Đề tài Một số tiềm năng hình thành và phát triển kinh tế trang trại ở Hà Nội

-Chủ trang trại có nghĩa vụ thực hiện các quy định của pháp luật về an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội, tuân thủ các pháp lệnh về lao động, môi trường. *Yêu cầu đối với chủ trang trại: Chủ trang trại phải có ý thức tiếp thu kiến thức và kinh nghiệm điều hành sản xuất, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, tiếp nhận chuyển giao công nghệ mới vào sản xuất; sử dụng lao động gia đình và thuê lao động bên ngoài sản xuất hiệu quả cao, có thu nhập vượt trội so với kinh tế hộ; phải tự nguyện làm đơn xin cấp giấy chứng nhận trang trại và tuân thủ các quy định ở bản quy định này. *Thực hiện các loại hình hợp tác mới: Khuyến khích hình thành các tổ, liên tổ hộ gia đình tổ chức sản xuất rau sạch, bò sữa, lơn nạc, hoa. Thực hiện hợp tác chặt chẽ giữa các hộ gia đình phù hợp với nhu cầu hợp tác trong nền sản xuất hàng hoá còn chưa phát triển cao. Khuyến khích doanh nghiệp, các thành phần kinh tế đầu tư hợp tác với nhiều hộ nông dân tạo vùng nguyên liệu để thu mua-tiêu thụ nông sản cho nông dân về rau sach, hoa. Thực hiện tốt Nghị quyết 80/CP của Chính phủ về khuyến khích tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp qua hợp đồng kinh tế. Đẩy mạnh liên kết giữa 4 nhà: Nhà nước - Nhà khoa học - Nhà doanh nghiệp-Nhà nông trong sản xuất và tiêu thụ nông sản phẩm.

doc38 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1617 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số tiềm năng hình thành và phát triển kinh tế trang trại ở Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, chủ yếu là những người có chuyên môn về chăn nuôi và trồng trọt, nuôi trồng thuỷ sản. d. Thực trang ảnh hưởng của cơ chế chính sách đến phát triển kinh tế trang trại ở Hà nội: *Trong những năm đổi mới, cùng với cả nước Hà Nội đã có nhiều chuyển biến trong cơ chế chính sách phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn nói chung, kinh tế trang trại và kinh tế hợp tác xã nói riêng. -Chương trình 06/CTr-TU của Thành uỷ Hà Nội nhiệm kỳ XI, đã nhấn mạnh: “Đổi mới tổ chức, cải tiến quản lý hợp tác xã, giảm cán bộ quản lý hợp tác xã, đồng thời nâng cao chất lượng cán bộ và cải tiến cơ bản phương pháp quản lý và điều hành… Khuyến khích thành lập các hợp tác xã, các tổ sản xuất, các hình thức hợp tác theo ngành hoặc chuyên khâu theo nguyên tắc liên kết tự nguyện. Sắp xếp lại các đơn vị quốc doanh, tách chức năng quản lý nhà nước về bảo vệ thực vật và thú y ra khỏi các công ty dịch vụ cây trồng và vật nuôi huyện; củng cố các cơ sở sản xuất giống cây trồng và gia súc; giải thể những đơn vị sản xuất kinh doanh không có hiệu quả; cổ phần hoá một số đơn vị quốc doanh hoặc thành lập công ty theo luật công ty. Khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân, tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp tư nhân mượn đất, thuê đất và cơ sở vật chất để phát triển sản xuất, chế biến nông sản, thực phẩm, dịch vụ. Khôi phục và phát triển sản xuất tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp ở nông thôn, duy trì các làng nghề thủ công truyền thống”. -Kế hoạch thực hiện Nghị quyết TW 5 của UBND thành phố đã đề ra “Đổi mới quản lý các tổ chức hiện có, phát triển mạnh mẽ kinh tế nhiều thành phần, trong đó đổi mới kinh tế, phát huy vai trò tự chủ của kinh tế hộ xã viên. Kiên trì nguyên tắc đa dạng hoá sản xuất: từng hộ xã viên có thể tham gia thêm các hình thức hợp tác khác theo công đoạn, theo khâu hoặc theo ngành nghề sản xuất khác. Phát triển mạnh mẽ các hình thức tổ chức sản xuất khác, như doanh nghiệp tư nhân, Công ty trách nhiệm hữu hạn, các tổ hợp liên kết sản xuất theo hình thức tự nguyện. Khuyến khích những hộ có vốn kể cả ở nội thành đầu tư thuê đất mở mang lập nghiệp ở nông thôn. Khuyến khích tổ chức khuyến nông tự nguyện…”. -Chương trình 12/CTr-TU của Thành uỷ khoá XIII đã xác định tiếp tục “Củng cố quan hệ sản xuất định hướng XHCN phù hợp với quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, khuyến khích các thành phần kinh tế, tập trung phát triển kinh tế hộ gia đình, kinh tế trang trại nông hộ, tiến hành giao đất, giao rừng, chuyển đổi thửa đất để tạo điều kiện cho nông dân yên tâm đầu tư và phát triển sản xuất hàng hoá. Tăng cường phát triển kinh tế hợp tác với loại hình phong phú. Sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là các doanh nghiệp thực hiện nhiệm vụ công ích”. *Thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành bằng cơ chế thị trường theo định hướng XHCN, có sự quản lý của Nhà nước đã khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn: -Để tạo điều kiện cho các hộ gia đình nông dân chủ động sản xuất, thành phố đã cơ bản giao xong đất ổn định, lâu dài và cấp giấy chứng nhận ở những vùng ổn định sản xuất nông nghiệp, được 171.371 giấy. Trong nông thôn, đã có 9.962 hộ cá thể chuyên hoặc hộ nông nghiệp kiêm hoạt động tiểu thủ công nghiệp. -Ngoài ra, thành phố cũng đã khuyến khích các thành phần kinh tế khác phát triển, đã có 17 doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, 14 tổ hợp tác đứng ra sản xuất-kinh doanh tiểu thủ công nghiệp trong nông thôn. -Mặc dù đất đai chật hẹp, đã có 483 trang trại nông nghiệp với đa dạng loại hình chăn nuôi, trồng trọt, thuỷ sản…phát triển, tạo ra khối lượng hàng hoá lớn về thực phẩm cho Hà Nội. *Tác động của chính sách đến việc hình thành của trang trại: - Ở Hà Nội, cơ chế chính sách đã tác động rất mạnh mẽ đến sự hình thành của các trang trại. Sự tác động của Nhà nước có vai trò to lớn đối với sự hình thành và phát triển của kinh tế trang trại ở Hà Nội thông qua các chương trình phát triển kinh tế, đặc biệt là các chính sách có liên quan đến giao đất, giao rừng (đối với sự hình thành các trang trại lâm nghiệp và trồng cây ăn quả ở Sóc Sơn) ; các chính sách triển khai các văn bản pháp luật về đất đai (đối với sự hình thành các trang trại nuôi trồng thuỷ sản, trồng cây ăn quả ở 4 huyện còn lại và một số trang trại ở các xã đồng bằng của Sóc Sơn; các chính sách về vốn, về giống tạo, các chương trình Sind hoá đàn bó, nạc hoá đàn lợn, chăn nuôi bò sữa, chăn nuôi gia cầm tập trung đã hình thành nên các trang trại chăn nuôi ở vùng ngoại thành. *Tác động tới việc phát triển của trang trại: Môi trường pháp lý tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế trang trại ở Hà Nội phát triển. Được thể hiện qua các điểm sau: -Thừa nhận địa vị pháp lý của kinh tế trang trại theo đúng bản chất vốn có của nó là một hình thức tổ chức sản xuất cơ sở, một bộ phận hợp thành của hệ thống nông nghiệp. Tiếp theo, điều có ý nghĩa quan trọng là bằng các văn bản pháp quy, quy định rõ khung khổ pháp lý phù hợp cho các trang trại hoạt động, tạo điều kiện cho kinh tế trang trại ra đời và phát triển. -Định hướng cho sự phát triển kinh tế trang trại thông qua quy hoạch phát triển và ban hành các chính sách kinh tế- xã hội. -Khuyến khích kinh tế trang trại thông qua sử dụng các đòn bẩy kinh tế và phát triển các hình thức liên kết kinh tế phục vụ cho kinh tế trang trại phát triển. -Hỗ trợ nguồn lực cho sự hình thành và phát triển của kinh tế trang trại như hỗ trợ vốn, phát triển kết cấu hạ tầng, hỗ trợ kinh phí đào tạo chủ trang trại, hỗ trợ chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật… *Tuy nhiên không chỉ có các ảnh hưởng tích cực, bản thân cơ chế chính sách vẫn còn những tiêu cực tới kinh tế trang trại: -Các chính sách chậm được ban hành. Nhiều chính sách của Nhà nước chưa được, hoặc không đủ điều kiện để đưa vào cuộc sống trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn. -Việc triển khai thực hiện các chính sách còn nhiều hạn chế.Có chính sách đã ban hành nhưng không thể triển khai được đã làm ảnh hưởng tới sự phát triển của kinh tế trang trại. e.Thực trang tiềm năng khoa học công nghệ của trang trại ở Hà nội: *Do xác định được tiềm năng lớn về khoa học và công nghệ nông nghiệp có thể khai thác, chuyển giao và ứng dụng các thành tựu của khoa học công nghệ vào sản xuất, Hà Nội đã ban hành nhiều chính sách tạo điều kiện cho các hoạt động ngiên cứu chuyển giao và ứng dụng khoa học và công nghệ. -Nhờ có chính sách trợ giá để duy trì các loại giống gốc, hay các loại giống mới, cũng như đầu tư cho hoạt động khuyến nông nên hàng năm các đơn vị sản xuất giống Hà Nội đã cung ứng trên 5.000 con lợn giống; 20.000 - 25.000 liều tinh dịch lợn ngoại; 150 - 200 bò sữa giống; 250 tấn lúa lai; 350 tấn lúa nguyên chủng và hàng ngàn tấn lúa cấp 1; Từ 4 - 5 triệu giống gia cầm; 20 tấn hạt giống rau và 5 - 10 vạn hoa các loại; 28.000 tấn phân hoá học. Đặc biệt đã làm tốt công tác khuyến nông, tập huấn được hơn 28.000 nông dân, dùng Quỹ khuyến nông cho vay 80 hộ nông dân trong thâm canh thuỷ sản, chăn nuôi, trồng hoa cây cảnh, rau an toàn và chế biến nông sản... Vì vậy, đã tăng năng suất cây trồng, vật nuôi, giá trị thu được trên diện tích đất nông nghiệp đều tăng. Những chính sách trên đã tạo điều kiện để khoa học và công nghệ thực sự là nhân tố mới tác động mạnh mẽ đến sản xuất nông nghiệp của các huyện ngoại thành Hà Nội. -Dưới tác động của chính sách, nông dân đã áp dụng mạnh mẽ các giống mới, như lúa lai; ngô lai; các loại rau cao cấp: súp lơ, dưa chuột bao tử, ớt ngọt, cải bao, cải bó xôi trồng quanh năm; các giống hoa mới; cây ăn quả đặc sản bưởi Diễn, cam Canh... Đồng thời đã áp dụng công nghệ mới trong trồng hoa, rau, như trồng trong nhà lưới, che phủ nilon, dùng phân bón và thuốc trừ sâu vi sinh...trồng được nhiều loại rau trái vụ chất lượng cao nên cho giá trị cao hơn. Đặc biệt là rau an toàn được phát triển mạnh đảm bảo rau có chất lượng cao, không gây độc cho người tiêu dùng và làm sạch môi trường. Đã hình thành vùng sản xuất hàng hoá tập trung về hoa, rau, và các trang trại phát triển. -Hà Nội đã đưa mạnh các giống lợn lai ngoại 3 máu, 4 máu có tỷ lệ nạc cao nên đến nay đã có 60% tổng đàn đạt tỷ lệ nạc cao (48 - 55% nạc). Tích cực Sind hoá đàn bò vừa lấy thịt và làm bò cái nền tạo bò sữa, thay thế đàn bò sữa kém chất lượng bằng các giống F1, F2, F3 cho năng suất sữa cao hơn, đạt bình quân 12 lít/ ngày. Các giống gà siêu thịt, siêu trứng; ngan Pháp... được chuyển giao mạnh vào sản xuất. Đặc biệt, trong thuỷ sản đã đưa các loại chất lượng và năng suất cao tôm càng xanh, cá chim trắng và cá rô phi đơn tính... nuôi trồng nên đã nâng cao hiệu quả rõ nét. Đã hình thành các vùng sản xuất tập trung bò sữa, lợn nạc, thuỷ sản ở tất cả các huyện ngoại thành. -Hiện nay, Hà Nội đã đầu tư xây dựng khu sản xuất nông nghiệp kỹ thuật cao: (Công ty giống cây trồng Hà Nội); đang triển khai xây dựng Xí nghiệp lợn giống ông bà (thuộc công ty Giống Gia súc Hà Nội); đang chỉ đạo xây dựng để phê duyệt các dự án kỹ thuật cao tại công ty Tam Thiên Mẫu…. *Tuy nhiên, chính sách khuyến khích chuyển giao và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất ở Hà Nội còn tản mạn, chưa tập trung vào những cây - con mũi nhọn có lợi thế, như: hoa - cây cảnh, rau an toàn, bò sữa, lợn nạc, thuỷ sản. Trong đó, chưa đầu tư thích đáng vào xây dựng hệ thống giống chất lượng cao về hoa, rau, bò sữa, thuỷ sản để nâng cao giá trị và hàm lượng chất xám trong sản phẩm, phát huy lợi thế nông nghiệp Thủ đô. Mặt khác, chính sách chưa quan tâm đến khuyến khích chuyển giao và áp dụng các công nghệ mới, công nghệ chế biến để nâng cao chất lượng sản phẩm và năng suất lao động, hiệu quả sản xuất... Đặc biệt, Hà Nội chưa có trung tâm nông nghiệp công nghệ cao một cách đồng bộ, đủ tiềm lực sản xuất để cung cấp cho thị trường khối lượng lớn sản phẩm chất lượng cao về hoa, cây cảnh, các giống thuỷ sản, gia súc... đáp ứng nhu cầu trong thành phố, các tỉnh bạn và có xuất khẩu. Công nghệ sản xuất cơ bản vẫn còn lạc hậu, chưa đáp ứng với yêu cầu phát triển, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ sinh học để tạo giống cây trồng, vật nuôi, bảo quản và chế biến sau thu hoạch…Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội trong nông nghiệp, nông thôn còn có mặt hạn chế nên năng suất lao động và chất lượng của nhiều loại nông sản còn thấp, chưa đủ sức mạnh cạnh tranh với các nước trong khu vực và thế giới. Việc ứng dụng tiến bộ kỹ thuật và công nghệ mới trong nông nghiệp còn chưa có tính hệ thống, đồng bộ trong quá trình sản xuất. Các cơ sở sản xuất giống cây trồng, lợn nạc, gà, bò sữa, thuỷ sản tuy đã được nâng cấp nhưng quy mô còn bé, thiếu tính đồng bộ thành hệ thống giống và hiện đại. Với điều kiện canh tác manh mún hiện nay ở các nông hộ, việc áp dụng các công nghệ cao, như công nghệ tưới phun, tưới nhỏ giọt, mô hình trồng cây trong nhà lưới quanh năm, chủ động điều tiết tiểu môi trường… để tạo ra sản phẩm chất lượng cao là rất khó khăn. Do vậy, nhiều sản phẩm như hoa, cây ăn quả chất lượng còn hạn chế, diện tích rau canh tác theo quy trình kỹ thuật an toàn còn chưa đáp ứng so nhu cầu thị trường đề ra. *Nhìn chung, việc áp dụng khoa học công nghệ mới trong sản xuất kinh doanh vẫn còn nhiều bất cập. Việc áp dụng, cập nhập giống mới được tiến hành nhiều nhất trong thuỷ sản. Trong trồng trọt, chăn nuôi mức độ áp dụng thấp hơn. Đó là do các giống mới trong trồng trọt, chăn nuôi hiện nay có hiệu quả tương đương nhau, chưa xuất hiện những giống mới thực sự nổi bật. Có thể ví dụ đối với hoa các loại. Trong vài năm gần đây, các trang trại trồng hoa ở Tây Tựu vẫn tập trung ở một số loại hoa nhất định, chưa xuất hiện những giống mới có tính chất đột phá. -Các khâu khác còn thấp hơn. Trong đó thấp nhất là phân bón hoá học, thuốc trừ sâu và thuốc thú y. Đây là những khâu cần phải có tỷ lệ khoa học công nghệ mới cao hơn. f.Thực trang tiềm năng công nghiệp hóa-hiện đại hóa của trang trại ở Hà nội: Mặc dù sản xuất nông nghiệp Hà Nội đã đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng, nhưng trình độ về công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH-HĐH) mới chỉ bắt đầu ở một số lĩnh vực như về giống cây trồng, vật nuôi. Hệ thống công trình thuỷ lợi phục vụ tưới, tiêu, đã thu được hiệu quả rất rõ rệt, bước đầu cho thấy xu hướng vận động đúng đắn, phù hợp với quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, theo hướng sản xuất hàng hoá có chất lượng cao. *Thực hiện tập trung hoá, và chuyên môn hoá cho các loại sản phẩm nông nghiệp chủ yếu của Hà Nội đó là: thâm canh rau xanh, hoa, quả, lúa, ngô chăn nuôi: lợn, gà, bò, bò sữa, và cá. -Đã hình thành ngày càng nhiều các khu vực tập trung sản xuất chuyên cây, chuyên con như vùng trồng rau ở Văn Đức - Gia Lâm, Nam Hồng - Bắc Hồng - Đông Anh; Vùng trồng hoa Tây Tựu - Từ Liêm, Uy Nỗ, Xuân Nội - Đông Anh; Vùng cây ăn quả tập trung ở 12 xã của Đông Anh, 3 xã của Từ Liêm và 9 xã vùng gò đồi của Sóc Sơn…. Vùng chăn nuôi lợn nái ở: Việt Hùng, Cổ Loa, Dục Tú, Nam Hồng (Đông Anh), vùng Trung Màu, Phù Đồng, Yên Thường (Gia Lâm). Vùng chăn nuôi bò sữa ở Phù Đổng - Gia Lâm, nuôi thả cá ở các xã vùng trũng Đông Mỹ, Đại áng của Thanh Trì.... -Các vùng sản xuất tập trung được đầu tư theo hướng hiện đại hóa từ hệ thống giao thông nội đồng, thuỷ lợi, hệ thống tưới tiêu, nhà lưới… Tuy nhiên do đặc thù của sản xuất nông nghiệp ở Hà Nội là đất canh tác ít, dân số nông nghiệp đông, sản xuất phân tán, manh mún diễn ra từ nhiều năm, do đó quá trình tập trung hoá, và chuyên môn hoá trong sản xuất nông nghiệp Hà Nội có tính đặc thù riêng. Và xu hướng phát triển chủ yếu là tập trung đầu tư tăng giá trị sản phẩm trên đơn vị sản xuất. *Thực hiện thuỷ lợi hoá, kiên cố hoá các hệ thống công trình thuỷ lợi: -Hệ thống thủy lợi được đầu tư củng cố, phát triển, phục vụ ngày càng tốt hơn cho nền sản xuất nông nghiệp thâm canh. Hiện nay trên địa bàn 5 huyện ngoại thành và 2 quận mới đang quản lý 418 trạm gồm 664 máy bơm tưới các loại có công suất từ 1000 - 81000 m3/h. -Hệ thống thuỷ lợi đảm bảo 74% diện tích được tưới và 40% diện tích được tiêu chủ động (có nhiều hồ chứa lớn nhỏ và 1.247 km kênh mương cấp I và cấp II thực hiện nhiệm vụ tưới cho 35.033 ha, tiêu 19050 ha phục vụ sản xuất nông nghiệp và dân sinh xã hội). -Quá trình thuỷ lợi hoá được mở rộng trong những năm gần đây, khi Nhà nước có chủ trương bê tông hoá kênh mương. Tỷ lệ cứng hóa đạt 100% với kênh loại I, 47% đối với kênh loại II và 26% đối với kênh loại III. *Quá trình cơ giới hoá trong nông nghiệp: -Cơ khí hóa trong nông nghiệp Hà Nội nhìn chung diễn ra chậm. Hiện nay đã có 45% diện tích đất được sử dụng máy, tưới chủ động đạt 70%, khâu thu hoạch lúa gần 100% được cơ khí hóa. Khâu vận chuyển đạt 40%, trong đó máy kéo lớn trên 12 CV trung bình mới có 0,24 cái/100 ha đất, máy kéo nhỏ dưới 12 CV trung bình 2,28 cái/100 ha đất canh tác. Xe ô tô vận tải, công nông có 8,41 cái/100 ha đất canh tác. Máy bơm nước có 433,2 cái/100 ha đất canh tác. Những công việc còn lại như : gieo trồng, chăm sóc, thu hoạch chủ yếu làm thủ công. -Nguyên nhân của tình trạng cơ giới hoá trong sản xuất nông nghiệp còn thấp là do: Đa số có qui mô sản xuất nhỏ, phân tán, manh mún. Nền sản xuất hàng hoá còn chưa phát triển và trình độ nhận thức về khoa học công nghệ còn thấp. Mức sống của đa số hộ nông dân còn nghèo, dư thừa lao động và đa số chưa có khả năng đầu tư vào trang thiết bị cơ giới phục vụ cho sản xuất. *Việc áp dụng tiến bộ kỹ thuật công nghệ mới trong sản xuất nông nghiệp tương đối rộng rãi và bước đầu đem lại hiệu quả cụ thể -Trong khâu giống cây trồng, vật nuôi : 100% giống được chọn lọc, bồi dục tốt, trong đó tỷ lệ giống ưu thế lai, với ngô đạt 60%, gà : 79%, lợn : 100%, trong đó lợn nạc tỷ lệ cao đạt 50%, bò sữa 80%... -Các kỹ thuật tiên tiến trong thâm canh cây trồng vật nuôi được áp dụng rộng rãi, như kỹ thuật bón phân, thức ăn tổng hợp, phòng trừ dịch, bệnh, kỹ thuật tưới nước, ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất rau, hoa có chất lượng cao v.v... đã góp phần tăng năng suất, sản lượng, và giá trị sản phẩm. *Hạn chế của lĩnh vực áp dụng các tiến bộ kỹ thuật và công nghệ mới trong sản xuất nông nghiệp ở Hà Nội ở chỗ : -Chưa có tính hệ thống, và thiếu tính liên hoàn trong cả quá trình của sản xuất. -Lĩnh vực bảo quản và chế biến sau thu hoạch chưa phát triển. -Tập quán sản xuất truyền thống, kinh nghiệm còn quá phổ biến, trong khi các mô hình sản xuất tiên tiến với các công nghệ mới, theo xu hướng áp dụng công nghiệp trong nông nghiệp lại chưa có, đã hạn chế rất lớn tới hiệu quả và qui mô sản xuất nông nghiệp. g.Thực trạng ảnh hưởng của yếu tố đô thị hóa đến kinh tế trang trại ở Hà Nội: *Nhìn chung, sự ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa tới kinh tế trang trại tập trung trên các mặt: mất đất, mở rộng thị trường, cải thiện cơ sở hạ tầng và ô nhiễm môi trường. -Mất đất và ô nhiễm môi trường đã ảnh hưởng xấu đến quá trình sản xuất của trang trại. Đất đai là tư liệu sản xuất quan trọng nhất của trang trại, còn môi trường thì ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm nông nghiệp, đây là vấn đề đang được người tiêu dùng quan tâm nhất hiện nay. -Việc mở rộng thị trường và cải tạo cơ sở hạ tầng sẽ đem lại hiệu quả tốt cho kinh tế trang trại nếu biết tận dụng những lợi thế mà nó mang lại. Nó làm cho việc giao thương buôn bán, tiêu thụ hàng hóa trở nên thuận lợi, do đó vấn đề đầu ra của người sản xuất không những được giải quyết mà người sản xuất thậm chí còn thu được lợi nhuận lớn hơn trước. *Nhìn chung, quá trình đô thị hóa nông nghiệp đem lại những lợi ích sau đây: -Quá trình đô thị hóa đã thúc đẩy người sản xuất chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi và buộc phải tính đến lợi thế so sánh giữa các hoạt động sản xuất trên diện tích đất nông nghiệp đang ngày càng bị thu hẹp. -Đô thị hóa phát triển cũng đòi hỏi phải nâng cao sản lượng cũng như chất lượng nguồn thực phẩm cung cấp từ ngoại thành cho đô thị mà vấn đề an toàn sản phẩm nông nghiệp đối với dân cư trở thành yêu cầu cấp bách. -Đô thị hóa đã tạo những điều kiện thuận lợi đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp. Hệ thống khuyến nông, lâm, ngư nghiệp ngày càng được hoàn thiện và mở rộng. Các công nghệ và kỹ thuật sản xuất mới được truyền tải trực tiếp đến người sản xuất. Kết cấu hạ tầng, đặc biệt là hệ thống thông tin liên lạc được cải thiện, do đó người dân sớm tiếp cận được với thị trường và những tiến bộ mới của khoa học kỹ thuật sản xuất. Việc cung cấp và tiếp nhận các vật tư kỹ thuật cho sản xuất nông nghiệp cũng thuận lợi hơn. III.ĐỊNH HƯỚNG, GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ PHÁT HUY CÁC TIỀM NĂNG HÌNH THÀNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI: 1.Các định hướng phát triển kinh tế trang trại Trong những năm qua kinh tế trang trại đã có bước phát triển và từng bước khảng định vai trò của nó trong nông nghiệp, nông thôn Hà Nội. Để tiếp tục phát huy vai trò của kinh tế trang trại trong những điều kiện mới, với sự phát huy của các nhân tố mới, đề tài xác định phát triển trang trại trong nông thôn ngoại thành theo những hướng chủ yếu sau: -Một là, tiếp tục tạo những điều kiện để một mặt phát huy hiệu quả của các trang trại hiện có, mặt khác tạo ra những điều kiện mới cho các trang trại ra đời, trong bối cảnh đất đại ngày càng thu hẹp do tác động của quá trình công nghiệp hoá và đô thị hoá. -Hai là, tập trung các điều kiện cho các trang trại với các loại hình kinh doanh chủ yếu như: Các trang trại trồng rừng (lâm trại) bảo vệ môi sinh, tạo cảnh quan ở Sóc Sơn, tạo những cơ chế cho sự gắn kết giữa hoạt động nông lâm nghiệp với du lịch; các trang trại trồng cây ăn quả kết hợp với nuôi trồng thuỷ sản, nuôi ong, du lịch nghỉ ngơi cuối tuần; các trang trại nuôi trồng thuỷ sản kết hợp với du lịch ở vùng trũng Thanh Trì, Đông Anh, Từ Liêm...; các trang trại chăn nuôi tập trung, xa khu dân cư theo chương trình phát triển chăn nuôi của Thành phố. -Ba là, tăng cường năng lực của chủ trang trại để trang trại xác định rõ hướng kinh doanh, đặc biệt khuyến khích các trang trại tiếp nhận các công nghệ cao và sạch (kỹ thuật canh tác, công nghệ giống, sử dụng các yếu tố đầu vào sạch...), tiến hành hạch toán kinh doanh nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm sẵn sàng tiếp nhận những thách thức của hội nhập. 2.Giải pháp về đất đai: Đất đai là tư liệu sản xuất đặc thù và là nguồn lực quan trọng của sản xuất nông nghiệp. Hơn nữa, đất đai không chỉ liên quan đến kinh tế thuần tuý mà có quan hệ chặt chẽ đến các vấn đề chính trị - xã hội. Do đó đất đai luôn là vấn đề nhạy cảm, phức tạp. Mục tiêu cần đạt được là giải phóng triệt để đất đai; sử dụng đất đai có hiệu quả cả phương diện kinh tế - xã hội; thúc đẩy nhanh quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn sang sản xuất hàng hoá; đảm bảo công bằng xã hội, sự đoàn kết giữa các tầng lớp dân cư, các khu vực và ổn định chính trị xã hội nông thôn. Những năm qua, Nhà nước và thành phố Hà Nội có nhiều quy định về đất đai và được điều chỉnh, sửa đổi nhiều lần cho phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Tuy nhiên, một số quy định hiện nay chưa thật sự thông thoáng, chưa khuyến khích phát triển sản xuất hàng hoá và đảm bảo công bằng trong nhân dân. Do vậy cần được nghiên cứu điều chỉnh cho phù hợp. *Cần đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận đất ở, đất ao, vườn liền kề ở nông thôn và giấy chứng nhận sử dụng đất nông nghiệp còn lại để xác lập quyền sở hữu kinh tế về đất đai cho nông dân yên tâm đầu tư, sử dụng đất đai có hiệu quả. *Bằng nhiều biện pháp khuyến khích và thúc đẩy nhanh quá trình nông dân chuyển đổi ruộng đất, tiến hành “dồn điền, đổỉ thửa” để hình thành những vùng sản xuất hàng hoá tập trung như: tuyên truyền thuyết phục, đơn giản các thủ tục chuyển đổi, mở mang ngành nghề, phát triển dịch vụ thu hút lao động nông nghiệp sang lao động phi nông nghiệp. *Tăng hạn mức chuyển nhượng và thời hạn cho thuê đất. Để tiến hành sản xuất hàng hoá có hiệu quả thì yêu cầu quy mô sản xuất cần có độ lớn nhất định. Mặt khác, đối với trang trại hay tổ chức sản xuất hàng hoá phải được ổn định thời gian dài nhất định để người sử dụng đất mới yên tâm đầu tư thâm canh, đầu tư kết cấu hạ tầng, công nghệ... Nếu thời gian ngắn không thể đầu tư hoặc hiệu quả đầu tư rất thấp. Vì vậy, cần có sự điều chỉnh cho phù hợp theo hướng khuyến khích người thuê hay được chuyển nhượng đất yên tâm đầu tư phát triển hàng hoá. Cụ thể là đối với đất công ích thời hạn cho thuê đất nên xác định theo kế hoạch sử dụng đất của UBND xã, phường, thị trấn”. Trong trường hợp UBND xã, phường 10 - 15 năm sau mới có kế hoạch sử dụng thì khả năng cho người thuê đến 10 - 15 năm. Đối với trường hợp chuyển nhượng đất cần điều chỉnh quy định là: “Mức sử dụng đất của mỗi gia đình sau khi chuyển nhượng tuỳ vào khả năng sản xuất của người sử dụng”. Không nên có hạn mức, quá hạn mức trên phải thuê đất. *Xác định giá trị quyền sử dụng đất thành vốn góp và xử lý đất đai cho nông dân khi đã góp vốn bằng quyền sử dụng đất mà doanh nghiệp cổ phần phá sản, ngừng hoạt động. Nhà nước cần có chính sách rõ ràng giải quyết hai vấn đề: Một là, quy định rõ phương pháp định giá trị quyền sử dụng đất để trở thành vốn góp; hai là, trường hợp khi doanh nghiệp cổ phần bị phá sản thì giải quyết quyền sử dụng đất của người nông dân thế nào? Đối với nông dân, đất đai là tư liệu sản xuất chính, vì vậy đất đai là vấn đề quan trọng nhất đối với họ. Do đó, chính sách của Nhà nước về nguyên tắc phải đảm bảo được mức thu nhập ổn định cho họ và không để nông dân rơi vào tình trạng bị mất đất khi doanh nghiệp bị phá sản, ngừng hoạt động. *Cho phép chủ sử dụng đất được xây dựng công trình trên đất trang trại: thông thường, Nhà nước không muốn cho người chủ được xây dựng các công trình tại trang trại, do sợ sẽ biến đất nông nghiệp thành đất thổ cư (ở Hà Nội chỉ quy định được phép xây 12 m2 để dụng cụ sản xuất). Một thực tế cho thấy, nhiều trang trại có quy mô lớn phát triển cả trồng trọt - chăn nuôi - thuỷ sản, có trang trại khép kín từ sản xuất - chế biến; không ít trang trại xây dựng thành điểm du lịch sinh thái hấp dẫn... Do đó, nếu không cho phép xây dựng các công trình thì không khuyến khích trang trại phát triển. Và thực tế do nhu cầu, chủ trang trại vẫn xây dựng công trình không phép. Do vậy, tuỳ theo quy mô và tính chất trang trại mà quy định cho phép xây dựng công trình chuồng trại, nhà xưởng, nhà quản lý và nhà để ở. Những trang trại có quy mô từ 2 ha trở lên cho phép xây dựng công trình nhà xưởng, chuồng trại và nhà ở. *Đảm bảo lợi ích cho nông dân khi đền bù đất đai giải phóng mặt bằng trong nông nghiệp, nông thôn : -Trong quá trình công nghiệp hoá, đô thị hoá tất yếu phải lấy đất nông nghiệp, nông thôn để làm các công trình. Thực tế cho thấy quá trình giải phóng mặt bằng khi thu hồi đất nông nghiệp, nông thôn là rất khó khăn, phức tạp. Trong đó nổi cộm nhất là việc định mức đền bù thiệt hại đối với đất nông nghiệp, nông thôn. -Theo quy định, việc đền bù thiệt hại về đất nông nghiệp được tính theo hạng đất tại các vùng khác nhau (có 6 hạng đất và chia ra 2 vùng nhưng vùng ven nội có giá đất cao hơn các xã trong cùng địa bàn). Hạng đất được xác định trong thời gian dài và ít biến động. Trên thực tế, người nông dân khi sử dụng đất đã đầu tư thâm canh nên hạng đất có thay đổi so với trước. Trong khi đó, việc đền bù giải phóng mặt bằng lại không thể có các số liệu về hạng đất tại thời điểm lập phương án làm thiệt thòi cho nông dân và gây nên khiếu kiện. -Mặt khác, trong cùng một khu vực, quy định về khung giá các loại đất, giá đất nông nghiệp rất thấp, chênh lệch và bất bình đẳng quá lớn so với giá đền bù đất ở, và người nông dân không đủ chi phí để chuyển sang nghề mới, ổn định đời sống. Mặc dù đã có quy định mức đền bù đất nông nghiệp theo giá đất chuyển nhượng thực tế trên thị trường và khả năng sinh lợi nhưng không thực tế vì việc xác định khả năng sinh lợi và giá đất thị trường rất khó khăn. Một số trường hợp sử dụng tạm thời, thuê đất hoặc đấu thầu quyền sử dụng đất nông nghiệp, việc xác định chi phí đầu tư vào đất chưa được làm rõ khi lập phương án đền bù thiệt hại. Do đó người bị thu hồi đất đòi hỏi mức đền bù cao hơn. Bên cạnh đó mức hỗ trợ chuyển nghề được tính toán theo mức thu nhập trên một đơn vị diện tích trong vòng 10 hoặc 20 năm là không phù hợp, vì đất đai là tư liệu sản xuất không chỉ đảm bảo cuộc sống lâu dài cho bản thân người nông dân mà còn có quyền thừa kế cho các thế hệ nối tiếp. -Đối với đất ở khu dân cư nông thôn, việc xác định các loại đất ở, đất nông nghiệp, đất vườn liền kề chưa được quy định cụ thể và có căn cứ pháp lý. Các văn bản hướng dẫn chỉ tính đền bù theo giá đất ở đối với diện tích đã xây dựng nhà ở và các công trình phục vụ sinh hoạt. Phần diện tích còn lại được coi là đất nông nghiệp hay đất vườn liền kề có mức đền bù thấp hơn. Tại các địa phương khác nhau việc vận dụng thực hiện các vấn đề này không giống nhau nên dẫn tới thắc mắc, khiếu kiện. Do đó, Thành phố cần nghiên cứu để thường xuyên điều chỉnh, bổ sung giá đất nông nghiệp, đất nông thôn phù hợp với giá thực tế hợp lý khi dự án bắt đầu tại khu vực đó để đảm bảo khoa học, công bằng giữa khu vực nông nghiệp, nông thôn với đất đô thị, công bằng đối với nông dân, công bằng giữa người phải đi và người được ở lại khu vực dự án được thực hiện. Mức hỗ trợ chuyển nghề không nên tính tiền thu nhập trên đơn vị diện tích mà phải căn cứ vào thực tế lao động và chi phí phải có khi chuyển sang nghề khác...Mặt khác, thành phố thành lập quỹ hỗ trợ giải quyết việc làm cho nông nghiệp, nông thôn khi nông dân thu hồi đất không còn tư liệu sản xuất. Tăng cường đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn để thúc đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế tạo việc làm mới cho khu vực bị thu hồi đất. Thành phố cần có chính sách khuyến khích các tổ chức, cá nhân vay vốn để mở rộng sản xuất tạo việc làm mới cho khu vực nông thôn bị mất đất nông nghiệp. Nghiên cứu cơ chế cho phép người bị thu hồi đất nông nghiệp tham gia đầu tư vào các dự án đô thị, công nghiệp, thương mại... thông qua hình thức góp vốn để tạo điều kiện cho họ sử dụng tiền bồi thường một cách có hiệu quả, tạo thu nhập ổn định cho cuộc sống. Đồng thời, thành phố chủ động tổ chức đào tạo các nghề mới để phục vụ nhu cầu tuyển dụng lao động trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, ưu tiên tuyển dụng lao động xuất khẩu, nhất là các nghề đơn giản phù hợp với khả năng của người nông dân. Xây dựng, phát triển mạng lưới chợ, triển khai xây dựng các khu công nghiệp vừa và nhỏ, phát triển làng nghề, mô hình trang trại... để giải quyết lao động nông thôn khi mất đất... *Cần có những quy định, chế tài mạnh hơn nhằm tăng cường quản lý đất đai: đất đai là công thổ quốc gia, Nhà nước thống nhất quản lý và giao cho các tổ chức, cá nhân sử dụng phải có hiệu quả, phát huy giá trị đầy đủ của đất đô thị. Tuy nhiên, thời gian qua có nhiều cá nhân, tập thể lợi dụng sự quản lý còn lỏng lẻo của thành phố nên đã lấn chiếm, mua đi bán lại kiếm lời làm giàu cá nhân hoặc bỏ hoang hoá, sử dụng kém hiệu quả ... tạo ra bất công bằng trong xã hội, Vì vậy, mặc dù đã có những chủ trương biện pháp quản lý, thời gian tới thành phố tiếp tục có các biện pháp kiên quyết, mạnh mẽ hơn, xây dựng các chế tài đặc biệt để quản lý đất đai Hà Nội có hiệu quả hơn. 3.Giải pháp về lao động: *Phân bổ lao động hợp lý giữa các, ngành là biện pháp quan trọng để sử dụng đầy đủ và hợp lý nguồn nhân lực trong nông nghiệp, nông thôn. Thực hiện phân bố lao động đòi hỏi phải kết hợp chặt chẽ lao động với các nguồn tài nguyên và tư liệu sản xuất sẵn có trong từng vùng, từng ngành để khai thác có hiệu quả các tiềm năng đó, tạo ra nhiều ngành mới, nhiều vùng chuyên môn hóa kết hợp với phát triển tổng hợp, làm cho nền kinh tế phát triển đồng đều. -Việc điều chỉnh nguồn nhân lực giữa các ngành có ý nghĩa thiết thực trong việc khai thác nguồn nhân lực của địa phương. Để thực hiện được nhiệm vụ đó, trước hết phải nắm chắc nguồn nhân lực và nhu cầu lao động. Dân số là cơ sở của nguồn nhân lực. Vì vậy kế hoạch hóa nguồn nhân lực phải gắn liền với kế hoạch hóa dân số. Phải coi đây vẫn luôn là cuộc vận động lớn có ý nghĩa chiến lược về kinh tế, xã hội. *Phát triển công nghiệp (bao gồm cả tiểu thủ công nghiệp), dịch vụ nông thôn có ý nghĩa quan trọng trong việc sử dụng nguồn nhân lực, phát triển sản xuất và nâng cao đời sống người lao động nông thôn. Phát triển ngành nghề nông thôn để sản xuất nguyên liệu, công cụ sản xuất, thực hiện chế biến, dịch vụ và đời sống,…. Một bộ phận lao động nông nghiệp chưa có việc làm có thể làm dịch vụ trong các ngành khác. Trong việc phát triển ngành nghề nông thôn cần phải tạo ra từng bước những người có nghề và hình thành các làng nghề. Đẩy mạnh hơn nữa việc trang bị cho người lao động những tư liệu sản xuất cần thiết, đảm bảo cả về số lượng, chất lượng và chủng loại công cụ sản xuất. *Phải thực hiện các biện pháp nâng cao trình độ văn hóa, trình độ kỹ thuật, trình độ nghiệp vụ của người lao động. -Hàng năm thành phố dành một khoản ngân sách để làm học bổng cho cán bộ đi tập huấn, đào tạo ở trong nước và nước ngoài nhằm tạo ra những cán bộ “đầu đàn” cho lĩnh vực chọn lọc giống rau, hoa, quả, chăn nuôi, thuỷ sản, chế biến. -Thành phố đầu tư nâng cấp trường Trung học nông nghiệp Hà Nội thành trường Cao đẳng kỹ thuật nông nghiệp đào tạo kỹ sư thực hành cho các trạm, trại, cơ sở chế biến nông sản, các trang trại nông nghiệp… -Khuyến khích các trang trại, nông hộ có con em cho vào học tại trường Cao đẳng nông nghiệp và được miễn học phí, cấp học bổng theo quy định của Nhà nước. -Ngoài việc thường xuyên bồi dưỡng và đào tạo lại cán bộ hiện có, phải có các lớp dạy nghề và bồi dưỡng nghiệp vụ ngắn ngày, nghiệp vụ xây dựng và quản lý dự án, những vấn đề quản lý Nhà nước đối với khu nông nghiệp công nghệ cao, nghiệp vụ kiểm tra chất lượng hàng nông sản.... Kinh phí cho những hoạt động này, có một phần là từ ngân sách, nhưng phần lớn là nằm trong kinh phí dự án, hoặc lấy thu bù chi do các cá nhân hoặc tổ chức chủ trì đứng ra thực hiện. -Thành phố cần đề ra các chính sách đào tạo có địa chỉ. Việc đào tạo phải tiến hành theo phương châm vừa phát triển chiều rộng nhằm đáp ứng yêu cầu trước mắt, nhưng đồng thời cũng vừa phải có kế hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên sâu, các cán bộ nghiên cứu khoa học đầu ngành để chuẩn bị cho nền nông nghiệp trong tương lai. Việc quý trọng và bồi dưỡng nhân tài không chỉ thể hiện trong công tác đào tạo cán bộ nguồn mà còn phải chú ý đến chính sách đãi ngộ, chính sách tiền lương cũng như việc quản lý, sử dụng cán bộ, đào tạo trong quá trình thực tế công tác, thi tuyển trong bố trí việc làm. Đã đến lúc cần phải cải cách chế độ tiền lương sao cho gắn chặt với năng suất lao động và chất lượng lao động nhằm khuyến khích lao động có kỹ thuật, có trình độ chuyên môn cao. Nếu Nhà nước chậm thực hiện thì chất xám sẽ chuyển dần sang khu vực kinh tế nước ngoài và tư nhân. Chính sách tiền lương tuy đã được cải tiến nhưng vẫn lấy thời gian công tác làm thước đo chủ yếu nên còn mang nặng tính chất bình quân, không bồi dưỡng và khuyến khích được nhân tài. *Thành phố cần đề ra các chính sách khuyến khích người tài, người có chuyên môn cao, các chuyên gia giỏi đang làm việc ở nơi khác về công tác cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho gia đình họ được cư trú tại Hà Nội. Hà Nội cần nghiên cứu ban hành và công bố rộng rãi những giải pháp và chính sách ưu tiên nhằm thu hút và sử dụng có hiệu quả nhân tài trong và ngoài nước để phát triển nông nghiệp Hà Nội. Chẳng hạn Hà Nội nên phối hợp với các trường đại học để nắm băt được những sinh viên giỏi, có khả năng đáp ứng những yêu cầu của sự phát triển nông nghiệp Thủ đô, tạo học bổng, hướng họ về làm việc cho nông nghiệp Hà Nội. Nên tổ chức các cuộc thi thường xuyên nhằm phát hiện và có chính sách thu hút nhân tài cho nông nghiệp Hà Nội. Nghiên cứu ban hành hệ thống chính sách đào tạo, đãi ngộ và sử dụng các nhà khoa học đầu đàn phục vụ phát triển nông nghiệp Thủ đô. Có những hình thức khen thưởng động viên kịp thời đối với những người có thành tích xuất sắc trong việc phát triển nông nghiệp Hà Nội. Trong giai đọan trước măt có thể thuê chuyên gia, nhà doanh nghiệp nước ngoài làm việc cho nông nghiệp Thủ đô trong một số lĩnh vực cần thiết. 4.Giải pháp về chính sách đầu tư tín dụng: *Mục tiêu của chính sách đầu tư và tín dụng nhằm phát huy tối đa tiềm năng đất đai, sức lao động, vốn và các nguồn lực khác tạo ra sự chuyển dịch lớn về cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn ngoại thành theo hướng sản xuất hàng hoá chất lượng cao, kết cấu hạ tầng kinh tế-kỹ thuật và xã hội được tăng cường, giảm dần sự cách biệt lớn giữa nội và ngoại thành, thực hiện công bằng xã hội. *Nội dung chủ yếu của giải pháp chính sách dầu tư tín dụng: -Xác định rõ lĩnh vực ưu tiên đầu tư: +Xây dựng các cơ sở giết mổ tập trung, cơ sở chế biến sữa, chế biến thịt và rau. +Thực hiện nạc hoá đàn lợn, ưu tiên hoàn chỉnh hệ thống giống; bảo quản và đóng gói tinh lợn ngoại; tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chương trình sản xuất rau sạch. +Chương trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng, chăn nuôi tập trung xa khu dân cư: chuyển diện tích lúa sang trồng hoa, cây ăn quả; đất trũng sang phát triển thuỷ sản... ưu tiên nhập và ứng dụng các giống mới vào sản xuất; hỗ trợ xây dựng hạ tầng đường, điện, nước cho những dự án xây dựng vùng sản xuất tập trung về hoa, rau an toàn, chăn nuôi tập trung xa khu dân cư, thuỷ sản; đầu tư các khu nông nghiệp công nghệ cao để sản xuất hoa, quả, rau. -Thực hiện cải cách hành chính trong đầu tư: +Tiếp tục nghiên cứu đơn giản hoá các thủ tục về quản lý đầu tư xây dựng đảm bảo quản lý chặt chẽ, tránh phiền hà phức tạp, thủ tục nhanh chóng. Công khai hoá các bước tiếp nhận, xử lý thủ tục đầu tư ở các cấp. +Công khai hoá nguồn vốn đầu tư và kế hoạch đầu tư cho các ngành, các cấp chủ động thực hiện và giám sát, tránh tình trạng “xin-cho” trong đầu tư. 5.Giải pháp khuyến khích chuyển giao công nghệ và áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất: *Chuyển giao công nghệ là hình thức mua và bán công nghệ trên cơ sở hợp đồng đã được thoả thuận phù hợp với các quy định của pháp luật. Bên bán có nghĩa vụ chuyển giao các kiến thức tổng hợp của công nghệ hoặc cung cấp các máy móc, thiết bị, dịch vụ đào tạo…kèm theo các kiến thức công nghệ cho bên mua; bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán để tiếp thu, sử dụng các kiến thức công nghệ đó theo các điều kiện đã thoả thuận và ghi nhận trong hợp đồng chuyển giao công nghệ. *Nội dung chuyển giao công nghệ gồm các bí quyết công nghệ, các kiến thức dưới dạng phương án công nghệ, các giải pháp kỹ thuật, qui trình công nghệ, tài liệu thiết kế sơ bộ và thiết kế kỹ thuật, công thức, thông số kỹ thuật, bản vẽ, sơ đồ kỹ thuật, phần mềm máy tính, thông tin dữ liệu về công nghệ chuyển giao; các giải pháp hợp lý hoá sản xuất, đổi mới công nghệ; các sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp và nhãn hiệu hàng hoá; thực hiện các hình thức dịch vụ hỗ trợ chuyển giao công nghệ để bên nhận có được năng lực công nghệ nhằm tạo ra sản phẩm; các máy móc, thiết bị, phương tiện kỹ thuật kèm theo. *Mục tiêu của chính sách nhằm huy động đông đảo các nhà khoa học, kỹ thuật hăng hái nghiên cứu, chuyển giao và người nông dân ứng dụng mạnh mẽ các tiến bộ kỹ thuật, công nghệ mới, công nghệ cao vào sản xuất hàng hoá, đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn, tạo ra nhiều sản phẩm chất lượng cao, hàm lượng chất xám lớn, cho giá trị cao. *Hoàn thiện chính sách và cơ chế khuyến khích chuyển giao công nghệ: -Thành phố Hà Nội khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật Việt Nam đầu tư vào hoạt động khoa học và công nghệ phục vụ phát triển nông lâm nghiệp và chế biến nông sản, bao gồm hoạt động nghiên cứu- triển khai, ứng dụng kết quả khoa học và công nghệ, đổi mới công nghệ, sản xuất sản phẩm mới; dịch vụ khoa học… và được thực hiện các chính sách và cơ chế khuyến khích theo Nghị định của Chính phủ số 119/1999/NĐ-CP ngày 18/9/1999. Cụ thể như sau: Thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp: đối với doanh nghiệp hoạt động theo Luật khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi) thì có các thuế suất 25%, thuế suất 20% đầu tư ở địa bàn có điều kiện kinh tế- xã hội khó khăn và thuế suất 15% đối với địa bàn đặc biệt khó khăn; đối với doanh nghiệp hoạt động theo luật đầu tư nước ngoài thì thuế suất là 20% trong 10 năm kể từ khi hoạt động sản xuất- kinh doanh . Miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp: +Miễn thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các trường hợp thực hiện hợp đồng nghiên cứu triển khai, thực hiện hợp đồng dịch vụ kỹ thuật trực tiếp phục vụ sản xuất nông lâm nghiệp; thu nhập từ việc góp vốn bằng sở hữu trí tuệ, bí quyết kỹ thuật, quy trình kỹ thuật. +Các doanh nghiệp thuộc diện ưu đãi không phải nộp thuế thu nhập bổ sung từ các hoạt động khoa học công nghệ theo quy định tại khoản 1 điều 10 Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, gồm: chế biến nông, lâm, thuỷ sản; các dịch vụ trực tiếp phục vụ nông nghiệp và thuỷ sản, như làm đất, cung cấp hạt giống cây con, tưới nước, bảo vệ rừng, bảo quản thuỷ sản, bảo quản giống cây trồng, vật nuôi, nhân và lai tạo giống mới, bảo quản nông sản; ứng dụng và phát triển công nghệ cao. Ưu đãi về tiền sử dụng đất, thuê đất, thuế sử dụng đất: như ở phần chính sách đất đai. Ưu đãi về thuế nhập khẩu: miễn thuế nhập khẩu đối với máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu, thiết bị khoa học kỹ thuật có bộ điều khiển tự động, mẫu thí nghiệm, dụng cụ đo lường và thí nghiệm phục vụ trực tiếp cho các dự án, hợp đồng nghiên cứu triển khai mà chưa sản xuất được trong nước. Ưu đãi về tín dụng: doanh nghiệp hoạt động theo Luật khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi) có đầu tư vào hoạt động khoa học và công nghệ được vay vốn trung và dài hạn với lãi suất ưu đãi, mức vốn vay này được đáp ứng đến 70% số vốn đầu tư tại Quỹ hỗ trợ phát triển, Quỹ hỗ trợ xuất khẩu, Quỹ hỗ trợ phát triển khoa học công nghệ. Trong trường hợp doanh nghiệp được Quỹ hỗ trợ phát triển bảo lãnh vay vốn tại Ngân hàng đầu tư và phát triển thì sẽ được quỹ hỗ trợ phát triển cấp bù khoản chênh lệch giữa lãi suất vay ưu đãi với lãi suất vay thông thường. *Khuyến khích doanh nghiệp, hộ nông dân chọn lọc phát triển các giống cây trồng, vật nuôi: Để thúc đẩy nhanh quá trình sản xuất giống cây trồng, vật nuôi chất lượng cao, tạo ra sản phẩm có hàm lượng chất xám cao, hiệu quả kinh tế lớn, cung cấp cho Hà Nội và các tỉnh trong khu vực thì phải xây dựng hệ thống giống trong nông nghiệp. *Chuyển giao công nghệ thông qua hoạt động khuyến nông: Các tiến bộ kỹ thuật và công nghệ mới được chuyển giao đến các trang trại, nông hộ thông qua hệ thống khuyến nông được hỗ trợ kinh phí chuyển giao bằng các hoạt động tuyên truyền, tập huấn, xây dựng mô hình và vay vốn của Quỹ khuyến nông theo kế hoạch hàng năm đã được phê duyệt. 6.Giải pháp hỗ trợ và phát triển thị trường nông sản: Để phát triển nền sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp ở Hà Nội nhanh hơn thì vai trò của Nhà nước trong việc tạo lập thị trường là rất quan trọng và cần thiết. Trong đó, coi trọng thị trường nội địa Hà Nội và tăng cường quan hệ, liên kết với các tỉnh để mở rộng thị trường. Đồng thời cần chú ý phát huy thị trường nước ngoài…Giải pháp phát triển nông sản tập trung vào các nội dung chính sau : * Đẩy mạnh công tác qui hoạch và phân vùng sản xuất hàng hoá: Trên cơ sở dự báo thị trường tiêu thụ và lợi thế của từng vùng, thành phố giao cho ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn phối hợp cùng các ngành, các huyện tập trung xây dựng quy hoạch chuyên ngành và phân vùng sản xuất hàng hoá cho từng cây con, như hoa, rau, lợn nạc, bò sữa, thuỷ sản… Đồng thời triển khai thực hiện theo đúng quy hoạch đã được xác lập bằng kế hoạch và lộ trình phù hợp, tránh phát triển tràn lan không đúng với quy hoạch và kế hoạch đề ra. Trên cơ sở qui hoạch, thành phố xây dựng và đầu tư hỗ trợ xây dựng kết cấu hạ tầng cho những vùng sản xuất hàng hoá tập trung. *Tăng cường tổ chức xúc tiến thương mại, thông tin thị trường: Bằng nhiều hình thức phong phú, phù hợp với nông dân, như qua hệ thống truyền thanh của xã, huyện, câu lạc bộ khuyến nông, tổ chức hội chợ, phiên chợ về giống cây trồng vật nuôi, phiên chợ rau an toàn; từng bước thực hiện giới thiệu và bán hàng qua mạng, trang Website… giúp nông dân nắm bắt được thị trường và yêu cầu của thị trường để quyết định sản xuất cho phù hợp, đồng thời tạo điều kiện cho nông dân giới thiệu, quảng bá sản phẩm của mình làm ra với người tiêu dùng… *Xây dựng hệ thông lưu thông- phân phối và tiêu thụ nông sản trong và ngoài thành phố: Thành phố hỗ trợ cho các HTX dịch vụ nông nghiệp tổ chức nhiều cửa hàng bán rau sạch, thịt sạch tại nội thành. Thành lập Trung tâm giới thiệu nông sản chất lượng cao ở nội thành để thường xuyên tổ chức các phiên giao dịch, giới thiệu nông sản giữa người sản xuất với người tiêu dùng. *Củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động dịch vụ của các HTX dịch vụ nông nghiệp Để hỗ trợ hộ nông dân các sản phẩm đầu vào như giống, phân bón, thuốc trừ sâu vi sinh,khuyến nông, dịch vụ nước…và dịch vụ đầu ra tiêu thụ sản phẩm cho nông dân, cần khuyến khích thành lập các Hợp tác xã dịch vụ chuyên sâu, như HTX sản xuất và tiêu thụ rau sạch, HTX dịch vụ chăn nuôi bò sữa, HTX dịch vụ và chế biến nông sản… Tiến tới hình thành những hiệp hội, như Hiệp hội những người nuôi bò sữa, Hiệp hội những người sản xuất rau sạch, Hiệp hội những người sản xuất và tiêu thụ lợn nạc…để gắn kết giữa các doanh nghiệp, các nhà khoa học với nông dân trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. *Khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư cho nông dân trong quá trình sản xuất: Để tạo vùng nguyên liệu, vùng sản xuất hàng hoá tập trung và tiêu thụ nông sản hàng hoá thông qua hợp đồng theo Quyết định 80/2002/QĐ-TTg ngày 24/6/2002 của Thủ tướng Chính phủ, coi đây là một trong những hướng cơ bản để giải quyết thị trường nông sản cho nông dân. *Hỗ trợ đầu ra cho sản xuất: +Trợ giá sản phẩm đối với sản xuất rau sạch và sản phẩm chế biến nông sản, thực phẩm khi gặp rủi ro về thiên tai hoặc có đột biến về giá thị trường xuống thấp thì các bên ký hợp đồng sản xuất và tiêu thụ cùng nhau thoả thuận phân chia thiệt hại. Nếu mức thiệt hại xuống thấp hơn 50% giá thành sản xuất thì ngân sách thành phố hỗ trợ một phần thiệt hại cho người sản xuất với mức không quá 50% chi phí vật tư phục vụ cho sản xuất rau sạch hoặc sản phẩm chế biến nông sản, thực phẩm. +Tổ chức bảo hiểm sản xuất cho nông dân: nông nghiệp là một ngành thường gặp nhiều rủi ro, phụ thuộc vào thiên nhiên nên dễ gây thiệt hại cho người sản xuất. Vì vậy thành phố giao cho ngành bảo hiểm tổ chức làm điểm rút kinh nghiệm, sau đó triển khai ra diện rộng,. Trong đó bảo hiểm thí điểm trước hết đối với chăn nuôi bò, lợn nạc và gia cầm…. Bảo hiểm nông nghiệp có tác dụng bảo vệ an toàn quá trình sản xuất nông nghiệp; ổn định kinh tế và khuyến khích người sản xuất yên tâm đầu tư thâm canh phát triển sản xuất. Đó cũng là thể hiện vai trò quản lý của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường hiện nay. 7.Tiếp tục khuyến khích phát triển kinh tế trang trại. Kinh tế trang trại trên địa bàn Hà Nội đã có bước phát triển khá. Tuy nhiên trong thực tế, việc các trang trại được hưởng các chính sách ưu đãi còn gặp nhiều khó khăn. Nguyên nhân chủ yếu do hiện nay các trang trại mặc dù đã có tiêu chí xác định rõ ràng nhưng vẫn chưa được công nhận chính thức để từ đó hưởng các chính sách ưu đãi. Vì vậy thời gian tới cần nhanh chóng ban hành quy định về cấp giấy chứng nhận trang trại. * Các đối tượng và ngành sản xuất được xem xét cấp Giấy chứng nhận trang trại Hộ nông dân, cán bộ công nhân viên Nhà nước và lực lượng vũ trang, các loại hộ thành thị và cá nhân chuyên sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản hoặc sản xuất nông nghiệp là chính có kiêm nhiệm hoạt động dịch vụ phi nông nghiệp ở nông thôn, thỏa mãn các điều kiện nêu ở điều 1 và điều 3 của bản quy định này. Quyền lợi và nghĩa vụ của hộ được cấp Giấy chứng nhận trang trại: -Được hưởng các chính sách của Nhà nước về đất đai, được sử dụng tài sản hình thành từ vốn vay để đảm bảo tiền vay của các tổ chức tín dụng và được hưởng các chính sách ưu đãi về tín dụng theo quyết định 423/2000-QĐ-NHNN ngày 22/9/2000 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, được ưu tiên vay vốn thuộc Chương trình khuyến nông, giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo... và một số chính sách khác kèm theo Nghị quyết 03 ngày 2/2/2000 của Chính phủ. -Chủ trang trại có nghĩa vụ thực hiện các quy định của pháp luật về an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội, tuân thủ các pháp lệnh về lao động, môi trường... *Yêu cầu đối với chủ trang trại: Chủ trang trại phải có ý thức tiếp thu kiến thức và kinh nghiệm điều hành sản xuất, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, tiếp nhận chuyển giao công nghệ mới vào sản xuất; sử dụng lao động gia đình và thuê lao động bên ngoài sản xuất hiệu quả cao, có thu nhập vượt trội so với kinh tế hộ; phải tự nguyện làm đơn xin cấp giấy chứng nhận trang trại và tuân thủ các quy định ở bản quy định này. *Thực hiện các loại hình hợp tác mới: Khuyến khích hình thành các tổ, liên tổ hộ gia đình tổ chức sản xuất rau sạch, bò sữa, lơn nạc, hoa... Thực hiện hợp tác chặt chẽ giữa các hộ gia đình phù hợp với nhu cầu hợp tác trong nền sản xuất hàng hoá còn chưa phát triển cao. Khuyến khích doanh nghiệp, các thành phần kinh tế đầu tư hợp tác với nhiều hộ nông dân tạo vùng nguyên liệu để thu mua-tiêu thụ nông sản cho nông dân về rau sach, hoa... Thực hiện tốt Nghị quyết 80/CP của Chính phủ về khuyến khích tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp qua hợp đồng kinh tế. Đẩy mạnh liên kết giữa 4 nhà: Nhà nước - Nhà khoa học - Nhà doanh nghiệp-Nhà nông trong sản xuất và tiêu thụ nông sản phẩm. Kết luận và kiến nghị a.Kết luận: *Đề tài đã phân tích và đánh gía thực trạng kinh tế trang trại trên địa bàn Hà Nội. Nêu ra thực trạng về các tiềm năng thúc đẩy hình thành và phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn thành phố Hà Nội. *Trên cơ sở phân tích, đánh giá các tiềm năng nói trên, em đã đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực, vai trò của các tiềm năng trong phát triển kinh tế trang trại ở Hà Nội. b.Kiến nghị: Từ những phân tích của đề tài cùng các giải pháp đưa ra, em xin đưa ra một số kiến nghị sau: *Về quy hoạch: Trên cơ sở quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội Hà Nội, tiến hành nhanh quy hoạch chi tiết ngành và quy hoạch chi tiết đến xã, xác định rõ vùng sản xuất nông nghiệp ổn định đến năm 2010. Quy hoạch các trung tâm dân cư đô thị, các khu công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại các vùng nguyên liệu và công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm. *Về chính sách: Hoàn chỉnh các cơ chế chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho các nhân tố mới tiếp tục phát huy tác dụng để tạo đà thúc đẩy kinh tế HTX và kinh tế trang trại phát triển. Ngoài các chính sách vĩ mô chung của Nhà nước, Hà Nội cần xây dựng một số chính sách mang tính đặc thù của nông nghiệp – nông thôn Thủ đô. *Mở rộng các mối quan hệ liên kết với các ngành trung ương, các tỉnh trong khu vực. *Nâng cao ý thức trách nhiệm của các cấp, các ngành trong việc tổ chức thực hiện mục tiêu trên. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Con đường CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội. 2. Nghị quyết số 15/NQ-TW về phương hướng, nhiệm vụ phát triển thủ đô Hà Nội trong thời kỳ 2001-2010, Hà Nội. 3. Văn kiện hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành trung ương Đảng khoá IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 4. Dự thảo đề án chiến lược về lao động và phát triển nguồn nhân lực trong nông nghiệp và phát triển nông thôn thời kỳ CNH-HĐH (1999-2020), Hà Nội. 5. Một số vấn đề về CNH-HĐH trong phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn thời kỳ 2001-2010, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 6. Hoàn thiện các chính sách kinh tế phát triển nông nghiệp, nông thôn ngoại thành Hà Nội theo hướng CNH-HĐH, Luận án tiến sỹ kinh tế Nguyễn Tiến Dĩnh (2003), Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 7. Các báo cáo tình hình kinh tế trang trại và HTX NN Hà Nội năm 2005, Sở NN&PTNT Hà Nội. 8. Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố Hà Nội lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 9. Báo cáo phát triển kinh tế ngoại thành Thủ đô theo hướng CNH-HĐH giai đoạn 2001-2005, Hà Nội. 10. Giáo trình kinh tế nông nghiệp, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 11. Giáo trình quản lý sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp, nhà xuất bản Nông nghiệp. 12. Giáo trình quản lý sản xuất kinh doanh trong trang trại, NXB Nông nghiệp. Mục lục Đề án: “Một số tiềm năng hình thành và phát triển kinh tế trang trại ở Hà Nội”.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36055.doc
Tài liệu liên quan