Đề tài Một số vấn đề đấu thầu trong đầu tư xây dựng ở Việt Nam hiện nay

Hiện nay, ở một số bộ ngành, địa phương việc thực hiện công tác đấu thầu còn tuỳ tiện mang tính hình thức. Khâu xét thầu trong một số dự án còn chậm, đánh giá không thống nhất. Nhiều dự án thuộc bộ ngành, địa phương vẫn thực hiện theo hình thức đấu thầu hạn chế và chỉ định thầu, hoặc thực hiện hai túi hồ sơ, từ đó làm hạn chế hiệu quả công tác đấu thầu. Mặt khác, do quy chế đấu thầu còn có một số tồn tại, do vậy khi triển khai thực hiện còn khá nhiều nơi vận dụng còn tùy tiện như quy định thời hạn đóng thầu không hợp lý (quá ngắn) đánh giá thầu theo phương pháp đánh giá chấm diểm, đánh giá thầu không theo phương pháp tiêu chuẩn đánh giá đã được cấp có thẩm quyền chấp thuận. Mặt khác, một thực trạng vẫn còn tồn tại là các gói thầu sử dụng vốn ngân sách nhà nước. Hầu hết mọi công trình sử dụng vốn ngân sách đều lâm vào tình trạng kế hoạch tài chính không đồng bộ với tiến độ triển khai dự án, tiến độ đấu thầu. Có những dự án dở khóc dở cười khi kế hoạch đấu thầu không bám sát kế hoạch vốn nên bên trúng thầu không triẻen khai được vì thiếu vốn hoặc vốn bố trí không hợp yêu cầu. Tình trạng phổ biến trong thời gian vừa qua là nhiều dự án khi chuẩn bị tổ chức đấu thầu nhưng nguồn vốn vẫn chưa rõ do vậy chủ đầu tư phải hoàn chỉnh các thủ tục pháp lý mới được tiếp tục xem xét tiếp. Trong một số trường hợp việc cấp phát vốn thanh toán đối với một số hợp đồng thông qua đấu thầu vẫn được các cơ quan tài chính thực hiện theo chế độ cũ, gây chậm trễ về tiến độ giải ngân.

doc83 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1156 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số vấn đề đấu thầu trong đầu tư xây dựng ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
õ được hiệu quả của công tác đấu thầu đem lại. Trước đây “chuyện thường ngày” ở các công trình xây dựng cơ bản là giá quyết toán vượt dự toán. Vượt mức đầu tư được duyệt ban đầu. Nhưng qua đấu thầu, nhờ tính toán kỹ lưỡng trong bước lập hồ sơ và có giá xét thầu khống chế, có sự cạnh tranh của các bên dự thầu nên giá trúng thầu chỉ bằng hoặc thấp hơn giá xét thầu. Qua mấy năm thực hiện đấu thầu ở nước ta, bình quân mỗi công trình tiết kiệm được cho ngân sách nhà nước khoảng 13% vốn ước tính ban đầu. Chỉ riêng năm 1997 con số này đã tới 1244 tỷ đồng, năm 1998 tiết kiệm được 1254 tỷ đồng. Đây là chỉ tiêu thể hiện rõ nhất của việc xem xét công tác đấu thầu. Nói chung trong thời gian nói qua, đặc biệt là từ khi Chính phủ ban hành nghị định 43/CP ngày 16/07/1996 về quy chế đấu thầu, hoạt động này diễn ra tương đối thuận lợi đảm bảo tính công bằng, khoa học và đạt được những yêu cầu về thể thức thủ tục, thời gian. Trên thực tế, hoạt động đấu thầu đã chứng tỏ sự cần thiết trong nền kinh tế thị trường, mang lại lợi ích kinh tế thiết thực cho các chủ đầu tư cũng như các nhà thầu thắng cuộc. Đồng thời cũng tiết kiệm được nguồn vốn cho xã hội. Điển hình là công trình xây dựng đường cao tốc Láng-Hoà Lạc, với sự tham gia của các nhà thầu trong nước, thực tế đã cho thấy tỷ lệ giảm chi phí đáng kể. Ví dụ: như gói thầu số 10 (km27-km30) cho kết quả cuối cùng với giá trúng thầu là 6,94 tỷ đồng trong khi giá ước tính ban đầu là 17,1 tỷ đồng. Nhìn chung những năm qua hoạt động đấu thầu tiết kiệm được nguồn vốn khá lớn. Mặt khác ta cũng thấy rằng công tác đấu thầu xây lắp chiếm một vai trò rất quan trọng trong công tác đấu thầu nói chung. Vai trò này được thể hiện rõ qua bảng số liệu sau: Bảng 6: Cơ cấu các lĩnh vực đấu thầu thời 1996-1998 Năm 1996 Năm 1997 Năm 1998 Số gói thầu Tỷ trọng (%) Số gói thầu Tỷ trọng (%) Số gói thầu Tỷ trọng (%) Tổng số 2476 100 2508 100 2528 100 Đấu thầu xây lắp 1826 73,74 1850 73,76 1865 73,77 Đấu thầu tư vấn 164 6,62 167 6,66 168 6,45 Đấu thầu mua sắm thiết bị 486 19,64 491 19,58 498 19,78 (Nguồn Bộ kế hoạch và đầu tư) Qua bảng số liệu ta thấy rằng cơ cấu của các lĩnh vực đấu thầu trong những năm qua tương đối ổn định.Đấu thầu tư vấn năm 1996 chiếm 6,62% thì năm 1998 tỷ lệ này vẫn chiếm 6,45% so với tổng số gói thầu. Đấu thầu mua sắm thiết bị năm 1996 chiếm 19,64%, năm 1997 chiếm 19,58% và năm 1998 chiếm 19,78%. Đấu thầu xây lắp năm 1996 chiếm 73,74%, năm 1997 chiếm 73,76% và năm 1998 chiếm 73,77%. Như vậy đấu thầu xây lắp chiếm vai trò rất quan trọng trong công tác đấu thầu nói chung. Hàng năm số gói thầu xây lắp chiếm khoảng 73-74% so với tổng số gói thầu. Mặc dù số gói thầu trong những năm qua tăng không đáng kể nhưng hàng năm tỷ lệ này liên tục tăng và có thể nói đây là một tỷ trọng khá lớn. Trong những năm qua số gói thầu xây lắp được đấu thầu ngày càng lớn. Chỉ riêng năm 1997 có 6024 công trình thì có 2508 gói thầu được tổ chức đấu thầu. Và thông qua đấu thầu xây lắp mà chúng ta đã tiết kiệm được một nguồn vốn khá lớn. Như năm 1996 tiết kiệm được 902 tỷ đồng. Năm 1997 tiết kiệm được 930 tỷ đồng. Năm 1998 tiết kiệm được 925,13 tỷ đồng. Qua đó ta thấy số tiền tiết kiệm được của năm 1997 tăng 28 tỷ đồng so với năm 1996 và năm 1998 lại giảm 4,87 tỷ đồng so với năm 1997. Sở dĩ năm 1998 có số gói thầu xây lắp lớn hơn năm 1997 là 15 gói thầu nhưng lượng vốn tiết kiệm được lại ít hơn năm 1997 là vì do quy mô của từng gói thầu và giá trị của từng gói thầu năm 1998 nhỏ hơn năm 1997. Nói chung, từ khi có quy chế đấu thầu ra đời thì công tác đấu thầu triển khai khá tích cực và nghiêm túc, đặc biệt là những dự án xây dựng thì công tác đấu thầu được điển hình về mặt thực hiện. Tuy nhiên trong quản lý đầu tư xây dựng cơ bản, ngoài các yếu tố tiến bộ còn ẩn dấu những tiêu cực, phổ biến nhất là trường hợp bên A và bên B móc ngoặc với nhau. Công tác chuẩn bị đấu thầu thường mất nhiều thời gian. Công việc này nhiều đơn vị chuẩn bị chưa tốt nhiều ban quản lý dự án chưa đủ trình độ đảm bảo cho đấu thầu diễn ra khách quan. Đặc biệt khi bên A thuộc ngành quản lý văn hoá, giáo dục, xã hội. Đây là nguyên nhân dẫn đến một số dự án xây dựng được đấu thầu còn bé so với dự án xây dựng được đầu tư và số gói thầu xây dựng tăng chậm trong những năm qua. Hiện nay ở Việt Nam có ba hình thức đấu thầu . Đó là: Đấu thầu rộng rãi: hình thức này thường được áp dụng đối với những gói thầu lớn, ít phức tạp về công nghệ, kỹ thuật. Đấu thầu hạn chế : hình thức này thường được áp dụng đối với những gói thầu đồi hỏi tính chuyên môn, nghiệp vụ cao. Bên mời thầu chỉ mời đối với một số nhà thầu cảm thấy có đủ năng lực. Chỉ định thầu: đây là hình thức đặc biệt. Hình thức này chỉ được áp dụng đối với một số dự án sau: Dự án có tính chất nghiên cứu thử nghiệm. Dự án có tính cấp bách do thiên tai, dịch hoạ. Dự án có tính chất bí mật quốc gia, an ninh quốc phòng. Dự án có giá trị dưới 5000 triệu đồng. Dự án đặc biệt được thủ tướng chính phủ cho phép. Bên cạnh 3 hình thức đấu thầu, hiện nay có 2 phương thức đấu thầu đó là: phương thức đấu thầu một túi hồ sơ và phương thức đấu thầu hai giai đoạn. Trong những năm qua, việc vận dụng các hình thức và phương thức đấu thầu một cách khá hợp lý. Căn cứ vào tình hình thực tế của từng dự án mà trong thời gian vừa qua , việc vận dụng các hình thức lựa chọn nhà thầu cũng như phương thức đấu thầu một cách hợp lý mà được nhiều bộ ngành và địa phương quan tâm thực hiện. Hầu hết các dự án xây dựng điều vận dụng hình thức đấu thầu rộng rãi và hình thức đấu thầu hạn chế. Rất ít dự án áp dụng hình thức chỉ định thầu. Vấn đề này được thể hiện rõ ở một số bộ ngành, địa phương. Điển hình là năm 1998: Bộ lao động thương binh xã hội thực hiện 12 gói thầu thì có 7 gói thầu được đấu thầu theo hình thức rộng rãi và 2 gói thầu đấu thầu theo hình thức hạn chế . Không có đấu thầu theo phương thức chỉ định thầu. Bộ thuỷ sản thực hiện 8 gói thầu thì có 7 gói thầu đấu thầu rộng rãi và 1 gói thầu đấu thầu hạn chế. Tỉnh Bình Định thực hiện tổng số 84 gói thầu, trong đó 76 gói thầu được thực hiện theo hình thức đấu thầu rộng rãi, 8 gói thầu được đấu thầu theo hình thức hạn chế. Tỉnh Bến Tre thực hiện tổng số 68 gói thầu thì có 53 gói thầu được đấu thầu dưới hình thức rộng rãi, 15 gói thầu được đấu thầu theo hình thức hạn chế. Tỉnh Hải Dương thực hiện tổng số 26 gói thầu thì có 19 gói thầu đấu thầu rộng rãi và 7 gói thầu đấu thầu hạn chế. Nói chung hầu hết các bộ ngành, địa phương và cơ sở đều cố gắng vận dụng hình thức đấu thầu rộng rãi và hình thức hạn chế. Tuy nhiên do điều kiện khác nhau mà trong những năm qua hình thức đấu thầu theo hình thức chỉ định thầu vẫn tồn tại và chiếm một tỷ trọng tương đối lớn. Vấn đề này được thể hiện rõ qua bảng số liệu sau: Bảng 7: Tình hình đấu thầu thời kỳ 1996-1998 (Phân theo hình thức đấu thầu) Năm 1996 Năm 1997 Năm 1998 Số gói thầu Tỷ trọng (%) so với tổng số Tốc độ tăng liên hoàn (%) Số gói thầu Tỷ trọng (%) so với tổng số Tốc độ tăng liên hoàn (%) Số gói thầu Tỷ trọng (%) so với tổng số Tốc độ tăng liên hoàn (%) Tổng số gói thầu 2476 100 100 2508 100 101,3 2528 100 179,7 Đấu thầu rộng rãi 297 12 100 376 15 126,6 409 16,2 108,77 Đấu thầu hạn chế 1064 43 100 1053 42 98,07 1039 41,1 98,77 Chỉ định thầu 1115 45 100 1097 43 98,4 1058 42,7 96,45 (Nguồn Bộ kế hoạch và đầu tư) Qua bảng số liệu ta thấy hiện nay đấu thầu theo hình thức chỉ định thầu chiếm một tỷ trọng tương đối lớn. Tỷ trọng này được giảm liên tục qua các năm. Năm 1996 chỉ định thầu chiếm 1115 gói thầu (45%), năm 1997 chỉ điịnh thầu chiếm 1097 gói thầu (43%) và năm 1998 giảm xuống còn 1058 gói thầu (chiếm 42,7%). Mặt khác qua bảng số liệu ta thấy rằng tốc độ tăng liên hoàn của đấu thầu rộng rãi ngày càng tăng. Trong đó hình thức đấu thầu hạn chế đặc biệt là hình thức chỉ định thầu giảm đáng kể. Nguyên nhân này là do trong thời gian vừa qua Chính phủ đã có công văn gửi tới các Bộ ngành, địa phương và cơ sở nếu có điều kiện nên chuyển từ hình thức chỉ định thầu sang hình thức đấu thầu hạn chế, hơn thế nữa là đấu thầu rộng rãi. Nếu không thể chuyển toàn bộ gói thầu thì có thể chuyển từng hạng mục công trình của dự án. Ưu điểm của hình thức đấu thầu rộng rãi trong cơ chế thị trường ngày càng thể hiện rõ: nó tạo ra sự cạnh tranh bình đẳng giữa các nhà thầu, góp phần làm tăng tính đa dạng của đấu thầu. Giá của công trình được giảm nhưng chất lượng công trình vẫn được đảm bảo. Với ưu điểm của nó mà các Bộ ngành, địa phương và cơ sở ngày càng áp dụng rộng rãi. Vấn đề náy đã được kiểm nghiệm thực tế. Như toàn xã hội, năm 1996 có 297 gói thầu đấu thầu rộng rãi (chiếm 12%) thì năm 1997 có 376 gói thầu đấu thầu rộng rãi (chiếm 15%), năm 1998 có 409 gói thầu đấu thầu rộng rãi (chiếm 16,2%). Như vậy năm 1997 tăng so với năm 1996 là 80 gói thầu và năm 1998 tăng so với năm 1997 là 33 gói thầu. Đây là sự tiến bộ của công tác đấu thầu mà chúng ta cần phát huy trong thời gian tới. Một vấn đề khác mà công tác đấu thầu cần quan tâm, đó là vấn đề đấu thầu của các dự án liên doanh. Đây là lĩnh vực mà kinh nghiệm của chúng ta còn hạn hẹp. Trong thời gian vừa qua, việc tổ chức xây dựng kế hoạch đấu thầu cũng như tổ chức đấu thầu của một dự án liên doanh chưa thật đáp ứng theo quy định và những yêu cầu của công tác đấu thầu. Việc chuẩn bị đấu thầu và công tác tổ chức đấu thầu một dự án liên doanh hết sức sơ sài và lúng túng. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là do bên liên doanh chưa thích ứng kịp với quy chế đấu thầu cuả ta còn mới mẽ với họ. Mặt khác kết quả đấu thầu cũng chưa thật sự như mong muốn, trong phần lớn các trường hợp, các nhà trúng thầu thường là các nhà thầu thuộc các nước mà bên liên doanh xuất xứ. Trừ các gói thầu san nền và các gói thầu xây dựng nhỏ. Trong các trường hợp đấu thầu quốc tế, tuy các bên liên doanh có tổ chức đấu thầu rộng rãi nhưng có thể một phần do những yêu cầu đặc biệt đối với gói thầu nên kết quả trúng thầu thường là các nhà thầu có liên quan của các bên liên doanh nước ngoài. Giá trị trúng thầu do các bên liên doanh trong một số trường hợp cao hơn ghi trong giấy phép đầu tư. Một số do tình hình thực tế biến động một số bên liên doanh đã tiến hành điều chỉnh vốn đầu tư trong giấy phép đầu tư để phù hợp với kết quả đấu thầu. Vấn đề cần làm rõ báo cáo nghiên cứu khả thi và các quy định trong giấy phép đầu tư là hết sức quan trọng để đẩy nhanh các hoạt động đấu thầu. Bên cạnh đó phương pháp đánh giá hồ sơ dự thầu chưa thật phù hợp với các tài liệu hướng dẫn cũng như thông lệ về đấu thầu. Một số dự án liên doanh chuẩn bị và thực hiện công tác đấu thầu hợp lý, thì vẫn còn một số trường hợp việc chuẩn bị đánh giá và áp dụng phương pháp đánh giá chưa thật phù hợp với thông lệ đấu thầu. Đó là các trường hợp sau khi bỏ thầu các bên liên doanh thường phải tiến hành đàm phán hoặc là cắt giảm các hạng mục cho phù hợp với mức đầu tư đã được phê duyệt, hoặc đàm phán giá một số khoản mục. Việc đàm phán để giảm giá tuy có đạt được mức giá đáng kể so với giá bỏ thầu ban đầu, nhưng nếu tiếp tục thực hiện theo hướng này sẽ không có hiệu quả mà có thể dẫn đến những việc tiêu cực trong quá trình đàm phán với các nhà thầu. Do vậy trong thời gian tới các Bộ ngành, đơn vị chủ quản cần quan tâm hơn nữa đến công tác đấu thầu. Để kết quả đấu thầu của các dự án liên doanh đạt kết quả tốt. Như vậy thông qua hoạt động đấu thầu mà chúng ta tiết kiệm được một lượng vốn lớn cho xã hội. Bình quân khoảng 10-12% so với mức tính ban đầu. Điển hình có các dự án mức tiết kiệm cao hơn nhiều như: Gói thầu xây dựng số 8 dự án đường Quy Nhơn-Sông Cầu giảm 29% so với giá ước tính ban đầu. Gói thầu đoạn đường Thường Tín-Cầu Dẽ quốc lộ 1 giảm 42%. Gói thầu Cầu Đuống giảm 23%. Gói thầu khu công nghiệp Thăng Long giảm 34% so với giá ước tính ban đầu. Bên cạnh đó các gói thầu dự án xây dựng trong quá trình thực hiện luôn phải bám sát hợp đồng, từ đó chất lượng cũng như tiến độ luôn được theo dõi và giám sát chặt chẽ nên đảm bảo được các yêu cầu. Mặt khác, thông qua hoạt động đấu thầu mà đội ngũ cán bộ tham gia thực hiện công tác đấu thầu ngày càng trưởng thành. Nhiều cán bộ tiếp thu được kiến thức, kinh nghiệm đấu thầu trong nước cũng như đấu thầu quốc tế. 3. Tình hình thẩm định kết quả đấu thầu Trong quá trình đấu thầu có nơi làm chưa nghiêm túc, dẫn đến kết quả đáng nghi ngờ. Có nơi còn tồn tại hiện tượng là bên A và bên B móc ngoặc với nhau. Do đó có nhiều công trình có giá trúng thầu xấp xỉ, thậm chí trùng với giá xét thầu. Nhiều dự án sử dụng vốn ngân sách nhà nước, vốn liên doanh có giá trị trúng thầu lớn hơn mức ước tính ghi trong giấy phép đầu tư. Do đó để đảm bảo tính cạnh tranh bình đẳng, tránh dự ngi ngờ cửa các nhà thầu tham gia, tránh thất thoát nguồn vốn của nhà nước. Đòi hỏi chúng ta phải thẩm định kết quả đấu thầu. Xem xét việc tổ chức đấu thầu có hợp lý hay không. Kết quả này có đúng thực sự là kết quả, là giá của công trình do các nhà thầu canh tranh đem lại hay không. Hiện nay việc thẩm định kết quả đấu thầu chủ yếu là thẩm định cho những dự án lớn. Có hai loại dự án thường xuyên được Bộ kế hoạch và đầu tư thẩm định, đó là: thẩm định kết quả của những gói thầu thuộc dự án do thủ tướng chính phủ phê duyệt ( kể cả dự án thuộc nhóm B) và thẩm định kết quả những gói thầu thuộc dự án liên doanh do Bộ kế hoạch và đầu tư thỏa thuận. Việc tổ chức thẩm định kết quả đấu thầu của những gói thầu thuộc quyền quyết định của thủ tướng Chính phủ phải theo hai cấp, do đó nhiều khi mất nhiều thời gian và trùng lắp công việc. Trong quy chế đấu thầu đã quy định rõ MPI thẩm định, trình thủ tướng chính phủ xem xét quyết định. Hay đầu mối theo dõi đấu thầu theo hướng dẫn là giao cho các cơ quan kế hoạch của ngành, địa phương nhưng khi vận dụng thì mỗi nơi mỗi kiểu. Có nơi giao cho cơ quan kế hoạch làm, có nơi giao cho cơ quan quản lý xây dựng theo dõi, do đó sự chồng chéo, trùng lặp trong công việc không tránh khỏi. Nói chung trong những năm vừa qua chúng ta chỉ thẩm định được một số dự án lớn. Tỷ trọng giữa gói thầu được thẩm định trên gói thầu được tổ chức đấu thầu rất bé ( váo khoảng 5%). tình hình này được thấy rõ qua bảng số liệu sau: Biểu 8: Kết quả thẩm định thời kỳ 1996-1998 Đơn vị: Triệu USD Năm 1996 Năm 1997 Năm 1998 Số gói thầu Giá trị ban đầu Kết quả sau khi thẩm định Chênh lệch tuyệt đối Chênh lệch tương đối (%) Số gói thầu Giá trị ban đầu Kết quả sau khi thẩm định Chênh lệch tuyệt đối Chênh lệch tương đối (%) Số gói thầu Giá trị ban đầu Kết quả sau khi thẩm định Chênh lệch tuyệt đối Chênh lệch tương đối (%) Tổng cộng 141 1878,6 1636,14 242,46 12,9 162 2150,9 1873,3 276,7 12,8 126 2423,2 2179,7 243,5 10,0 Các dự án do TTCP phê duyệt 65 1082,9 885,08 197,82 18,26 75 1239,9 1013,4 226,5 18,2 81 2273,6 2057,1 216,5 9,5 Các dự án liên doanh 76 795,7 751,064 44,064 5,6 87 911 859,9 51,1 5,6 45 149,6 122,6 27 18 (Nguồn bộ kế hoạch và đầu tư). Qua bảng số liệu ta thấy các gói thầu được thẩm định ở năm 1997 tăng 21 gói thầu so với năm 1996 và năm 1998 có số gói thầu được thẩm định lại giảm 36 gói thầu so với năm 1997. Sở dĩ có tình trạng này là vì công tác thssmr định chỉ mới được quan tâm trong những năm gần đây. Do đó năm 1997 không những phải thẩm định những dự án trong năm mà còn phải thẩm định những gói thầu được tổ chức năm trước. Mặt khác có thể do năm 1997 số dự án khi được tổ chức đấu thầu được phân thành nhiều gói thầu. Do đó số gói thầu được thẩm định năm 1997 lớn hơn năm 1998 (trong lúc đó số gói thầu được tổ chức đấu thầu năm 1998 lớn hơn số gói thầu năm 1997). Nói chung trong những năm qua chúng ta chỉ thẩm định được một số dự án lớn. Tỷ trọng giữa các gói thầu được thẩm định trên số gói thầu được tổ chức đấu thầu khoảng 5%. Đây là một tỷ trọng khá bé, do đó trong thời gian tới chúng ta cần nâng cao số gói thầu được thẩm định lên cao hơn nữa. Tuy nhiên trong những năm qua vấn đề thẩm định đấu thầu cũng như kết quả đấu thầu được Chính phủ và nhà nước quan tâm. Mặc dù số lượng gói thầu được thẩm định chưa lớn nhưng công tác thẩm định các gói thầu cũng đạt được những thành tựu đáng kể như: Làm cho công tác đấu thầu ở một số Bộ ngành, địa phương và cơ sở được tổ chức một cách nghiêm túc. Vấn đề tổ chức đấu thầu không còn là hình thức nữa. Hiện tượng tiêu cực móc ngoặc chủ đấu thầu và các nhà thầu được hạn chế. Từ đó đảm bảo cho các nhà thầu có sự cạnh tranh bình đẳng làm cho giá công trình được giảm và chất lượng công trình được nâng cao. Mặt khác, qua đánh giá tổng hợp chung cho thấy hầu hết các dự án sau khi tổ chức đấu thầu và thẩm định kết quả đấu thầu đã đem lại những kết quả rõ rệt như năm 1997, thông qua đấu thầu các dự án thuộc thẩm quyền của thủ tướng Chính phủ và các dự án do Bộ kế hoạch và đấu thầu đã giảm được 276,7 triệu USD (tương đương 12,8%) so với giá trị ban đầu. Năm 1998 thông qua công tác thẩm định kết quả đấu thầu đã tiết kiệm được nguồn vốn là 243,5 triệu USD (chiếm khoảng 10%) so với giá trị ban đầu. Điển hình trong sự tiết kiệm được nguồn vốn là dự án cầu Dần Xây của thành phố Hồ Chí Minh. Giá trị trúng thầu là 41,5 tỷ đồng và giá trị sau khi thẩm định là 32,6 tỷ đồng. Như vậy giảm gần tới 10 tỷ đồng. Nói chung việc tổ chức thẩm định kế hoạch đấu thầu và kết quả đấu thầu mới triển khai trong thời gian ngắn nhưng được Bộ kế hoạch và đầu tư thực hiện hết sức khẩn trương và kịp thời mang lại kết quả đáng khích lệ. Bên cạnh các dự án trong nước, các dự án liên doanh cũng được thẩm định. Nhờ thong qua quá trình thẩm định mà giá trúng thầu thấp hơn hoặc bằng mức ước tính trong giấy phép đầu tư cũng như so với giá bỏ thầu. Thông qua tổ chức thẩm định mà các dự án liên doanh đã tiết kiệm được tổng số là 24,3 triệu USD (tương đương 7,7%). Trong đó khoảng 50% mức tiết kiệm đạt được là do quá trình thẩm định tại Bộ kế hoạch và đầu tư chủ yếu trên các hai bên thỏa thuận giảm giá đối với một số khoản mục nhằm đảm bảo theo đúng nội dung giấy pháep đầu tư được phê duyệt. Điển hình là các gói thầu sau: Gói thầu xây dựng thuộc dự án liên doanh kính nổi giảm từ 26,3 triệu USD xuống 19,8 triệu USD (giảm 6,5 triệu USD, tương đương 24,7%). Mức giảm này là do khi thẩm định Bộ kế hoạch và đầu tư đã yêu cầu phía liên doanh phải thương thảo với các nàh thàu để giá trị của hợp đồng không vượt mức ước tính ghi trong giấy phép đầu tư. Dự án liên doanh Nghi Sơn, sau khi thương thảo nhà thầu đã chấp nhận giảm từ 166,3 triệu USD xuống 155 triệu USD, giảm được 11,3 triệu USD. Như vậy quá trình thẩm định kế hoạch đấu thầu và kết quả đấu thầu có vai trò rất quan trọng trong việc mang lại hiệu quả đấu thầu. Vì vậy trong thời gian tới chúng ta cần đấu thầu kinh phí cũng như có biện pháp thích hợp để nâng cao được số lượng gói thầu được thẩm định. Góp phần nâng cao hiệu quả nhằm hoàn thiện công tác đấu thầu. IV. Những tồn tại cơ bản ảnh hưởng tới hiệu quả công tác đấu thầu xây dựng và nguyên nhân của chúng Hiện nay, ở một số bộ ngành, địa phương việc thực hiện công tác đấu thầu còn tuỳ tiện mang tính hình thức. Khâu xét thầu trong một số dự án còn chậm, đánh giá không thống nhất. Nhiều dự án thuộc bộ ngành, địa phương vẫn thực hiện theo hình thức đấu thầu hạn chế và chỉ định thầu, hoặc thực hiện hai túi hồ sơ, từ đó làm hạn chế hiệu quả công tác đấu thầu. Mặt khác, do quy chế đấu thầu còn có một số tồn tại, do vậy khi triển khai thực hiện còn khá nhiều nơi vận dụng còn tùy tiện như quy định thời hạn đóng thầu không hợp lý (quá ngắn) đánh giá thầu theo phương pháp đánh giá chấm diểm, đánh giá thầu không theo phương pháp tiêu chuẩn đánh giá đã được cấp có thẩm quyền chấp thuận. Mặt khác, một thực trạng vẫn còn tồn tại là các gói thầu sử dụng vốn ngân sách nhà nước. Hầu hết mọi công trình sử dụng vốn ngân sách đều lâm vào tình trạng kế hoạch tài chính không đồng bộ với tiến độ triển khai dự án, tiến độ đấu thầu. Có những dự án dở khóc dở cười khi kế hoạch đấu thầu không bám sát kế hoạch vốn nên bên trúng thầu không triẻen khai được vì thiếu vốn hoặc vốn bố trí không hợp yêu cầu. Tình trạng phổ biến trong thời gian vừa qua là nhiều dự án khi chuẩn bị tổ chức đấu thầu nhưng nguồn vốn vẫn chưa rõ do vậy chủ đầu tư phải hoàn chỉnh các thủ tục pháp lý mới được tiếp tục xem xét tiếp... Trong một số trường hợp việc cấp phát vốn thanh toán đối với một số hợp đồng thông qua đấu thầu vẫn được các cơ quan tài chính thực hiện theo chế độ cũ, gây chậm trễ về tiến độ giải ngân. Một hiện tượng khác là việc vận dụng giá xét thầu xây lắp của từng bộ ngành, địa phương và cơ sở có những khác biệt. Có nơi yêu cầu quá chặt chẽ về phạm vi (giá trần và giá sàn) nhiều khi hạn chế yếu tố cạnh tranh trong đấu thầu (chỉ xem xét các chào hàng có giá bỏ thầu trong khoảng 94% đến 100% mức giá trần). Nhiều công trình có giá trúng thầu xấp xỉ, thậm chí trùng với giá xét thầu. Nếu thực hiện đấu thầu một cách đúng đắn và có tính cạnh tranh thì các kết quả này ít khi trùng nhau. Nhiều nơi vì lợi ích cá nhân hay các yếu tố tiêu cực khác mà dẫn đến tránh tổ chức đấu thầu. Bên cạnh đó việc tổ chức xây dựng kế hoạch đấu thầu cũng như chuẩn bị đấu thầu của một số dự án chưa thật phù hợp, đáp ứng theo quy định, do kinh nghiệm chuẩn bị và tổ chức đấu thầu của một số ban quản lý dự án (hoặc chủ đầu tư) còn hạn chế. Việc xem xét ở cấp cơ sở hoặc của cấp có thẩm quyền trong một số trường hợp bị xem nhẹ. Việc phân phối và uỷ quyền giữa các bộ và đơn vị thực hiện nhiều khi, nhiều nơi chưa thật rõ ràng trong quá trình đấu thầu, thậm chí còn vướng mắc giữa các tổng công ty 90 và 91 với các bộ ngành. Tổ chức hướng dẫn quy chế đấu thầu, các thông tư hướng dẫn chưa thật thành hệ thống và sâu rộng. Nội dung các tài liệu hướng dẫn chưa thật đầy đủ và bám sát nội dung quy chế đấu thầu hoặc chưa phản ánh được đặc thù của ngành và địa phương mình. Mặt khác chế độ báo cáo thống kê chưa thành hệ thống và nề nếp. Hằng năm theo quy định của Chính phủ, Bộ kế hoạch và đầu tư có công văn gửi tới các bộ ngành, địa phương về việc báo cáo kết quả đấu thầu. Tuy nhiên số lượng báo cáo phản hồi để Bộ kế hoạch và đầu tư tổng hợp là rất hạn chế. Riêng năm 1998 Bộ kế hoạch và đầu tư chỉ nhận được 65 báo cáo, trong đó 20 báo cáo của tổng cục và 45 báo cáo của tổng công ty và địa phương, cơ sở. Nếu khắc phục được những thiếu sót vừa nêu trên, trong thời gian tới chắc chắn quy chế đấu thầu sẽ là bài thuốc chữa trị có hiệu quả “căn bệnh kinh niên” trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản, đó là lãng phí tiền của nhà nước. Chương III Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác đấu thầu xây dựng ở nước ta Phương Hướng Đầu Tư Phát Triển Ngành Xây Dựng ở Nước Ta Trong Thời Gian Tới Theo tính toán của các nhà kinh tế, để đạt được mục tiêu, tổng sản phẩm trong nước GDP của năm 2000 tăng gấp 2 lần so với tổng sản phẩm trong nước của năm 1992 thì toàn xã hội cần phải huy động được 41-42 tỉ USD. Trong đó cơ cấu các nguồn vốn như sau : Biểu 9: Dự báo nhu cầu đầu tư đến năm 2010 Đơn vị tỉ USD 1996 - 2000 Tỷ trọng (%) 1996 - 2000 2001 – 2010 Tỷ trọng (%) 2001-2010 Tổng đầu tư 41-42 100 170-250 100 -Vốn trong nước 20-22 50 119-175 70 + Chính phủ 7-8 17-18 42-63 24-26 +Tư nhân & DN 12-13 30-32 77-112 44-46 - Vốn nước ngoài 20-22 50 50-75 30 +FDI 13-15 30-32 35-55 20-22 +ODA 7-8 17-18 15-20 8-10 (Nguồn Bộ kế hoạch và đầu tư). Với nhu cầu đầu tư toàn xã hội thì nhu cầu vốn đầu tư cho phát triển ngành xây dựng chiếm một tỷ trọng rất lớn. Theo tính toán của các nhà kinh tế thì tổng số vốn đầu tư cần thực hiện trong thời gian 1996-2010 để đáp ứng nhu cầu phát triển và tăng trưởng kinh tế đạt bình quân năm từ 9-10% cần vào khoảng 170 đến 250 tỷ USD. Nếu như tỷ trọng phần xây lắp chiếm 75% vốn đầu tư cơ bản thì năm 1996-2010 chúng ta phải thực hiện khoảng 120 đến 180 tỷ USD cho xây lắp. Bình quân năm từ 7,5-10 tỷ USD. Như vậy lực lượng xây dựng phải tăng lên bình quân từ 6-7 lần so với lực lượng xây dựng đang có và đang sử dụng . Để đáp ứng nhu cầu xây dựng vô cùng to lớn trên đây. Đòi hỏi ngành xây dựng phải được phát triển cả về mặt lượng và mặt chất theo hướng sau đây: Chuyển dịch cơ cấu ngành xây dựng theo hướng công nghiệp hoá, để có thể đảm nhận dược các công trình có trình độ khoa học kỹ thuật cao như xây dựng các công trình của ngành dầu khí, các công trình biển, các công trình do nước ngoài đầu tư . Tăng cường hợp tác quốc tế trong xây dựng, để tranh thủ vốn và các phương tiện kỹ thuật hiện dại Phát triển các chuyên ngành kỹ thuật mới và ngành xây dựng mũi nhọn, như xây dựng các công trình dầu khí các công trình kết cấu hạ tầng hiện đại phù hợp vơi tiêu chuẩn quốc tế, các ngành nghề có liên quan đến việc tham gia xây dựng các công trìng của nước ngoài đầu tư vào Việt Nam, xây dựng các nhà cao tầng . Tăng cường áp dụng kỹ thuật mới, tin học và toán học trong thiết kế và xây dựng, đặc biệt là trong ngành nghề xây dựng mới . Từng bước nâng cao trình độ cơ giới hoá, kết hợp với tự động hoá và hiện đại hoá trong xây dựng các công trình công nghiệp, giao thông vận tải, các công trình liên danh các công trình của nhà nước ở cấp trung ương. Chú ý phát triển cơ khí nhỏ và công cụ cải tiến, tận dụng các thành quả hoá học đối với các phương án kết cấu xây dựng tiến bộ, năng cao hàm lượng chất xám trong các sản phẩm xây dựng . Phát triển lực lượng xây dựng ngoài quốc doanh, để đảm nhiệm khối lượng ngày càng tăng của các công trình không có tầm chiến lược về kinh tế quốc phòng, không phải là các công trình quan trọng. Đồng thời phải trang bị đầy đủ các phương tiện kỹ thuật hiện đại cho các tổ chức xây dựng quốc doanh để các doanh nghiệp này, thực sự trở thành các doanh nghiệp xây dựng đầu đàn, có lực lượng mạnh để đảm đương được việc các công trình xây dựng quan trọng, hiện đại và hợp tác quốc tế. Qua phương hướng của ngành xây dựng thì đòi hỏi công tác đấu thầu cần phải thực hiện một cách nghiêm túc, có hiêụ quả mang lại lợi ích cho xã hội. Cần có một quy chế đấu thầu hoàn chỉnh . Do đó trong thời gian tới Bộ kế hoạch và đầu tư cần phối hợp với các bộ ngành có liên quan để sửa đổi cho hoàn thiện và đồng thời các bộ ngành từ trung ương đến địa phương thực hiện quy chế đấu thầu một cách quán triệt và địa phương vận dụng nghiêm túc và coi đấu thầu là một công cụ hữu hiệu trong quá trình triển khai thực hiện dự án . III. Những Giải Pháp Nhằm Hoàn Thiện Công Tác Đấu Thầu Xây Dựng ở Nước Ta Trong cơ chế thị trường, vấn đề cạnh tranh là một vấn đề rất đặc trưng. Mang lại hiệu quả kinh tế cao. Điển hình là công tác đấu thầu. Trong thời gian qua công tác đấu thầu đã đạt đựơc những thành tựu đáng kể. Tiết kiệm nguồn vốn cho xã hội khá lớn , chất lượng công trình cũng được nâng cao ..v.v do đó trong thời gian tới để thực hiện công tác đấu thầu có hiệu quả đòi hỏi cấp quản lý cũng như nhà thầu cần có biện pháp thích hợp. 1. Đối với cấp quản lý công tác đấu thầu a. Xây dựng hoàn thiện quy chế đấu thầu Sau một thời gian thực hiện quy chế đấu thầu các bộ ngành, địa phương và cơ sở đã khẳng định về hiệu quả của công tác đấu thầu do đã tạo ra cơ hội bình đẳng trong cạnh tranh giữa các nhà thầu và đã chọn đơn vị thực sự có khả năng tham gia thực hiện với giá cả hợp lý và đảm bảo chất lượng cũng như tiến độ dự án. Nói chung, các nội dung của quy chế đấu thầu là phù hợp với hoàn cảnh hiện nay, phù hợp với các văn bản pháp quy hiện hành có liên quan đến đấu thầu. Mặt khác nó cũng phù hợp với điều kiện cụ thể trong nước cũng như thông lệ quốc tế. Tuy nhiên trong quá trình trong quá trình vận dụng của một số bộ ngành và địa phương trong một số trường hợp chưa thật phù hợp với các quy định hiện hành. Do trong văn bản pháp quy có những điểm chưa hợp lý. Cụ thể các điểm đó là: Một số văn bản pháp quy có liên quan trước nghị định 43CP của TTCP đã có nội dung đến nay không còn phù hợp nhưng có một số nơi và có lúc vẫn tiếp tục vận dụng (tổ chức đấu thầu theo cơ chế hội đồng xét thầu, phê duyệt nội dung hợp đồng không thuộc trách nhiệm hoặc chưa được cấp có thẩm quyền chấp thuận). Nội của một số điểm thuộc một số văn bản pháp quy hiện hành có sự trùng lặp hoặc mâu thuẫn (phần quy định về chỉ định thầu giữa 42CP và 43CP, phê duyệt nội dung hợp đồng giữa 92CP và 93CP). Tại điều 22 ban hành theo nghị định 93CP có nội dung chưa thật phù hợp với thông lệ đấu thầu do có sự khác biệt giữa đấnh giá hồ sơ dự thầu theo hai bứơc và phương thức đấu thầu hai giai đoạn . Mặt khác ta thấy nhiều bộ ngành, địa phươngvà cơ sở đã nghiêm chỉnh thực hiện và đã thật sự quan tâm đến công tác đấu thầu. Tuy nhiên, do tổ chức chỉ đạo, do thiếu sự hướng dẫn cụ thể hoặc chưa bám sát các quy định của quy chế đấu thầu, cho nên đã có hiện tượng áp dụng thiếu triệt để, hoặc vẫn áp dụng theo các văn bản pháp quy mà cho đến nay không còn phù hợp (như quyết định 91/TTG ngày 13/11/1992 của Thủ Tướng Chính Phủ, quyết định 60/BXD-VKT ngày 30/3/94 của Bộ Xây Dựng...). Do đó trong thời gian tới cần có những hướng dẫn cụ thể cho các Bộ ngành và địa phương về thực hiện quy chế đấu thầu loại bỏ những văn bản pháp quy không còn phù hợp . Tuy không có những mâu thuẫn lớn với những văn bản pháp quy khác có liên quan, nhưng quy chế đấu thầu được ban hành kèm theo nghị định 43CP và 93CP vẫn tồn tại một số nội dung chưa thật phù hợp vơí công tác đấu thầu hiện nay như phân tích nói trên ( đặc biệt là nội dung của điều 22 trong NĐ 93/CP ). Mặt khác qua thời gian vận dụng quy chế đấu thầu trên cơ sở hai nghị định khác nhau ( 43/CP và 93/CP ) cho thấy không thuận tiện và để bị thiếu xót do đồng thời phải tham khảo hai nghị định nói trên. Do vậy để tạo điều kiện thuẫn trong quá trình vận dụng kết hợp với nghiên cứu điều chỉnh và bổ sung một số nội dung của quy chế đấu thầu cho phù hợp với tình hình thực tế, trên cơ sở ý kiến của các bộ ngành và địa phương trong thời gian tới chúng ta cần xem xét ban hành một nghị định mới về quy chế đấu thầu trên cơ sở bám sát nội dung của hai nghị định 43/CP và 93/CP song có bổ xung một số nội dung chủ yếu sau: Về cơ cấu của quy chế đấu thầu : về cơ bản giữ nguyên như cơ cấu của quy chế đấu thầu đã ban hành và nên bổ xung một chương về đấu thầu lựa chọn đối tác thực hiện dự án. Về phạm vi áp dụng cần quy định rõ đối tượng áp dụng là các dự án có sử dụng vốn đầu tư của nhà nước trên cơ sở các quy định của điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng. Đồng thời đối với các dự án liên doanh cần quy định rõ đối tượng là doanh nghiệp nhà nước liên doanh với các doanh nghiệp trong nước. Về hình thức và phương thức đấu thầu : Cần quy định rõ hơn đối với hình thức đấu thầu hạn chế theo hướng quy định cụ thể số lượng nhà thầu tham gia ( có thể là 5 ) và phải được cấp có thẩm quyền phê đuyệt nhằm tránh hiện tượng biến tướng của hình thức chỉ định thầu. Cần hiệu chỉnh hai túi hồ sơ theo hướng sau khi đánh giá xong về kỹ thuật sẽ mở phong bì tài chính của tất cả các nhà thầu đã đạt yêu cầu về mặt kỹ thuật để đánh giá tổng hợp nhằm tăng tính cạnh tranh cũng như sự công bằng trong đấu thầu. Về kế hoạch đấu thầu : Để thuận tiện trong triển khai đấu thầu, nên quy định rõ đối với các dự án nhóm C hoặc các dự án có điều kiện cần xây dựng kế hoạch đấu thầu để trình duyệt cùng với báo cáo nghiên cứu khả thi. Về phương pháp đánh giá hồ sơ dự thầu : việc đánh giá hồ sơ dự thầu theo phương pháp điểm tuy dễ thực hiện nhưng trong một số trường hợp sẽ không đảm bảo tính khách quan. Do vậy nên quy định với các nhà thầu xây lắp cần vận dụng theo phương pháp đánh giá quy đổi trên cơ sở một mặt bằng thống nhất. Về cấp quản lý và cải cách hành chính trong dấu thầu: Cần quy định rõ hơn về cấp thẩm định và phê duyệt kế hoạch cũng như kết quả đấu thầu theo hướng tập trung giảm bớt đầu mối, đơn giản và hiệu lực. Đồng thời quy định rõ hơn về loại dự án hoặc gói thầu cần được thẩm định hoặc không cần thẩm định kế hoạch đấu thầu. Về phương pháp tính thuế trong đấu thầu : Hiện nay cách tính thuế trong đấu thầu thiếu sự thống nhất trong vận dụng mỗi dự án được thực hiện theo một cách. Do vậy, cần có một số quy định có tính chất nguyên tắc về việc vận dụng nấc thuế hiện hành để các Bộ ngành và các địa phương để vận dụng và có sự thống nhất ngay từ bước chuẩn bị đấu thầu . Bên cạnh đó trong thời gian tới có thể ban hành xây dựng một pháp lệnh về đấu thầu. Để công tác đấu thầu được hoàn thiện và mang lại kết qủa mong muốn như vai trò của nó. b. Đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý đấu thầu . Nền kinh tế nước ta mới chuyển sang nền kinh tế thị trường nên vấn đề công tác đấu thầu vẫn còn mới mẻ. Cán bộ am hiểu vấn đề này rất ít ỏi. Do đó về lĩnh vực này chúng ta thiếu rất nhiều cán bộ, đặc biệt là chuyên gia giỏi. Bên cạnh đó, để quy chế đấu thầu đi vào cuộc sống, được áp dụng rộng rãi trong toàn xã hội đặc biệt là các cơ quan hoặc cá nhân có liên quan trong quá trình thực hiện thì việc tổ chức tập hướng dẫn thực hiện là công việc hết sức quan trọng. Từ nhận thức trên, trong thời gian qua Bộ trưởng Bộ kế hoạch và đầu tư đã phối hợp với các Bộ ngành và các tổ chức quốc tế như ngân hàng thế giới (WB ), ngân hàng châu á ( ADB ) tổ chức khoảng 15 lớp tập huấn về đấu thầu, nhưng phần lớn đây là các lớp tập huấn ngắn hạn nên nội dung chỉ bó hẹp trong phạm vi truyền đạt những nội dung của quy chế đấu thầu hiện hành . Do đó trong thời gian tới chúng ta cần đầu tư thích đáng cho công tác bồi dưỡng và đào tạo cán bộ tham gia công tác đấu thầu. Cần phối hợp với các tổ chức quốc tế để hỗ trợ chuyên gia cũng như kinh tế để mở các lớp tập huấn như: Thành lập một số đoàn đi tham khảo và học tập về đấu thầu ở một số nước trên thế giới. Tổ chức các lớp tập huấn về đấu thầu cho các Bộ ngành, địa phương, cơ sở. Tổ chức các hội nghị, hội thảo chuyên đề. Tổ chức các buôỉ trao đổi trực tiếp giữa chuyên gia quốc tế với các cán bộ thuộc các Bộ ngành, địa phương và cơ sở . Thông qua các buổi này làm cho kiến thức cũng như kinh nghiệm của các cán bộ về công tác đấu thầu được nâng cao. Mặt khác trong thời gian tới chúng ta cần có giáo trình về công tác đấu thầu làm cơ sở tập huấn. Đồng thời cần chú ý tới việc tiếp tục phối hợp với các trung tâm đào tạo thuộc các Bộ, ngành, địa phương để tổ chức các lớp ngắn hạn cho nhiều đối tượng khách nhau với các loại hình thích hợp. Trong đó đặc biệt chú ý đến việc đào tạo cán bộ chủ chốt, cán bộ nguồn (giảng viên). Bên cạnh đó về lâu dài, cần phối hợp với các trường đại học, cao đẳng, và trung học chuyên nghiệp trong công tác bồi dưỡng nghiệp vụ cho sinh viên theo hướng thành một môn học chính thức theo quy định của nhà nước. Cần có một trung tâm đào tạo chuyên môn về nghiệp vụ đấu thầu nhằm đào tạo cán bộ chuyên sâu về kỹ thuật đấu thầu và bồi dương các giảng viên về đấu thầu cho các trường và các trung tâm khác. Đồng thời chúng ta cần tranh thủ sự giúp đõ tối đa của các tổ chức quốc tế để đào tạo các chuyên gia đầu đàn về đáu thầu của Việt Nam thông qua gửi đi đào tạo ở nước ngoài. Vấn đề này cần có sự quan tâm của nhà nước, các Bộ ngành, các địa phương và các cơ sở cố găng để có được một đội ngũ cán bộ đấu thầu giỏi nhằm nâng cao hoàn thiện công tác đấu thầu trong thời gian tới . 2. Đối với các nhà thầu xây dựng Trong cơ chế thị trường, việc giành thắng lợi trong đấu thầu với doanh nghiệp xây dựng là hết sức quan trọng. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Do đó các nhà thầu nên có biện pháp hợp lý để tháng thầu nâng cao hiệu quả công tác đấu thầu xây dựng. Sau đây là một số biện pháp : 2.1. Xây dựng chiến lược đấu thầu hợp lý Điều khác biệt cơ bản nhất trong sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp xây dựng so với doanh nghiệp thuộc ngành khác là hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp chỉ bắt đầu sau khi dành được hợp đồng xây dựng. Trong cơ chế thị trường, các hợp đồng xây dựng chỉ có thể có được bằng sự chiến thắng trong đấu thầu để giành quyền nhận thầu công trình . Để thắng thầu, công ty phải có chiến lược đấu thầu hợp lý chiến lược nay dựa trên sự phát huy các thế mạnh của nhà thầu, phát huy các lợi thế so với các đối thủ cạnh tranh khác trong từng điều kiện cụ thể của mỗi cuộc đấu thầu. Chiến lược này bao gồm: Chiến lược đấu thầu dựa vào ưu thế tài chính Chiến lược dựa vào ưu thế ngoài tài chính Cụ thể các nội dung các chiến lược đó như sau: 2.1.1.Chiến lược đấu thầu dựa vào ưu thế giá Nhà thầu chọn chiến lược này khi xét mình không có ưu thế về mặt kỹ thuật công nghệ so với các nhà thầu khác nhưng có ưu thế tiềm tàng nào đó có thể giảm đi chi phí xây dựng như : Có thể giảm chi phí di chuyển lực lượng ở gần địa điểm xây dựng công trình. Khai thác ngồun vật liệu với giá thành hạ hoặc có sẵn cơ sở vật chất vật liệu của doanh nghiệp ở gần địa điểm xây dựng công trình. Triệt để sử dụng lao động giản đơn ngoài thị trường xã hội. Liên doanh với các đối tác trong và ngoài nước về trang thiết bị công nghệ hoặc cơ sở vật liệu. Xây dựng phương án tổ chức thi công tối ưu để giảm chi phí xây dựng. Giao thầu lại một phần khối lượng xây dựng cho các nhà thầu phụ đang thiếu việc làm với giá rẻ hơn. Để thực hiện chiến lược này công ty trước hết phải xây dựng các phương án tổ chức thi công , chọn các phương án tối ưu , xác định giá chuẩn theo phương án đã chọn rồi xác định đến khả năng giá bỏ thầu. 2.1.2. Chiến lược đấu thầu dựa vào ưu thế về kỹ thuật công nghệ Nhà thầu áp dụng chiến lược này khi có ưu thế trội hơn hẳn về công nghệ xây dựng, đội ngũ lao động hoặc trang thiết bị. Chiến lược này phản ánh trình độ chuyên môn hoá của nhà thầu. Ví dụ tổng công ty Sông Đà có ưu thế làm được ngầm nên hầu hết các công trình ngầm đều do nhà thầu này làm. Hoặc những con đường qua cửa khẩu Việt Nam -Trung Quốc, Việt Nam - Lào nhiều nơi còn có bom mìn sót lại sau chiến tranh nên khi đấu thầu các đơn vị xây dựng quốc phòng có ưu thế về xử lý các vũ khí này nên đã chiếm lòng tin của chủ đầu tư. Để thực hiện chiến lược này nhà thầu phải thực hiện một số biện pháp như sau: Đầu tư hiện đại hoá các trang thiết bị công nghệ đặc chủng . Xây dựng đội ngũ công nhân kỹ thuật lành nghề. Không ngừng nghiên cứu các công nghệ mới. Có chính sách đảm bảo kỹ thuật chất lượng công trình để giữ vững ưu thế của mình được lâu bền. Tuy nhiên, chiến lược này thường chỉ áp dụng ở các doanh nghiệp có tính chuyên môn hoá cao. 2.1.3.Chiến lược dấu thầu dựa vào nhân nhượng về tài chính và giá cả Chiến lược này đòi hởi doanh nghiệp phai có tiềm lực tài chính mạnh với các cách thức huy động vốn khác nhau. Những sự nhân nhượng về tài chính kinh tế có thể là ứng vốn thi công trước, chấp nhận thanh toán chậm bằng cách đó nhà thầu có thể giành được công trình khi các chủ công trình có nhu cầu và dự kiến xây dựng nhưng chưa được duyệt vốn hay chưa huy động đủ. Chiến lược này đòi hỏi mạo hiểm và chấp nhận rủi ro. Tuy nhiên bù lại nhà thầu có thể thắng thầu. Khi thực hiện chiến lược này cần thực hiện một số biện pháp sau. Lựa chọn giải pháp thi công tối ưu , tiết kiệm chi phí giảm giá thành công trình. Có chính sách huy động vốn nội bộ, từ ngân hàng hoặc từ các đối tác kinh doanh có năng lực tài chính mạnh và nhu cầu xâm nhập thị trường mạnh. Có chính sách khai thác tổng thể lâu dài đối với chủ đầu tư mà mình chấp nhận nhân nhượng theo nguyên tắc chịu thiệt trước thu lợi sau. 2.1.4. Chiến lược đấu thầu dựa vào các ưu thế ngoài kinh tế Chiến lược này áp dụng chủ yếu đối với các nhà thầu trong trường hợp mong muốn được chỉ định thầu các công trình, dự án nào đó. Lựa chọn chiến lược này, doanh nghiệp phải sớm phát hiện khả năng ưu thế mình và tận dụng các ưu thế đó. Căn cứ vào điều kiện mỗi nhà thầu mà xác định chiến lược đấu thầu thích hợp để có khả năng trúng thầu cao nhất tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các nhà thầu và nâng cao hiệu quả công tác đấu thầu do những đặc điểm của ngành xây dựng nên các nhà thầu cần xây dựng nhiều chiến lược khác nhau cho nhiều công trình dự thầu. 2.2.Đầu tư mua sắm thiết bị hiện đại, nâng cao năng lực quản lý và thi công Năng lực thi công xây lắp của của các nhà thầu phải dược nâng cao để phù hợp với đòi hỏi của nhu cầu xã hội ngày càng cao. Do đó việc đầu tư mua sắm trang thiết bị hiện đại phục vụ sản xuất cũng như công tác quản lý hết sức quan trọng. Nó góp phần nâng cao chất lượng và tiến độ thi công công trình, hai chỉ tiêu quan trọng để xét thầu là: Đầu tư mua sắm thiết bị thi công: Qua số liệu thống kê hầu hết các nhà thầu xây dựng trong nước đã có một số máy móc thiết bị hiện đại nhưng xét về số lượng và chủng loại thì còn hạn hẹp. Do đó các nhà thầu cần mua sắm thêm thiết bị để bổ xung sao cho đáp ứng được nhu cầu thực tế. Năng cao chất lượng và đáp ứng được tiến độ thi công Đầu tư mua sắm thiết bị văn phòng Đối với thiết bị văn phòng nhà thầu cần trang bị một cách đầy đủ nhằm nâng cao hiệu quả công tác, đáp ứng yêu cầu công việc ngày càng lớn. Đặc biệt là máy vi tính để tính toán khi có hồ sơ mời thầu. 2.3.Bố trí , xắp xếp và sử dụng hợp lý đội ngũ cán bộ công nhân, đào tạo, bồi dưỡng trình độ mới nhằm nâng cao chất lượng công tác đấu thầu . Tất cả các cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật, công nhân kỹ thuật là tài sản quý giá của nhà thầu. Cần đặc biêt quan tâm đến việc sử dụng hiêu quả. Muốn sử dụng có hiệu quả đội ngũ lao động cần có sự phân công, bố trí hợp lý có chính sách kích thích phát huy năng lực đồng thời không ngừng đào tạo nâng cao trình độ người lao động . Phân công, bố trí hợp lý người lao động có nghĩa là sắp xếp người lao động theo đúng ngành nghề , đúng trình độ chuyên môn. Thực hiện tốt việc này sẽ cho phép khai thác tốt nhất năng lực, trí tuệ và sức lực của đội ngũ công nhân viên chức. Bố trí “ đúng người, đúng việc” sẽ tiết kiệm yếu tố lao động sống, nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí nhân công giá thành xây dựng. Ngoài ra việc không ngừng đào tạo, nâng cao trình độ độ ngũ lao động cũng là việc hết sức cần thiết. Việc này sẽ tạo ra một đội ngũ cán bộ công nhân có năng lực, có kinh nghiệm sản xuất, áp dụng kịp thời những dây chuyền công nghệ sản xuất hiện đại. Đặc biệt là đào tạo cán bộ đấu thầu. Cần gửi cán bộ đi học các lớp tập huấn đấu thầu. 2.4. Tăng cường hoạt động tạo vốn, đảm bảo nguồn lực tài chính cho hoạt động sản xuất kinh doanh của nhà thầu . Bất kỳ nhà doanh nghiệp nào muốn sản xuất kinh doanh đều cần có vốn, đối với doanh nghiệp xây dựng vốn cũng có vai trò quan trọng vì : Muốn thắng thầu trong xây dựng, trong điều kiện cạnh tranh xây dựng khá gay gắt hiện nay đòi hỏi doanh nghiệp phải có vốn dồi dào. Trong những năm chuyển đổi cơ chế vừa qua, cũng như các doanh nghiệp khác doanh nghiệp nhà nước ngành xây dựng khác gặp rất nhiều khó khăn. Để có thể trụ vững trong môi trường mới, các doanh nghiệp xây dựng cần phải có nguồn vốn đủ mạnh để phát triển sản xuất . Thực tế trong thời gian qua, các công trình vốn đầu tư trong nước hầu hết đều rơi vào tình trạng cấp vốn không đều gây khó khăn các doanh nghiệp xây dựng . Vì vậy, để tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường, doanh nghiệp xây dựng phải có khối lượng vốn nhất định. Nhưng đa số doanh nghiệp nhà nước ngành xây dựng đề gặp khó khăn về vốn. Thiếu vốn đang là một trong những vấn đề khó khăn nhất của các doanh nghiệp xây dựng. Nếu không giải quyết được vấn đề này thì sẽ gặp rất nhiều vướng mắc trong sản xuất kinh doanh nói chung và công tác đấu thầu nói riêng. Vì thiếu vốn các nhà thầu khó có thể đảm bảo đúng tiến độ và chất lượng thi công công trình hoặc trong giai đoạn nộp hồ sơ dự thầu cũng không được thuận lợi, để giải qyết vấn đề này. Các doanh nghiệp xây dựng cần giải quyết các biện pháp, tận dụng triệt để các cơ hội để tăng nguồn vốn đó là: Tận thu vốn của các chủ đầu tư bằng các biện pháp thi công dứt điểm, quyết toán thu hồi vốn nhanh và nhiều giai đoạn. Mở rộng các hình thức hoạt động sản xuất. Tận dụng các nguồn vốn thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh. Xúc tiến các biện pháp hiệu quả để sử lý triệt để nhà xưởng, đất đai, tài sản không cần dùng chờ thanh lý, vật tư hàng hoá ứ đọng vào luân chuyển phát huy tác dụng . Triệt để tiết kiệm trong sản xuất kinh doanh, sử dụng lao động, nguyên vật liệu hợp lý, thống nhất, chóng thất thoát, lãng phí, hạ giá thành sản xuất . Nghiên cứu xây dựng các dự án dầu tư để tranh thủ các nguồn tài trợ, sử dụng các biện pháp tích cực làm quay vòng vốn trong đó việc chỉ đạo thi công nhanh, dứt điểm, rút ngắn thời gian thi công công trình rất quan trọng. Rút ngắn thời gian xây dựng sẽ làm cho vốn đầu tư sớm được thu hồi, giảm thiệt hai do ứ đọng vốn của tổ chức xây lắp ( số tiền mua nguyên vật liệu, mua sắm máy móc thiết bị , chi phí nhân công ). Bên cạnh đó rút ngắn thời gian xây dụng sẽ làm giảm chi phí bất biến quy ước chuẩn trong giá thành sản phẩm xây lắp. Đó là những chi phí mà các doanh nghiệp phải trả cho dù không sản xuất như : chi phí quản lý lượng cán bộ gián tiếp ... 2.5.Đẩy mạnh khai thác thị trường, củng cố vị trí của nhà thầu trên thị trường cũ và xâm nhập thị trường mới Thị trường là một trong những mối quan hàng đầu của mọi doanh nghiệp. Bất cứ doanh nghiệp nào cũng phải xác định thị trường trọng điểm của mình để qua đó phát huy tối đa năng lực sản xuất kinh doanh của mình. Đối với doanh nghiệp xây dựng thì việc hướng vào một thị trừơng là rất cần thiết do những yêu cầu kỹ thuật riêng của mình ví dụ mộy doanh nghiệp đang xây dựng đường chuyển sang xây dựng cầu thì cần có nguồn lực tài chính lớn để mau sắm máy móc thiết bị công nghệ cần thiết, chưa kể đến việc đào tạo lao động nắm vững kỹ thuật mới. Do vậy khi đi đấu thầu thường thua kém về mặt kinh nghiệm. Tuy nhiên doanh nghiệp không ngừng thâm nhập vào thị trường mới tạo ra nhiều nhà thầu trong một cuộc đấu thầu, làm cho hiêu quả của công tác đấu thầu. Mang lại lợi ích cho nhà thầu. Cũng như chủ đầu tư và mang lại lợi ích gián tiếp cho toàn xã hội . Trên đây là một số ý kiến cá nhân xin đóng góp vào việc hoàn thiện, nâng cao hiệu quả công tác đấu thầu xây dựng . Kết luận Qua thời gian học tập ở nhà trường và tìm hiểu ở văn phòng xét thầu - Bộ Kế Hoạch Và Đầu Tư, tôi đã thu thập được một số kiến thức quý báu về công tác đấu thầu xây dựng . Với sự giúp đỡ tận tình của các thầy cô giáo, đặc biệt là cô giáo PTS Nguyễn Bạch Nguyệt thuộc khoa Kinh Tế Đầu Tư trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân cùng với các cán bộ văn phòng xét thầu, đặc biệt là bà Nguyễn Thị Hoàng Yến chuyên viên Bộ Kế Hoạch Và Đầu Tư, tôi đã hoàn thành đề tài “ Một số vấn đề đấu thầu trong đầu tư xây dựng ở Việt Nam hiện nay”. Đề tài khái quát những nội dung cơ bản về đấu thầu trong xây dựng và một số ý kiến mạnh dạn của tôi. Trong quá trình tìm hiểu nghiên cứu đề tài, do thời gian và khả năng có hạn, nên bài viết này của tôi không thể tránh khỏi những thiếu xót nhất định. Tôi mong sự giúp đỡ và thông cảm của các thầy cô và các ban đọc. Người Thực Hiện Nguyễn Văn Thông Mục Lục Trang Lời nói đầu 1 Chương I: Những vấn đề lý luận chung 3 I.Vai trò và đặc điểm ngành xây dựng trong nền kinh tế quốc dân 3 1. Khái niệm ngành xây dựng 3 2. Vai trò của ngành xây dựng 3 3. Đặc điểm ngành xây dựng 5 II. Một vấn đề lý luận về đấu thầu trong đầu tư xây dựng 6 1.Khái niệm và sự cần thiết phải dấu thầu xây dựng 6 2. Một số thuật ngữ cơ bản thường dùng trong lĩnh vực đấu thầu 7 3.Các hình thức lựa chọn nhà thầu và phương thức đấu thầu xây dựng 9 4.Các yêu cầu đối với bên mời thầu và bên dự thầu trong đấu thầu xây dựng 12 5.Nội dung của đấu thầu xây dựng 14 5.1.Giai đoạn chuẩn bị đấu thầu 14 a.Xây dựng kế hoạch đấu thầu 14 b.Tổ chức nhân sự 15 c.Chuẩn bị hồ sơ mời thầu 16 d.tiêu chuẩn đánh giá hồ sơ dự thầu 17 5.2.Mời thầu và nộp hồ sơ dự thầu 18 a.Mời thầu 18 b.Nộp hồ sơ dự thầu 19 5.3.Mở thầu , đánh giá xếp hạng hồ sơ dự thầu và lựa chọn đơn vị trúng thầu 20 a.Mở thầu 20 b.Đánh giá hồ sơ dự thầu 20 5.4.Thông báo kết quả trúng thầu, ký hợp đồng và triển khai thi công công trình 24 a.Thông báo trúng thầu 24 b.Ký hợp đồng và triển khai thi công công trình 24 III.Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới 25 1.Singapo 25 2.Malaysia 25 Chương II: Thực trạng tình hình đấu thầu trong đầu tư xây dựng ở nước ta trong giai đoạn vừa qua I.Vài nét chung về sự phát triển ngành xây dựng nược ta 29 1.Một số đặc điểm lịch sử phát triển xây dựng qua các chế độ xã hội 29 2.Một số đặc điểm của lịch sử phát triển ngành xây dựng ở Việt Nam 30 II. Tình hình về đầu tư xây dựng trong thời gian vừa qua 32 1.Tình hình đầu tư xây dựng thời kỳ 1986 - 1995 32 2.Tình hình đầu tư xây dựng thời kỳ 1995 - 1998 35 III.Tình hình đấu thầu trong đầu tư xây dựng trong thời gian vừa qua 42 1.Tình hình vận dụng quy chế đấu thầu 42 2.Tình hình đấu thầu trong đầu tư xây dựng ở Việt Nam trong thời gian vừa qua 44 3.Tình hình thẩm định kết quả đấu thầu 55 IV. Những tồn tại cơ bản ảnh hưởng tới hiệu quả công tác đấu thầu xây dựng và nguyên nhân cửa chúng. 61 Chương III. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác đấu thầu xây dựng ở nước ta I.Phương hướng đầu tư phát triển ngành xây dựng ở nước ta 63 II.Những giải pháp nhằm hoàn thiện công tác đấu thầu ở nước ta trong thời gian tới 65 1.Đối với cấp quản lý công tác đấu thầu 66 a.Xây dựng hoàn thiên quy chế đấu thầu 66 b.Đào tạo cán bộ quản lý đấu thầu 69 2.Đối với các nhà thầu xây dựng 70 2.1.Xây dựng chiến lược đấu thầu hợp lý 71 2.2.Đầu tư mua sắm thiết bị hiện đại nâng cao năng lực quản lý và thi công 73 2.3.Bố trí, xắp xếp và sử dụng hợp lý đội ngũ cán bộ công nhân, đào tạo bồi dưỡng trình độ mọi mặt nhằm nâng cao chất lượng công tác đấu thầu 74 2.4.Tăng cường hoạt động tạo vốn, đảm bảo nguồn lực tài chính cho họat động sản xuất kinh doanh của nhà thầu 75 2.5.Đẩy mạnh khai thác thị trường, củng cố vị trí nhà thầu trên thị trừơng cũ và xâm nhập vào thị trường mới. 76 kết luận 78 Tài liệu tham khảo Quy chế đấu thầu ( ban hành kèm theo nghị định 43/CP ngày 16/7/1996 của Chính Phủ ). Điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng ( ban hành kèm theo nghị định 42/CP ngày 16/7/1996 ). Thông tư liên bộ số 02 TTLB ngày 25/2/1997 của Bộ Kế Hoạch Và Đầu Tư, Bộ Xây Dựng, hướng dẫn thực hiện quy chế đấu thầu). Giáo trình kinh tế đầu tư của trường ĐHKTQD Giáo trình kinh tế xây dựng của trường ĐHXDHN Báo kinh tế đầu tư, kinh tế thời báo Tạp chí xây dựng Niên giám thống kê Giáo trình kinh tế các ngành sản xuất vật chất của trường ĐHKTQD Bài giảng môn đấu thầu của trường ĐHKTQD Các tài liệu khác

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docB0111.doc
Tài liệu liên quan