn quá nhỏ bé so với tiềm năng của cả hai nước, việc chuyển giao công nghệ còn nhiều hạn chế. Chính vì vậy, việc tiếp tục hoàn thiện thủ tục đầu tư trực tiếp nước ngoài, tăng cường kết cấu hạ tầng, hoàn thiện các chính sách khuyến khích đầu tư, tăng cường hoạt động xúc tiến đầu tư đang là những vấn đề đặt ra nhằm thu hút ngày càng nhiều các nhà đầu tư vào Việt nam.

doc96 trang | Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 1094 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút FDI của EU, Mỹ, Nhật vào Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thấp hơn nhiều đối tác khác. Số dự án đầu tư của Nhật bị giải thể trước thời hạn là 13 chiếm chưa đầy 4% số dự án được cấp phép, thấp hơn nhiều so với tỷ lệ chung (16%). Số vốn đăng ký bị rút giấy phép trước thời hạn của các nhà đầu tư Nhật tại Việt Nam là 292,4 triệu USD, chiếm trên 8% tổng vốn đầu tư được cấp phép, tương đương với tỷ lệ chung của các dự án đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Loại trừ nhân tố ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ Châu Á và nền kinh tế Nhật Bản chưa phục hồi sau sự sụp đổ của nền kinh tế "bong bóng" với sự bất ổn của đồng Yên, thì đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam nhìn chung vẫn còn chậm, chưa thực sự tương xứng với tiềm lực kinh tế của Nhật Bản và nhu cầu phát triển kinh tế của hai quốc gia. Ngoài ra sự mất cân đối về đầu tư của Nhật Bản tại Việt Nam theo vùng và ngành kinh tế tạo nên những khó khăn không nhỏ trong việc thực hiện những chính sách kinh tế xã hội như việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế, giảm dần khoảng cách phát triển giữa các vùng, miền trong cả nước... Để giải thích cho lý do này, TS. Toshihiko Kinoshita, giám đốc điều hành Viện nghiên cứu về phát triển và đầu tư quốc tế, Ngân hàng xuất - nhập khẩu Nhật Bản nêu ra "những mối quan tâm chủ yếu" của công ty Nhật Bản đó là: Thứ nhất, là chi phí lao động, đất đai, nguyên liệu thô và năng lượng; Thứ hai, là qui mô thị trường địa phương hoặc thị trường khu vực; Thứ ba, là những trở ngại về vật chất, địa lý và những cản trở do connb tạo ra trong đó có những chính sách công nghiệp là cái quyết định những điều kiện trên. Bên cạnh đó các nhà đầu tư Nhật vẫn còn chưa hết e ngại trong việc đầu tư vào Việt Nam, với lý do môi trường đầu tư Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập: hạ tầng cơ sở còn yếu kém, hệ thống pháp luật đang trong quá trình hoàn chỉnh và nhất là các thủ tục hành chính xét duyệt và thẩm định các dự án đầu tư còn chậm và gây phiền hà; mặc dù Luật đầu tư ở Việt Nam thông thoáng hơn so với các nước, nhưng lại thiếu một hệ thống hành chính hoàn chỉnh để thực hiện. Hiện nay, Việt Nam đang cố gắng cải thiện môi trường đầu tư và đưa ra những chính sách đầu tư hấp dẫn hơn. Chương III MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG KHẢ NĂNG THU HÚT FDI CỦA EU VÀO VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI I. NHU CẦU, MỤC TIÊU VÀ ĐỊNH HƯỚNG THU HÚT FDI. 1. Nhu cầu: Để có một số giải pháp nhằm tăng cường khả năng thu hút FDI của Việt Nam, trước tiên chúng ta cần phải xác định những mục tiêu cũng như các định hướng phát triển cụ thể như sau: 1.1. Nhu cầu về vốn của Việt Nam Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ của Đảng đã nhận định, đất nước ta đang chuyển sang một giai đoạn phát triển mới, đẩy tới một bước sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đầu tư phát triển, hơn lúc nào hết là điều kiện quan trọng hàng đầu để đi tới bước phát triển mới đó. Hội nghị giữa nhiệm kỳ của Đảng đã nhấn mạnh ý nghĩa chiến lược, có tính chất quyết định của việc huy động vốn trong nước, các nguồn lực trong nước; đồng thời cũng nhấn mạnh tính chất quan trọng của nguồn vốn bên ngoài bao gồm cả vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI). Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là sự nghiệp đòi hỏi một khối lượng vốn đầu tư rất lớn. Chỉ trong thập kỷ 90 này, thực hiện chiến lược ổn định và phát triển với mục tiêu tăng gấp đôi tổng sản phẩm trong nước đã cần đến 45 tỷ (quy thành USD) vốn đầu tư. Theo tính toán của cơ quan kế hoạch, con số đó đã gấp 3 lần tổng sản phẩm trong nước hàng năm tạo ra được (bình quân) của một số năm đầu của thời kỳ 10 năm này, trong đó hơn 50% là nguồn vốn huy động từ bên ngoài. Hơn nữa, nguồn vốn đầu tư trực tiếp của nguồn bên ngoài chắc chắn sẽ chiếm hơn 50%. Những tính toán đó chưa phải là thật chính xác, đặc biệt là với mục tiêu tăng gấp đôi tổng sản phẩm trong nước tính bình quân đầu người. Hơn nữa, với hệ số đầu tư (ICOR) được biết là có mức dự báo 3 - 3,5 là một hệ số khá tiên tiến. Đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế không những tất yếu làm thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh hơn tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ trong tổng sản phẩm trong nước mà thời kỳ đầu của quá trình đó chắc chắn là phải ưu tiên hiện đại hoá cơ sở kinh tế hạ tầng. Đó là những ngành đòi hỏi vốn rất lớn, dài ngày và hệ số đầu tư tương nhiên sẽ cao lên rất nhiều. Cơ cấu đầu tư như vậy là không tránh khỏi và hệ số đầu tư được dự tính như trên có lẽ là mức khá khiêm tốn. Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 1994 dự kiến tốc độ tăng trưởng 8% đòi hỏi khoảng 40.000 tỷ đồng Việt Nam vốn đầu tư, trong đó hơn 1/4 là vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài. Đến nay có thể dự báo tỷ trọng đó còn có khả năng tăng lên với sự cải thiện hơn nữa môi trường đầu tư nói chung và các điều kiện thu hút vốn đầu tư trực tiếp nói riêng. Như vậy, trên giác độ nhu cầu vốn, tức là về "cầu" của thị trường vốn ở nước ta có thể khẳng định vai trò đang tăng lên của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nền kinh tế nước ta trong giai đoạn mới đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Vai trò đó có tính khách quan, ít nhất là do 3 yếu tố sau đây: Một là, xuất phát điểm về phát triển kinh tế nước ta ở giai đoạn đầu công nghiệp hoá là một nền kinh tế thu nhập thấp (thu nhập bình quân đầu người khoảng 200 USD thuộc loại nước thấp nhất thế giới) và tính sinh lợi thấp; cơ cấu kinh tế còn lạc hậu. Điều đó hạn chế mức tiết kiệm trong nước và do đó là nguồn tích luỹ để đầu tư còn hạn hẹp. Hai là, nguồn đầu tư trực tiếp có những ưu thế về chuyển giao công nghệ và quản lý tiên tiến, khả năng bảo đảm tính hiệu quả của vốn đầu tư cao. Ba là, nguồn vốn phát triển này có "độ an toàn" cao so với nguồn vay nước ngoài theo nghĩa là nó không mang theo gánh nặng trả nợ nước ngoài cho nền kinh tế. Chiến lược công nghiệp hoá gắn liền với sự huy động và phát triển các nguồn lực của tăng trưởng. Ở nước ta theo đánh giá hiện có, hai nguồn lực tài nguyên và con người đều có thể làm chỗ dựa ban đầu cho quá trình công nghiệp hoá. Một mặt, tài nguyên thiên nhiên đa dạng (tuy không có số lượng lớn) và việc khai thác các tài nguyên: dầu mỏ, gạo thuỷ, hải sản, nông sản cho xuất khẩu là nguồn ngoại tệ quan trọng có thể dùng để tạo vốn. Mặt khác, lao động hiện rất dồi dào và giá rẻ tương đối so với các quốc gia khác trong khu vực đang là thế mạnh có thể sử dụng kích thích việc thu hút kỹ thuật nước ngoài. Hai nguồn lực này được coi là sức kéo quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế đến năm 2000. Vấn đề là làm thế nào để đưa cả hai nguồn lực sức kéo này tham gia hữu hiệu vào việc tận dụng thế mạnh so sánh của các nền kinh tế khác trên thế giới cho công nghiệp hoá. Bởi vì, tuy nguồn lao động của ta rất dồi dào và rẻ, song lại có sự bất hợp lý trong cơ cấu: nhiều kỹ sư, thiếu công nhân lành nghề; lao động có kỹ thuật ít, lao động phổ thông nhiều, ít biết ngoại ngữ; thiếu các nhà kinh doanh tài bà, thiếu các chuyên gia ngân hàng, tài chính v.v... Sự mất cân đối này đã làm giảm tính hiệu quả của việc sử dụng lao động ở Việt Nam. Các công ty nước ngoài vào Việt Nam làm ăn, họ phải tuyển mộ nhân viên, phải tìm các đối tác, họ mới thấy rõ những nhược điểm đó và giúp ta phát hiện và khắc phục các lệch lạc này. Biện pháp khắc phục không chỉ bằng con đường đào tạo mà phải bằng cả con đường thuê chuyên gia nước ngoài nữa. Cũng như vậy, nguồn tài nguyên phong phú của ta hiện chưa được khai thác, là do ta chưa có đủ vốn và kỹ thuật. Đầu tư trực tiếp của nước ngoài sẽ giúp chúng ta khai thác và sử dụng các tài nguyên đó. Có thể nói những ngành công nghiệp quan trọng nhất của tương lai, Việt Nam hiện chưa có như: kỹ thuật vi điện tử, kỹ thuật sinh học, công nghiệp vật liệu mới, hàng không dân dụng, viễn thông, rô bốt và máy công cụ, máy tính điện tử kèm phần mềm... Chính những công ty nước ngoài đầu tư trực tiếp vào Việt Nam sẽ mang đến cho chúng ta những ngành đó, cũng có nghĩa là mang đến cho chúng ta những tài nguyên tiên tiến nhất. Trên phương diện đó, có thể coi FDI là công cụ quan trọng và có ý nghĩa trong giai đoạn đầu tiến hành công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Để có được một lượng FDI đủ phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế, tất nhiên sẽ phải thu hút vốn đầu tư từ nhiều nước khác nhau, song Nhật Bản với tiềm năng về vốn và kỹ thuật lớn vào bậc nhất thế giới, sẽ có thể trở thành nước đầu tư lớn nhất vào Việt Nam, nếu ta có một chiến lược thu hút vốn đầu tư hiệu quả. 2. Mục tiêu. Để thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 và phương hướng nhiệm vụ Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2005, khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài phải phát triển ổn định hơn, đạt kết quả cao hơn, đặc biệt là về chất lượng, so với thời kỳ trước, để đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Cụ thể hơn, hoạt động đầu tư nước ngoài trong thời kỳ 2001 - 2005 phải đạt được các mục tiêu sau : 2.1. Vốn đăng ký của các dự án cấp giấy phép mới : khoảng 12 tỷ USD. 2.2. Vốn thực hiện : khoảng 11 tỷ USD. 2.3. Đến năm 2005 đóng góp khoảng 15% GDP, 25% tổng kim ngạch xuất khẩu và khoảng 10% tổng thu ngân sách của cả nước (không kể dầu khí). 3. Định hướng thu hút FDI của Việt Nam: 3.1. Hình thành thị trường vốn tại Việt Nam: Hiện nay, vai trò của vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài còn bị hạn chế và do đó khả năng thu hút nguồn vốn này còn chưa được sử dụng đầy đủ do trình độ phát triển thị trường vốn ở nước ta hiện còn rất thấp, đang ở giai đoạn sơ khai của sự khởi động. Vốn đầu tư trực tiếp chủ yếu tham gia vào thị trường vốn trung và dài hạn trong lúc sự phát triển thị trường vốn ở nước ta chưa vượt ra khỏi khuôn khổ của thị trường vốn ngắn hạn được bao nhiêu. Phần vốn này do nguồn tích luỹ nhiều năm trong nước trên thực tế là chưa được "thương mại hoá" và đương nhiên chưa tham gia vận động theo các nguyên tắc của thị trường. Phần vốn đầu tư hàng năm do nguồn ngân sách Nhà nước cấp cũng như hầu hết tín dụng đầu tư của Nhà nước cũng còn nằm ngoài sự vận động của các "Kênh" của thị trường vốn. Thị trường vốn đầu tư trong nước ở giai đoạn này chỉ mới khởi động một các tự phát ở phần vốn của các thành phần "ngoài quốc doanh", của khu vực kinh tế tư nhân và cá thể. Những hàng hoá của thị trường sơ khai này đang được chuẩn bị; hy vọng rằng trong vài nămtới loại chứng từ có giá, nhất là trái phiếu Chính phủ, trái phiếu Công ty, các loại tín phiếu, cổ phiếu sẽ trở thành những loại hàng hoá "chủ lực" thực sự mang đủ các thuộc tính cần thiết của nó trên thị trường vốn, có thể luân chuyển, mua - bán được tương đối bình thường theo giá cả thị trường của chúng. Trong một số văn bản pháp quy cũng đã từng dự kiến khả năng thử nghiệm cho phép các nhà đầu tư nước ngoài mua một phần cổ phieéu của doanh nghiệp trong nước; các tổ chức kinh tế của nhà nước và nhà đầu tư trong nước được mua cổ phiếu của các công ty 100% vốn nước ngoài ởnm ta và các công ty liên doanh - hợp vốn trong và ngoài nước. Có kế hoạch dự kiến bán trái phiếu, cổ phiếu của một số công trình, dự án cho người nước ngoài trên thị trường tài chính quốc tế. Đó là những chủ trương nếu được thực thi sẽ sớm tạo điều kiện mở ra phương thức mới thu hút đầu tư nước ngoài không phải gián tiếp mà là một dạng mới của đầu tư trực tiếp. Điều đó cũng mở ra giai đoạn mới cho các nhà đầu tư nước ngoài tham gia thị trường vốn trong nước cùng với các doanh nghiệp và các nhà đầu tư trong nước. Đó cũng là những tín hiệu cho những người đầu tư biết về thị trường để họ mua và bán - chuyển dịch vốn. Việc vốn đầu tư lần đầu đi vào hoạt động và hầu như tự chu chuyển, không chuyển dịch được là một nhược điểm của tất cả mọi nguồn vốn trong đó có vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài ở nước ta. Nguyên do là thiếu một thị trường vốn phát triển đến mức cần thiết như hiện nay. Xu hướng vận động như vậy có thể có tác động tích cực thúcđẩy sự phát triển thị trường vốn trong nước qua một giai đoạn mới. Tác động tích cực trước hết là làm cho nguồn vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài có thêm hình thức mới, có thêm "kênh" mới thu hút nguồn vốn này. Mặt khác, sẽ có tác động làm chuyển động tích cực nguồn vốn đã đầu tư trực tiếp ở các doanh nghiệp 100% vốn hoặc các công ty liên doanh có điều kiện đổi mới cơ cấu vốn của mình, phân tán rủi ro và tranh thủ hình thành cơ cấu vốn theo mục tiêu tối ưu hoá hiệu quả đồng vốn của mình. thực thi chủ trương "đầu tư - khai thác - chuyển giao" (BOT) cũng mở ra nhiều khả năng liên kết thị trường vốn trong nước và thị trường vốn nước ngoài không kém phần tích cực so với các kênh liên kết khác đã nói trên đây. Một sự gia tăng liên kết như vậy là sản phẩm tất yếu của quá trình phát triển kinh tế theo chiến lược mở cửa ra bên ngoài, tham gia thị trường tài chính quốc tế. Sự phát triển hơn nữa kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN tất yếu đòi hỏi sự phát triển của thị trường vốn và hình thái cao cấp của nó là thị trường chứng khoán ở nước ta trong thời gian tới. Một thị trường chứng khoán có tổ chức có sự quản lý của Nhà nước cũng là sản phẩm tất yếu của quá trình đổi mới cơ cấu đầu tư, cơ cấu kinh tế, trong đó sự tham gia tích cực chủ động không phải chỉ là các nguồn vốn trong nước, các nguồn vốn ngoài quốc doanh mà cả nguồn đầu tư trực tiếp của nước ngoài, và quan trọng là nguồn vốn của khu vực kinh tế quốc doanh, của ngân sách Nhà nước, của các công ty tài chính trong và ngoài nước. Khẳng định sự lạc hậu của thị trường vốn so với đà phát triển của các thị trường hàng hoá, dịch vụ, thị trường tiền tệ trong giai đoạn đổi mới cơ chế và chínhsách kinh tế hiện nay đã thúc đẩy quá trình chuẩn bị cho một thị trường chứng khoán có tổ chức, có quản lý của Nhà nước sớm xuất hiện. Điều này chắc chắn mở ra triển vọng khả quan cho việc huy động vốn, đảm bảo vốn cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, góp phần cải biến cơ cấu và tăng tốc độ phát triển của nền kinh tế ngay trong thập kỷ này và sau đó. Sự phát triển như vậ sẽ thúc đẩy phát triển hơn nữa nguồn vốn đầu tư trực tiếp và nâng cao vai trò và tác dụng tích cực của nguồn vốn này đối với sự phát triển thị trường vốn ở nước ta. Như vậy có một sự quan hệ tỷ lệ thuận: phát triển hơn nữa thị trường vốn sẽ thúc đẩy đầu tư trực tiếp cả về tốc độ tăng, tỷ trọng và vai trò tác động của nó đến tốc độ và cơ cấu kinh tế và ngược lại, sự tăng trưởng đầu tư trực tiếp sẽ có tác động tích cực đến sự phát triển theo chiều rộng và cả chiều sâu của thị trường vốn ở nước ta. 3.2. Phát triển khu chế xuất, mậu dịch tự do, khu công nghiệp tập trung, khu công nghiệp kỹ thuật cao... Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các nước kém phát triển như nước ta thường gặp phải một trở ngại rất lớn là: môi trường pháp lý, kinh tế, xã hội... lạc hậu không thích hợp, cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội kém phát triển, hệ thống ngân hàng- tài chính yếu kém v.v... Các nước kém phát triển lại thường muốn xuất phát từ các yêu cầu của mình, đòi hỏi các công ty nước ngoài đầu tư vào đó. Đây là chỗ không gặp nhau giữa các dòng vốn nước ngoài và các nước kém phát triển, do vậy các dòng vốn nước ngoài đã không chảy vào những nước kém phát triển mà lại chảy ngược vào những nước phát triển. Vào cuối thập kỷ 60 một số nước kém phát triển trước hết là các NIEs đã phát hiện ra chỗ ác tắc này và họ đã thực hiện một giải pháp tháo gỡ quan trọng. Giải pháp đó là thành lập các khu chế xuất, các khu mậu dịch tự do, khu công nghiệp tập trung, khu công nghiệp kỹ thuật cao. Những nước kém phát triển không thể một lúc có thể hiện đại hoá được cơ sở hạ tầng của họ ở mọi nơi trong nước, không thể thiết lập dcmột môi trường pháp lý, kinh tế, xã hội, tài chính ngân hàng v.v... thích hợp được với các công ty nước ngoài trên phạm vi cả nước trong một thời gian được với các công ty nước ngoài trên phạm vi cả nước trong một thời gian ngắn. Nhưng các nước kém phát triển có thể tập trung đầu tư, hiện đại hoá cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, tạo ra một môi trường kinh doanh thích hợp với các công ty nước ngoài trong một số khu vực để có thể thu hút được vốn đầu tư nước ngoài vào đó một cách tốt nhất và tạo ra ở đó những điểm tựa để có thể mở rộng ra ở các vùng khác trong nước. Và tại các khu này, các công ty tự do kinh doanh, tự do lựa chọn ngành nghề họ thích, phù hợp với lợi ích của họ. Chính sách thiết lập các khu chế xuất và mậu dịch tự do đã trở thành quốc sách của nhiều quốc gia, kể cả các nước phát triển nhất như Mỹ, chứ không chỉ là các nước kém phát triển. Và những nước có những đặc khu kinh tế phát đạt nhất, cũng chính là những nước có tốc độ kinh tế tăng trưởng khả quan nhất, nổi bật là các NIEs Châu Á, và trong những năm gần đây là Trung Quốc. Trong mấy năm gần đây Việt Nam đã có chủ trương cho phép thành lập các khu chế xuất, khu công nghiệp tập trung, khu công nghiệp kỹ thuật cao nhưng sự tiến triển của các khu này rất chậm chạp. Khu chế xuất Tân Thuận được thành lập sớm nhất cách đây đã 3, 4 năm rồi, mà nay mới bắt đầu hoạt động yếu ớt với nhiều vấn đề rắc rối mà tự họ khó bề giải quyết. Lý do chủ yếu của tình hình này, là do chúng ta chưa xem trọng đủ mức vị trí của các khu này trong chính sách kinh tế đối ngoại, Nhà nước chưa có đầu tư thích đáng gì. Kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy, không có bàn tay chi viện thực sự của Nhà nước các khu này không thể phát triển nhanh chóng được. Nhà nước phải cho nó một quy chế thông thoáng của một khu vực quốc tế trong một quốc gia có chủ quyền, phải đầu tư vốn để xây dựng các cơ sở hạ tầng (thường vốn của Nhà nước bỏ vào đây là khoảng 1/3), phải cung cấp các cán bộ lãnh đạo và quản lý xuất sắc, các công nhân và cán bộ kỹ thuật lành nghề v.v... Nếu nhà nước phó mặc việc này cho chính quyền các tỉnh, thì làm sao có thể xây dựng nhanh các đặc khu kinh tế này được. 3.3. Thực hiện chiến lược "Săn bắt kỹ thuật và các tài nguyên kinh doanh khác": Trong trường hợp thu hút kỹ thuật bằng đầu tư trực tiếp của Nhật Bản, cần phải cố gắng tiếp thu kỹ thuật từ Nhật Bản đồng thời với việc phấn đấu để tự mình có thể điều hành được nhà máy hoặc công ty trong tương lai. Người ta gọi đó là hiện tượng "Săn bắt kỹ thuật và các tài nguyên kinh doanh" (thuật ngữ chung để chỉ kỹ thuật, tư bản và khảnăng quản lý, kinh doanh). Vấn đề này rất quan trọng vì: - Đó là tiền đề bảo đảm cho sản xuất trong nước có thể phát triển một cách vững chắc. Những xí nghiệp nào là được như vậy sẽ tránh được những tác động từ bên ngoài, giữ vững được hoạt động dù trong quá trình liên doanh, bên đối tác có thể đột nhiên chuyển kinh doanh sang một nước khác, nếu họ muốn thay đổi chiến lược quốc tế. - Chiến lược "Săn bắt tài nguyên kinh doanh" có thể làm cho kỹ thuật nước ngoài tác động đến toàn bộ nền kinh tế đất nước vì nó không ngừng nâng cao trình độ kỹ thuật và khả năng kinh doanh của các tầng lớp lao động, cán bộ quản lý, cán bộ chỉ đạo kinh doanh. - Nhờ có chiến lược săn bắt như vậy, Việt Nam có thể tránh được sự phụ thuộc quá mức vào các xí nghiệp nước ngoài. Cách làm có hiệu quả nhất là tuỳ theo giai đoạn phát triển của từng ngành công nghiệp, nên tìm cách phân chia sự phụ thuộc vào xí nghiệp nước ngoài thành nhiều cấp độ khác nhau. Chiến lược thông minh là trong giai đoạn sản xuất còn non trẻ, để phát triển và tăng cường khả năng cạnh tranh quốc tế, Việt Nam phải biết tranh thủ đến mức cao nhất tài nguyên kinh doanh của các xí nghiệp đa quốc gia, đặc biệt là các xí nghiệp Nhật Bản - những xí nghiệp có trình độ kỹ thuật, quản lý, kinh doanh cao, nhưng sau đó bằng cách tự mình tích luỹ tài nguyên kinh doanh, tiến đến giảm dần mức độ phụ thuộc vào các xí nghiệp Nhật Bản. Các nước đang phát triển thường đứng trước một mâu thuẫn. Một mặt, họ đều muốn tranh thủ kỹ thuật và tiền vốn của nước ngoài, mặt khác, họ lại lo ngại bị nước ngoài chi phối về kinh tế. Chính chiến lược "Săn bắt kỹ thuật và các tài nguyên kinh doanh khác" mô tả trên đây có thể giúp giải quyết được mâu thuẫn này. Vận dụng nó một cách khôn khéo trong định hướng hợp tác đầu tư với nước ngoài, vệ sinh có thể tiến hành chuyển dịch cơ cấu đầu tư và cơ cấu kinh tế, rút ngắn quá trình công nghiệp hoá đất nước. Qúa trình công nghiệp hoá thông qua thay thế nhập khẩu và từng bước tiến tới hướng vào xuất khẩu không chỉ đem lại lợi íc kinh tế cho các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng về mặt tạo ra nhiều sản phẩm và việc làm, mà có còn kích thích các nền kinh tế đã phát triển đạt hiệu quả cao hơn nữa trong việc sản xuất các mặt hàng kỹ thuật cao, là những thứ các nước đang phát triển đòi hỏi để thực hiện công nghiệp hoá. Để thực hiện những chiến lược lớn trên, ta cần phải có những giải pháp cụ thể gì? Điều này sẽ được giải đáp ở phần tiếp theo. II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG KHẢ NĂNG THU HÚT FDI CỦA EU, MỸ , NHẬT VÀO VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI. 1. Một số giải pháp nhằm tăng cường khả năng thu hút FDI của EU, Mỹ, Nhật vào Việt Nam trong thời gian tới 1.1. Tăng cường các chính sách thu hút vốn đầu tư của EU, Mỹ, Nhật Bên cạnh việc thực hành và thực thi các chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài nói chung, cần tiếp tục bổ sung các các ưu đãi khuyến khích mạnh mẽ đầu tư của EU, Mỹ, Nhật vào các lĩnh vực theo hướng chủ yếu sau: 1.1.1. Đối với các ngành công nghiệp chế biến xuất khẩu: Thực hiện công bố hạn ngạch công bằng giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp đối với các mặt hàng xuất khẩu bằng hạn ngạch. Thực hiện chính sách tài trợ xuất khẩu như chính sách tín dụng ưu đãi, chính sách tỷ giá hối đoái khuyến khích xuất khẩu. Cho phép tự cân đối ngoại tệ . Thành lập quỹ hỗ trợ xuất khẩu vào EU, Mỹ, Nhật nhằm hỗ trợ doanh nghiệp gặp khó khăn về tài chính khi xuất khẩu sang EU, Mỹ, Nhật như hỗ trợ một phần lãi suất, bảo lãnh tín dụng xuất khẩu. Có chính sách ưu đãi về thuế với điều kiện là sản phẩm được xuất khẩu sang thị trường các nước này. Không thu thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài trong vòng 3 - 5 năm kể từ khi sản phẩm được xuất khẩu sang EU, Mỹ, Nhật. 1.1.2. Đối với các dự án sử dụng công nghệ và kỹ thuật tiên tiến của EU, Mỹ, Nhật. Đưa các dự án này vào doanh mục vào doanh mục các dự án đặc biệt khuyến khích đầu tư. Nhà nước chịu toàn bộ chi phí đào tạo và đào tạo lại đội ngũ lao động để sử dụng máy móc, thiết bị hiện đại được đưa vào Việt Nam. 1.1.3. Đối với các dự án phục vụ phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn.  Đưa các dự án này vào doanh mục đặc biệt khuyến khích đầu tư, với các chính sách miễn tiền thuê đất trong suốt thời gian hoạt động của dự án . Áp dụng thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp ưu đãi nhất 10% . Đảm bảo hỗ trợ cân đối ngoại tệ trong toàn bộ quá trình hoạt động của dự án.  Ưu đãi đặc cánh cho các dự án tạo giống cây con mới, chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu xuất khẩu . 1.1.4. Thiết lập chính sách ưu đãi đặc biệt đối với các tập đoàn lớn của EU, Mỹ, Nhật đầu tư vào Việt Nam như cho phép thí điểm các tập đoàn lớn của họ được thành lập công ty quản lý vốn, quỹ hỗ trợ đầu tư, công ty đa mục đích, đa dự án . 1.1.5. Có chính sách ưu đãi để thu hút vốn đầu tư của các công ty nhỏ và vừa của các nước trên bằng cách tích cực tuyên truyền về sự hấp dẫn về môi trường đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thông qua các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài, thông qua hội thảo về xúc tiến đầu tư ở các nước này. 1.1.6. Hỗ trợ các công ty EU, Mỹ, Nhật trong việc chuẩn bị tiếp cận thị trường Việt Nam bằng việc cung cấp các thông tin về các thủ tục để tiến hành đầu tư tại Việt Nam thông qua việc xây dựng trung tâm thông tin về Việt Nam ở các nước này. 1.1.7. Hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa kinh doanh tại Việt Nam thông qua quỹ hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEDF) bắt đầu hoạt động từ 1/1999. 1.1.8. Giảm và tiến tới không thu thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài của các doanh nghiệp nhỏ và vừa. 1.2. Cải thiện môi trường đầu tư. 1.2.1. Về chính trị, pháp luật Ở Việt Nam từ năm 1977 đã công bố điều lệ đầu tư nước ngoài, nhưng về cơ bản không thực hiện được. Thực trạng này do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó chủ yếu là nguyên nhân bên trong, tức là môi trường đầu tư của Việt Nam khi đó chưa thông thoáng. Chúng ta chưa nhận thức đầy đủ người điều kiện để tiếp nhận đầu tư và quyền lợi kinh doanh của người nước ngoài, mà chỉ chú ý đến quyền lợi của mình. Do vậy, không được các nhà đầu tư nước ngoài hưởng ứng. Rút kinh nghiệm từ thực tiễn trong nước và tham khảo bên ngoài, luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được công bố tháng 12 năm 1987 đã đảm bảo được quyền lợi và tính hấp dẫn cho các bên tham gia đầu tư, do vậy đã được giới đầu tư quốc tế hưởng ứng. Để giúp các chủ đầu tư thực hiện luật dễ dàng, nhà nước đã ban hành hàng loạt các văn bản hướng dẫn chi tiết thi hành luật, trong đó quan trọng nhất là nghị định 139/HĐBT ban hành ngày 05/9/1988. Sau hơn 2 năm thực hiện, ngày 30/6/1990 Quốc hội Việt Nam đã sửa đổi bổ sung luật đầu tư. Tiếp đó Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định 28/HĐBT thay thế cho nghị định 139/HĐBT và có hiệu lực từ ngày 06/2/1991. Đến nay đã hình thành được hệ thống văn bản pháp lý về đầu tư nước ngoài cả "chiều dọc" và "chiều ngang". Đây là một cố gắng rất lớn trong lĩnh vực luật pháp nói riêng và đầu tư nước ngoài nói chung của Việt Nam. Tuy nhiên, qua thể nghiệm thực tiễn đã bộc lộ không ít những sai sót và hạn chế có thể khái quát như sau: hệ thống pháp luật còn chưa đồng bộ và cụ thể, đặc biệt thực hiện luật pháp còn tuỳ tiện, gây nhiều khó khăn rắc rối cho chủ đầu tư. Như nhận xét của các nhà đầu tư nước ngoài "Hệ thống văn bản pháp luậtcủa Việt Nam nói chung là tốt nhưng thiếu tính bảo đảm vững chắc, nhất là tuỳ tiện khi thi hành. Nhiều văn bản pháp lý ban hành chậm, nội dung của một số điều khoản trong văn bản pháp lý còn chồng chéo, chưa thống nhất, thậm chí còn có chỗ mâu thuẫn...". Để khắc phục những thiếu sót, nhược điểm trên, hiện nay những việc sau đây đang được triển khai: + Rà soát lại toàn bộ hệ thống pháp luật có liên quan cả chiều dọc lẫn chiều ngang để tìm ra những điểm bất hợp lý, chồng chéo hoặc còn thiếu để điều chỉnh, bổ sung. + Thể chế hoá chính sách đầu tư trực tiếp của ngành và địa phương như là các văn bản dưới luật, trên cơ sở đó ban hành các tài liệu hướng dẫn đầu tư của từng ngành, từng địa phương cụ thể. + Ban hành thêm một số luật và quy chế cần thiết như luật đầu tư gián tiếp, hoàn chỉnh quy chế khu chế xuất, khu công nghiệp tập trung, khu công nghiệp kỹ thuật cao, luật công ty cổ phần và các luật kinh tế khác. + Đẩy mạnh các công tác nghiên cứu, tham khảo luật đầu tư nước ngoài của các nước trên thế giới, đặc biệt các nước trong khu vực. + Tăng cường kiểm soát việc thực hiện pháp luật, khắc phục tình trạng thực hiện luật còn tuỳ tiện, theo cảm tính như hiện nay. 1.2.2. Hoàn thiện hệ thống quản lý đầu tư nước ngoài Để tăng tính khả thi của dự án và định hướng theo quy hoạch chung của nền kinh tế quốc dân, công tác quản lý các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tập trung vào hai vấn đề lớn: Thẩm định dự án và quản lý các dự án được cấp giấy phép. + Công tác thẩm định dự án: trong thời gian qua nhìn chung chất lượng thẩm định tăng dần, đã chuyển từ thẩm định giản đơn, thuần tuý xem xét hồ sơ sang việc đánh giá tổng hợp với sự phối hợp của nhiều ngành và địa phương. Đã có sự cố gắng đảm bảo quy trình, thời gian và giảm dần phiền hà đối với chủ dự án trong quá trình làm thủ tục. Tuy nhiên, công tác thẩm định dự án đã bộc lộ nhiều hạn chế gây cản trở đến quá trình đầu tư của các chủ dự án như: chưa bảo đảm đúng thời gian luật định; sự phối hợp thẩm định dự án của một số ngành chưa thật đầy đủ, việc gửi chậm hoặc không gửi ý kiến thẩm định đã gây khó khăn cho việc cấp giấy phép đầu tư. Các thủ tục cấp giấy phép còn phiền hà (muốn xin được giấy phép phải qua nhiều con dấu, chỉ thiếu một con dấu thì dự án bị om lại) v.v... Để nâng cao chất lượng thẩm định dự án, hiện nay đang giải quyết những công việc sau: - Tăng cường sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan quản lý và chủ dự án đầu tư, trong việc thẩm định dự án, nhất là các cơ quan như, Uỷ ban nhà nước về hợp tác và đầu tư (SCCI), Uỷ ban kế hoạch Nhà nước, Ngân hàng, Bộ thương mại, Bộ khoa học công nghệ và môi trường, Bộ tài chính v.v... - Xây dựng quy trình thẩm định dự án đảm bảo chất lượng và theo thông lệ quốc tế. - Phân cấp và quy trách nhiệm cụ thể đố với các ngành hữu quan, giảm bớt các mối phê chuẩn cấp giấy phép. - Triển khai việc hướng dẫn cách thức xây dựng dự án đầu tư và phát hành mẫu hồ sơ cho một số ngành chủ yếu. + Công tác quản lý các dự án: Việc theo dõi các chủ đầu tư hoạt động có đúng quy định của giấy phép hay không là vấn đề hết sức quan trọng và phức tạp. Trong thời gian qua đã có nhiều dự án hoạt động không đúng giấy phép. Công tác kiểm tra các dự án được cấp giấy phép trên 6 tháng mới được tiến hành đã cho thấy những thiếu sót như: do thiếu theo dõi thường xuyên triển khai dự án nên không kịp thời giải quyết những khó khăn mắc mớ trong thực hiện dự án; một số cơ quan Nhà nước thực hiện kiểm tra một cách tuỳ tiện, không đúng pháp luật; cán bộ kiểm tra chưa thông thạo pháp luật, chưa nắm chắc nội dung và phương pháp kiểm tra, nhất là kiểm tra tài chính của xí nghiệp; xử lý các sai phạm còn chậm và chưa kịp thời, chưa hình thành được mạng lưới quản lý đầu tư nước ngoài thống nhất trong cả nước... Hướng khắc phục những hạn chế trên là: - Tăng cường kiểm tra theo dõi quá trình triển khai những dự án theo pháp luật. - Xử lý kịp thời và kiên quyết các dự án hoạt động sai giấy phép. - Đặc biệt chú ý đến sự am hiểu pháp luật,nghiệp vụ và ngoại ngữ của các cán bộ trong đoàn kiểm tra. - Cụ thể hoá các chính sách đầu tư cho từng ngành và địa phương, trên cơ sở đó làm căn cứ để kiểm tra các hoạt động của các chủ đầu tư. - Thường xuyên ban hành sửa đổi các mẫu hồ sơ, báo cáo và kiểm tra đều đặn việc thực hiện các báo cáo này của xí nghiệp. 1.2.3. Nâng cấp cơ sở hạ tầng hiện có: Hầu hết các nhà đầu tư nước ngoài đến Việt Nam đều phàn nàn về cơ sở hạ tầng quá kém, nhất là giao thông bưu điện. Thực ra vấn đề này gần như chưa được chuẩn bị trước khi tiếp nhận đầu tư nước ngoài. Chính vì thế Việt Nam đã chú trọng những ưu tiên của dự án vào cơ sở hạ tầng. Nhưng do chưa có khuyến khích hợp lý, nên đã không được các nhà đầu tư nước ngoài hưởng ứng (trừ một số dự án trong lĩnh vực viễn thông và khách sạn). Để giải quyết vấn đề này cần thực hiện các công việc sau: + Giảm hoặc miễn thuế trong một thời gian đủ lớn để hấp dẫn các dự án đầu tư vào cơ sở hạ tầng. + Nhà nước khuyến khích các chủ đầu tư Việt Nam tham gia liên doanh với bên nước ngoài bằng các khuyến khích về tài chính, cấp tín dụng, viện trợ... + Nhà nước dành phần lớn nguồn tài chính theo chương trình ODA tài trợ cho các dự án đầu tư vào cơ sở hạ tầng (đặc biệt là nguồn vốn từ Chính phủ Nhật). + Sớm hình thành và thực hiện nghiêm chỉnh luật giao thông trong cả nước (như Nghị định 13 về An toàn giao thông của Chính phủ). + Nhanh chóng đầu tư nâng cấp một số công trình trọng điểm có ảnh hưởng thiết thực, cấp bách đến sự phát triển kinh tế - xã hội trong cả nước. 1.2.4. Tập trung hỗ trợ các doanh nghiệp EU , Mỹ , Nhật duy trì và phát triển sản xuất kinh doanh tại Việt Nam. 1.2.4.1. Thực tiễn hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và các nước cho thấy đây là phương vận động đầu tư có hiệu quả nhất, có tác dụng tích cực cho việc xây dựng hình ảnh về một môi trương đầu tư hẫp dẫn và có sức thuyết phục đối với các nhà đầu tư tiềm năng. 1.2.4.2. Tạo mọi điều kiện thuận lợi để triển khai nhanh chóng dự án đầu tư. Quy rõ ràng về việc giải phóng mặt bằng. Linh hoạt hơn trong việc chuyển nhượng vốn, điều chỉnh mục tiêu dự án hoặc tỷ lệ xuất khẩu, miễn, giảm tiền thuê đất, mở rộng diện ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp , nhanh chóng hoàn thuế VAT. Cho phép các doanh nghiệp EU , Mỹ , Nhật tự do áp dụng hệ thống kiểm toán theo tiêu chuẩn quốc tế. Thường xuyên đối thoại trực tiếp với cộng đồng các nhà đầu tư của các nước này. 1.3. Đẩy mạnh công tác vận động đầu tư nước ngoài. Việt Nam bắt đầu tiếp nhận đầu tư nước ngoài trong hoàn cảnh thế giới đang có sự cạnh tranh gay gắt về thị trường đầu tư. Nhiều nước xung quanh đã có nhiều kinh nghiệm và không ngừng cải tiến môi trường đầu tư để tạo sự hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Do vậy, Việt Nam cần đẩy mạnh công tác vận động đầu tư một cách liên tục để gây sự chú ý và quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài. Trong mấy năm qua với sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế như UNIDO và UNDP chúng ta đã tiến hành triển khai các công tác xúc tiến đầu tư ở trong và ngoài nước. Việc mở các diễn đàn đầu tư đã đem lại một số kết quả bước đầu khả quan, trong đó đặc biệt là học được nhiều kinh nghiệm về công tác vận động đầu tư nước ngoài. Thực tế cho thấy phải đẩy mạnh hơn nữa công tác xúc tiến đầu tư theo những hướng sau: + Tăng cường tổ chức các diễn đàn đầu tư ở trong và ngoài nước, cần chú ý đến nội dung của các diễn đàn theo tính chất và địa điểm cụ thể. + Tranh thủ sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế và Việt kiều ở nước ngoài để giới thiệu, quảng cáo về môi trường đầu tư ở Việt Nam. + Tổ chức thường xuyên việc cung cấp và tiếp nhận thông tin từ các sứ quán của Việt Nam ở nước ngoài, có kế hoạch cụ thể để các sứ quán có thể tham gia một cách tích cực và có hiệu quả công tác vận đoọng đầu tư. + Nghiên cứu xây dựng mạng lưới xúc tiến đầu tư ở một số khu vực chủ yếu. + Thiết lập mối quan hệ với các cơ quan quản lý Nhà nước về đầu tư ở một số nước để trao đổi thông tin và kinh nghiệm. Đồng thời đẩy mạnh quan hệ với các công ty tư vấn pháp lý, dịch vụ đầu tư quốc tế để thu thập thông tin và tiếp nhận sự giúp đỡ trong xây dựng pháp luật, vận động đầu tư... + Đẩy mạnh việc nghiên cứu chính sách của các nước có quan hệ với Việt Nam trong hoạt động kinh tế đối ngoại, nhất là những nước có tiềm năng lớn để có những giải pháp thích hợp. + Bộ phận xúc tiến đầu tư cần tăng cường và có kế hoạch phối hợp với các Bộ, Viện, Trường và các cơ quan làm công tác đối ngoại để phối hợp nghiên cứu các chương trình, xu hướng đầu tư quốc tế nhằm tạo thế chủ động trong việc giao tiếp và xử lý các quan hệ với bên ngoài. + Chú trọng công tác biên dịch các tài liệu, văn bản pháp luật về đầu tư nước ngoài của Việt Nam ra tiếng nước ngoài và ngược lại, để các chủ đầu tư trong nước và ngoài nước hiểu biết về nhau tốt hơn. 1.4. Đa dạng hóa các hình thức thu hút vốn đầu tư và kết hợp chặt chẽ giữa các hoạt động kinh tế đối ngoại Để khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài, Việt Nam đang thực hiện chính sách đa dạng hoá các hình thức đầu tư trong đó coi trọng đầu tư gián tiếp. Việc kết hợp hợp lý giữa đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp sẽ tạo ra được nguồn vốn rất lớn cho đất nước. Phối hợp đồng bộ các hoạt động kinh tế đối ngoại sẽ tạo nên một sức mạnh tổng hợp thúc đẩy tốc độ thu hút vốn đầu tư. Thực tế các hoạt động đầu tư có tiến hành trôi chảy được hay không phụ thuộc chặt chẽ vào các hoạt động kinh tế đối ngoại khác, trong đó đặc biệt là ngoại thương và ngân hàng. Việc kết hợp giữa các yếu tố của các hoạt động kinh tế đối ngoại sẽ tạo ra nhiều điều kiện thuận lợi cho các nhà kinh doanh nước ngoài góp phần quan trọng cải thiện môi trường đầu tư tại Việt Nam. 1.5. Đối với hoạt động của ngân hàng, phát triển ngân hàng liên doanh, mở chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam và hoạt động của các công ty nước ngoài cổ phần. Qua các năm thực hiện luật đầu tư, hầu như các nhà kinh doanh nước ngoài không muốn đầu tư vào lĩnh vực ngân hàng, trong khi ngân hàng là "mắt xích" không thể thiếu được đối với các hoạt động đầu tư. Thực trạng này do nhiều nguyên nhân, song chủ yếu là do nhận thức của chúng ta chưa đầy đủ về vai trò của ngân hàng đối với hoạt động kinh doanh của người nước ngoài. Chúng ta còn áp dụng nhiều quy định khắt khe với các nhà đầu tư nước ngoài và nhiều quy định không phù hợp với thông lệ quốc tế (nay đã sửa đổi nhiều và đã có một số ngân hàng của Pháp, Thái Lan, Inđênêxia ... xin mở chi nhánh tại Việt Nam). Thêm vào đó, do luật ngân hàng của chúng ta hoạt động với cơ chế không thông thoáng nên cơ chế thị trường gặp rất nhiều khó khăn lúng túng, từ đó có tâm lý rụt rè, do dự khi cho phép người nước ngoài được kinh doanh Ngân hàng tại Việt Nam. Do vậy trong thời gian tới cần phải nhanh chóng khắc phục những hạn chế trên để thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực này. Đi liền với cơ chế hoạt động của ngân hàng là sự phát triển các hoạt động của công ty cổ phần và thị trường chứng khoán. Đây là những giải pháp quan trọng nhằm đa dạng các hình thức đầu tư để tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người tham gia vào kinh doanh với mọi khả năng của mình. Hơn thế nữa, thông qua các hình thức này mà quá trình lưu thông vốn được thuận lợi và huy động tốt hơn mọi tiềm năng và vốn của nhiều người trong và ngoài nước. 1.6. Đào tạo cán bộ Suy cho cùng chìa khoá để giải quyết mọi vấn đề, quyết định sự phát triển của đầu tư nước ngoài là đội ngũ cán bộ và công nhân làm việc trong lĩnh vực hợp tác đầu tư. Đây là khâu yếu nhất của nước ta trong giai đoạn hiện nay. Trong thời gian qua từ chỗ chưa biết gì về lĩnh vực đầu tư nước ngoài đến chỗ hình thành được đội ngũ cán bộ biết làm việc trong lĩnh vực mới mẻ này. Đây là kết quả lớn nhất trong những năm thực hiện luật đầu tư. Tuy vậy, thực tế đã bộc lộ là rất nhiều yếu kém về hiểu biết hoặc phẩm chất cán bộ của công nhân Việt Nam làm việc trong các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đây là vấn đề hết sức cấp bách cần giải quyết và theo những nội dung chủ yếu sau: + Tăng cường mở các lớp dưới nhiều hình thức và qui mô khác nhau để đào tạo, bồi dưỡng những kiến thức về hợp tác đầu tư nước ngoài cho cán bộ và công nhân Việt Nam. + Chú trọng đào tạo cán bộ quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài. Cán bộ chuyên ngành phối hợp với các địa phương và với sự giúp đỡ của Uỷ ban nhà nước về hợp tác và đầu tư mở các lớp đào tạo cán bộ tham gia hội đồng quản trị và các cán bộ chủ chốt của xí nghiệp liên doanh. + Tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế để đào tạo cán bộ. + Nghiên cứu từng bước hình thành các chuyên đề và môn học về đầu tư nước ngoài để giảng dạy ở một số trường đại học. + Sớm tiêu chuẩn hoá trình độ cán bộ làm việc ở các chức vụ khác nhau trong xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt là trong xí nghiệp liên doanh. 1.7. Tích cực tìm hiểu kỹ văn hoá, tập quán của các thành viên EU, Mỹ, Nhật. Văn hoá kinh doanh có ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của các công ty, các tập đoàn lớn... Do đó ta cần tích cực tìm hiểu văn hoá lối sống, sở thích của các đối tác để từ đó dành được thiện cảm và đặc biệt là sự tôn trọng của đối tác. 2. Một số kiến nghị Sau đây xin đưa ra một số kiến nghị với Nhà nước nhằm tăng sức hấp dẫn của hệ thống chính sách nhằm thu hút đầu tư trực tiếp của Hoa Kỳ vào Việt Nam. 2.1. Hệ thống chính sách khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài Chính sách thương mại cần thông thoáng theo hướng tự do hoá để bảo đảm khả năng xuất nhập khẩu các máy móc thiết bị, nguyên vật liệu sản xuất cũng như sản phẩm, tức là bảo đảm sự thuận lợi, kết nối liên tục các công đoạn hoạt động đầu tư cho các nhà đầu tư nói chung và cho các nhà đầu tư Mỹ nói riêng. Chính sách tiền tệ phải giải quyết được các vấn đề chống lạm phát và ổn định tiền tệ. Trong đó, chính sách lãi suất và tỷ giá tác động trực tiếp đến dòng chảy của FDI với tư cách là những yếu tố quyết định giá trị đầu tư và mức thuận lợi thu được tại một thị trường xác định. Việc xem xét sự vận động của vốn nước ngoài ở các nước trên thế giới cho thấy, dòng vốn đầu tư dài hạn, nhất là FDI đổ vào một nước thường tỷ lệ thuận với sự gia tăng lòng tin của các chủ đầu tư, đồng thời lại tỷ lệ nghịch với độ chênh lệch lãi suất trong - ngoài nước, trong - ngoài khu vực. Nếu độ chênh lệch lãi suất đó càng cao, tư bản nước ngoài càng ưa đầu tư theo kiểu cho vay ngắn hạn, ít chịu rủi ro và hưởng lãi ngay trên chỉ số chênh lệch lãi suất đó. Hơn nữa, khi mức lãi suất trong nước cao hơn mức lãi suất quốc tế thì sức hút với dòng vốn chảy vào càng mạnh. Tuy nhiên, đồng nghĩa với lãi suất cao là chi phí trong đầu tư cao, làm giảm đi lợi nhuận của các nhà đầu tư. Tỷ giá hối đoái linh hoạt, phù hợp với tình hình phát triển kinh tế ở từng giai đoạn sẽ làm tăng khả năng thu lợi nhuận từ xuất khẩu, tăng sức hấp dẫn với vốn nước ngoài từ Mỹ. Có thể nói, có mức tăng trưởng xuất khẩu cao sẽ làm yên lòng các nhà đầu tư Mỹ vì khả năng trả nợ của nước ta được bảo đảm hơn, độ mạo hiểm trong đầu tư sẽ giảm xuống. Các mức ưu đãi về tài chính - tiền tệ dành cho vốn đầu tư nước ngoài trước hết phải bảo đảm cho các chủ đầu tư tìm kiếm được lợi nhuận cao nhất trong điều kiện kinh doanh chung của khu vực để khuyến khích họ đầu tư vào trong nước và vào những nơi mà Chính phủ muốn khuyến khích đầu tư. Trong đó, những ưu đãi về thuế chiếm vị trí quan trọng hàng đầu trong số các ưu đãi tài chính giành cho đầu tư nước ngoài. Mức ưu đãi thuế cao hơn luôn được giành cho các dự án đầu tư có tỷ lệ vốn nước ngoài cao, quy mô lớn, dài hạn, hướng về thị trường nước ngoài, sử dụng nguyên vật liệu và lao động trong nước, tái đầu tư lợi nhuận và có mức độ nội địa hoá sản phẩm và công nghệ cao hơn. Hệ thống thuế thi hành sẽ càng hiệu quả nếu càng rõ ràng, đơn giản, dễ áp dụng và mức thuế không được quá cao (so với lãi suất, lợi nhuận bình quân, so với mức thuế chung của khu vực và quốc tế...). Các thủ tục thuế cũng như các thủ tục quản lý đầu tư nước ngoài khác phải được tinh giản hợp lý, tránh vòng vèo nhiều khâu trung gian, phải công khai và thuận lợi cho đối tượng chịu quản lý và nộp thuế. 2.2. Về mở rộng lĩnh vực thu hút đầu tư nước ngoài và đa dạng hoá hình thức đầu tư nước ngoài Xây dựng đề án mở rộng lĩnh vực thu hút đầu tư nước ngoài. Ban hành các quy định về việc cho phép nhà đầu tư nước ngoài được đầu tư vào dịch vụ nhập khẩu, dịch vụ phân phối trong nước theo tinh thần Nghị định 24/2000/NĐ-CP ngày 31/7/2000 của Chính phủ. Xây dựng quy chế để thực hiện thí điểm việc chuyển đổi doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sang hoạt động theo hình thức công ty cổ phần. Nghiên cứu thí điểm việc cho phép thành lập công ty mẹ - công ty con theo hướng đa mục tiêu, đa hình thức. Khuyến khích hoạt động của các quỹ đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. 2.3. Hoàn thiện thêm một bước về luật pháp, cơ chế chính sách về đầu tư nước ngoài Về lĩnh vực thuế: Sửa đổi, bổ sung thuế VAT theo hướng mở rộng diện hàng hoá xuất khẩu được hưởng thuế suất 0%, sửa đổi thuế suất VAT từ 3 mức thuế hiện nay (không kể thuế suất 0%) xuống còn 2 và dần dần là một mức thuế suất thống nhất; giảm thuế suất thuế VAT đối với một số sản phẩm thuộc các ngành có vai trò quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, tiến tới quy định về khấu trừ thuế chỉ áp dụng cho hàng hoá, dịch vụ đầu vào có hoá đơn giá trị gia tăng. Nghiên cứu dự án luật sửa đổi, bổ sung Luật thuế thu nhập doanh nghiệp theo hướng hạ thuế suất phổ thông nhằm giảm dần sự chênh lệch về thuế suất này giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp FDI; bỏ quy định thu thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài; hướng dẫn cụ thể hơn về thu nhập chịu thuế, các khoản chi phí hợp lý, hợp lệ và các ưu đãi miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp. Tiếp tục thực hiện lộ trình giảm chi phí đầu tư và tiến tới chế độ một giá áp dụng thống nhất cho đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Trong năm 2003 thống nhất áp dụng phí đăng kiểm phương tiện cơ giới, phí cảng biển, phí quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng, phí thăm quan các di tích văn hoá, lịch sử, cách mạng. Về lĩnh vực đất đai: Đẩy nhanh tiến độ đền bù, giải phóng mặt bằng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai các dự án đầu tư nước ngoài. Ban hành ngay các văn bản hướng dẫn về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các doanh nghiệp hoạt động trong khu công nghiệp, khu chế xuất; hướng dẫn việc xử lý trách nhiệm và nghĩa vụ của các bên với đất góp vốn vào liên doanh trong trường hợp doanh nghiệp chuyển đổi hình thức đầu tư, bị phá sản hoặc giải thể trước thời hạn. Về lĩnh vực vốn Ban hành các quy định về bảo đảm vay vốn, cầm cố, thế chấp, bảo lãnh để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài được vay tín dụng kể cả trung và dài hạn ở các tổ chức tín được phép hoạt động tại Việt Nam. 2.4. Nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước Trước hết, cần rà soát, phân loại các dự án đầu tư nước ngoài đã cấp giấy phép đầu tư; bổ sung sửa đổi Quy chế khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao ban hành kèm theo nghị định 36/CP ngày 24/4/1997 của Chính phủ; bổ sung các mô hình mới về khu công nghiệp, điều chỉnh cơ chế chính sách đầu tư phát triển hạ tầng trong và ngoài hàng rào. Tiếp tục thực hiện chủ trương phân cấp quản lý Nhà nước về đầu tư nước ngoài cho Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh; tăng cường sự hướng dẫn, kiểm tra của các Bộ, ngành trung ương. 2.5. Cải tiến các thủ tục hành chính Tăng cường phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý Nhà nước ở Trung ương và địa phương trong quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài. Duy trì thường xuyên việc tiếp xúc trực tiếp giữa các cơ quan quản lý Nhà nước với nhà đầu tư nước ngoài. Cải tiến mạnh thủ tục hành chính trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài theo hướng tiếp tục đơn giản hoá việc cấp phép đầu tư, rà soát có hệ thống để bãi bỏ những loại giấy phép, quy định không cần thiết đối với hoạt động đầu tư nước ngoài... 2.6. Đẩy mạnh vận động, xúc tiến đầu tư Cần có những biện pháp thúc đẩy mạnh việc vận động xúc tiến đầu tư; Cần bố trí ngân sách hợp lý cho hoạt động xúc tiến đầu tư; Tập trung làm tốt các thông tin tuyên truyền về đầu tư nước ngoài. KẾT LUẬN Từ khi EU, Mỹ, Nhật đầu tư vào Việt nam, hoạt động FDI đã có những đóng góp tích cực cho quá trình phát triển nền kinh tế xã hội của Việt nam như góp phần quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Việt nam, góp phần giải quyết công ăn việc làm, đóng góp vào ngân sách nhà nước, việc chuyển giao công nghệ. Tuy nhiên, cũng có không ít những điều còn trăn trở như số dự án đầu tư của ba nước trọng điểm này vào Việt nam chỉ tập trung chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp tập trung mạnh vào dầu khí. Trong khi lĩnh vực nông nghiệp hầu như còn bỏ ngỏ chỉ có Pháp có một số dự án trong nông nghiệp có quy mô đáng kể còn hầu hết đều rất nhỏ, vốn đầu tư của EU, Mỹ, Nhật vào Việt nam còn quá nhỏ bé so với tiềm năng của cả hai nước, việc chuyển giao công nghệ còn nhiều hạn chế. Chính vì vậy, việc tiếp tục hoàn thiện thủ tục đầu tư trực tiếp nước ngoài, tăng cường kết cấu hạ tầng, hoàn thiện các chính sách khuyến khích đầu tư, tăng cường hoạt động xúc tiến đầu tư đang là những vấn đề đặt ra nhằm thu hút ngày càng nhiều các nhà đầu tư vào Việt nam. Do có sự hạn chế về thời gian và vốn hiểu biết, đề án chỉ trình bày sơ lược những nét cơ bản về tình hình đầu tư trực tiếp của EU, Mỹ, Nhật vào Việt Nam, về những kết quả đạt được và những khó khăn tồn tại để đưa ra một số giải pháp nhằm thu hút đầu tư trực tiếp của các nước này vào Việt Nam. Do vậy đề án không thể tránh khỏi những thiếu sót, vì vậy em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô và các bạn để giúp cho bài viết này của em hoàn thiện hơn. Để đạt được kết quả như ngày hôm nay , em xin trân thành cảm ơn quý thầy cô trường đại học Ngoại Thương Hà Nội và đặc biệt là sự hướng dẫn tận tình của PGS .TS . VŨ CHÍ LỘC đã giúp em hoàn thành tốt KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP này. Hà Nội, tháng 03 năm 2003 Sinh viên thực hiện Vũ Ngọc Toàn TÀI LIỆU THAM KHẢO Nghị quyết 09/2001/NQ-CP ngày 28/8/2001 của Chính phủ về tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài thời kỳ 2001 - 2005 Tiếng Việt 1. Nguyễn Trớ Dĩnh, Giỏo trỡnh Lịch sử kinh tế quốc dõn, NXB Giỏo dục, 1996 2. Phạm Thị Mai Khanh, “Quan hệ đầu tư trực tiếp Việt Nam - Hoa Kỳ: Thực trạng và triển vọng”, Luận văn Thạc sỹ kinh tế, Trường Đại học Ngoại thương, Hà Nội, 2001 3. Vũ Chớ Lộc, Giỏo trỡnh Đầu tư nước ngoài, NXB Giỏo dục, 1997 4. Vũ Chớ Lộc, Tụ Xuõn Dõn, Giỏo trỡnh Quan hệ kinh tế quốc tế, NXB Hà Nội, 1997 5. Lờ Kim Sa, “Đầu tư nước ngoài của Mỹ ở khu vực châu Á - Thái Bỡnh Dương trong những năm cuối thế kỷ XX”, Tạp chớ “Chõu Mỹ ngày nay”, số 4, 2002 6. Bỏo cỏo “Tổng hợp đầu tư trực tiếp của Nhật vào Việt Nam giai đoạn 1988 - 2002”, Vụ quản lý dự án đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, ngày 20/10/2002 7. Bỏo cỏo “Tỡnh hỡnh và giải phỏp tăng cường, đổi mới công tác xúc tiến đầu tư nước ngoài”, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, ngày 7/5/2002 8. Bỏo cỏo “Tổng hợp đầu tư trực tiếp của Hoa Kỳ theo địa phương từ ngày 01/01/1988 đến 10/10/2002”, Vụ quản lý dự án đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, ngày 10/10/2002 9. Bỏo “Đầu tư”, số ra ngày 21/11/2002 10. Đề tài 97 - 78 - 060: “Phát triển quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ”, Trung tâm tư vấn và đào tạo kinh tế thương mại, Bộ Thương mại, tháng 8/1997 11. Hiệp định thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ, ký ngày 13/7/2000 12. Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, NXB Chớnh trị quốc gia, 1996 13. Luật Sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, NXB Chớnh trị quốc gia, 2000 14. Nghị định số 24/2000/NĐ-CP, Hà Nội, ngày 31/7/2000 15. Nghị quyết số 01/1996/NQ-TW, Hà Nội, ngày 18/11/1996 16. Nghị quyết số 09/2001/NQ-CP, Hà Nội, ngày 28/8/2001 Tiếng Anh 1. Le Dang Doanh, “Foreign direct investment in Vietnam: Results, challenges and prospect”, Vietnam’s Socio-economic Development, No. 31, Autumn 2002 2. Gordon H. Hanson, Raymond J. Mataloni, Matthew J. Slaughter, “Expansion Strategies of US Multinational Firms”, Bureau of Economic Analysis, US Department of Commerce, 2001, địa chỉ trang web: www.bea.gov/bea/papers.htm 3. G. Heriff, “America’s longest war - The US and Vietnam 1950 - 1975”, third edition, University of Kentucky, Mc. Graw - Hill Inc., New York, 1996 4. John J. Wild, Kenneth L. Wild, Jercy C. Y. Han, “International business - An integrated approach”, Prentice Hall International Inc., 2001 5. Le Duc Tan, “Proceed with caution”, Vietnam Economic Times, November 2000 6. “US Direct Investment Abroad: Capital Outflows”, Bureau of Economic Analysis, US Department of Commerce, 2002, địa chỉ trang web: www.bea.gov/bea/di/usdiacap.htm 7. Vietnam Economic Times, Issue 105, November 2002 8. Vietnam Investment Review, No. 553, 31 Dec 2001- 6 Jan 2002 9. “World Investment Report 2001: Promoting Linkages”, UNCTAD, 2001 “World Factbook 2002”, Central Intelligence Agency (CIA), 2002, địa chỉ trang web: www.cia.gov/cia/publications/factbook/

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc8358.doc
Tài liệu liên quan