Đề tài Một số giải pháp nhằm thực hiện Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng giai đoạn 2001 - 2010

Sinh khối, theo định nghĩa là khối vật chất hữu cơ được sản sinh ra trong một cơ thể sống, một quần thể sinh vật. Sinh khối tập hợp các sinh vật có trong hệ sinh thái ở thời điểm quan sát. Sinh khối có thể được biểu thị bằng số lượng cá thể, trọng lượng, đơn vị năng lượng. Trong phạm vi nghiên cứu vai trò dự trữ Cacbon của rừng, người ta chỉ tính đến sinh khối của thực vật. Đó là khối lượng chất hữu cơ (cùng với các chất vô cơ chứa trong cây) của thân, vỏ, cành, lá, gốc, rễ cây. Khối lượng của sinh khối thực vật được biểu thị bằng trọng lượng vật chất ở trạng thái khô, hoặc tính bằng khối lượng CO2 hay Cacbon. Sinh khối thực vật của rừng nhiệt đới chiếm 75% toàn bộ sinh khối rừng trên trái đất.

doc79 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1285 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm thực hiện Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng giai đoạn 2001 - 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh của kho bạc Nhà nước. Khó khăn thứ 2 là về vốn: Theo quyết định của Chính phủ, vốn đầu tư cho Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng chủ yếu là vốn chuyển tiếp của chương trình 327. Theo tinh thần đó, năm 1999 vốn đầu tư từ ngân sách bố trí cho tạo rừng phòng hộ và đặc dụng là 314 tỷ đồng. Trong số này phần lớn dành cho các hoạt động phục vụ nhiệm vụ chuyển tiếp của chương trình 327 về chăm sóc rừng và bảo vệ rừng tự nhiên, chỉ một phần vốn bố trí cho việc trồng 67.000 ha rừng phòng hộ, rừng đặc dụng theo chương trình 661. Tuy nhiên, việc trồng mới rừng đặc dụng và phòng hộ lại tập trung vào vùng sâu, vùng xa nơi đồng bào các dân tộc ít người sinh sống, có nhiều khó khăn về cơ sở hạ tầng, về đời sống và trình độ dân trí thấp nên nên tiến độ triển khai Dự án rất chậm. Nguyên nhân của tình trạng trên là do: Các địa phương chậm hoàn thiện các thủ tục, hồ sơ để chuyển giao từ các Dự án 327 sang dự án 661. Một số địa phương đến tháng 6 mới bàn giao song kế hoạch trồng rừng mới. Trong khi đó, việc lập thhiết kế dự toán và trình duyệt chậm, thủ tục tạm ứng nghiệm thu, thanh toán vốn theo yêu cầu phải có xác nhận của Hội đồng nghiệm thu cấp tỉnh nên mất nhiều thời gian. Về vốn vay trồng rừng, nhiều địa phương rất lúng túng trong việc làm thủ tục vay vốn. Chính sách cho vay tín dụng để trồng rừng lãi suất còn cao(7%/năm) trong khi đó đầu tư trồng rừng chu kỳ dài, nhiều rủi ro. Nguồn vốn từ ngân sách địa phương và vốn trong dân huy động cho trồng rừng theo Dự án rất hạn chế vì các địa bàn có dự án là các địa phương nghèo, thu nhập của dân cư thấp nên tỉ lệ tích luỹ và mức tích luỹ ít. Suất đầu tư cho dự án trồng rừng nói chung là quá thấp. Qua hai năm thực hiện, hầu hết các địa phương vùng có dự án đều đánh giá với suất đầu tư như trên thì không thể đầu tư trồng rừng theo đúng yêu cầu kỹ thuật của Dự án. Vì vậy, mức đầu tư đó chỉ nên xem là vốn hỗ trợ của ngân sách Trung ương, nếu không có đầu tư của ngân sách địa phương và của dân thì khó có thể thực hiện được. Khó khăn thứ 3 nổi cộm là thiếu giống cây trồng phù hợp với yêu cầu của dự án. Các cơ sở sản xuất và gieo ươm giống cây trồng lâm nghiệp trước khi có Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng, nói chung còn yếu và phân tán, số lượng thiếu, chất lượng chưa cao. Khi triển khai Dự án 661, yêu cầu về cây giống tăng lên cả về số lượng, chất lượng , chủng loại và thời gian cung cấp. Nhưng đối chiếu với thực tế khả năng đáp ứng nhu cầu còn rất xa, nhất là các giống cây mới có giá trị kinh tế, các kỹ thuật mới về tạo giống theo công nghệ mô, bổ sung các giống mới như tre, trúc nhập nội, giẻ hai mùa, các loại cây có năng suất. việc cung cấp giống cây đủ số lượng, chất lượng đúng chủng loại và kịp thời vụ trồng rừng ở các vùng, các địa phương theo yêu cầu của dự án cho đến nay vẫn còn mất cân đối giữa cung và cầu, trong khi cầu một số loài cây trồng lâm nghiệp còn chưa được xác định rõ ràng và cụ thể. Khó khăn thứ 4 là thị trường tiêu thụ sản phẩm chế biến chưa ổn định nên chưa làm yên lòng các địa phương và bà con nông dân trồng rừng mới. Vốn trồng rừng theo dự án, chủ yếu là vốn vay nên yêu cầu trồng rừng là phải có hiệu quả kinh tế để không những hoàn vốn mà còn có lãi. Thực tế là hiện nay , tuy chưa có sản phẩm của dự án nhưng đã có hiện tượng dư thừa nguyên liệu do thiếu thi trường, giá bán thấp, trồng rừng không có lãi. Vì vậy vấn đề thị trường tiêu thụ và giá cả sản phẩm rừng trồng theo dự án là rất quan trọng - Song cho đến nay nhiều địa phương có dự án chưa rõ khả năng hình thành cụm các nhà máy giấy, ván nhân tạo để tiêu thụ các sản phẩm rừng trồng như thế nào. Khó khăn khách quan là thời tiết diễn biến phức tạp, thiên tai liên tiếp nhất là hạn hán và lũ lụt luôn luôn là những nguy cơ đe doạ và xoá đi mọi công lao và kết quả của dự án. Thực tế lũ lụt lịch sử ở 9 tỉnh miền Trung tháng 11, 12 năm 1999 đã chứng minh điều đó. Địa bàn có dự án trồng và nuôi dưỡng, tái sinh rừng trải rộng trên hầu hết các vùng lãnh thổ của cả nước, 57 tỉnh , thành và 527 quận, huyện, địa hình phức tạp, giao thông khó khăn, cơ sở hạ tầng yếu kém nên khả năng chống đỡ thiên tai, bảo vệ thành quả của dự án là rất khó khăn. Trình độ cán bộ quản lý dự án hạn chế chưa tương xứng với yêu cầu và nhiệm vụ đề ra. IV. Kết luận. Từ thực tế triển khai thực hiện Dưj án trồng mới 5 triệu ha rừng có thể rút ra một số kết luận sau: - Qua 2 năm thực hiện Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng, dưới sự giám sát của Quốc hội, sự chỉ đạo của Chính phủ, sự hỗ trợ có hiệu quả của các Bộ, ngành liên quan và nhất là những nỗ lực phấn đấu của các địa phương trong cả nứoc nên 2 năm đầu thực hiện Dự án đã đạt được kết quả to lớn đáng khích lệ. - Nhìn chung đời sống của nhân dân trong vùng dự án đã được nâng lên đáng kể. Dự án đã tạo ra việc làm cho hàng triệu người dân lao động, góp phần cải thiện đời sống gia đình. Bên cạnh đó các công trình như đường liên xã, liên thôn, trạm y tế, trường học được xây dựng nhiều hơn: xây mới, nâng cấp các công trình thuỷ lợi phục vụ cho tưới tiêu, thực hiện chương trình nước sạch nông thôn phục vụ đồng bào các dân tộc vùng sâu, vùng xa ... - Việc đầu tư vốn và cho vay đến hộ gia đình chưa gắn liền với việc giao đất , khoán rừng, chưa xác định rõ ràng quyền làm chủ thực sự của họ do đó không thể khuyến khích tinh thần tự giác và ý thức trách nhiệm của bản thân trong việc quản lý, bảo vệ rừng đã được giao khoán. - Các chính sách kinh tế như Luật đất đai, chính sách tín dụng đầu tư ... đã có những ảnh hưởng lớn tới tiến trình thực hiện dự án. Hiện nay Luật đất đai trong lĩnh vực lâm nghiệp vẫn chưa hoàn chỉnh do đó quyền lợi của người dân không thoả đáng gây ra tâm lý bất mãn, không nhiệt tình với công việc. -Để việc tiếp tục thực hiện Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng đạt được kết quả, mang lại lợi ích về kinh tế, xã hội và có ý nghĩa to lớn về môi trường sinh thái, góp phần cải thiện, nâng cao một bước đời sống của nhân dân, nhất là các dân tộc thuộc vùng miền núi, trung du ... Các ngành, các cấp có liên quan cần quan tâm và chỉ đạo sâu sát hơn trong việc thực hiện bảo vệ rừng, trồng rừng, khoanh nuôi tái sinh ... với mục tiêu là trong 10 năm tới đất nước ta sẽ có thêm 4 triệu ha rừng và độ che phủ sẽ đạt trên 40%. Phần thứ ba: Một số giải pháp nhằm thực hiện Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng giai đoạn 2001-2010 I .Quan điểm, phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ của Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng 1. Quan điểm về trồng rừng trong Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng. Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng được coi là công trình quan trọng quốc gia. Các quan điểm cơ bản về trồng rừng trong Dự án là: a. Sử dụng tài nguyên rừng và đất rừng một cách bền vững lâu dài. Việc trồng rừng phải theo hướng tập trung, thâm canh với trình độ kỹ thuật tiên tiến, tạo rừng có năng suất, chất lượng cao, kết hợp chặt chẽ giữa trồng mới và bảo vê, khoanh nuôi phục hồi rừng, giữa trồng tập trung với phân tán, phát triển công nghiệp chế biến gắn với các vùng nguyên liệu để nâng cao hiệu quả của trồng rừng bảo vệ được tài nguyên rừng và đất rừng. Khai thác phải đi đôi với tái sinh (khai thác phải nhỏ hơn hoặc bằng tái sinh). b. Tích cực và kiên trì áp dụng một cách đồng bộ các tiến bộ kỹ thuật và công nghệ sinh học, kết hợp với kinh nghiệm quý báu của người sản xuất thuộc các dân tộc. Rừng là một tập hợp các loài cây trong đó chủ yếu là cây dài ngày. Đối với từng loại rừng, từng cây con cần có kỹ thuật thích hợp, áp dụng công nghệ sinh học để nâng cao chất lượng và năng suất của từng loại cây, con, đồng thời phải nghiên cứu mối tác động qua lại hữu cơ giữa từng loại cá thể với quần xã các loài cây trong từng cánh rừng để cùng phát triển một cách ổn định và có năng suất cao, đa dạng hoá sản phẩm. Trồng rừng mới phải thâm canh kết hợp với bảo vệ đất, tuyển chọn giống các cây bản địa là chính, đồng thời nhập nội có cân nhắc, chọn lọc các loài cây từ nước khác đến. Cần học hỏi các kinh nghiệm tốt đã tích luỹ từ bao đời nay của cả dân tộc để hoàn thiện, bổ sung và nhân ra diện rộng, tránh các sai phạm đáng tiếc do nôn nóng áp dụng một các không thực tế các tiến bộ kỹ thuật mới. Trong lĩnh vực chế biến cần áp dụng những công nghệ tiên tiến, tinh xảo, để có những sản phẩm có chất lượng cao, tiết kiệm nguyên liệu thô, thời gian thu hồi vốn nhanh. c. áp dụng các chính sách khuyến khích tạo động lực thúc đẩy và huy động mọi thành phần kinh tế tham gia trồng rừng và phát triển công nghiệp chế biến gỗ lâm sản phù hợp với điều kiện từng vùng. Nâng cao trình độ quản lý và năng lực tổ chức thực hiện của ngành - đây là vấn đề khoa học quyết định trong quản lý vĩ mô và vi mô của nghề rừng. d. Việc bảo vệ nuôi dưỡng rừng và trồng rừng phải góp phần phát triển kinh tế xã hội, tạo ra nhiều việc làm ổn định và tăng thu nhập cho nhân dân trong khu vực; Phải kết hợp chặt chẽ với các chương trình khác như phát triển nông thôn miền núi, xoá đói giảm nghèo, định canh, định cư, cung cấp tín dụng nông thôn... để hỗ trợ cho việc thực hiện dự án. 2. Phương hướng phát triển cho Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng a. Phương hướng chung * Phải dành diện tích đủ cho lâm phần quốc gia và phân bố hợp lý trong phạm vi cả nước nhằm các mục đích sau: - Cung cấp và điều tiết nguồn nước, bảo vệ đất, bảo vệ hệ sinh thái bền vững và môi trường, giảm nhẹ thiên tai, góp phần điều hoà khí hậu. - Bảo tồn diện tích rừng tự nhiên để bảo vệ tính đa dạng sinh học, bảo vệ hệ động, thực vật rừng quý hiếm, dược liệu phục vụ nghiên cứu khoa học và giáo dục. - Đáp ứng nhu cầu giải trí và du lịch của nhân dân, bảo tồn di tích văn hoá, lịch sử cho các thế hệ mai sau. - Đáp ứng nhu cầu lâm sản cho tiêu dùng và tăng lợi ích cho nhân dân. - Góp phần làm tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu, tăng trưởng nền kinh tế. * Bảo đảm cho các thành phần kinh tế tham gia kinh doanh rừng trên cơ sở một trình độ hiểu biết về khoa học và luật pháp cần thiết, để không những rừng không suy thoái mà còn bảo đảm sự cân bằng sinh thái trong môi trường sống. Tổ chức tốt đời sống cho đồng bào sống trong rừng và gần rừng. b. Phương hướng cụ thể * Trồng rừng kinh tế: 3.000.000 ha. - Rừng làm nguyên liệu giấy, ván nhân tạo và gỗ trụ mỏ: 1.600.000 ha. + Rừng nguyên liệu giây. Dự báo nhu cầu sản lượng giấy, với tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 8-10%/ năm thì nhu cầu sản phẩm giấy năm 2005 là 793.920 tấn đạt mức tiêu dùng giấy là 9,2 kg/ngưới/năm và năm 2010 sẽ là 1,2 triệu tấn, phải đạt mức tiêu dùng bình quân theo đầu người là 13 kg/năm. Để sản xuất 1,2 triệu tấn giấy cần có 6 triệu tấn nguyên liệu, nguyên liệu tre, luồng từ rừng tự nhiên và rừng trồng hiện có, cung cấp được khoảng 1,2 triệu tấn/ năm. Số nguyên liệu cần có phải bổ sung từ rừng trồng là 4,8 triệu tấn/ năm tương đương 8 triệu m3 gỗ/ năm. Căn cứ vào quy hoạch các nhà máy giấy và quỹ đất hiện có bố trí diện tích trồng rừng nguyên liệu giấy ở từng vùng như sau: Vùng Tây Bắc: 100.000 ha. Vùng Đông Bắc: 50.000 ha. Vùng Trung tâm Bắc Bộ: 220.000 ha. Vùng Bắc Trung Bộ: 140.000 ha. Vùng Duyên Hải Trung Bộ: 220.000 ha. Vùng Tây Nguyên: 110.000 ha. Vùng Nam Bộ: 160.000 ha. + Rừng nguyên liệu gỗ ván nhân tạo. Dân số Việt Nam thời kỳ năm 2005 có khoảng 87 triệu dân, với khoảng 17 triệu hộ gia đình. Nhu cầu gỗ ván nhân tạo tiêu thụ hàng năm trong nước là 1,13 triệu m3 thành phẩm. Ước khả năng xuất khẩu hàng năm là 0,2 triệu m3 sản phẩm thì tổng nhu cầu gỗ ván nhân tạo hàng năm là 1,33 triệu m3 thành phẩm cần có 4 triệu m3 gỗ tròn nguyên liệu. Với các loại cây rừng mọc nhanh, có năng suất khoảng 8 m3/ ha/ năm như: bồ đề, keo, bạch đàn, thông mã vĩ... với chu kỳ bình quân là 10 năm thì tổng diện tích rừng trồng làm nguyên liệu gỗ ván nhân tạo trồng tập trung là 500.000 ha được quy hoạch gây trồng gắn với các nhà máy chế biến gỗ + ván nhân tạo: Hoà Bình, Bắc Kạn, Thanh Hoá, Gia lai, Đà Nẵng, Vinh ( Nghệ An), Bình Triệu, La Ngà (Đồng Nai), Long An. + Rừng gỗ trụ mỏ. Dự kiến đến năm 2005, khai thác 6,4 triệu tấn than hầm lò, chủ yếu là mỏ than Đông Bắc, Bắc Bộ cần 350.000 m3 gỗ chống lò ( cứ 1000 tấn than cần 50 m3 gỗ), công suất sinh khối 100 m3/ ha tỷ suất gỗ trụ mỏ hàng hoá so với năng suất sinh khối là 70% thì càn 5.000 ha khai thác hàng năm, lấy chu kỳ 10 năm thì phải có 50.000 ha, để có lượng gỗ dự phòng và phục vụ xây dựng cơ bản hầm lò, tăng diện tích trồng rừng gỗ trụ mỏ là 80.000 ha loại cây trồng chính là Sa Mộc, thông mã vĩ, mỡ và bạch đàn. Vùng trồng tập trung tại tỉnh Quảng Ninh, Lạng Sơn, Hà Bắc và Thái Nguyên. Nếu cầu gỗ chế biến đồ mộc gia dụng và trang trí nội thất đên 2005 là khoảng 2,4 triệu m3 thành phẩm 1 năm. Trong đó tiêu dùng nội địa là 2 triệu m3 và xuất khẩu 0,4 triệu m3 - cần 4,3 triệu m3 gỗ tròn nguyên liệu 1 năm. Tỉa thưa gỗ từ tự nhiên, gỗ cao su già và nhập khẩu gỗ, cung cấp khoảng 0,6 triệu m3 (14%), gỗ từ rừng trồng tập trung 3,7 triệu m3 chiếm 86% rừng trồng thâm canh để có năng suất 10 m3/ha/năm thì diện tích cần quy hoạch trồng là 370.000 ha. Trong đó trồng cao su là 100.000 ha, Tếch 150.000 ha, các loại khác 120.000 ha. - Rừng cung cấp gỗ xây dựng cơ bản. Nhu cầu gỗ xây dựng cơ bản phục vụ xây dựng các xí nghiệp công nghiệp, làm khuôn đúc, cánh cổng, cánh phai của các công trình thuỷ lợi, các công trình cầu đường, đóng tàu thuyền... thời kỳ sau năm 2010 mỗi năm cần khoảng 2,5 triệu m3 gỗ, với các loài gỗ cây họ dầu, đinh, lim, sến, táu, tếch, huỳnh, mỡ... là các loài cây có chu kỳ sản xuất từ 20 năm đến 40 năm, để đáp ứng nhu cầu gỗ xây dựng cơ bản cho những thập kỷ đầu thế kỷ 21 cần quy hoạch gây trồng khoảng 450.000 ha, gỗ lớn tập trung ở khu 4 cũ, Tây Nguyên, miền Đông Nam Bộ... - Rừng đặc sản: 300.000 ha + Rừng quế: 65.000 ha Bố trí ở vùng Yên Bái, Lào Cai, Quảng Ninh, Thanh Hoá, Nghệ An, Quảng Nam- Đà Nẵng, Quảng Ngãi. + Rừng hồi: 2 vạn ha. Bố trí vùng Lạng Sơn là chính, có một phần ở Cao Bằng, Quảng Ninh. + Rừng thông nhựa: 14 vạn ha. Tập trung chủ yếu ở 2 vùng lớn là Quảng Ninh và các tỉnh khu 4 cũ, Lâm Đồng. + Trẩu và cây chủ cánh kiến: 4 vạn ha. Vùng trồng chủ yếu ở các tỉnh Tây Bắc và các tỉnh vùng Đông Bắc. + Dẻ ăn quả và các loại cây đặc sản khác sẽ trồng khoảng 5.000 ha. Vùng trồng chủ yếu ở phía Bắc. - Rừng tre, luồng, trúc: 300.000 ha. Ngoài tre nứa lấy từ rừng tự nhiên làm nguyên liệu giấy cần trồng khoảng 300.000 ha các loại tre, trúc luồng làm nguyên liệu thủ công nghiệp hàng tre trúc và chế biến măng xuất khẩu tại các tỉnh vùng Tây Bắc, Đông Bắc Bộ, khu 4 và Đông Nam Bộ. * Rừng phòng hộ: 2.000.000 ha trong đó: - Rừng đầu nguồn gắn với các công trình thuỷ điện, thuỷ lợi, chống lũ quét... là 1.650.000 ha - Rừng phòng hộ chống cát bay: 128.000 ha. - Rừng phòng hộ chắn sóng biển và vùng ngập mặn là 152.000 ha. - Rừng phòng hộ môi trường các thành phố khu công nghiệp 70.000 ha. Tuỳ vùng đất gây trồng rừng phòng hộ lựa chọn phương thức trồng và loại cây trồng phù hợp, nhằm phát huy tốt năng lực phòng hộ của rừng trồng, đồng thời tạo nên lợi ích kinh tế cho các hộ nhận khoán gây trồng bảo vệ rừng phòng hộ từ cây rừng trồng chính, cây rừng trồng phù trợ va sản xuất nông lâm nghiệp kết hợp. * Trồng cây phân tán. Hơn 30 năm qua cả nước đã trồng được trên 6 tỷ cây phân tán, trong thời kỳ tới cần duy trì và phát triển phong trào trồng cây phân tán trên đất xung quanh nhà ở, trường học, đường giao thông nông thôn, bờ vùng, bờ thửa... Với chỉ tiêu 400 triệu cây/năm, tạo nên môi trường cảnh quan đẹp, nâng cao năng lực phòng hộ và tạo nên nguồn gỗ củi phục vụ trực tiếp cho các hộ và nhân dân trên từng địa bàn. 3. Mục tiêu của Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng. - Trồng mới 5 triệu ha rừng cùng với bảo vệ diện tích rừng hiện có tăng độ che phủ của rừng lên 43%, góp phần đảm bảo an ninh môi trường, giảm nhẹ thiên tai, tăng khả năng sinh thuỷ, bảo tồn nguồn gen và tính đa dạng sinh học. - Sử dụng có hiệu quả diện tích đất trống, đồi núi trọc, tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động, góp phần xoá đói giảm nghèo, định canh, định cư, tăng thu nhập cho dân cư sống ở nông thôn miền núi, ổn định chính trị, xã hội, quốc phòng, an ninh, nhất là ở vùng biên giới. - Cung cấp gỗ làm nguyên liệu để sản xuất giấy, ván nhân tạo, đáp ứng nhu cầu gỗ, củi và các lâm đặc sản khác cho tiêu dùng trong nước và sản xuất hàng xuất khẩu, cùng với phát triển công nghiệp chế biến lâm sản, đưa lâm nghiệp trở thành một ngành kinh tế quan trọng, góp phần phát triển kinh tế-xã hội miền núi. Đây là mục tiêu chung hết sức quan trọng cần được quán triệt ngay từ đầu, phải gắn việc bảo vệ, chăm sóc vốn rừng hiện có với việc khoanh nuôi tái sinh và trồng mới; do đó chương trình phát triển lâm nghiệp tại các vùng, các khu vực phải ưu tiên đầu tư cho rừng phòng hộ rất xung yếu và xung yếu để bảo đảm cân bằng về môi trường, sinh thái, không chỉ cho các khu vực, mà còn đối với cả nước. Các tỉnh Tây Nguyên có vị trí quan trọng; ưu tiên cho việc bảo vệ, chăm sóc diện tích rừng tự nhiên hiện có; khoanh nuôi tái sinh những diện tích rừng tự nhiên đã bị khai thác nghèo kiệt. Việc trồng rừng mới cần tập trung cho các dự án cho vay vốn trồng rừng nguyên liệu công nghiệp tại các vùng đất trống, đồi núi trọc theo quy hoạch, không được phá rừng tự nhiên để trồng cây công nghiệp một cách tuỳ tiện, gây mất cân bằng môi trường sinh thái. Đối với các tỉnh trung du, miền núi phía Bắc, các tỉnh Duyên hải miền Trung, Đông Nam Bộ, độ che phủ của rừng ở các vùng này có tầm quan trọng sống còn, phải tập trung bảo vệ, chăm sóc khoanh nuôi tái sinh và trồng mới rừng phòng hộ đầu nguồn hệ thống các sông lớn (SôngĐà, sông Hồng, ...), để vừa bảo đảm nguồn sinh thuỷ cho các trung tâm thuỷ điện lớn, vừa bảo đảm nước cho sản xuất và đời sống các vùng đồng bằng. Đối với rừng ngập mặn, rừng phòng hộ chắn cát bay ven biển có chức năng quan trọng là bảo vệ môi trường, chống xói lở đất, phát triển các nguồn thuỷ lợi, thuỷ hải sản phải có quy hoạch, kế hoạch và đầu tư thoả đáng cho công tác bảo vệ và phát triển . Những vùng đất trống, đồi núi trọc không nằm trong vùng quy hoạch trồng rừng phòng hộ cũng phải có quy hoạch và kế hoạch trồng rừng kinh tế gắn với các khu công nghiệp giấy sợi và xây dựng các nhà máy sản xuất ván nhân tạo. 4. Nhiệm vụ của Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng. a. Bảo vệ có hiệu quả vốn rừng hiện có, trước hết phải bảo vệ diện tích rừng tự nhiên là rừng đặc dụng, rừng phòng hộ ở vùng rất xung yếu, kể cả rừng phòng hộ đã trồng theo chương trình 327, rừng sản xuất có trữ lượng giàu và trung bình. Thực hiện ngay từ giai đoạn đầu việc giao đất, giao rừng cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân gắn với định canh, định cư, xoá đói giảm nghèo để bảo vệ, khoanh nuôi rừng kết hợp trồng bổ sung và trồng mới. b. Trồng rừng. * Trồng rừng phòng hộ, đặc dụng: 2 triệu ha. - Khoanh nuôi xúc tiến tái sinh kết hợp trồng bổ sung 1 triệu ha. Khoanh nuôi xúc tiến tái sinh kết hợp trồng bổ sung được thực hiện trên đất đã mất rừng nhưng có khả năng tái sinh thuộc vùng phòng hộ đầu nguồn rất xung yếu, xung yếu và thuộc khu phục hồi sinh thái của rừng đặc dụng. Bao gồm 2 hình thức: + Khoanh nuôi xúc tiến tái sinh do dân tự trồng bổ sung bằng các loại cây công nghiệp lâu năm, cây ăn quả, cây đặc sản có tán như cây rừng. + Khoanh nuôi xúc tiến tái sinh có kết hợp trồng bổ sung bằng rừng do Nhà nước đầu tư. - Trồng rừng mới 1 triệu ha: Trên vùng đất trồng đồi núi trọc không còn khả năng tái sinh tự nhiên được quy hoạch là rừng đặc dụng, vùng phòng hộ rất xung yếu, xung yếu tập trung chủ yếu ở các lưu vực sông lớn, các hồ chứa và công trình thuỷ điện lớn, bảo vệ các thành phố lớn, các vùng đất ven biển đang xói lở, cát bay và những nơi có yêu cầu cấp bách về phục hồi sinh thái. Đặc biệt ưu tiên vùng miền núi phía Bắc có tỷ lệ che phủ rất thấp, vùng miền Trung thường xảy ra lũ lụt. * Trồng 3 triệu ha rừng sản xuất: rừng nguyên liệu công nghiệp giấy, ván nhân tạo, gỗ trụ mở, cây đặc sản, rừng gỗ quý hiếm... khoảng 2 triệu ha; cây công nghiệp lâu năm và cây lấy quả khoảng 1 triệu ha; đồng thời huy động các tổ chức và nhân dân triệt để tận dụng diện tích đất trống để trồng cây phân tán. Dự án trồng rừng củ từng gia đoạn như sau: - Giai đoạn 1998-2000: trồng mới 700.000 ha ( trong đó 260.000 ha rừng phòng hộ, đặc dụng), khoanh nuôi tái sinh kết hợp trồng bổ sung 350.000 ha. - Giai đoạn 2001-2005: trồng mới 1,3 triệu ha ( trong đó 350.000 ha rừng phòng hộ, đặc dụng), khoanh nuôi tái sinh kết hợp trồng bổ sung 650.000 ha. - Giai đoạn 2005-2010: trồng mới 2 triệu ha ( trong đó 390.000 ha rừng phòng hộ, đặc dụng. II. Một số giải pháp nhằm thực hiện Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng giai đoạn 2001-2010. Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng trên địa bàn cả nước ta hiện nay là một dự án thực hiện trên địa bàn rộng, phức tạp cả về kỹ thuật và quản lý, lại yêu cầu vốn đầu tư lớn... Nên cần phải được tổ chức thực hiện một cách chặt chẽ để sử dụng có hiệu quả nhân lực, vật lực của Nhà nước và nhân dân. Để đạt được 3 mục tiêu, 2 nhiệm vụ đã được ghi trong Quyết định số 661/ QĐ- TTg ngày 29/7/1998 của Thủ tướng Chính phủ về mục tiêu, nhiệm vụ, chính sách và tổ chức thực hiện Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng, cần phải thực hiện các giải pháp sau: Giải pháp về vốn. Cơ sở của giải pháp. Qua 2 năm thực hiện Dự án, bên cạnh những mặt đạt được về việc cấp phát, quản lý vốn còn có những vấn đề còn tồn tại. Do nguồn vốn từ ngân sách có hạn nên cần huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau. Đây là sự quan tâm lớn của Đảng và Nhà nước cho đầu tư lâm nghiệp. Nội dung của giải pháp. * Tổng nhu cầu vốn đầu tư. Tổng nhu cầu vốn đầu tư tới năm 2010 khoảng 63.200 tỷ đồng, trong đó phân theo mục tiêu đầu tư như sau: Bảo vệ rừng: 1.200 tỷ đồng Khoanh nuôi tái sinh: 600 tỷ đồng Hỗ trợ trồng rừng cây gỗ quý hiếm: 100 tỷ đồng Trồng rừng đặc dụng và phòng hộ: 3.000 tỷ đồng Trồng rừng sản xuất: 10.000 tỷ đồng Trồng cây công nghiệp lâu năm: 10.000 tỷ đồng Phát triển chế biến: 37.200 tỷ đồng Nghiên cứu, khuyến nông, khuyến lâm: 150 tỷ đồng Giao đất lâm nghiệp: 180 tỷ đồng - Xây dựng cơ sở hạ tầng: 500 tỷ đồng - Quản lý dự án ( ở các địa phương): 270 tỷ đồng Trong đó phân theo nguồn vốn và giai đoạn như sau: Đơn vị: Tỷ đồng Tổng số 1998-2000 2001-2005 2006-2010 Ngân sách Tín dụng 6.000 57.200 1.470 12.700 2.250 24.670 2.280 19.830 Ngân sách Nhà nước đầu tư để bảo vệ, khoanh nuôi tái sinh và trồng mới rừng phòng hộ, đặc dụng; thực hiện giao đất, giao rừng, nghiên cứu và chuyển giao kỹ thuật, xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu và quán lý Dự án ở Trung ương và các địa phương. Trồng rừng sản xuất, cây nông nghiệp lâu năm và phát triển các cơ sở chế biến nông lâm sản dựa vào vốn tự có của nông dân, các doanh nghiệp và vốn vay. Trong đó dự kiến huy động một phần từ Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia: khoảng 2.200 tỷ đồng/năm, phần còn lại là FDI, ODA và các nguồn vốn vay quốc tế khác. c. Sử dụng vốn đầu tư. * Vốn ngân sách Nhà nước. - Đầu tư cho lâm sinh. Nhà nước đầu tư ngân sách trồng rừng phòng hộ và đặc dụng, cho vay không lãi phát triển kinh tế hộ và cộng đồng bằng phương thức nông lâm kết hợp. Công tác định canh định cư, hạn chế nương rẫy và phát triển kinh tế xã hội miền núi cần tiếp tục bằng chương trình 327, vì chương trình này đã đi vào lòng dân, trồng được trên 400.000 ha rừng cho dù chỗ này, chỗ khác làm chưa tốt, cần kiểm tra, sửa chữa. Nên để cho người trồng rừng được hưởng 100% lợi ích của các cây trồng xen trong rừng phòng hộ như cây gỗ phụ trọ mọc nhanh, cây ăn quả, cây lương thực thực phẩm trồng xen, tạo động lực cho người dân tích cực tham gia. Rừng phòng hộ là rừng Nhà nước, được quy hoạch tới trên 6 triệu ha nằm ở những nơi rất xung yếu trong việc bảo vệ nguồn nước, bảo vệ đất chống xói mòn, cát bay, đê biển... cần được xác định chính xác, những nơi chưa có rừng cần được sắp xếp thứ tự ưu tiên trồng và cần được tổ chức thành các “khung rừng phòng hộ” có “ban quản lý” ổn định lâu dài như ban quản lý các khu rừng đặc dụng. Đây là chủ rừng thật sự, được giao đất theo luật, có nhiệm vụ không những chỉ xây dựng rừng phòng hộ (khoanh nuôi tái sinh và trồng mới), mà còn quản lý chăm sóc toàn bộ rừng phòng hộ kể cả sẵn có và mới trồng một cách lâu dài, ổn định để phát huy chức năng phòng hộ của rừng. Cụ thể việc sử dụng vốn đầu tư từ ngân sách cho Dự án là: + Cho bảo vệ rừng đặc dụng và phòng hộ rất xung yếu và xung yếu trên diện tích 2 triệu ha đã thực hiện theo chương trình 327 không quá 50.000 đ/ ha / năm, thời hạn không quá 5 năm. + Khoán khoanh nuôi tái sinh kết hợp trồng bổ sung không quá 1 triệu đồng/ ha/ năm, thời hạn khoán 6 năm. + Trồng rừng phòng hộ ở vùng rất xung yếu và xung yếu với mức đầu tư trực tiếp đến người trồng rừng, bình quân là 2,5 triệu 1 ha gồm: trồng mới và chăm sóc theo quy trình kỹ thuật. + Trồng rừng sản xuất: Hỗ trợ bình quân là 2 triệu đồng/ ha cho các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân tự bỏ vốn trồng rừng sản xuất là các loài cây gỗ đặc biệt quý hiếm có chu kỳ trên 30 năm. Tuy trồng rừng sản xuất có mục đích là để sản xuất hàng hoá, tìm kiếm doanh lợi nhưng rất cần sự giúp đỡ tài chính của Nhà nước vì: Những vùng đất hiện nay được bố trí để trồng rừng sản xuất thường là đất xấu ở vùng xa thị trường. Trồng rừng ở đó khó có khả năng đạt được thu nhập và doanh lợi cao, lợi thế trong cạnh tranh rất thấp. Chu kỳ sinh trưởng của cây rừng rất dài, đòi hỏi vốn đầu tư phải lớn mới đạt tới một quy mô diện tích rừng trồng hiệu quả và còn phải xây dựng cơ sở hạ tầng ở các vùng trồng rừng mới có thể tiến hành kinh doanh được. Ngoài lợi ích cá biệt, trồng rừng còn có những lợi ích xã hội khác. - Về kinh phí quản lý Dự án Kinh phí quản lý dự án trồng rừng phòng hộ, đặc dụng được trích 8% trong tổng mức đầu tư ngân sách của Nhà nước, trong đó chia ra: các ngành ở Trung ương là 0,7%, tỉnh, huyện, xã là 1,3%, chủ Dự án ở cơ sở là 6%. Để phù hợp với tình hình thực tế cần nghiên cứu xây dựng và làm rõ kinh phí chi cho quản lý bảo vệ 50.000 đ/ha/năm và suất đầu tư trồng rừng phòng hộ 2,5 triệu đ/ha được thể hiện trong từng vùng sinh thái về các điều kiện kinh tế - xã hội, điều kiện về khí hậu, độ dốc, độ cao khác nhau. Về suất đầu tư cho trồng rừng mới cần tính toán cho cả chu kỳ cây rừng. Có nghĩa là suất đầu tư đó gồm có: Chi phí trồng rừng năm thứ nhất Chi phí chăm sóc từ 3-5 năm, đến khi rừng khép tán Chi phí quản lý bảo vệ trong suốt cả chu kỳ. Chi phí xây dựng cơ sở hạ tầng. * Vốn tín dụng đầu tư. Đầu tư tín dụng gây trồng rừng sản xuất lãi thấp theo luật đầu tư trong nước. Cũng có thể nghiên cứu sửa đổi theo hướng đơn giản các thủ tục (xây dựng dự án, thẩm định, vay vốn, giám sát, nghiệm thu, thu hồi vốn) bằng cách trợ cấp một ha trồng rừng sản xuất là 1 triệu đồng ứng trước một phần, nếu tỷ lệ sống sót cao sẽ ứng tiếp phần còn lại. Việc chăm sóc, bảo vệ, thu hoạch, trồng lại là nhiệm vụ của chủ rừng vì đây là rừng sản xuất tư nhân. Nguồn vốn tín dụng đầu tư chủ yếu dùng để trồng rừng sản xuất. Để khuyến khích người dân tham gia trồng rừng một cách tích cực thì phải tạo mọi điều kiện thuận lợi như về thuế, lãi suất. Nên giảm mức lãi suất hơn nữa nhằm khuyến khích đầu tư theo định hướng và để hỗ trợ về vốn. Đối với các vùng đất xấu, khó trồng thì ngoài phần được hưởng mức ưu đãi chung cần được khấu trừ khỏi lợi tức chịu thuế hàng năm một khoản bằng tổng chi phí vận chuyển hàng hoá và chi phí đào tạo để trả cho các cơ sở, trung tâm đào tạo được Nhà nước thừa nhận. * Vốn từ nguồn ODA. - Với viện trợ không hoàn lại nên tập trung cho xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn, điện nước cho vùng sâu, vùng xa. Đồng thời hỗ trợ các cơ sở chế biến lâm sản. - Với nguồn cho vay với lãi suất ưu đãi thì nên cho dân vay với lãi suất thấp để khuyến khích họ. * Vốn từ nguồn FDI. Nên tập trung cho các cơ sở chế biến lâm sản và các dự án trồng rừng nguyên liệu nhằm sản xuất các mặt hàng như: giấy, gỗ ván nhân tạo, hàng xuất khẩu. 2. Giải pháp về đất đai. * Cần thực hiện tốt hơn nữa chính sách về đất đai trong lâm nghiệp. Để thực hiện nhiệm vụ này, chúng ta đã có Nghị định số 163/1999/NĐ-CP. Nghị định này quy định số đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài dưới hình thức giao đất không thu tiền sử dụng đất và cho thuê đất lâm nghiệp. ở đây, chúng ta cần tổng kết, đánh giá bài học kinh nghiệm bổ ích cho việc chỉ đạo “bảo vệ và làm giàu rừng” hiện còn theo hướng: - Giao đất Lâm nghiệp gắn với giao rừng và cáo giấy chứng nhận quyền sử dụng rừng, đất rừng đối với rừng đặc dụng và rừng phòng hộ. Đối với rừng đặc dụng, việc giao đất gắn với giao rừng được quy hoạch xây dựng rừng đặc dụng cho các ban quản lý rừng đặc dụng để bảo vệ và xây dựng tuân thủ theo các dự án đầu tư được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Đối với rừng phòng hộ, việc giao đất gắn với cho thuê đất ở khu vực rừng phòng hộ ít xung yếu để bảo vệ và trồng cây gây rừng theo hướng lâm nông kết hợp như đối với rừng sản xuất nhưng không làm ảnh hưởng tới chức năng phòng hộ. Ban quản lý rừng phòng hộ giao khoán đất cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân để trồng, chăm sóc và bảo vệ rừng. - Giao đất và cho thuê đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được quy hoạch để trồng rừng sản xuất cho các tổ chức thuộc các thành phần kinh tế, hộ gia đình và cá nhân. - Hạn mức và thời gian giao đất và cho thuê đất rừng. Về hạn mức giao đất và thời hạn giao đất cho thuê đất cần phân biệt 2 trường hợp: Một là, đối với các tổ chức cần căn cứ vào các dự án đầu tư được cấp có thẩm quyền phê duyệt, hai là, đối với các hộ gia đình và cá nhân do UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quy định phù hợp với tình hình cụ thể của địa phương. Về thời hạn giao đất, cho thuê đất đối với các tổ chức kinh tế và giao đất, giao rừng cho các hộ gia đình, cá nhân đã được quy định là 50 năm hoặc trên 50 năm khi người được giao có nhu cầu. Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân cần thực hiện và cần coi trọng việc chuẩn bị để đảm bảo việc thực hiện nhiệm vụ này ngay sau khi họ được giao đất và cho thuê đất. * Hỗ trợ các hộ trồng rừng, tập trung theo quy hoạch trên diện tích dất của hộ được Nhà nước giao cho sử dụng. Rừng trồng của các hộ trên đất được Nhà nước giao cho sử dụng để cung cấp nguyên liệu công nghiệp theo hợp đồng với các nhà máy chế biến lâm sản, trồng rừng đặc sản hoặc rừng cung cấp gỗ gia dụng, củi đun, tre luồng, song mây... Dự kiến rừng trồng của các hộ trên đất được giao sử dụng 1.500.000 ha bằng 30% diện tích trồng 5 triệu ha rừng. Các hộ trồng rừng bao gồm hộ nông dân, cộng đồng thôn bản, đơn vị quân đội, công an vũ trang, các trường học, trại giam và cả tư nhân bỏ vốn, thành lập trang trại trồng rừng. Các tổ chức nông lâm nghiệp hướng dẫn kỹ thuật và dự báo thị trường để các hộ lựa chọn cây trồng có hiệu quả kinh tế cao. * Thành lập các đơn vị trồng rừng mới. ở những nơi đất trống đồi núi trọc, vùng cao, vùng sâu vùng xa dân cư thưa thớt, phần lớn đất nước được quy hoạch là gây trồng rừng phòng hộ chưa có lâm nông trường thì thành lập đơn vị trồng rừng mới có bộ khung gồm cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật, nhân viên bảo vệ... làm nhiệm vụ thiết kế hiện trường sản xuất gieo vườn tạo cây con, bảo vệ rừng trồng. Huy động lực lượng lao động nghĩa vụ phát dọn thực bì, làm đất, vận chuyển cây con, trồng rừng, chăm sóc rừng trồng làm đường băng cản lửa... theo mùa vụ ở từng địa phương. Dự kiến các đơn vị trồng rừng mới trong cả nước sẽ trồng khoảng 750.000 ha chiếm 15% diện tích trồng 5 triệu ha rừng, trung bình chăm sóc rừng tới khi rừng khép tán là 300 công/ha, thì mỗi năm phải huy động cho các đơn vị trồng rừng mới là 18 triệu ngày công, nếu lao động nghĩa vụ là 10 công/người/năm thì phải huy động 1,8 triệu lượt người tới lao động tại các đơn vị trồng rừng đòi hỏi sự phối hợp đồng bộ của các cấp, các ngằnh theo kế hoạch huy động và tổ chức sản xuất theo mùa vụ ở từng địa phương, từ quỹ lao động nghĩa vụ hàng năm, từng địa phương tổ chức đội trồng rừng chuyên trách đảm bảo lực lượng lao động ổn định, có trình độ tai nghề thành thạo để đạt năng suất và chất lượng cao. Tuỳ từng vị trí của từng đơn vị lựa chọn cây trồng phù hợp với điều kiện lập địa, vừa đạt mục tiêu phòng hộ lợi ích kinh tế mới, giao cho hộ nông dân nhận khoán bảo vệ rừng và sản xuất lâm nông kết hợp, phần diện tích đã trồng chưa giao khoán được cho hộ nông dân, cộng đồng thôn bản, đơn vị quân đội... thì lực lượng kiểm lâm chịu trách nhiệm bảo vệ rừng trồng. 3. Giải pháp về khoa học và công nghệ. Quá trình đổi mới từ lâm nghiêp Nhà nước tập trung sang lâm nghiệp xã hội mới có 10 năm, do đó khoa học về tổ chức sản xuất và khoa học về quản lý kinh tế đang còn nhiều bất cập, so với các nước Đông Nam á. Vì vậy vấn đề về khoa học và công nghệ trong dự án trồng mới 5 triệu ha rừng rất được quan tâm. a. Về kỹ thuật lâm sinh. * Chọn giống, cải thiện giống và sản xuất giống đang là khâu rất yếu 9/10 giống lâm nghiệp hiện nay là chưa được chọn lọc vẫn đang được dùng trong sản xuất. Các loài cây quan trọng như phi lao, tếch, bạch đàn phải nhập mỗ loài vài ba dòng trội từ Trung Quốc nhưng công nghệ nhân giống bằng mô, hom lại đắt, chưa được sử dụng nhiều. Mâu thuẫn giữa việc chọn giống, sản xuất giống giao cho tổ chức chuyên môn để kiểm soát chất lượng với việc giao cho dân tự thu hái gieo ươm xô bồ để tăng thu nhập cho người trồng rừng vẫn chưa được giải quyết. Do đó phải đẩy nhanh việc chọn giống, giữ giống gốc, xây dựng vườn giống, vườn chuyển hoá đồng thời với nhập giống, nhập công nghệ và quản lý giống bằng chứng chỉ chất lượng và giấy phép hành nghề. * Về cơ cấu cây trồng và phương thức trồng rừng thực ra đã được giải quyết bằng cán bộ công nhân viên nguyên tắc: sinh thái học và mục tiêu điều chế rừng. Nguyên tắc thứ nhất thường được trình bày bằng công thức “đất nào cây ấy” nghĩa là mỗi điều kiện lập địa sẽ phù hợp cho một số loài cây trồng nhất định nào đó, lập địa càng khắt khe số loài cây phù hợp càng ít, ví dụ cát trắng chỉ có loài phi lao mọc được, đất đồi trọc lâu năm đã hoá đá ong chỉ có loài phi lao mọc được, đất đồi trọc lâu năm đã hoá đá ong chỉ có loài thông nhựa sống được. Ngược lại mỗi loài cây có khả năng thích nghi với 1 hoặc 1 số điều kiện lập địa khác nhau mà ta quen gọi là biên độ sinh thái rộng hay hẹp. Điều kiện cần lưu ý là các loài cây gỗ bản địa đã được chọn lọc lâu đời thích nghi với điều kiện sống hỗn loại trên đất rừng sâu ẩm nhiều mùn rất khó thích nghi với khi đem trồng thuần loại trong điều kiện đất xấu, khô, nắng. Đó chính là nguyên nhân thất bại thường thấy khi đem cây gỗ rừng tự nhiên (bản địa) ra trồng tại đất trống đồi núi trọc mà không có cây phụ trợ che bóng và cải tạo đất. Chính vì thế các nhà khoa học không bài xích bất kỳ loài cây nào mà đang cố gắng đảm bảo tính đảm bảo tính đa dạng sinh học cả trong rừng tự nhiên lẫn rừng trồng, cả các loài bản địa lẫn các loài nhập nội. Nguyên tắc thứ hai là bất kỳ kinh doanh hoặc gây trồng một loài cây, một loại rừng nào cũng nhằm một mục tiêu nào đó, nếu có nhiều mục tiêu thì phải đặt mục tiêu chính và mục tiêu kết hợp. Mục tiêu trồng rừng càng khác nhau đòi hỏi số lượng cơ cấu cây càng phong phú và càng không nên kỳ thị cây nhập nội hay cây bản địa, những loài cây đã nhập nội lâu năm mà ta đã nắm vững đặc điểm sinh thái đã có kinh nghiệm trồng như phi lao, keo lá tràm, keo chịu hạn, keo tai tượng. bạch đàn các loại, trám mọc nhanh... đã trở thành những cây đa tác dụng, dễ trồng cũng cần được quý như cây bản địa. Về phục hồi rừng, có hai loại phương thức chính: một là, tái sinh tự nhiên; hai là trồng lại. Giữa 2 phương thức này là tác động của con người, ở mức thấp là khoanh nuôi. Vì vậy phương thức khoanh nuôi tái sinh được chia thành khoanh nuôi đơn giản khi số lượng cây con tái sinh khi cây đầy đủ và khoanh nuôi có tác động hay xúc tiến tái sinh khi cây con tái sinh không đâỳ đủ hoặc muốn rút ngắn giai đoạn thế tái sinh để nhanh thành rừng mục đích. Song không phải bất kỳ lập địa đất trống đồi núi trọc nào cũng có thể tiến hành khoanh nuôi tái sinh thành công, mà số lượng cây con tái sinh đã có trên mặt đất phải ở mức nào đó. Vì vậy nếu chưa có các điều tra chuyên đề này thì không thể giao kế hoạch khoanh nuôi tái sinh ở những nơi có đất trống đồi núi trọc được. * Bảo vệ rừng, chống cháy rừng, sâu bệnh hại. Lực lượng chuyên trách bảo vệ rừng là kiểm lâm, đã được tăng cường tới 9.000 người, trung bình 1000 ha/1 kiểm lâm viên nhưng lực lượng kiểm lâm mới đảm nhiệm bảo vệ trên 1 triệu ha rừng đặc dụng. Rừng sản xuất do chủ rừng tự bảo vệ, rừng phòng hộ ngân sách phải chi hàng năm 100 tỷ khoán dân bảo vệ, đó là điều bất hợp lý không một nước nào làm và cần điều chỉnh bằng khoa học quản lý. Cháy rừng và sâu bệnh hại chỉ xảy ra đối với một vài loại rừng và nếu theo phương châm phòng là chính thì cần tập trung xử lý phòng cháy tại rừng thông nhựa, thông 3 lá, thông đuôi ngựa và rừng tràm. Sâu bệnh hại cũng xuất hiện theo chu kỳ tại rừng trồng thuần loại tập trung diện tích lớn, dễ lây lan đặc biệt là các loài cây trồng sai vùng sinh thái, những loài cây quen mọc hỗ loại trong rừng tự nhiên nay đem trồng thuần loại. Vì vậy phòng cháy, phòng sâu bệnh ngay trong kỹ thuật lâm sinh rút thành quy trình quy phạm, để ngay trong thiết kế trồng rừng đã không tập trung các diện tích thuần loại quá lớn, cần được ngăn cách bởi các băng rừng loài khác, hoặc băng trắng làm đường cản lửa, cản sâu bệnh và giao thông nhanh chóng khi cần chữa cháy. Việc trồng hỗn loại 2 loài hoặc nhiều loài theo băng, bình độ rộng hẹp tuỳ mục tiêu càn được khuyến khích trong dự án kể cả rừng phòng hộ lẫn rừng sản xuất. * Đẩy mạnh trồng rừng môi trường sinh thái, cải thiện điều kiện sống cho thành phố, đô thị, khu dân cư, khu công nghiệp. Đây là loại rừng có tác dụng có hiệu quả dễ thấy nhất là chỉ số đánh giá mức độ văn minh và môi trường của từng nước, từng vùng. Các hình thức phổ biến của rừng sinh thái cần được thiết lập là “rừng môi trường, lâm viên”, quy mô vài trăm đến vài chục nghìn ha, bao bọc khu dân cư hoặc án ngữ các hướng gió chính tại ngoại vi đô thị làm băng, thành dải, các “vườn thực vật, các vườn sưu tập thụ mộc”, quy mô nhỏ hơn từ dăm bảy hécta tới vài chục hoặc một trăm hécta là các hình thức linh hoạt, dễ xen kẽ vào các khu dân cư, ngăn cách các nhà máy. b. Về khoa học tổ chức sản xuất. * Đối với rừng sản xuất, một mặt phát triển các doanh nghiệp mới từ tư nhân, trang trại gia đình, công ty cổ phần hoặc trách nhiệm hữu hạn, công ty liên doanh nước ngoài, còn cần tổ chức cải tiến các lâm trường quốc doanh theo hướng doanh nghiệp công ích và doanh nghiệp lâm nghiệp Nhà nước. Thực chất của lâm trường quốc doanh cho tới nay qua khảo sát của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn thì chưa phải là một doanh nghiệp theo đúng luật vì một mặt phụ thuộc quá lớn vào cấp trên, không tự quyết đầu vào đầu ra, mặt khác không đủ điều kiện để tự chủ và chịu trách nhiệm trước pháp luật như vốn cố định nghèo nàn... *Đối với rừng phòng hộ: Quản lý tổ chức rừng phòng hộ chưa ổn định, đại đa số các khu rừng phòng hộ ở các tỉnh đều chưa có chủ thật sự để làm chức năng quản lý và chủ đầu tư. Bởi vậy về lâu dài cần thành lập các khu rừng phòng họ có Ban quản lý giống như rừng đặc dụng để làm chủ đầu tư và rất nhiều lưu vực phòng hộ không thành lập chủ rừng lâu dài. * Đối với rừng đặc dụng: Trước mắt cần khắc phục hậu quả quá khứ các nhược điểm sau: Một là khi thiết kế và phê duyệt luận chứng (nay là dự án đầu tư) các khu rừng đặc dụng còn để tỷ lệ đất trống đồi núi trọc quá lớn, tỷ lệ 10-20% có nơi tới 30%, như vậy về chất lượng mất hết ý nghĩa về tiêu chuẩn bảo tồn hệ sinh thái nguyên vẹn. Hai là các khu rừng đặc dụng trùng lặp đơn điệu về các hệ sinh thái cần bảo tồn như hệ mưa ẩm hỗn loại thường xanh vùng đá vôi chẳng hạn, trong khi lại quá ít cho các hệ sinh thái rừng ngập mặn, rừng thông nhiệt đới. 4.. Cần thực thi đầy đủ và nghiêm túc các chính sách về hưởng lợi và tiêu thụ sản phẩm Những chính sách đã được Thủ tướng chính phủ quy định về vấn đề hưởng lợi và tiêu thụ sản phẩm ở Quyết định 611/QĐ-TTg là rất rõ ràng và thông thoáng, chắc chắn sẽ tạo điều kiện để thúc đẩy trồng rừng. Cụ thể là: * Đối với rừng phòng hộ và rừng đặc dụng: - Ưu tiên khoán cho các hộ định canh định cư, các hộ nghèo, hộ ở gần rừng và những hộ đã nhân khoán trước đây để bảo vệ khoanh nuôi tái sinh rừng đặc dụng và rừng phòng hộ rất xung yếu và xung yếu. Khi hết thời hạn khoán nếu hộ nhận khoán có nguyện vọng và trong quá trình nhận khoán thực hiện bảo vệ rừng tốt thì được nhận khoán chu kỳ tiếp theo. - Hộ nhận khoán bảo vệ rừng phòng hộ ở vùng rất xung yếu và xung yếu được khai thác củi và lâm đặc sản dưới tán rừng. - Hộ nhận khoán khoanh nuôi tái sinh kết hợp trồng bổ sung rừng phòng hộ được hưởng toàn bộ sản phẩm tỉa thưa, lâm sản phụ dưới tán rừng. - Hộ trồng rừng phòng hộ được hưởng toàn bộ sản phẩm tỉa thưa, nông sản và lâm sản phụ dưới tán rừng. *Đối với rừng sản xuất - Hộ đầu tư trồng rừng sản xuất là chủ rừng, có quyền quyết định thời điểm và phương thức khai thác rừng nhưng phải có trách nhiệm tái tạo rừng trong phạm vi không quá 2 năm khi khai thác. - Mọi sản phẩm khai thác từ rừng trống, tre, nứa và lâm sản phụ khai thác từ rừng tự nhiên được tự do lưu lưu thông trên thị trường. Gỗ và lâm sản khai từ rừng tự nhiên tái sinh thuộc rừng sản xuất của các chủ rừng là hộ gia đình và cá nhân được tự do lưu thông trên thị trường (trừ các loại được ghi trong danh mục động thực vật quý hiếm quy định tại Nghị định 18/ HĐBT ngày 17/01/1992 của Hội đồng Bộ trưởng nay là chính phủ. Khi khai thác và tiêu thụ chủ rừng chỉ cần báo với cơ quan kiểm lâm gần nhất hoặc UBND xã, thị trấn sở tại để trong vòng 10 ngày được cấp giấy chứng nhận các sản phẩm này là sản phẩm hợp pháp. - Nhà nước khuyến khích chế biến và xuất khẩu sản phẩm rừng trồng đã qua chế biến. Trong trường hợp các cơ sở chế biến trong nước không sử dụng hết nguyên liệu hoặc chưa có đủ điều kiện đầu tư xây dựng cơ sở chế biến thì được phép xuất khẩu sản phẩm rừng trồng dưới dạng nguyên khai. - Nhà nước có chính sách tiêu thụ sản phẩm rừng trồng và các chính sách khác, đảm bảo lợi ích cho người trồng rừng. Để thực thi tốt những chính sách nay, cần phải xác lập thật cụ thể những người chủ rừng đích thực của các khu trồng đã có và sẽ có trong dự án này. Làm được như vậy chắc chắn chúng ta sẽ đỡ lo về vấn đề bảo vệ các khu rừng trồng, vì khi họ là người chủ rừng thật sự, lâu dài, có mục đích kinh doanh sản phẩm rõ ràng thì họ sẽ tính toán, quyết định thời điểm và phương thức khai thác hợp lý nhất và có lợi nhất ở những khu rừng mà họ được làm chủ (kể cả lợi ích khi thu hoạch và lợi ích khi tái tạo rừng). Thời gian tới cần phải tiếp tục hoàn thiện các giải pháp điều tiết vĩ mô đối với thị trường lâm sản, để thúc đẩy kinh doanh rừng sản xuất. Cần chú trọng các giải pháp sau đây: - Tỉa thưa hợp lý các khu rừng trồng đã đến hoặc quá thời kỳ tỉa thưa, nhất là ở những khu rừng trồng có điều kiện tiêu thụ được sản phẩm tỉa thưa. - Rà soát lại các kênh lưu thông gỗ từ người trồng rừng đến người tiêu thụ gỗ ở từng vùng để xoá bỏ ngay những tầng nấc trung gian không cần thiết. Cố gắng tạo nên một thị trường lâm sản, không độc quyền, có cạnh trạnh giữa các cơ sở chế biến. - Giúp đỡ những người trồng rừng, xây dựng các hình thức hợp tác để tiêu thụ sản phẩm. - Mở rộng các cơ sỏ chế biến gỗ sử dụng nguyên liệu từ rừng trồng. - Kiểm soát chặt chẽ lượng gỗ khai thác bất hợp pháp từ rừng tự nhiên để tạo điều kiện nâng giá gỗ sản xuất từ rừng trồng lên mức đủ bù đắp chi phí, có doanh lợi hợp lý. 5. Cần thực hiện và quán triệt chủ trương phát triển mạnh trồng rừng, phủ xanh đất trống đồi núi trọc hướng tới đóng cửa rừng tự nhiên. “Hướng tới đóng cửa rừng tự nhiên” là một chủ trương đúng đắn phù hợp với quy luật khách quan, một tất yếu trong khi rừng tự nhiên nước ta bị tàn phá ở mức nghiêm trọng. Từ “Đóng” đã được nói rõ trong dự án: đóng cửa rừng tự nhiên là giảm lượng khai thác gỗ và lâm sản một cách hợp lý đối với rừng tự nhiên để toàn bộ rừng nghèo (kể cả rừng sản xuất và rừng phòng hộ) có điều kiện phục hồi ít nhất trong khoảng thơì gian 15 đến 20 năm. Để bù đắp lại lượng gỗ giảm đi đó cần thực hiện trồng và khai thác, sử dụng, chế biến gỗ rừng trồng tăng dần theo thời gian và nhập khẩu gỗ khi cần thiết,... nhằm phát triển sản xuất kinh doanh lâm nghiệp theo hướng lâu bền và tránh được những đột biến về thị trường lâm sản, đồng thời giải quyết được các mâu thuẫn về kinh tế- xã hội xảy ra khi thực hiện đề án này. Ngoài ra cần chú ý đến các chính sách về thuế, chính sách ưu tiên các thành phần kinh tế tham gia trồng rừng... - Về thuế: đảm bảo các ưu tiên về thuế đất, miễn thuế chu kỳ đầu (lợi tức) và giảm các chu kỳ sau để chủ rừng có thể tái tạo rừng và có lãi. Nếu chủ rừng chế biến xuất khẩu sản phẩm từ rừng trồng cũng được xem xét miễn giảm. Đặc biệt là đảm bảo thủ tục khai thác đơn giản, quyền bán tự do kể cả xuất khẩu thì mới khuyến khích trồng rừng. - Về chính sách ưu tiên các thành phần kinh tế tham gia trồng rừng gồm tư nhân, hộ gia đình, cộng đồng thôn bản, hợp tác xã, lâm trường, doanh nghiệp nhà nước hoặc trách nhiệm hữu hạn, liên doanh liên kết cần được ưu tiên theo luật đầu tư trong nước, đầu tư nước ngoài. Đặc biệt chính sách phát triển rừng gắn chặt với phát triển kinh tế xã hội vùng dân cư miền núi. III. kiến nghị 1. Cần xác định qũy đất: Xác định chính xác diện tích, ranh giới trên thực địa và bản đồ 3 loại rừng (rừng phòng hộ, rừng đặc dụng và rừng sản xuất), rà soát, điều chỉnh, sắp xếp ổn định các dự án nghiên cứu cơ sở thuộc Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng gồm: Dự án rừng phòng hộ, rừng đặc dụng, rừng sản xuất và dự án trồng cây công nghiệp, cây ăn quả, đặc sản. Xác định diện tích rừng phòng hộ, đặc dụng cần bảo vệ, khoanh nuôi tái sinh, diện tích để trồng rừng và trồng cây công nghiệp của mỗi tỉnh. 2. Cần xác định loài cây trồng : Cần lựa chọn và hướng dẫn cho nông dân trồng các loài cây phù hợp với điều kiện sinh thái, ngoài trồng cây gỗ cứng hoặc quý hiếm có chu kỳ dài phục vụ nhu cầu hàng thủ công mỹ nghệ, cần phải chọn các loài cây mọc nhanh, chu kỳ ngắn, có giá trị kinh tế cao như Bạch đàn lai, Keo lai, Tre nhập nội, Luồng. Cần nghiên cứu rõ đất ở từng vùng, từng địa phương để lựa chọn cây trồng thích hợp nhằm mang lại lợi ích cao nhất cho nhân dân và bảo vệ môi trường tốt nhất. 3. Cần nghiên cứu cơ chế chính sách đối với trồng rừng sản xuất . Vấn đề trồng rừng sản xuất bằng vốn vay tín dụng lãi suất thấp ngoài chính sách ưu đãi về đất đai, thuế ... trong luật khuyến khích đầu tư trong nước cần có giải pháp xử lý tổng hợp, đồng bộ từ kỹ thuật lâm sinh, đến tổ chức quản lý; phát triển, tạo cây giống thích hợp, sinh trưởng nhanh, chu kỳ ngắn, đầu tư thâm canh để có năng suất cao và gần nơi tiêu thụ, nhất thiết phải gắn vùng nguyên liệu với cơ sở chế biến và thành một tổ chức quản lý thống nhất, để có thể hỗ trợ, điều hoà lợi nhuận ..., đầu tư, hoặc bù chênh lệch lãi suất cho khâu tạo vùng nguyên liệu. Không thể để tình trạng cơ sở chế biến sử dụng nguyên liệu từ rừng trồng thì có lãi, còn vùng nguyên liệu thì khó khăn, Nhà nước phải bao cấp. 4. Nhà nước nên xem xét lại một số vấn dề về chính sách sử dụng đất đối với người lao động vì hiện nay lợi ích người lao động ở lâm trường và người được giao trực tiếp trồng rừng là khác nhau, không thoả đáng đối với người lao động. Đề nghị Nhà nước xem xét lại để đảm bảo quyền lợi xứng đáng cho người lao động. 5. Về thị trường tiêu thụ: Phải có chính sách khuyến khích việc tiêu thụ hàng hoá lâm sản. Cần tạo điều kiện thuận lợi cho việc chế biến lâm sản, thu hút nhân tài. Ngoài ra đối với đội ngũ cán bộ cần phải được đào tạo thêm để nâng cao khả năng quản lý cũng như lòng nhiệt tình với công việc. Nên có chế độ ưu tiên hơn nữa đối với những người nhận đất ở vùng sâu, vùng xa, không có hoặc ít dân cư sinh sống để họ có động cơ làm việc. kết luận Tóm lại , vấn đề đặt ra là bằng mọi giá chúng ta phải trồng mới 5 triệu ha rừng và giữ được 10.915.529 ha rừng hiện có. Do nhiều nguyên nhân khác nhau , rừng ở nước ta đã lùi đến một ngưỡng tối thiểu để phát huy chức năng phòng hộ môi trường sống và chức năng cung cấp lâm sản cho xã hội. Vì vậy thực hiện việc trồng mới 5 triệu ha rừng đang là vấn đề cấp bách, cần thiết, là nhiệm vụ toàn Đảng và toàn dân ta, nó phải trở thành quyền lợi và nguyện vọng của toàn dân trong giai đoạn đất nước còn nghèo nhưng đất trống , đồi núi trọc và lao động lại dư thừa. Để thực hiện thành công công tác kế hoạch đề ra cần có sự phối hợp đồng bộ của nhiều ngành, mọi kinh nghiệm đã được tích luỹ và những nguồn lực thoả đáng phải được huy động cho dự án. Tuy nó còn là sự phấn đấu không mệt mỏi, sự đóng góp tài chính, sức lực và trí tuệ của toàn Đảng và toàn dân ta nhưng chúng ta tin tưởng rằng, với sự tham gia tích cực của nhân dân và sự hỗ trợ của cộng đồng quốc tế, dự án này sẽ được thực hiện thành công , làm thay đổi căn bản tình trạng rừng, đưa lâm nghiệp nước ta thành một ngành đóng góp quan trọng vào sự phát triển của nền kinh tế quốc dân, xoá đói giảm nghèo, cải thiện đời sống của nông dân, góp phần cải thiện môi trường sinh thái trong nước và trên thế giới. danh mục tài liệu tham khảo Giáo trình Chương trình và dự án phát triển kinh tế xã hội, Trường Đại học Kinh tế quốc dân. Tạp chí lâm nghiệp số 9, 11, 12 năm 1998, số 11 năm 1999, số 5, 10 năm 2000. Tạp chí kinh tế và dự báo số 3/2000. Quyết định 661/QĐ-TTg ngày 29/7/1998 của Thủ tướng Chính phủ về mục tiêu, nhiệm vụ, chính sách và tổ chức thực hiện Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng. Thông tư số 28/1999/TT-LT ngày 03/02/1999 hướng dẫn việc thực hiện Quyết định 661/QĐ-TTg của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính. Thông tư số 28/1999/TT-BTC ngày 13/03/1999 của Bộ Tài chính về Hướng dẫn việc quản lý, cấp phát vốn NSNN cho Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng theo Quyết định 661/QĐ-TTg ngày 29/07/1998 của Thủ tướng Chính phủ. Nghị định 163/1999/NĐ-CP ngày 16/11/1999 của Chính phủ về giao đất, cho thuê đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đìnhvà cá nhân sử dụng ổn định , lâu dài vào mục đích lâm nghiệp. Quyết định số 03/2001/NĐ-TTg ngày 05/01/2001 của Thủ tướng Chính phủ “ Về việc phê duyệt kết quả tổng kiểm kê rừng toàn quốc”. Báo cáo kết quả 2 năm thực hiện Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng (1999 - 2000) của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc3841.doc
Tài liệu liên quan