Đề tài Một số giải pháp phát huy vai trò của đầu tư trong việc thực hiện công bằng xã hội ở Việt Nam

MỤC LỤC Lời giới thiệu 1 Chương1. Lý Luận chung về Đầu tư và Công bằng xã hội. 2 I. Một số ván đề chung về đầu tư. 2 1. Khái niệm. 2 2. Vai trò của đầu tư. 2 II. Lý luận chung về đầu tư và Công bằng xã hội. 4 1. Một số vấn đề về Công bằng xã hội. 4 2. Các thước đo về Công bằng xã hội. 6 3. Sự cần thiết của hoạt động đầu tư trong việc giảI quyết vấn đề Công bằng xã hội. 7 III. Một số nhân tố ảnh hưởng tới đầu tư và vấn đề Công bằng xã hội. 8 1. Tác động của tình hình kinh tế trong nước. 8 2. Tác động của chuyển dịch cơ cấu kinh tế. 10 3. Tác động của Nhà nước. 12 4. Một số nhân tố khác. 13 Chương II. Thực trạng hoạt động đầu tư cho Công bằng xã hội. 14 I. Thực trạng hoạt động đầu tư nhằm giảm phân hoá giàu nghèo. 14 1. Đầu tư cho các ngành kém phát triển, các vùng khó khăn. 14 2. Đầu tư cho xoá đói giảm nghèo. 17 II. Thực trạng hoạt động đầu tư cho phúc lợi xã hội. 21 1. Đầu tư cho giáo dục . 21 2. Đầu tư cho y tế và tăng cường năng lực y tế cho người nghèo. 22 Chương III. Các giải pháp phát huy vai trò của đầu tư trong việc thực hiện Công bằng xã hội. 24 I. Một số mục tiêu của Đảng và Nhà nước ta trong việc thực hiện Công bằng xã hội. 24 II. Một số giải pháp khắc phục những khó khăn tồn tại trong hoạt động đầu tư cho Công bằng xã hội. 24 1. Tăng cường và đa dạng hoá nguồn vốn đầu tư cho Công bằng xã hội. 24 2. Nâng cao hiệu quả đầu tư cho Công bằng xã hội. 24 3. Hoàn thiện chính sách đầu tư của Nhà nước cho Công bằng xã hội. 24 4. Tăng cường hệ thống giáo dục và đưa giáo dục về tay người nghèo 25 III. Một số giải pháp phát huy vai trò của đầu tư trong việc thực hiện Công bằng xã hội. 30 1. Phát huy vai trò của đầu tư trong việc chuyển dịch cơ cấu knh tế gắn với xoá đói giảm nghèo và thực hiện Công bằng xã hội. 30 2. Nâng cao hiệu quả xã hội trong từng dự án đầu tư, phát huy vai trò của đầu tư trong giải quyết việc làm và xoá đói giảm nghèo. 34 3. Giải pháp đầu tư cho phúc lợi xã hội một cách công bằng và hợp lý. 35 4. Nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan quản lý Nhà nước về Đầu tư trong việc thực hiện CBXH 37 Kết Luận 39 Tài liệu tham khảo 39 LỜI GIỚI THIỆU Kể từ khi bắt đầu quá trình đổi mới hiện nay, đất nước ta đã có những thành quả rất đáng khích lệ trong quá trình phát triển kinh tế đất nước. Chúng ta cũng bắt đầu chuyển biến từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, không phải tất cả cái gì đều tồn tại tích cực của nó mà đều ẩn chứa trong nó những mặt tiêu cực và chỉ chờ cơ hội bùng phát ra. Kinh tế thị trường cũng không nằm ngoài ngoại lệ đó. Bờn cạnh mặt tớch cực nú cũn cú mặt trỏi, cú khuyết tật từ trong bản chất của nú do chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa chi phối. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, càng ngày mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản càng bộc lộ sâu sắc, không giải quyết được các vấn đề xó hội, làm tăng thêm tính bất công và bất ổn của xó hội, đào sâu thêm hố ngăn cách giữa người giàu và người nghèo. Do vậy việc cấp thiết hiện nay của Đảng và Nhà nước ta ngoài việc phát triển kinh tế là cần đẩy mạnh xoá đói giảm nghèo, thực hiện Công bằng xã hội. Đây là một vấn đề lớn và đã có rất nhiều các nhà nghiên cứu đã xem xét vấn đề này dưới các góc độ khác nhau. Tuy nhiên, trong phạm vi của đề tài chúng tôi sẽ nghiên cứu vấn đề Công bằng xã hội dưới khía cạnh đầu tư, một lĩnh vực cũng rất quan trọng hiện nay của đất nước ta. Vì Công bằng xã hội là một vấn đề hết sức quan trọng nên trong thời gian qua Đảng và Nhà nước ta đã ra sức đầu tư cho Công bằng xã hội. Do vậy, trong phạm vi của dề tài, chúng tôi sẽ nghiên cứu các vấn đề đầu tư cho Công bằng xã hội và qua đó đánh giá tác động của nó đến Công bằng xã hội. Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn cô giáo Thạc sỹ Trần Mai Hương Bộ môn Kinh tế Đầu tư - đã nhiệt tình giúp đỡ tôi hoàn thành đề tài nghiên cứu

doc44 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1530 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp phát huy vai trò của đầu tư trong việc thực hiện công bằng xã hội ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 5,32 4751,39 6,13 6368,91 7,88 17893,92 6,3 Tây Nguyên 158484 3,0 177558 2,48 190745 2,46 216522 2,68 7433,09 2,6 ĐB SCL 744799 14,09 963754 13,49 1082295 13,96 1196811 14,81 39876,59 14,3 Hơn 10 năm 1991-2000, Nhà nước đã đầu tư vào các vùng này khoảng 22,1% vốn đầu tư cả nước trong đó, vốn NSNN chiếm khoản 28%. Vốn đầu tư từ nguồn NSNN tập trung cho các công trình cơ sở hạ tầng, trong đó hạ tầng kỹ thuật chiếm 63,5%, hạ tầng xã hội chiếm 34,7%, các ngành khác chiếm 1,8%. b) Hoạt động đầu tư được đa dạng và hiệu quả hơn góp phần phát triển các vùng và đẩy mạnh công cuộc xoá đói giảm nghèo. Tại từng khu vực riêng biệt, Nhà nước cũng đầu tư theo các chương trỡnh mục tiờu. Chương trỡnh dự ỏn định canh định cư tập trung chủ yếu vào hỗ trợ phát triển sản xuất, khai hoang. Dự án này cũng tạo điều kiện xây dựng cơ sở hạ tầng để đồng bào dân tộc ít người rời bỏ phương thức du canh du cư. Tính đến năm 2000, chương trỡnh đó định cư cho khoảng 118000 hộ; tổ chức đi xây dựng vùng kinh tế mới 38925 hộ. Chương trỡnh 327và 621 nhằm phủ xanh đất trống đồi núi trọc và trồng 5 triệu ha rừng, bảo vệ đất đai, cải tạo môi trường sống và nâng cao chất lượng cuộc sống. Chương trỡnh này cũng tạo điều kiện để các hô nông dân tận dụng lợi thế về đất đai và sức lao động nhằm thựchiện mô hỡnh nụng lõm kết hợp, trồng cõy ăn quả và cây công nghiệp lâu năm trên diện tích có độ màu mỡ cao, trồng cây hang năm dưới tán rừng chưa khép tán. Đây cũng là biện pháp tạo điều kiện thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nội bô ngành nông nghiệp. Ngoài ra, Nhà nước cũn cú chương trỡnh 135 là chương trỡnh kinh tế xó hội mở rộng thực hiện trờn cỏc địa bàn đặc biệt khó khăn (cả nước có 1700 xó - năm 2000). Chương trỡnh này chỳng ta sẽ đề cập kỹ hơn ở phần đầu tư cho xoá đói giảm nghèo. 2. Đầu tư cho xoá đói giảm nghèo. Xoá đói giảm nghèo là một vấn đề bức xúc mang tính toàn cầu đang được nhiều quốc gia và các tổ chức quốc tế quan tâm. Việt nam luôn coi trọng vấn đề xoá đói giảm nghèo là mục tiêu xuyên xuốt đất nước, góp phần thực hiện CBXH. 2.1. Nguồn lực cho công tác xóa đói giảm nghèo và tạo việc làm được tăng cường Mặc dù NSNN còn hạn hẹp, song Nhà nước đã đầu tư cho các chương trình quốc gia phục vụ xóa đói giảm nghèo thông qua chương trình đầu tư cơ sở hạ tầng cho các xã nghèo (Chương trình 133, 135). Từ khi có Chương trình xóa đói giảm nghèo (1992) đến năm 2000, Nhà nước đã đầu tư thông qua các chương trình quốc gia có liên quan đến mục tiêu xóa đói giảm nghèo khoảng 21.000 tỷ đồng. Riêng trong 2 năm 1999 và 2000 gần 9.600 tỷ đồng (NSNN đầu tư trực tiếp cho chương trình 3.000 tỷ đồng; lồng ghép các chương trình, dự án khác trên 800 tỷ đồng; huy động từ cộng đồng trên 300 tỷ đồng; nguồn vốn tín dụng cho vay ưu đãi hộ nghèo trên 5.500 tỷ đồng). Trong 2 năm 2001, 2002, tổng nguồn vốn huy động đạt 13.400 tỷ đồng, tăng khoảng 39,6% so với tổng mức vốn Đầu tư 2 năm 1999- 2000. Trong đó: + NSNN Đầu tư trực tiếp 3300 tỷ đồng( Trung Ương 1800 tỷ đồng, địa phương 1500 tỷ đồng) tăng 10% so với 2 năm 1999-2000. + Lồng ghép từ các chương trình, dự án khoảng 1300 tỷ đồng, tăng 62,5% so với 2 năm 1999-2000 + Huy động từ cộng đồng khoảng 700 tỷ đồng, tăng 133% so với 2 năm 1999-2000. Huy động vốn tín dụng 8100 tỷ đồng, tăng 47,3% so với 2 năm 1999-2999 Hiện nay, Chính phủ tiếp tục huy động mọi nguồn lực có thể cho xoá đói giảm nghèo. Tận dụng tối đa nguồn lực trong nước và tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của quốc rế. Trong nước, năm 2003, chúng ta đã thực hiện rất nhiều chương trình thiết thực vì người nghèo. Phong trào “Ngày vì người nghèo” diễn ra khắp nơi. Chúng ta cũng tranh thủ sự giúp đỡ của quốc tế. Vừa qua, năm 2004, chúng ta đã nhận được cam kết tài trợ của UNDP cho xoá đói giảm nghèo. Theo đó, UNDP sẽ tài trợ gần 300000 USD cho việc thí điểm lồng ghép Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo vào kế hoạch phát triển hàng năm và dài hạn của các tỉnh và tỉnh Trà Vinh sẽ là một trong những tỉnh nghèo đầu tiên được thực hiện. 2.2. Nội dung và các hoạt động Đầu tư cho Xoá đói giảm nghèo. Nhà nước đã đầu tư cho xoá đói giảm nghèo thông qua các chương trình mục tiêu của quốc gia. Chương trình xoá đói giảm nghèo là một chương trình lớn của quốc gia, có tính chất chiến lược ảnh hưởng đến tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội bền vững. Mục tiêu của chương trình này là giảm dần và xoá bỏ hộ đói, giảm hộ nghèo, giảm tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng. Mỗi năm phấn đấu giảm 3- 4% hộ đói nghèo. UNDP, WB và ADB thường trợ vốn cho các chương trình này. Chương trình 135 là chuơng trình kinh tế xã hội tổng hợp, thực hiện trên địa bàn các xã được công nhận là xã đặc biệt khó khăn (cả nước có trên 1700 xã). Mục tiêu tổng quát của chương trình là nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào các dân tộc tạo điều kiện các vùng này thoát khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu, chậm phát triển, hoà nhập với sự phát triển chung của cả nước. Thành tựu cơ bản của chương trình 135 đã thể hiện hầu hết các lĩnh vực đời sống xã hội vùng đồng bào dân tộc miền núi. Hàng ngàn cụng trỡnh cơ sở hạ tầng tại các xó đặc biệt khó khăn và các trung tâm cụm xó được xây dựng. Hệ thống cơ sở vật chất ở miền núi, vùng cao được hỡnh thành và cải thiện rừ rệt so với trước đây, góp phần thúc đẩy nền kinh tế nhiều thành phần từng bước phát triển; nhiều vùng đó chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng hóa. 2.3. Những hoạt động chính của chương trình quốc gia xoá đói giảm nghèo Biện pháp đầu tiên của chương trình là đầu tư vào xây dựng cơ sở hạ tầng cho các xã nghèo. Ngay từ năm 1999, chưong trình đã đầu tư hơn 500 tỷ đồng xây dựng 1753 công trình cho các xã nghèo như đường giao thông, thuỷ lợi nhỏ, trường học hệ thống cấp nước và điện sinh hoạt, trạm y tế, chợ nông thôn,… Ngoài vốn NSNN, các địa phương huy động thêm nguồn vốn trên địa bàn, lồng ghép vốn xây dựng cơ bản từ các chương trình và dự án khác để đầu tư thêm cho 176 xã nghèo khác với tổng kinh phí 100 triệu đồng. Với công tác định canh định cư, di dân kinh tế mới chương trình đã đầu tư 252 tỷ đồng cho việc định canh định cư tập trung cho 47 nghìn hộ, hỗ trợ cho họ khoanh nuôi bảo vệ trồng mới xây dựng cơ sở hạ tầng và ổn định đời sống di dân kinh tế mới cho 15,3 nghìn hộ tính tại thời điểm năm 1999. Cuối cùng, hoạt động đầu tư cho xoá đói giảm nghèo cũng được thực hiện qua việc chuyển giao công nghệ hướng dẫn cho họ cách làm ăn. Năm 1999, chương trình đã đầu tư 8 tỷ đồng để xây dựng 150 mô hình trình diễn kỹ thuật, tổ chức 180 lớp khuyến nông cho khoảng trên 854 nghìn lượt người nghèo. Đây là cách thức có hiệu quả lâu dài, một biện pháp tránh tái nghèo tốt nhất. 2.4. Những bất cập tồn tại trong hoạt động đầu tư cho Xoá đói giảm nghèo. a) Nguồn lực đầu tư cho xoá đói giảm nghèo còn hạn chế, chưa cân đối với mục tiêu chung nhất là nguồn vốn đầu tư từ NSNN, hàng năm mới chỉ có thể đáp ứng được khoảng 15- 20% yêu cầu. Nguồn lực trong nước còn quá hạn hẹp, vừa phải đầu tư lớn cho sự phát triển chung của đất nước vừa phải đầu tư cho xóa đói giảm nghèo, trong khi đó việc khai thác các nguồn lực chưa được nhiều và chưa có hiệu quả. Một số định hướng đầu tư đang trong quá trình điều chỉnh, khả năng tái đầu tư không đáng kể, hệ thống tài chính ngân hàng hoạt động kém hiệu quả. Hơn nữa thị trường tài chính đang hình thành nên huy động đầu tư còn yếu. Các nguồn lực cho chương trình xóa đói giảm nghèo tuy có tăng lên qua các năm, nhưng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu của các địa phương. Địa bàn trọng điểm cần xóa đói giảm nghèo hiện nay là những vùng cao, vùng sâu có nhiều khó khăn, kết cấu hạ tầng thiếu và lạc hậu, suất đầu tư cao, chi phí lớn, khó thu hút khu vực tư nhân tham gia đầu tư. Đây thực sự là một thách thức lớn cho công tác xóa đói giảm nghèo trong thời gian tới. b) Hiệu quả đầu tư cho xoá đói giảm nghèo còn chưa cao. Do các dự án đầu tư này tại các vùng khó khăn thường xa TW nên ít chịu sự giám sát chặt chẽ của các cấp TW. Trong khi năng lực cán bộ địa phương cho công tác xoá đói giảm nghèo lại rất thấp, không đủ khả năng kiểm tra các công trình đầu tư vốn lớn từ TW. Do vậy tình trạng thất thoát lãng phí trong đầu tư theo các chơng trình về Xoá đói giảm nghèo vẫn rất phổ biến. Trong chương trình 135, hàng năm chúng ta đều có tổ chức kiểm tra, có thống kê của các tỉnh, của các đoàn trung ương. Năm 2001, qua kiểm tra 17 dự án với số vốn khoảng 9,5 tỷ đồng, thỡ những sai sút được phát hiện là 687 triệu đồng. Tình trạng thất thoát cũng do nhiều nguyên nhân khách quan như bị đội giá thành xây dựng hoặc điều kiện thi công rất khó khăn. Chất lượng các công trình xây dựng cũng rất thấp do bên thi công khó thanh toán công trình nên thiếu tính trách nhiệm. Nhiều công trình không làm đúng quy tắc đấu thầu mà lạm dụng chỉ định thầu. Năng lực cán bộ xã rất hạn chế, nhiều cán bộ đọc không thông thạo nên không thể quản lý và giám sát đầu tư. Năng lực hấp thụ tại địa phương rất thấp, có nơi chỉ có 400 triệu đồng nhưng địa phương vẫn không biết nên đầu tư vào công trình nào cho hiệu quả. Do đó tại nhiều xã, nhân dân và địa phương không được tham gia vào chương trình. Vì vậy, tính giải quyết việc làm không cao. c) Hệ thống chính sách, cơ chế đầu tư cho xoá đói giảm nghèo còn thiếu đồng bộ. Cơ chế vận hành và trách nhiệm của từng ngành chưa rõ, chưa dân chủ công khai, kiểm tra giám sát tuy có thực hiện nhưng còn mang tính hình thức. Còn thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, đơn vị quản lý dự án xoá đói giảm nghèo. Hiện nay, hệ thống các chương trình dự án XĐGN ở nước ta còn nhiều cơ quan, đơn vị tham gia quản lý. Còn thiếu sự tham gia đầy đủ tích cực của cộng đồng trong việc thực hiện dự án XĐGN. Tại nhiều địa phương, người dân vẫn không được tham gia đầy đủ trong việc trực tiếp quyết định, xây dựng kế hoạch và quản lý, vận hành các chương trình dự án XĐGN. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý các chương trình dự án XĐGN còn chồng chéo và chưa tập trung, thống nhất. Cán bộ quản lý các chương trình dự án đầu tư cho XĐGN thường phải kiêm nhiệm rất nhiều công việc khác nhau gây nên sự quá tải đối với các công tác hành chính. d) Tính bền vững của thành quả XĐGN chưa cao. Một bộ phận dân cư có nguy cơ phát sinh nghèo và tái đói nghèo do sinh sống ở vùng thường xuyên bị thiên tai, mất mùa, do thiếu việc làm hoặc việc làm không ổn định, có thu nhập thấp và không có tích luỹ. II. Đầu Tư cho các vấn đề phúc lợi xã hội. 1. Tình hình Đầu tư cho Giáo dục và tính CBXH trong giáo dục. 1.1. Tình hình đầu tư cho Giáo dục và đào tạo. Phát triển GD ĐT nhằm tạo ra các cơ hội về việc làm mới và nâng cao thu nhập qua đó thúc đẩy xoá đói giảm nghèo và thực hiện CBXH . Nhà nước ta từ trước tới nay đều rất chú trọng đầu tư cho giáo duc. Ngân sách giáo dục từ năm 1995 trở đi mỗi năm tăng 1% và năm 2000 ngân sách giáo dục đạt 15% tổng ngân sách tiêu dùng. Giai đoạn 1996- 2000, vốn đầu tư cho giáo dục là 15400 tỷ đồng chiếm 2,7 % vốn đầu tư toàn xã hội. Tỷ lệ đầu tư cho giáo dục từ vốn NSNN giai đoạn 1996-2000 là 6,6%. Trong giai đoạn 2001- 2003, đầu tư cho lĩnh vực khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo, y tế, văn hoá, tăng 15,2%/năm, nên tỷ trọng vốn đầu tư cho các lĩnh vực này đó đạt tương ứng là 12,7% và 8,1% vốn đầu tư toàn xã hội. Cũng trong giai đoạn 2001- 2003, tỷ lệ đầu tư cho khoa học và cụng nghệ, giáo dục và đào tạo, y tế, văn hoá, thể dục thể thao từ nguồn NSNN chiếm 21,1%. Năm2003, tỷ lệ đầu tư cho giáo dục và đào tạo là chiếm 3,2% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Đầu tư cho giáo dục đã bước đầu tập trung xây dựng các cơ sở giáo dục trọng điểm, đã hình thành cơ sở vật chất ban đầu cho các cơ sở giáo dục lớn. Vốn viện trợ và vay nước ngoài (ODA) đã được ưu tiên đầu tư cho giáo dục chưa kể các dự án viện trợ không hoàn lại. Nhà nước đã thực hiện một số dự án thành công như như dự án phát triển giáo dục tiểu hoc (gần 80 triệu USD vay vốn WB), dự án phát triển giáo dục dạy nghề (trên 100 USD, vay vốn ADB), chương trình kiên cố hoá trường học… Tình trạng thất thoát trong đầu tư xây dựng trường học là rất lớn. Cũng như trong đầu tư xây dựng cơ bản khác, trong khâu lập và thẩm định dự án, hiện tượng lập dự toán vượt khối lượng so với thiết kế rất phổ biến. Ngoài ra, quy trình lập, phê duyệt đầu tư không chặt chẽ, sử dụng vốn không đúng mục đích đã gây lãng phí rất lớn. 1.2. Tình hình CBXH trong Đầu tư cho giáo dục. Đầu tư cho Giáo dục cho đã tăng nhưng tính bất bình đẳng trong giáo dục cũng tăng nhanh. Trong thành thị xu hướng đầu tư vào giáo dục ngày càng tăng trong lúc ở nông thôn đặc biệt là vùng sâu, vùng xa giáo dục bị xuống cấp nghiêm trọng. Người dân ở những khu vực này ít có xu hướng đầu tư cho giáo dục. Chính vì vậy, trong khi cơ hội giáo dục ở khu vực thành thị có rất nhiều thì ở khu vực nông thôn lại rất ít. Và khu vực thành thị có 47% dân số tốt nghiệp PTTH trở lên thì ở nông thôn chưa quá 30% số dân tốt nghiệp PTCS (số liệu năm 2000). Cũng theo số liệu thống kê năm 2000, chúng ta thấy khoảng 90% người nghèo chỉ có trình độ phổ thông cơ sở hoặc thấp hơn. Kết quả điều tra mức sống cho thấy, trong số người nghèo, tỷ lệ số người chưa bao giờ đi học chiếm 12%, tốt nghiệp tiểu học chiếm 39%; trung học cơ sở chiếm 37%. Chi phí cho giáo dục đối với người nghèo còn lớn, chất lượng giáo dục mà người nghèo tiếp cận được còn hạn chế, gây khó khăn cho họ trong việc vươn lên thoát nghèo. Tỷ lệ nghèo giảm xuống chỉ khi trình độ giáo dục tăng lên. 80% số người nghèo làm các công việc trong nông nghiệp có mức thu nhập rất thấp. Trình độ học vấn thấp hạn chế khả năng kiếm việc làm trong khu vực khác, trong các ngành phi nông nghiệp, những công việc mang lại thu nhập cao hơn và ổn định hơn. 2. Đầu tư cho y tế và tăng cường các dịch vụ y tế cho ngưòi nghèo. Năm 2003, đầu tư cho y tế và cứu trợ xã hội cũng tăng, chiếm khoảng 1,3% so với vốn đầu tư toàn xã hội. Trong giai đoạn 2001- 2003, đầu tư cho lĩnh vực khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo, y tế, văn hoá, tăng 15,2%/năm, nên tỷ trọng vốn đầu tư cho các lĩnh vực này đó đạt tương ứng là 12,7% và 8,1% vốn đầu tư toàn xã hội. Theo Bộ Kế Hoạch và Đầu tư, trong giai đoạn 2003- 2005, ngành y tế cần đầu tư khoảng 1,5 nghìn tỷ đồng. Tuy nhiên, con số trên vẫn còn quá nhỏ bé so với nhu cầu về y tế của người dân. Hầu hết các xã có cơ sở y tế nhưng thuốc men, trang thiết bị nghèo nàn, đội ngũ thầy thuốc còn nhiều hạn chế. Chi phí sử dụng dịch vụ y tế và tiền thuốc chữa bệnh trung bình của một người là 35000 đồng cho 1 lần khám và điều trị tại các trạm y tế xã; 77000 đồng cho một lần đi khám và chữa bệnh ngoại trú tại bệnh viện và con số này là 210000 đồng cho một lần chữa bệnh nội trú tại bệnh viện. Số liệu trên cho thấy các gia đình đã phảI trả khá nhiều tiền cho việc sử dụng các y tế. Do đó, cơ hội chữa bệnh cho người có thu nhập thấp lại càng khó hơn khi 1 tháng thu nhập của họ chỉ khoảng hơn 100000 đồng. Do vậy tính bình đẳng trong y tế cũng khó thực hiện. CHƯƠNG III MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ TRONG VIỆC THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI Ở VIỆT NAM I. Một số mục tiêu trong việc giải quyết vấn đề Công Bằng Xã Hội của Đảng và Nhà nước ta. 1. Mục tiêu về giảm tỷ lệ nghèo đói. Đến năm 2010 giảm 2/5 tỷ lệ nghèo theo chuẩn nghèo quốc tế và giảm 3/4 tỷ lệ nghèo về lương thực thực phẩm so với năm 2000. Đến năm 2005 giảm 2/5 tỷ lệ hộ nghèo và đến 2010 giảm 3/5 tỷ lệ hộ nghèo so với năm 2000 theo chuẩn của Chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói giảm nghèo và việc làm. 2. Đảm bảo công trình hạ tầng thiết yếu cho người nghèo, cộng đồng nghèo và xã nghèo Tiếp tục cải tạo, nâng cấp, mở rộng và xây dựng mới các công trình hạ tầng thiết yếu (thuỷ lợi nhỏ, trường học, trạm y tế xã, đường giao thông, điện chiếu sáng, nước sinh hoạt, chợ, các điểm bưu điện văn hóa xã, nhà hội họp...) bảo đảm đến năm 2005 cung cấp cho 80% xã nghèo và đến 2010 cho 100% xã nghèo có các cơ sở hạ tầng thiết yếu. Đến năm 2005 mở rộng điện lưới quốc gia đến trung tâm 900 xã nghèo, bảo đảm 90% số xã có điện. Bảo đảm có đường ô tô về tới trung tâm xã. Phấn đấu 80% đường xã có kết cấu mặt đường phù hợp, trong đó 30% mặt đường được rải nhựa hoặc xi măng. Đến năm 2005, phấn đấu 80% dân số thành thị, đặc biệt là ở những khu vực xa đường giao thông chính, và 60% dân cư nông thôn được sử dụng nước sạch với số lượng 50 lít/người/ngày. 3. Tiép tục giải quyết việc làm đặc biệt cho người nghèo. Giải quyết thêm việc làm cho khoảng 1,4-1,5 triệu lao động/năm. Nâng tỷ lệ lao động nữ trong tổng số việc làm mới lên 40% vào năm 2005 và 50% vào năm 2010. Nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo lên 30% vào năm 2005 và 40% vào năm 2010. Nâng thời gian sử dụng lao động ở nông thôn lên 80% vào năm 2005 và 85% vào năm 2010, trong đó tỷ lệ sử dụng thời gian lao động của nữ là 75% vào năm 2005 và 80% vào năm 2010. Giảm tỷ lệ lao động chưa có việc làm ở thành thị xuống khoảng 5,4% trong tổng số lao động trong độ tuổi vào năm 2005 và xuống dưới 5% vào năm 2010. 4. Tăng cường hệ thống giáo dục và đưa giáo dục vè tay người nghèo. Củng cố, duy trì và phát huy thành quả phổ cập giáo dục tiểu học và xóa mù chữ, đặc biệt ở các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa. Thực hiện phổ cập trung học cơ sở trong cả nước. Tăng tỷ lệ trẻ em dưới 3 tuổi đến nhà trẻ từ 12% năm 2000 lên 15% năm 2005 và 18% năm 2010. Tăng tỷ lệ học sinh đi học trong độ tuổi lên 97% vào năm 2005 và lên 99% vào năm 2010. Tăng tỷ lệ học sinh học xong tiểu học lên 85-95% vào năm 2010. Phổ cập giáo dục trung học cơ sở ở các thành phố, khu đô thị và một số nơi khác vào năm 2005 và toàn quốc vào năm 2010. Tăng tỷ lệ học sinh trung học cơ sở trong độ tuổi lên 80% vào năm 2005 và 90% vào năm 2010.Tăng tỷ lệ học sinh trung học phổ thông trong độ tuổi lên 45% vào năm 2005 và 50% vào năm 2010. Phấn đấu đến năm 2010, phần lớn các trường tiểu học và phổ thông cơ sở có đủ điều kiện cho học sinh học tập và hoạt động hai buổi tại trường. Phấn đấu xóa mù chữ cho 95% số phụ nữ bị mù chữ ở độ tuổi dưới 40 tuổi vào năm 2005 và 100% vào năm 2010. Thu hút học sinh trong độ tuổi vào các trường trung học chuyên nghiệp đạt 10% vào năm 2005, 15% năm 2010; thu hút học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông vào các trường dạy nghề từ 6% năm 2000 lên 10% năm 2005 và 15% năm 2010. Cải thiện chất lượng giáo dục ở mọi cấp học và cho mọi đối tượng, đặc biệt chú ý đến các học sinh nghèo. Nâng cao chất lượng giáo dục cho tất cả mọi người, đặc biệt cho người nghèo. II. Một số giải pháp khắc phục những khó khăn tồn tại trong hoạt động đầu tư cho Công bằng xã hội Tiếp tục tăng cường và đa dạng hoỏ nguồn vốn đầu tư cho Công bằng xã hội. Một trong những tồn tại trong hoạt động đầu tư cho CBXH mà chúng ta đã tìm hiểu ở trên chính là nguồn vốn đầu tư cho các lĩnh vực này còn quá nhỏ bé.Vì vậy, nhiệm vụ trước mắt là cần tăng nguồn vón đầu tư cho CBXH. Tuy nhiên, nguồn vốn NSNN lại hạn chế do vừa thực hiện mục tiêu cho phát triển kinh tế vừa thực hiện CBXH trong khi nguồn vón từ các khu vực tư nhân, nước ngoài lại ít khi đầu tư vào CBXH. Vì vậy để đạt được mục tiêu tăng vốn đầu tư cho CBXH, chúng ta cần phải tiếp tục có một số biện pháp thúc đẩy quá trình xã hội hoá đầu tư cho CBXH để không còn lệ thuộc vào một nguồn từ NSNN. Đối với nguồn vốn cho nông nghiệp và phát triển nông thôn, Nhà nước cần tiếp tục hoàn chỉnh và bổ sung Luật khuyến khích đầu tư trong nước và nước ngoài; mở rộng phạm vi hình thức ưu đãi để thu hút mạnh mẽ các nguồn vốn đầu tư của xã hội cho nông nghiệp và nông thôn. Chúng ta cũng cần công bố rộng rãI kế hoạch phát triển, danh mục các chương trình các dự án đầu tư trung hạn và dài hạn của ngành nông nghiệp, dịch vụ nông thôn để định hướng cho các nhà đầu tư lựa chọn, làm cơ sở cho việc huy động các nguồn vốn đầu tư phát triển. Năm 2004, Bộ Nông nghiệp vừa đưa ra định hướng kêu gọi vốn đầu tư FDI vào các ngành lương thực, rau quả, cà phê, cao su, chè, chăn nuôI, trồng rừng và chế biến gỗ. Đối với nguồn vốn cho sự phát triển của các vùng sâu, vùng xa, Nhà nước cần có chính sách khuyến khích thu hút vốn đầu tư bằng các chính sách thuế, giá thuế đất.. có lợi hơn cho nhà đầu tư ở vùng khác. Ngoài ra, các vùng này cần phảI thực hiện tốt công tác cải cách nền hành chính và chống tham nhũng có hiệu quả. Có như vậy mới tạo môi trường thuận lợi cho các nhà đầu tư có điều kiện kinh doanh đạt hiệu quả. Ngoài ra, chúng ta cũng cần khuyến khích xã hội hoá của vấn đề phúc lợi xã hội. Bởi nó khai thác được nguồn lực to lớn của xã hội đồng thời khơi dậy lòng nhân ái, đùm bọc chia sẻ khó khăn của người khác. Tiếp tục khuyến khích tập thể và tư nhân tham gia các hoạt động từ thiện và hoạt động xã hội khác. Nâng cao hiệu quả đầu tư cho xoá đói giảm nghèo và Công bằng xã hội. Hiệu quả đầu tư cho CBXH trong thời gian qua chưa cao, chưa tương xứng với nguồn lực mà xã hội phải bỏ ra. Chính vì vậy, tác dụng tích cực của nó đối với CBXH chưa cao. Do đó, chúng ta cần tiếp tục nâng cao hiệu quả đầu tư cho CBXH. a) Để khắc phục hiện tượng đầu tư trong nông nghiệp nông thôn, trong xoá đói giảm nghèo còn phân tán, dàn trải, chúng ta cần đầu tư tập trung có trọng điểm, đầu tư cần theo quy hoạch chung của Nhà nước. Trước hết, chúng ta cần tập trung đầu tư hơn nữa cho phát triển cơ sở hạ tầng đặc biệt là hệ thống đường giao thông nông thôn, coi đây là khâu đột phá có tính quyết định tạo tiền đề thúc đẩy sự phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đồng thời, cần nhanh chóng triển khai đầu tư để hình thành các trung tâm cụm xã, tạo điều kiện phát triển giao lưu hàng hoá, cải thiện đời sống đồng bào ở những vùng khó khăn. Bên cạnh đó, chúng ta cần tiếp tục khắc phục hoàn toàn tình trạng “xin cho” dự án và “chạy” để có dự án; thực hiện phân phối vốn ngân sách trên cơ sở có căn cứ khách quan, xác đáng. Đối với mỗi vùng khó khăn, đầu tư tập trung trọng điểm sẽ giúp cho các vùng này nhanh chóng rút ngắn khảng cách với các vùng khác. Đối với vùng trung du và miền núi Bắc, cần hướng tới một số trọng tâm: tuyến đường bộ biên giới nố các tỉnh trong vùng; một số trung tâm kinh tế văn hoá xó hội trong vựng; hệ tống rừng phũng hộ. Đối với vùng Tây nguyên trọng tâm là: tuyến đường Hồ Chí Minh trên địa bàn các tỉnh trong vùng; một trung tâm kinh tế văn hoá chung cho toàn vùng; hệ thống các tiểu vùng sản xuất hàng hoá mà vùng có thế mạnh như chè, cà phê, cao su, ngô, đậu, hồ tiêu,… Đối với vùng đồng bằng sông Cửu Long, cần hoàn thiện hệ thống đường bộ nối liền các tỉnh; hỡnh thành vựng sản xuất lỳa hang hoỏ nhằm đảm bảo an toàn lương thực quốc gia và xuất khẩu. b) Một trong những nguyên nhân làm giảm hiệu quả đầu tư cho CBXH là tình trạng thất thoát lãng phí rất lớn. Nguyên nhân của tình trạng trên có rất nhiều song chúng tôi xin đề xuất một số giải pháp sau. Chúng ta cần đầu tư một cách đồng bộ, toàn diện và có hiệu quả thiết thực. Trong nông nghiệp, chúng ta cần đầu tư từ sản xuất đến chế biến và tiêu thụ cho từng loại sản phẩm, ưu tiên đầu tư xây dựng vùng nguyên liệu tránh tình trạng một số nhà máy đã hoàn thành song chưa hoạt động vì không có nguyên liệu. Ngoài ra, tại các vùng sâu, vùng kém phát triển, chúng ta cần tạo lập môi trường đồng bộ như phát triển cơ sở hạ tầng, phát triển nguồn nhân lực để làm cơ sở cho xoá đói giảm nghèo được thực hiện vững chắc. Tiếp tục hoàn thiện quy hoạch tổng thể về phát triển vùng và phát triển ngành. Bên cạnh đó, chúng cần tiếp tục đẩy mạnh và tăng cường công tác giám sát trong việc thực hiện các dự án đầu tư cho xoá đói giảm nghèo, nông nghiệp. Có thể phân cấp trách nhiệm giám sát dự án cho từng địa phương để người dân có thể trực tiếp tham gia lập kế hoạch và xem xét quá trình thực hiện dự án. Bảo đảm người dân được cung cấp đầy đủ thông tin về hoạt động kinh tế, các chỉ tiêu kế hoạch và nguồn tài chính cho các dự án, chương trình phát triển ở địa phương, được quyền tham gia, góp ý kiến xây dựng kế hoạch phát triển, tham gia thực hiện, vận hành, duy tu, bảo dưỡng và đóng góp công lao động, thể hiện vai trò chủ nhân để nâng cao trách nhiệm trong sử dụng và quản lý công trình cơ sở hạ tầng. Cần tiếp tục tổ chức phối hợp chặt chẽ giữa các ngành, các cấp trong trong đầu tư và thực hiện dự án. Nhà nước cũng cần giảm bớt mối đầu tư, khắc phục tình trạng đầu tư qua nhiều khâu, nhiều cấp để chống đầu tư trùng lặp và cắt xén vốn đầu tư. Phải quy định rõ trách nhiệm của cơ quan cấp vốn là phải cấp đúng tiến độ, quy mô và bảo đảm nguồn vốn đó đến được tận tay người dân. c) Vốn đầu tư phát huy tác dụng hiệu quả đến đâu phụ thuộc vào cán bộ lãnh đạo, các ngành mà trực tiếp là những cán bộ làm công tác quản lý đầu tư từ TW đến cơ sở. Thực tiễn cho thấy, địa phương nào mà cán bộ có năng lực cao thì hiệu quả đầu tư cũng cao. Do vậy chúng ta cần tiếp tục tăng cường năng lực cán bộ quản lý cấp xã cả về số lượng và chất lượng để sử dụng đồng vốn có hiệu quả hơn. Cần phải phân công thêm cán bộ chuyên trách cho các chương trình dự án Xoá đói giảm nghèo đồng thời tăng cường cán bộ kỹ thuật chuyên môn trong công tác đào tạo về quản lý chương trình lập kế hoạch, giám sát và đánh giá dự án. Về chất lượng, các cán bộ cấp xã, bản cần được đào tạo một cách bài bản với những nội dung như: phương pháp xây dựng, quản lý và cách thức phối hợp lồng ghép các dự án nhỏ trên địa bàn xã; quản lý sử dụng và khai thác các công trình cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và đời sống. Tiếp tục thực hiện chính sách đẩy mạnh các chính sách thu hút nhân tài về các địa phương. d) Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần khuyến khích các thành phần kinh tế khác tiếp tục đầu tư phát triển ở các vùng sâu, vùng xa, vùng nông thôn, tránh tình trạng nguồn vốn từ NSNN chỉ tập trung cho các doanh nghiệp Nhà nước. Bởi chúng ta đều biết rằng các doanh nghiệp này hoạt động không mấy hiệu quả làm lãng phí nguồn lực của Nhà nước, lãng phí đồng vốn đầu tư cho nông nghiệp và xoá đói giảm nghèo. Nhà nước khuyến khích các hộ nông dân đầu tư và làm giàu chính đáng. Chúng ta cũng cần phải thu hồi mặt bằng đối với những doanh nghiệp sử dụng kém hiệu quả để cho doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả thuê lại; biểu dương và tôn vinh các nhà doanh nghiệp có chí hướng phát triển lâu dài trong một số lĩnh vực đã kinh doanh đạt hiệu quả, đóng góp Ngân sách và tạo nhiều việc làm cho người nghèo e) Cuối cùng, cũng sẽ rất cần thiết nếu chúng ta quan tâm đến việc đầu tư phát triển nguồn nhân lực; đặc biệt là việc đầu tư giáo dục đưa kiến thức về tận người dân tại các vùng khó khăn. Có như vậy họ mới biết cách sử dụng vốn và đầu tư có hiệu quả hơn. Tóm lại, hiệu quả đầu tư nói chung và đặc biệt là hiệu quả đầu tư cho CBXH chưa cao đòi hỏi các biện pháp khắc phục trước mắt cũng như lâu dài. Như thủ tướng Phan Văn Phải nói tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ nhiệm kỳ 2002 -2007: “ Từ nay trở đi phải soát xét rất kỹ về đầu tư. Chúng ta đã có những bài học đau xót về sự ấu trĩ trong đầu tư, không mang lại hiệu quả kinh tế. Từng bộ, ngành phải soát xét lại cách đầu tư, bảo đảm đầu tư tập trung, đúng hướng để chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao chất lượng sản phẩm, khả năng cạnh tranh, tạo việc làm cho người lao động.” 3. Tiếp tục hoàn thiện các chính sách đầu tư cho Công bằng xã hội. Để hoàn thiện các chính sách đầu tư, trước hết chúng ta cần phảI xác định rõ mục tiêu đầu tư và có chính sách đầu tư cụ thể cho các ngành và lĩnh vực. Có như vậy, các chính sách đầu tư cho CBXH mới không bị chồng chéo lẫn nhau. Tiếp tục rà soát, điều chinh bổ sung các quy hoạch, các chương trình dự án đang triển khai đầu tư phù hợp với yêu cầu phát triển của các ngành, địa phương và hội nhập của nền kinh tế; đồng thời làm căn cứ cho đầu tư xây dựng các chương trình, dự án tiếp theo của ngành, vùng. Đối với các chương trình dự án Nhà nước đang tập trung đầu tư như đầu tư thuỷ lợi trong ngành nông nghiệp, chương trình định canh, định cư trong đầu tư cho các xã khó khăn,..hoặc Nhà nước đầu tư 100% vốn ngân sách thì chuyển sang hình thức đầu tư khỏc bằng nhiều nguồn vốn, để các thành phần kinh tế khác cũng tham gia vào các dự án này. Nhà nước chỉ đầu tư hỗ trợ các hạng mục chủ yếu như thuỷ lợi, đường giao thông chính, các cơ sở hạ tầng thiết yếu cho người nghèo. Có như vậy, nguồn vốn từ NSNN sẽ được tập trung trọng diểm hơn, ít phân tán dàn trải. Nhà nước cũng cần tiếp tục sửa đổi và hoàn thiện các chính sách đầu tư phát triển để huy động mạnh mẽ các nguồn vốn đầu tư của xã hội, nhất là vốn đầu tư của khu vực tư nhân và đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nhà nước cần tiếp tục hoàn chỉnh Luật khuyến khích đầu tư trong nước và nước ngoài; mở rộng phạm vi hình thức ưu đãi để thu hút mạnh mẽ các nguồn vốn đầu tư của xã hội cho nông nghiệp và nông thôn và các vùng khó khăn. Tiếp tục tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, đơn vị quản lý dự án xoá đói giảm nghèo trong việc đưa ra các chính sách đầu tư phù hợp để tránh tình trạng các chính sách chồng chéo nhau, các chính sách của vùng này lại làm kìm hãm và cạnh tranh với vùng khác. Ngoài ra, cần đẩy mạnh các chính sách thu hút nhân tài về các vùng khó khăn. Có thể đào tạo với những người ở ngay tại địa phương đó hoặc ưu tiên những cán bộ nhiều tâm huyết về với vùng cao, đưa các sinh viên trẻ có khả năng cống hiến cao về các xã, bản, mường. Tất nhiên, chúng ta phải cụ thể các chính sách khuyến khích đó bằng các ưu đãi về tiền lương, công việc ổn định và nhà cửa tai các địa phương đó. Cuối cựng, Nhà nước cần thực hiện các chính sách về đầu tư và tín dụng cho người nghèo nhằm mở rộng khả năng vay cho nông dân, chặn đứng tệ văy nặng lói thường phổ biến ở vùng nông thôn hay ở mốt số vùng người dân cũn cú trỡnh độ kém. Trong đó, nhà nước cần quy định lói suất cho vay hợp lý đối với từng vùng, từng hộ đặc biệt khó khăn để người đi vay có khả năng trả được nợ vay ngân hàng. III. Một số giải pháp phát huy vai trò của Đầu tư trong việc thực hiện Công bằng xã hội. Phát huy vai trò của Đầu Tư trong việc thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế một cách hợp lý gắn với xoá đói giảm nghèo và Công bằng xã hội. 1.1. Phát huy vai trò của đầu tư hợp lý trong việc thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế giữa các ngành, gắn với xoá đói giảm nghèo và CBXH. a) Đầu tư chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp tạo nền tảng vững chắc cho xoá đói giảm nghèo và CBXH. Chúng ta đều biết rằng nông nghiệp có sự giới hạn tăng trưởng do diện tích đất trồng trọt giới hạn và nhu cầu của thị trường nông sản truyền thống hạn chế. Chính vì vậy, năng suất lao động ở khu vực nông thôn rất thấp và phần lớn hộ nghèo đều nằm trong khu vực này. Để đạt mức tăng trưởng cao, tạo cơ hội cho xóa đói giảm nghèo phải tiến hành đầu tư đồng bộ như đầu tư phát triển khoa học công nghệ; tăng đầu tư cho ngành nông nghiệp đặc biệt là cơ sở hạ tầng nông thôn; đầu tư phát triển nguồn nhân lực. Bên cạnh đó, chúng ta phải tiến hành đồng bộ các biện pháp chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn;cải cách chính sách về đất, đầu tư, tín dụng để hướng đầu tư phục vụ cho người nghèo. Qua đó, chúng ta có thể thực hiện tốt các mục tiêu tăng năng suất, giảm giá thành, tăng khả năng cạnh tranh của hàng hóa nông nghiệp trên thị trường trong nước và nước ngoài. Chúng ta cũng cần tăng cường đầu tư xây dựng các cơ sở công nghiệp chế biến gắn với nông nghiệp, thúc đẩy đa dạng hóa sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, tăng khả năng chế biến để nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Qua đú sẽ tạo nhiều công ăn, việc làm và thu nhập ở nông thôn. Đối với các vùng sản xuất khó khăn có nhiều hộ nghèo, Nhà nước sẽ tăng cường đầu tư kết hợp với huy động đầu tư của cộng đồng để đầu tư xây dựng các cơ sở hạ tầng cần thiết như đường giao thông, điện, nước, thông tin liên lạc, trường học, trạm y tế xã; hỗ trợ xây dựng các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn. Để thực hiện được các biện pháp trên, trước hết chúng ta cần phải đổi mới cơ cấu đầu tư cho nông nghiệp theo hướng chuyển mạnh từ đầu tư cho thuỷ lợi, khai hoang sang đầu tư theo chiều sâu, đổ mới cơ cấu giống và kỹ thuật trồng trọt; tăng cường đầu tư phát triển cụng nghệ sau thu hoạch. Cuối cùng, trong cơ cấu đầu tư cần dành tỷ lệ hợp lý cho nội dung dạy nghề cho nông dân bao gồm đào tạo nghề mới, đào tạo lại, bồi dưỡng ngắn hạn và kinh nghệm làm ăn bằng các ngành nghề nông nghiệp và công nghiệp dịch vụ. Tăng cường đào tạo cho người nghèo bằng các chương trình khuyến nông giúp họ khai thác tốt các tiềm năng và thế mạnh của vùng và của từng cá nhân. Qua đó, người lao động đặc biệt là người nghèo mới có nền tảng vững chắc nhất trong xoá đói giảm nghèo b) Tiếp tục đầu tư phát triển công nghiệp và dịch vụ nhằm tạo việc làm và nâng cao đời sống cho người nghèo. Chúng ta vẫn cần tiếp tục chuyển dịch cơ cấu kinh tế vẫn cần tiếp tục gắn với quá trình CNH HĐH bởi đó là định hướng chung của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên vẫn phải cần cần tăng cường nguồn vốn đầu tư cho nông nghiệp và các vùng chậm phát triển để giảI quyết việc làm và xoá đói giảm nghèo. Chúng ta có thể kết hợp bằng cách tiếp tục đầu tư phát triển các nhà máy, các ngành công nghiệp thu hút nhiều lao động, ngành công nghiệp chế biến tại khu vực nông thôn và các địa phương. Phát triển, hiện đại hóa các ngành công nghiệp phục vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn (hoá chất, phân bón, bao bì...), tiếp tục đa dạng hóa và hiện đại hóa sản phẩm cơ khí đáp ứng nhu cầu của sản xuất nông nghiệp như: máy kéo nhỏ, máy chế biến, bảo quản sản phẩm sau thu hoạch, máy phun thuốc sâu và tưới nước hiện đại. Kết hợp hợp lý giữa phát triển các ngành công nghiệp có lợi thế cạnh tranh, ngành công nghệ cao, ngành mũi nhọn với việc phát triển các ngành công nghiệp chế biến, công nghiệp sử dụng nguyên liệu tại chỗ và sử dụng nhiều lao động để thu hút lao động, tạo việc làm. Có như vậy chúng ta mới giải quyết được mối quan hệ giữa tăng trưởng và CBXH. Bên cạnh đó, Nhà nước cần có chính sách khuyến khích các chủ sản xuất kinh doanh, buôn bán nhỏ (cửa hàng, cửa hiệu, xưởng sản xuất...) mở rộng đầu tư, phát triển kinh doanh lâu dài và thu hút nhiều lao động đặc biệt là tạo việc làm cho người nghèo. Bởi vì yêu cầu làm việc của các hộ kinh doanh nhỏ này không cần đòi hỏi trình độ cao, mà chủ yếu cần sự chăm chỉ cần cù rất phù hợp với người nghèo. Các công ty, doanh nghiệp lớn trong ngành vận tải, xây dựng... và những ngành khác cũng cần được khuyến khích tuyển dụng thêm lao động phổ thông tạo việc làm ổn định cho người nghèo. Tiếp theo, chúng ta cần phải giảm thuế thu nhập doanh nghiệp theo số lao động sử dụng thêm; giúp doanh nghiệp trong việc đào tạo lao động. Có như vậy, các doanh nghiệp sẽ có động cơ để tuyển dụng thêm lao động đặc biệt là những người nghèo. Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần phải thu hồi mặt bằng đối với những doanh nghiệp sử dụng kém hiệu quả để cho doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả thuê lại; biểu dương và tôn vinh các nhà doanh nghiệp có chí hướng phát triển lâu dài trong một số lĩnh vực đã kinh doanh đạt hiệu quả, đóng góp Ngân sách và tạo nhiều việc làm cho người nghèo. Khuyến khích các tổ chức tài chính ngân hàng, các doanh nghiệp lớn và thể nhân giúp vốn đầu tư vào các doanh nghiệp nhỏ và vừa cùng kinh doanh, cung cấp thông tin kinh tế và đào tạo nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa. 1.2. Phát huy vai trò của Đầu tư trong việc tạo một cơ cấu vùng hợp lý, tạo ra sự phát triển hài hoà, tiến tới giảm sự chênh lệch giữa các vùng. a) Giải pháp về Đầu tư trong việc thu hẹp khoảng cách giữa các vùng. Mặc dù trong thời gian qua, Nhà nước vẫn tiếp tục đầu tư vào những vùng kém phát triển nhưng giữa các vùng trọng điểm và vùng khó khăn vẫn còn chênh lệch lớn. Điều này đã gây ra sự bất bình đẳng lớn giữa các vùng. Do đó, chúng ta phải có giải pháp đầu tư theo vùng một cách hợp lý. Trước hết, chúng ta cần phải tăng cuờng đầu tư hơn nữa cho các vùng khó khăn và cần phải nâng cao hơn nữa hiệu quả đầu tư cho các vùng này. Các giải pháp này chúng ta đã nghiên cứu và xem xét kỹ ở phần trên. Ở đây, chúng tôi xin đề xuất thêm một số giải pháp sau. Chúng ta tuy đã tiếp tục đầu tư cho các vùng nhưng vấn đề cơ bản ở đây là phải tạo cơ hội cho các hộ nghèo nắm bắt được những thành quả đầu tư đó. Qua đó mới thực sự tạo ra một nền tảng bền vững trong việc thực hiện xóa đói giảm nghèo. Muốn vậy, Nhà nước phải có chính sách tín dụng hợp lý tạo điều kiện đẩy mạnh trợ giúp cho hộ nghèo vay vốn để phát triển sản xuất kinh doanh. Có như vậy đồng vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước mới đến được tay nhân dân. ở đây, các địa phương cần lập ra kế hoạch chi tiết cụ thể về phương án đầu tư để qua đó, Nhà nước và Ngân hàng sẽ chuyển đồng vốn đến các hộ dân có nhu cầu đầu tư cần thiết và phương án đầu tư khả thi. Bên cạnh đó, việc nắm bắt những thành quả đầu tư của Nhà nước và các thành phần kinh tế khác còn phụ thuộc vào trình độ học vấn của người nghèo. Do vậy, chúng ta cần tiếp tục đầu tư cho giáo dục đào tạo phát triển cho người dân ở những vùng khó khăn thông qua các chương trình khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư và hướng dẫn cho người nghèo cách làm ăn; tổng kết và nhân rộng các mô hình xóa đói giảm nghèo đặc thù cho các vùng; tiến tới xóa bỏ kinh tế tự cung, tự cấp ở vùng dân tộc ít người và miền núi. Chúng ta cũng nên tiếp tục đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng như đường sá, giao thông, các chợ ở vùng sâu vùng xa nhằm cung cấp một số sản phẩm thiết yếu cho người dân và tạo thuận lợi cho việc tiêu thụ sản phẩm. Chúng ta cũng cần thu hút người nghèo tham gia xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng thiết yếu, coi đó là một hình thức tạo việc làm, tăng thu nhập cho người nghèo. b) Tiếp tục đầu tư phát triển các vùng trọng điểm, tạo ra sự liên kết giưa vùng phát triển và vùng chậm phát triển. Giữa các vùng, khi xây dựng cơ cấu đầu tư phải đảm bảo sự chuyển dịch giữa chúng có sự đồng bộ, cân đối và phát huy dược lợi thế so sánh của từng vùng. Tạo điều kiện cho các vùng nghèo có cơ hội được phát triển. Tuy nhiên để tạo thế và lực trong phát triển, cần xây dựng một số vùng kinh tế trọng điểm (không nên dàn trải làm phân tán nguồn lực). Giữa các vùng vừa tận dụng lợi thế của mình, vừa tạo nên sự liên kết, thúc đẩy, hỗ trợ nhau cùng phát triển. Chẳng hạn, trong năm 2003, thành phố Hồ Chí Minh cũng đã có chính sách liên kết với các tỉnh Nghệ An, HảI Dương, Huế để Đầu tư xây dựng các nhà máy giày da, may mặc tại các tỉnh này đồng thời cũng chuyển một phần nguồn vốn đầu tư của Thành phố cho các địa phương này. Đây cũng là một mô hình tốt về việc liên kết giữa vùng trọng điểm với vùng chậm phát triển mà các địa phương và các vùng khác cần phải học tập. 2. Phát huy hiệu quả đầu tư trong việc giải quyết các vấn đề xá hội, cần nâng cao hơn nữa hiệu quả Kinh Tế Xã Hội trong từng dự án đầu tư. 2.1. Nâng cao hiệu quả Xã hội trong từng dự án đầu tư. Trong các bất cập về tác động của đầu tư đến CBXH ở phần trên, chúng ta đã nhận thấy rằng hiệu quả xã hội trong đầu tư chưa được chú trọng đúng mức. Chính vì điều này nên khi các nhà máy, cơ sở vật chất khi xây dựng song nhưng không có tính giảI quyết việc làm cao, không có tính CBXH trong phân phối thu nhập. Do đó, chúng ta cũng cần phải nâng cao hiệu quả xã hội trong từng dự án đầu tư. Muốn vậy, trước hết, chúng ta phải nâng cao hiệu quả đầu tư chung bằng cách đầu tư cần phải theo quy hoạch, đầu tư trọng tâm trọng điểm, đồng thời đẩy mạnh công tác giám sát thanh tra chống thất thoát lãng phí. Tuy nhiên để nâng cao hiệu quả xã hội, chúng ta cần phải tăng cường chất lượng công tác lập dự án để việc tính toán hiệu quả xã hội và hiệu quả kinh tế xã hội tổng hợp cũng rất quan trọng. Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần phải dưa ra các chỉ số cụ thể trong việc xác định các chỉ tiêu về hiệu quả xã hội. Có như vậy, việc kiểm tra và thẩm định tính hiệu quả xã hội của dự án mới mới dễ dàng được thực hiện. Cuối cùng, Nhà nước phải có biện pháp và chính sách cụ thể trong việc gắn trách nhiệm đối với các cấp có thêm quyền trong việc cấp giấy phép đầu tư nhưng không chú ý đến hết tác động của nó, đặc biệt là không quan tâm vai trò của dự án đến xã hội. Và chính các dự án không hiệu quả này sẽ có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến xã hội từ môI trường và các yếu tố xã hội khác như việc làm, thu nhập thêm bất bình đẳng, công nhân bị bóc lột dã man. 2.2. Phát huy vai trò của đầu tư trong việc tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho người nghèo. Trước hết, Nhà nước có các chính sách đầu tư hỗ trợ các nhà đầu tư phát triển các ngành sử dụng nhiều lao động; tiếp tục khuyến khích các doanh nghiệp lớn trong các ngành như xây dựng vận tải tăng cường tuyển dụng lao động phổ thông. Tuy nhiên, Nhà nước cũng nên đầu tư một cách trọng tâm trọng điểm hơn. Đối với những hoạt động đầu tư vì mục tiêu tăng trưởng kinh tế thì nên khuyến khích tất cả các nguồn lực từ mọi thành phần kinh tế tham gia. Từ đó, nguồn vốn từ NSNN sẽ ít bị chịu gánh nặng do phải chi nhiều khoản và tập trung đầu tư cho CBXH. Từ các hoạt động đầu tư cho CBXH, người nghèo sẽ có nhiều cơ hộ tìm kiếm việc làm nâng cao được thu nhập. 3. Giải pháp đầu tư cho các vấn đề phúc lợi xã hội một cách hiệu quả, hợp lý và bình đẳng hơn. 3.1. Giải pháp đầu tư cho giáo dục và tăng khả năng tiếp cận đến dịch vụ giáo dục một cách công bằng hơn. Hiện nay chúng ta đang phải đối mặt với tình trạng bất bình đẳng trong giáo dục. Do chi phí trong giáo dục còn quá cao nên người nghèo không thể chi trả được và chỉ có thể được học tập trong môI trường chất lượng không cao. Do đó, họ sẽ ít có cơ hội nâng cao thu nhập của mình. Chỉ có những gia đình giàu có mới đủ điều kiện cho con cái mình học tại những trường chất lượng cao. Vì vậy, sẽ thật cần thiết nếu chúng ta đưa ra các biện pháp đầu tư giáo dục một cách hợp lý và công bằng. Bên cạnh đó, việc đầu tư giáo dục cho người nghèo còn được thể hiện qua việc tiếp tục đầu tư thích đáng cho hệ thống giáo dục của các xã nghèo, vùng nghèo bằng cách tăng cường cơ sở vật chất bao gồm xây mới và xây lại các phòng học tranh, tre, nứa, lá; cung cấp đầy đủ trang thiết bị giảng dạy và học tập cho các trường tiểu học và trung học cơ sở. Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần quan tâm xây dựng trường kiên cố, bán kiên cố cho các vùng thường xảy ra thiên tai; tiếp tục duy trì và mở rộng hệ thống trường nội trú cho vùng sâu, vùng cao, vùng xa, hình thành hệ thống trường nội trú xã, xây dựng để khuyến khích các hộ gia đình nghèo gửi con đi học. Nhà nước cũng cần tiếp tục thực hiện chính sách đổi mới chế độ học phí theo hướng tương xứng với chất lượng các dịch vụ giáo dục, phù hợp với khả năng người đi học đồng thời miễn giảm cho người nghèo. Tuy nhiên nguồn lực từ NSNN lại có hạn, ngân sách dành cho giáo dục lại càng eo hẹp hơn. Do vậy, khi phần lớn nguồn vốn đầu tư cho giáo dục từ NSNN là dành cho giáo dục cơ sở thì giáo dục trung học phổ thông, giáo dục đại học phải được huy động từ tư nhân. Do vậy chúng ta phải có chính sách khuyến khích mọi nguồn lực tham gia vào giáo dục đặc biệt là giáo dục bậc cao. Có như vậy sự kết hợp giữa đầu tư cho giáo dục của Nhà nước và của tư nhân ở giáo dục bậc cao mới thành công. Muốn vậy chúng ta cần phải khuyến khích và tạo điều kiện để toàn xã hội tham gia phát triển giáo dục, đồng thời tạo cơ hội cho mọi người được học thường xuyên, và có ý thức học tập suốt đời. Phát triển các trường ngoài công lập, có cơ chế chính sách để họ được ưu tiên thuê đất, vay vốn tín dụng. Mở rộng các quỹ khuyến học, quỹ bảo trợ giáo dục, khuyến khích cá nhân và tập thể đầu tư cho giáo dục. Tiếp tục tranh thủ nguồn vốn vay với lãi suất ưu đãi từ Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB), các tổ chức quốc tế và các nước khác cho giáo dục. 3.2. Tăng cường đầu tư y tế cho người nghèo. Nhà nước cần tiếp tục tăng cường đầu tư y tế cho người nghèo bằng cách xây dựng các trạm xá, trạm y tế tại các xã nghèo, tiếp tục đổi mới trang thiết bị y tế cho các xã này. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần phải tăng cường đội ngũ cán bộ y tế cho các xã nghèo đảm bảo mục tiêu đến năm 2010: 80% số xã trong toàn quốc có bác sỹ (trong đó miền núi: 60%); 100% thôn bản có nhân viên y tế sơ học trở lên. Có như vậy, người nghèo mới có cơ hội tiếp cận được các dịch vụ y tế. Bên cạnh đó, Nhà nước cần phải có các chính sách ưu tiên chăm sóc sức khỏe nhân dân miền núi, vùng sâu, vùng xa, đặc biệt quan tâm tới đồng bào dân tộc ít người và người nghèo. Tiếp tục tiến hành giảm viện phí ở các bệnh viện công để chi phí cho y tế không phải là gánh nặng cho người nghèo. Cũng như đầu tư cho giáo dục, nguồn lực đầu tư cho y tế còn rất hạn hẹp trong khi Nhà nước lại cần tập trung đầu tư cho người nghèo. Để đáp ứng các mục tiêu trên, Nhà nước cũng nên xã hội hoá đầu tư cho y tế, khuyến khích toàn xã hội tham gia vào việc đầu tư cho y tế đồng thời tăng cường các nguồn vốn tài trợ từ quốc tế cho y tế. 4. Nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan quản lý Nhà nước về Đầu Tư trong việc thực hiện CBXH. 4.1. Nâng cao năng lực hiệu quả cán bộ quản lý về đầu tư. Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta luôn xác định tham nhũng và quan liêu là một trong những nguy cơ hàng đầu của Nhà nước ta. Do đó, chúng ta phảI tăng cường cuộc đấu tranh chống lại tệ quan liêu tham nhũng trong đó cần phát huy toàn dân trong việc đấu tranh, phát hiện các tiêu cực của các cấp chính quyền. Bên cạnh đó, chúng ta phải có chính sách thưởng phạt nghiêm minh với cán bộ quản lý nhà nước, phải quy định rõ trách nhiệm của từng cán bộ . Ngoài ra, chúng ta cũng cần phải tăng cường trình độ của cán bộ quản lý Nhà nước về đầu tư bằng cách có chế độ tuyển dụng hợp lý thu hút được nhiều người tài có trình độ cao nhưng đồng thời có tư cách đạo đức tốt. Có như vậy, đội ngũ cán bộ chúng ta mới có cái gốc trong sạch và vững vàng. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần phải có chính sách tiền lương hợp lý để tiền lương không phải là yếu tố thúc đẩy tham nhũng. Chúng ta cũng cần phải trang bị kiến thức quản lý cho cán bộ quản lý Nhà nước về đầu tư để các cán bộ này đều phảI hiểu rõ và làm được việc đầu tư đúng mục tiêu, đúng đói tượng, không thất thoát vốn, đem lai hiệu quả rõ ràng. Cán bộ trực tiếp quản lý và thực hiện các dự án đầu tư phảI được học tập, bồi dưỡng qua các lớp tập huấn tập trung về những vấn đề về lĩnh vực đầu tư. Cán bộ lãnh đạo các ngành các cấp, phải được trang bị một số kiến thức về đầu tư bằng hình thức giới thiệu truyền đạt trong các hội nghị, lớp học trong hệ thống trường chính trị. Tiếp tục củng cố mạng lưới và đội ngũ cán bộ làm công tác xóa đói giảm nghèo tại các cấp, đặc biệt là các xã đặc biệt khó khăn. Nâng cao trình độ, bố trí cán bộ làm công tác xóa đói giảm nghèo. 4.2. Nâng cao năng lực bộ máy quản lý Nhà nước về đầu tư. Tiếp tục quá trình cải cách hành chính. Để đạt được mục đích này phải tạo nên một hệ thống hành chính với cơ chế, tổ chức bộ máy gọn nhẹ, đội ngũ cán bộ, công chức về cơ bản có phẩm chất, năng lực và trình độ đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Cải cách hành chính được thực hiện trên 4 lĩnh vực là: cải cách thể chế; cải cách bộ máy hành chính; đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức và cải cách tài chính công. Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng theo hướng tăng quyền chủ động và trách nhiệm cho cơ sở và chủ đầu tư. Tuy nhiên bên cạnh để cho các cơ sở được phát huy tính trách nhiệm của mình thì Nhà nước cũng cần phảI phân công trách nhiệm cho các Bộ, ngành liên quan và các cấp chính quyền địa phương để theo dõi thực hiện Chiến lược và các hoạt động của ngành, cơ sở, địa phương trong khuôn khổ Chiến lược. Nhà nước phải quy định cụ thể quyền hạn và trách nhiệm của chủ đầu tư trong việc tổ chức triển khai dự án, bảo đảm hiệu quả của công trình. Trong bộ máy Nhà nước đầu tư cho xoá đói giảm nghèo, Nhà nước cần phải thống nhất bộ máy tổ chức thực hiện các chương trình, dự án xoá đói giảm nghèo từ TW đến địa phương, hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng ở cùng một địa phương có quá nhiều cơ quan quản lýcác chương trình, dự án xoá đói giảm nghèo. Trước mắt cần có quy chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý chương trình xoá đói giảm nghèo (như giữa Chương trình 133 và 135) nhằm thống nhất phối hợp đồng bộ và lồng ghép có hiệu quả hơn các chương trình, dự án ở từng địa bàn cụ thể. Ở cấp TW, cần hình thành một bộ máy thống nhất quản lý, chỉ đạo các chương trình, dự án xoá đói giảm nghèo trên toàn quốc với nhiệm vụ chính là điều phối, giám sát và đánh giá các chương trình. Ở các địa phương, cần tiếp tục kiện toàn các cấp chỉ đạo xoá đói giảm nghèo, đặc biệt là cấp xã có đủ năng lực nhằm thống nhất quản lý và điều phối. KẾT LUẬN Mặc dù Nhà nước ta trong thời gian qua đã nỗ lực hết sức trong việc giải quyết bất bình đẳng xã hội, xoá đói giảm nghèo nhưng những kết quả đạt được vẫn chưa tương xứng với tiềm lực của Nhà nước đã bỏ ra. Đảng và Nhà nước ta vẫn luôn khẳng định tầm quan trọng của Công bằng xã hội trên con đường phát triển của đất nước ta. Trong văn kiện Đại hội Đảng VII đã khẳng định “Phát triển kinh tế phải đi liền với tiến bộ và công bằng xã hội trong từng giai đoạn cũng như trong suốt quá trình phát triển. Công bằng xã hội phải được thể hiện trong việc phân phối hợp lý phương tiện sản xuất và sản phẩm, cũng như trong việc tạo điều kiện để tất cả mọi người có cơ hội phát triển và sử dụng khả năng của bản thân.” Chính vì vậy, tôi luôn tin rằng quyết tâm đó của Đảng và Nhà nước ta sẽ thực hiện được Thông qua đề tài, tôi cũng hy vọng đóng góp một phần kiến thức nhỏ bé của mình trên con đường phát triển của đất nước. Hà Nội, ngày 28 tháng 11năm 2005 Sinh viên Trương Thu Hương Đầu tư 44A TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Văn kiện Đại hội Đảng VII, VIII, IX. 2. Giáo trình Kinh Tế Đầu tư – Bộ môn Kinh tế Đầu Tư - năm 2003. 3. Giáo trình quản lý Nhà nước về kinh tế- năm 2002. 4. Giáo trình Kinh tế phát triển – năm 1998. 5. Vũ Thị Ngọc Phùng : ”Tăng trưởng kinh tế và Xoá đói giảm nghèo, thực hiện Công bằng xã hội”. 6. Trang web của Bộ Kế Hoạch Đầu tư. 7. Trang web của Tổng cục thống kê 8. Tạp chí Kinh Tế và Phát Triển số 2/04 – TS.Nguyễn Bạch Nguyệt 9. Tạp chí Kinh Tế và Phát Triển số 3/04 – TS.Nguyễn Bạch Nguyệt 10. Tạp chí Kinh Tế và Phát Triển số 5/04 – TS.Nguyễn Bạch Nguyệt 11.Tạp chí Kinh Tế và Phát Triển năm 2001 – GS.TS Phạm Ngọc Kiểm. 12. Tạp chí Kinh Tế và Phát Triển năm 2001 – TS.Hoàng Văn Hoa. 13. Tạp chí Kinh Tế và Phát Triển năm 2000 – TS.Vũ Hoàng Ngân. 14. Nghiên cứu và Trao đổi số 23(12-2000) – Phạm Văn Hùng.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docda138_572.doc
Tài liệu liên quan