Đề tài Một số vấn đề về Chính sách tiền tệ và công cụ thực hiện và định hướng hoàn thiện ở Việt Nam

Trong bài viết ngắn này, dựa vào những kiến thức đã tích luỹ được trong môn học cùng với sự tham khảo những tài liệu có liên quan em hy vọng rằng với những ý kiến có thể chưa thật sắc bén của mình nhưng nó thể hiện việc ham học hỏi và nghiên cứu. Đề tài này là một công trình nghiên cứu chính vì vậy còn nhiều thiếu sót khuyết điểm, rất mong được sự châm chước và phê bình. Lời cuối cùng cũng là lời cảm ơn trân trọng nhất xin được gửi tới PGS.TS Lê Đức Lữ, người đã hướng dẫn, góp ý cho đề tài được hoàn thành.

doc32 trang | Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1287 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số vấn đề về Chính sách tiền tệ và công cụ thực hiện và định hướng hoàn thiện ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c khuyến khích nhân dân tiết kiệm để có thêm nhiều vốn cho các hãng đưa vào đấu tư. 2.4. Tạo công ăn việc làm: Cùng với mục tiêu tăng trưởng kinh tế, chính sách tiền tệ hướng vào mục tiêu tạo công ăn việc làm cho mỗi người, nhất là đối với các quốc gia chưa phát triển, nơi nào sức lao động là hàng hoá thì nơi đó thất nghiệp là một căn bệnh kinh niên. Chính sách tiền tệ chỉ có thể hướng vào việc tạo công ăn việc làm nhiều hơn thông qua các tác động để mở rộng đầu tư, mở rộng hoạt động kinh tế. Chống thất nghiệp, tạo công ăn việc làm chỉ có thể đạt tới mức nhân dụng cao nhất, khó có thể toàn dụng được. Muốn đạt được mục tiêu về công ăn việc làm phải chống suy thoái nhất là suy thaói chu kỳ, đạt được mức tăng trưởng kinh tế ổn định. Nhìn tổng quát giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế và công ăn việc làm có mâu thuẫn đối nghịch nhau. Thông thường khi kiềm chế được lạm phát thì có nguy cơ tăng trưởng kinh tế giảm, dễ dẫn đến suy thoái và thất nghiệp. Ngược lại, khi mở rộng đầu tư khắc phục suy thoái, tạo tăng trưởng kinh tế và công ăn việc làm thì rất khó kiềm chế lạm phát. Có nhiều ý kiến khác nhau về xử lý mâu thuẫn và tìm đến dung hoà giữa các xu hướng nói trên: Có nhà kinh tế hiện đại chủ trương đưa mục tiêu chống lạm phát lên hàng đầu, tất cả phải phục tùng yêu cầu chống lạm phát, kể cả tăng trưởng kinh tế và công ăn việc làm nhưng nếu ổn định mà để ổn định thì thực chất là tụt hậu, khó khăn sẽ phát sinh và có nguy cơ tái phát. Một số nhà kinh tế khác chủ trương phải “mua” bằng một tỷ lệ lạm phát thấp để đạt được mức độ tăng trưởng kinh tế vừa phải và một tỷ lệ thất nghiệp có thể chấp nhận được. Nó tạo được tình thế ổn định hơn, tránh được các cơn sốc lạm phát, khủng hoảng kinh tế và thất nghiệp. Có người cho rằng chấp nhận một mức lạm phát nhự nhàng đôi khi là liều thuốc bổ quan trọng để kích thích phát triển sản xuất, có thể tìm ra một phần chân lý ở luận điểm này. Nhưng nếu lấy lạm phát làm chất xúc tác cho tăng trưởng thì quả là một trò đi trên dây. Vì vậy vấn đề đặt ra là chính sách tiền tệ phải tìm được giải pháp để dung hoà được 4 mục tiêu trong từng giai đoạn cụ thể, để vừa kìm chế đượclạm phát vừa tăng trưởng được nền kinh tế và đạt mức nhân dụng cao. II. Nội dung cơ bản của chính sách tiền tệ. Chính sách tiền tệ là một bộ phận cấu thành trong chính sách vĩ mô của Nhà nước. Về thực chất điều chỉnh quan hệ giữa tổng cung và tổng cầu tiền tệ, giữa tiền và hàng trên 4 lĩnh vực quan trọng nhất. Khối lượng cung ứng tiền Kiểm soát hoạt động tín dụng trong nền kinh tế. Kiểm soát ngoại hối. Kiểm soát việc tạm ứng cho ngân sách Nhà nước. 1.Cung ứng và điều hoà khối tiền tệ a.Lượng tiền cung ứng. Ngân hàng TW phải có giải pháp duy trì được tương quan giữa tổng cung và tổng cầu, giữa tiền và hàng bằng cách giữ nguyên hoặc tăng hay giảm khối lượng tiền tệ. Vì vậy việc kiểm soát lượng tiền cung ứng tăng thêm là rất quan trọng. Nó phụ thuộc vào: Nền kinh tế hàng năm tăng trưởng thì khối lượng tiền tệ cần tăng thêm bằng mứctăng trưởng kinh tế. Nếu lạm phát mà chưa kìm được thì khối tiền tệ cung ứng còn phải được tăng thêm bằng tỷ lệ lạm phát ( đã được kìm chế ). Khi kiểm soát khối tiền tệ còn phải tính đến tốc độ luân chuyển của đồng tiền và nó phụ thuộc vào các yếu tố: Tốc độ chu chuyển vật tư hàng hoá Lòng tin của dân cư vào giá trị đồng tiền Sự tiên liệu của dân cư vào thời cơ và vận hội làm ăn sinh lời Khuynh hướng chỉ tiêu của dân chúng Chính sách kinh tế tài chính của Nhà nước Trình độ kỹ thuật và khả năng tổ chức thanh toán của ngân hàng. Tóm lại qua việc hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ phải khống chế sao cho khối lượng tiền tệ cung ứng trong một thời kỳ nhất định phải cân đối với mức tăng tổng sản phẩm quốc dân danh nghĩa và vòng quay tiền tệ từng thời kỳ. b.Làm cho thành phần khối tiền tệ (M) đa dạng lên cùng với quá trình phát triển công nghệ ngân hàng, gồm: Tiền mặt lưu thông ngoài ngân hàng và tiền gửi không kỳ hạn tại ngân hàng là M1 M1 và các khoản tiền tiết kiệm (có kỳ hạn) và tiền gửi có kỳ hạn tại các ngân hàng thương mại là M2 M2 và các loại tiền huy động tại các định chế tài chính khác là lhối lượng tiền tệ M3 Khối lượng tiền tệ cung ứng tăng thêm hàng năm về một phía nhằm đáp ứng đủ phương tiện thanh toán, gồm tiền mặt và các loại tiền gửi ở ngân hàng. Và phía khác nhằm dành cho các nhu cầu tín dụng ngắn hạn đối với nền kinh tế, tăng dự trữ ngoại hối và tạm ứng cho ngân sách Nhà nước. c.Điều hoà khối lượng tiền tệ tăng giảm theo tín hiệu thị trường. Khối lượng tiền tệ tăng thêm chỉ là chỉ tiêu định hướng. Điều quan trọng là ngân hàng trung ương phải theo dõi diễn biến: Của hoạt động kinh tế Của giá cả Của tỷ giá hối đoái. Từ đó NHTW điều chỉnh kịp thời việc cung ứng tiền sao cho khối lượng tiền tệ tăng thêm hay giảm đi không làm tăng giá cả hoặc tắc nghẽn lưu thông vì thiếu phương tiện thanh toán. Hai yếu tố đồng nhất của tín hiệu thị trường là giá cả và tỷ giá hối đoái. Còn tốc độ tăng trưởng và vòng quay đồng tiền đều biến động, khó biết trước chính xác. Việc điều chỉnh khối lượng tiền cung ứng phải thực hiện từ gốc, qua các nhu cầu đối ứng đặt ra trong các lĩnh vực tạo tiền bằng các chính sách tín dụng và ngoại hối trong những điều kiện khác nhau không đổi, có thể điều hoà lượng tiền cung ứng giữa ba kênh nói trên nhưng tổng số phải bằng tổng lượng tiền cung ứng đã xác định. d.Cách nhìn nhận đối với tiền mặt Để kiểm soát lạm phát, người ta quản lý từ gốc chứ không phải nhằm vào cái ngọn của nó là khống chế tiền mặt. Vì lúc này đã quá muộn, chỉ làm giảm lòng tin của nhân dân đối với hệ thống ngân hàng. Nhu cầu tiền mặt thường phụ thuộc vào: Thói quen của dân chúng mỗi nước đối với tiền mặt hay thanh toán không dùng tiền mặt Trình độ phát triển của hệ thống thanh toán ngân hàng Lòng tin của dân chúng đối với ngân hàng và Nhà nước. e.Thanh toán không dùng tiền mặt - một công cụ điều tiết khối tiền tệ Về nội dung kinh tế, tổ chức thanh toán không dùng tiền mặt tốt hay không sẽ không ảnh hưởng trực tiếp mà tác động gián tiếp đến khối lượng tiền do làm tăng hay giảm vòng quay của nó. Tuy chỉ ảnh hưởng gián tiếp nhưng nếu tổ chức tốt công tác thanh toán không dùng tiền mặt sẽ không chỉ góp phần thúc đẩy lưu thông hàng hoá mà còn có ý nghĩa góp phần kìm chế lạm phát. 2. Chính sách tín dụng cho nền kinh tế Ta biết rằng khối lượng tín dụng mà ngân hàng cung ứng cho các doanh nghiệp từ hai nguồn: Huy động tiền vốn sẵn có trong lưu thông để cho vay Sử dụng tiền trung ương có được qua quá trình tái cấp vốn của ngân hàng trung ương. Sau khi các ngân hàng thương mại cho vay sẽ diễn ra chu trình tạo tiền gửi và phát sinh bội số tín dụng rất phức tạp. ở các nước công nghiệp có hệ thống ngân hàng đã phát triển cao, thị trường tiền tệ nhạy cảm thì người ta năng sử dụng về các công cụ tác động vĩ mô gián tiếp ( như lãi suất, thị trường mở...) để điều tiết tín dụng và mức tăng giảm khối tiền tệ. Từ khối lượng tiền tệ cung ứng có thể cung ứng thêm, NHTW sẽ dành chủ yếu cho hoạt động tín dụng ngắn hạn, phù hợp mức tăng trưởng kinh tế, có tính đến mức lạm phát đã được khống chế trong một thời kỳ nhất định. Khối lượng tiền tệ tăng thêm qua tín dụng sẽ không được “rót” từ NHTW xuống, bất chấp thực trạng về vốn, chất lượng tín dụng của các ngân hàng trung gian mà được hình thành trước hết từ nhu cầu thực sự của thị trường tiền tệ, quan hệ vay vốn giữa các doanh nghiệp và các ngân hàng trung gian. Khi các ngân hàng trung gian thiếu phương tiện thanh toán thì họ mới đến NHTW xin tái cấp ( tái chiết khấu ) tiền trung ương. ở đây phải đảo ngược chu trình cấp vốn, NHTW luôn là người cho vay cuối cùng, đóng vai trò chủ nợ nhằm kiểm soát được chất lượng và số lượng tín dụng, các nguồn tiền gửi của các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng theo các định hướng chính sách cụ thể sau: a.Để tăng tầm kiểm soát của NHTW, tích cực kìm chế lạm phát, tăng nguồn tín dụng, người ta thực hiện chính sách đa dạng hoá các thành phần của khối tiền tệ: NHTW thúc đẩy các NHTM thu hút tất cả các nguồn tiền gửi của mọi doanh nghiệp và dân cư bằng cách mở tài khoản và thanh toán qua ngân hàng. Từ đó phát triển các thành phần kinh tế của khối tiền tệ và các công cụ lưu thông tín dụng khác bên cạnh tiền mặt nhằm tăng nguồn vốn tín dụng của các NHTM và khả năng chi phối của NHTW đối với khối tiền tệ. b.Thay lãi suất thực (-) bằng lãi suất thực (+) để thay chính sách tiền tệ làm xói mòn nguôn vốn bằng chính sách tiền tệ mở rộng nguồn vốn với một lãi suất (+) vừa phải sẽ làm cho dân cư chuyển từ dạng tiết kiệm phi tài chính (dự trữ vàng, ngoại tệ, bất động sản...) qua dạng tiết kiệm tài chính, tăng tiền gửi ngân hàng, cần khuyến khích các ngân hàng trung gian thực hiện chính sách tiền tệ “ mở rộng nguồn vốn” bằng việc áp dụng lão suất (+), thực hiện triệt để nguyên tắc “vay để cho vay”. Các NHTM chỉ tìm đến nguồn tiền trung ương trong trường hợp phải tái chiết khấu. c.Thay chính sách tiền tệ thụ động phục vụ bằng chính sách tiền tệ chủ động điều khiển Tín dụng và lãi suất không phải là những công cụ “phục vụ” đơn giản và thụ động đối với các doanh nghiệp với bất cứ giá nào như một thứ cấp phát ngân sách, trên thị trường tiền tệ, không được toàn quyền lựa chọn ngân hàng. Nhưng đến lượt mình, ngân hàng có quyền chủ động lựa chọn khách hàng làm ăn có hiệu quả để đầu tư, không phân biệt thành phần kinh tế. Nghĩa là phải chuyển từ một chính sách tiền tệ thụ động sang một chính sách tiền tệ tích cực trong đó ngân hàng được chủ động điều tiết. d.Tổ chức thị trường vốn: tỷ lệ giữa “tiêu động sản” (M3)/GNP gọi là “ độ sâu tài chính ”. Độ sâu tài chính càng lớn mức huy động vốn càng cao dẫn đến thị trường vốn trung hạn và dài hạn phong phú, tạo tiền đề cho thị trường chứng khoán sơ cấp ra đời. 3. Chính sách ngoại hối Để ổn định giá trị đối ngoại của đồng tiền quốc gia, NHTW thực hiện các nhiệm vụ giao dịch về vấn đề tài chính và tiền tệ đối ngoại trên các phương diện sau: Quản lý ngoại hối Lập và theo dõi diễn biến của cán cân thanh toán quốc tế Thực hiện các nghiệp vụ hối đoái, tổ chức và điều tiết thị trường liên ngân hàng ngoại tệ và thị trường hối đoái Xây dựng và thống nhất quản lý quỹ dự trữ ngoại hối của đất nước Tiến hành kinh doanh ngoại hối trên thị trường quốc tế Phấn đấu ổn định tỷ giá hối đoái để kiềm chế lạm phát, ổn định giá cả trong nước Quan hệ với NHTW khác, với các tổ chức tài chính-tiền tệ quốc tế nhằm tìm kiếm nguồn tài trợ nước ngoài có điều kiện ưu đãi, khuyến khích đầu tư nước ngoài và thu hút kiều hối Tổ chức quản lý nợ nước ngoài. a.Chính sách hối đoái: Nhiều nước thực hiện chính sách độc quyền hối đoái cấm lưu thông tiền nước ngoài trên đất nước mình, chính sách ngoại hối hướng vào việc ngăn chặn việc tích trữ ngoại hối rải rác trong các pháp nhân và thể nhân, quản lý mua và bán ngoại tệ, thu hút các nguồn ngoại tệ vào NHTW. Đây là chính sách mua đứt bán đoạn chứ không phải cho phép các tổ chức dân sự và người cư trú đưọc cất giữ ngoại tệ trên tài khoản mở ở các ngân hàng. Bởi vì điều này chỉ có lợi cho nước phát hành số ngoại tệ đó. Nhờ phát hành tiền họ đã thu về khối lượng hàng hoá và dịch vụ mà chưa bị đòi nợnhư một khoản tín dụng tự nguyện không trả lãi suất. Về phía các ngân hàng trong nước, nếu huy động tiền gửi không kỳ hạn hoặc ngắn hạn thì không thể sử dụng được nhiều số ngoại tệ đó. Tất yếu họ phải đem gửi ngân hàng nước ngoài để sẵn sàng đáp ứng nhu cầu rút ra của khách hàng và tìm kiếm chút lãi dể bù đắp lãi suất tiền gửi đã huy động vào việc và huy động ngoại tệ dài hạn lại là vấn đề khác. b.Dự trữ ngoại hối: mỗi nước đều có dự trữ ngoại hối, tuỳ theo khả năng nền kinh tế nước đó. Dự trữ ngoại hối phục vụ cho nhu cầu thanh toán quốc tế và điều chỉnh khối lượng tiền tệ trong nuức. NHTW mua và gia tăng dự trữ ngoại hối sẽ làm tăng khối lượng tiền tệ. Ngược lại khi NHTW bán ngoại tệ ra, giảm dự trữ ngoại hối thì cũng đồng thời làm giảm khối tiền tệ. Qua việc mua bán ngoại hối, NHTW thực hiện can thiệp thị trường, chủ động tác động tỷ giá hối đoái theo chiều hướng mong muốn. c.Thị trường hối đoái: thị trường hối đoái là nơi mua bán ngoại tệ. Quy mô của nó phụ thuộc vào quy mô phát triển kinh tế và cung cầu ngoại tệ của đất nước. Trình độ tổ chức thị trường hối đoái hoàn hảo hay không trước hết phụ thuộc vào chính sách hối đoái và điều kiện kỹ thuật cho phép. Trước khi hình thành thị trường hối đoái hoàn chỉnh, NHTW phải chủ trương lập một thị trường quá độ là thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. d.Tỷ giá hối đoái: tỷ giá hối đoái là tương quan sức mua giữa nội tệ với ngoại tệ. Nó vừa phản ánh sức mua của nội tệ và vừa biểu hiện của quan hệ cung cầu ngoại tệ, tác động mạnh mẽ đến xuất nhập khẩu và sản xuất kinh doanh trong nước. Chính sách tỷ giá tác động một cách nhạy bén và hết sức công phạt đối với sản xuất, xuất nhập khẩu, tình trạng tài chính tiền tệ, cán cân thanh toán quốc tế, thu hút vốn đầu tư, dự trữ ngoại tệ của đất nước. Nếu tỷ giá hối đoái quá thấp (đối với ngoại tệ) sẽ khuyến khích nhập khẩu, gây bất lợi cho xuất khẩu vì hàng xuất khẩu tương đối đắt, khó bán ra nước ngoài, gây trở ngại cho ngành sản xuất hàng xuất khẩu, bất lợi cho việc chuyển dịch ngoại tệ từ nước ngoài vào trong nước, dự trữ ngoại tệ dễ bị xói mòn. Nếu tỷ giá hối đoái quá cao (đối với ngoại tệ) sẽ bất lợi cho nhập khẩu, nhưng khuyến khích xuất khẩu vì làm cho hàng nhập khẩu rẻ hơn, hàng xuất khẩu đắt hơn, dễ cạnh tranh trên thị trường quốc tế, dễ tìm thị trường tiêu thụ, kích thích chuyển dịch vào trong nước, dự trữ ngoại tệ có cơ hội gia tăng. e.Biện pháp quản lý và ổn định tỷ giá hối đoái: Có hai cách vận hành tỷ giá hối đoái: Tỷ giá cao hay thấp do NHTW ấn định Tỷ giá thả nổi do cung cầu ngoại tệ trên thị trường chi phối, NHTW hoàn toàn không can thiệp. Do tầm quan trọng của nó nên người ta hết sức quan tâm và dùng nhiều biện pháp để ổn định tỷ giá hối đoái như: Thực hiện chính sách thặng dư hay tối thiểu là thăng bằng cán cân thanh toán quốc tế bằng cách đẩy mạnh xuất khẩu, sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả các nguồn ngoại tệ Kiểm soát và hạ thấp tỷ lệ lạm phát để ổn định giá cả và nâng cao sức mua đối nội của đồng tiền, tạo sự tác động ngược lại đối với tỷ giá hối đoái Có chính sách lãi suất tín dụng thích hợp để thu hút các khoản tiết kiệm và đầu tư kể cả bằng nguồn ngoại tệ từ ngoài vào, đồng thời hạn chế việc săn lùng ngoại tệ và vàng bạc Tạo quỹ dự trữ ngoại hối để can thiệp thị trường hối đoái khi cần thiết. Tuy nhiên, trong điều kiện lạm phát không thể khống chế được thì tỷ giá trượt dần hơn là tung hết dự trữ ngoại tệ ra can thiệp. 4. Chính sách đối với ngân sách Nhà nước Chính sách tiền tệ của NHTW muốn có tác dụng mong muốn cần xử lý mối tương quan của nó với chính sách tài chính, trước hết là chính sách thu và chi của ngân sách. Tuỳ theo tình trạng ngân sách có cân bằng hay không sẽ ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực với những mức độ khác nhau đối với lưu thông tiền tệ. a.Trường hợp ngân sách cân bằng: Khi Chính phủ thu thuế tức là đã lấy ra khỏi lưu thông một lượng tiền nào đó, chỉ số tiền ấy vào guồng máy kinh tế. Khối lượng tiền tệ không thay đổi vì nó được tăng giảm một ngạch số như nhau. Tuy nhiên nó có thể làm thay đổi kết cấu tiêu dùng và tiết kiệm. Trong khi đó Chính phủ phải dùng số tiền thuế thu được để cấp phát cho những người có thu nhập thấp thì số tiêu thụ chung lại gia tăng, số đầu tư giảm và kết quả là có khả năng làm tăng dần giá cả. Nếu Nhà nước dùng số chi ngân sách này để đầu tư thì số đầu tư tư nhân giảm trong khi đầu tư Nhà nước tăng lên, đầu tư chung không đổi, cho nên: Nếu chính sách tiền tệ nhằm chống lạm phát, ngân sách thăng bằng vẫn có thể tác dụng ngược lại với chính sách tiền tệ, làm tăng vật giá. Trường hợp chính sách tiền tệ nhằm chống suy thoái, ngân sách thăng bằng vẫn có thể dịch chuyển thu nhập tiền tệ theo hướng góp phần chống suy thoái bằng cách làm tăng mức tiêu thụ. b.Trường hợp ngân sách thiếu hụt: Chênh lệch giữa thu và chi ngân sách sẽ có tác dụng khác nhau đến nền kinh tế tuỳ theo cách tài trợ, số chênh lệch ấy có 4 cách để bù đắp thiếu hụt ngân sách: Vay dân cư Vay ở hệ thống tín dụng và thị trường tài chính trong nước Vay NHTW Vay nước ngoài. Vay của NHTW và vay của nước ngoài (bằng ngoại tệ) sẽ làm tăng nhanh khối tiền tệ, gây áp lực lạm phát tiềm tàng về sau.Vay của dân cư và của NHTM trong nước nguy cơ làm tăng khối lượng tiền tệ nhẹ hơn. áp lực lạm phát ở các nước đang phát triển mạnh hơn so với các nước có thu nhập cao là do các nước này chủ yếu sử dụng biện pháp vay NHTW bằng cách phát hành trực tiếp và nợ nước ngoài. Không có sự lựa chọn nào tốt hơn là phải phấn đấu thực hiện một ngân sách Nhà nước cân bằng bằng nguồn thu từ thuế và tiết kiệm chi tiêu. Không nên bội chi ngân sách dể bù đắp chi phí hành chính mà tối thiểu ngân sách phải phấn đấu thu để trang trải các nhu cầu chi thường xuyên. Phần chi xây dựng hạ tầng cơ sở và chi phát triển nếu thiếu thì phải được tài trợ bằng cách phát hành tín phiếu kho bạc và trái phiếu Chính phủ để vay nhân dân, vay các NHTM trên thị trường tiền tệ (ngắn hạn) và thị trường chứng khoán (dài hạn) hoặc vay nợ nước ngoài theo tiêu chuẩn quốc tế, mức bội chi ngân sách phải vay mượn để bù đắp nếu chiếm khoảng 2-3% tổng sản phẩm quốc nội là chấp nhận được. Tuy nhiên không nên coi khoản vay của Nhà nước là nguồn thu phụ thêm mà đó chỉ là bù đắp bội chi. c.Trường hợp ngân sách thặng dư: Trong trường hợp này khối tiền tệ dư thừa sẽ được rút bớt tác động có lợi cho mối tương quan giữa tổng cung và tổng cầu tiền tệ. III. Các công cụ thực hiện chính sách tiền tệ 1.Nghiệp vụ thị trường mở. Nghiệp vụ thị trường mở là việc Ngân hàng trung ương mua và bán các chứng khoán có giá, mà chủ yếu là tín phiếu kho bạc nhà nước, nhằm làm thay đổi lượng tiền cung ứng. Ngân hàng trung ương mua bán chứng khoán trên thị trường sẽ làm thay đổi cơ số tiền tệ(tiền đang lưu hành ngoài hệ thống ngân hàng và tiền dự trữ trong hệ thống ngân hàng). Đó là nguồn gốc chính gây nên sự biến động trong cung ứng tiền tệ. Khi NHTW mua chứng khoán, làm tăng cơ số tiền tệ, qua đó làm tăng lượng tiền cung ứng. Khi NHTW bán chứng khoán, thu hẹp cơ số tiền tệ, qua đó làm giảm lượng tiền cung ứng. Thị trường mở là công cụ quan trọng nhất của NHTW trong việc điều tiết lượng tiền cung ứng, bởi những ưu thế vốn có của nó: NHTW có thể kiểm soát được hoàn toàn lượng nghiệp vụ thị trường tự do. Linh hoạt và chính xác, có thể được sử dụng ở bất cứ mức độ nào, điều chỉnh một lượng tiền cung ứng lớn hay nhỏ. NHTW đễ dàng đảo ngược lại tình thế của mình Thực hiện nhanh chóng, ít tốn kém về chi phí và thời gian. 2. Chính sách chiết khấu. Chính sách chiết khấu là công cụ của NHTW trong việc thực thi chính sách tiền tệ, bằng cách cho vay tái cấp vốn cho các ngân hàng kinh doanh. Khi NHTW cho vay các ngân hàng kinh doanh làm tăng thêm tiền dự trữ cho hệ thống ngân hàng, từ đó làm tăng thêm lượng tiền cung ứng. NHTW kiểm soát công cụ này chủ yếu bằng cách tác động đến giá cả khoản vay(lãi suất cho vay tái chiết khấu). Khi NHTW nâng lãi suất tái chiết khấu, tức làm cho giá cả của khoản vay tăng, hạn chế cho vay các ngân hàng kinh doanh, làm cho khả năng cho vay đối với nền kinh tế của các ngân hàng kinh doanh giảm xuống, lượng tiền cung ứng giảm. Ngược lại, khi NHTW giảm lãi suất cho vay tái chiết khấu, giá cả của khoản vay rẻ hơn, khuyến khích cho vay các ngân hàng kinh doanh, làm cho khả năng cho vay của ngân hàng kinh doanh đối với nền kinh tế tăng lên, lượng tiền cung ứng tăng lên. Chính sách chiết khấu là một công cụ rất quan trọng trong việc thực thi chính sách tiền tệ cuả NHTW. Nó không chỉ điều tiết lượng tiền cung ứng, mà còn để thực hiện vai trò người cho vay cuối cùng đối với các tổ chức tín dụng và tác động đến việc điều chỉnh cơ cấu đầu tư đối với nền kinh tế. Tuy nhiên, với công cụ này NHTW thường bị động trong việc điều tiết lượng tiền cung ứng. Bởi vì, NHTW chỉ có thể thay đổi lãi suất chiết khấu nhưng không thể bắt buộc các ngân hàng thương mại phải vay chiết khấu ở NHTW. 3. Dự trữ bắt buộc. Dự trữ bắt buộc là số tiền mà các tổ chức tín dụng phải giữ lại, mà không được dùng để cho vay hoặc đầu tư, mức dự trữ này do NHTW qui định và bằng một tỷ lệ nhất định so với tổng số tiền gửi của khách hàng tại các tổ chức tín dụng. Chế độ dự trữ bắt buộc ở các nước khác nhau, ở các thời kỳ khác nhau thì có thể khác nhau. Song nhìn chung, dự trữ bắt buộc đều mang tính pháp luật, được gửi ở NHTW và không được hưởng lãi. NHTW sử dụng dự trữ bắt buộc để tác động đến lượng tiền cung ứng trên hai phương diện: Thứ nhất, tỷ lệ dự trữ bắt buộc tác động đến cơ chế tạo tiền gửi của các NHTM. Theo thuyết tạo tiền. Do vậy, nếu NHTW quyết định tăng hoặc giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ làm cho hệ số tạo tiền thu hẹp hoặc tăng lên. Thứ hai, tỷ lệ dự trữ bắt buộc tác động đến lãi suất cho vay của hệ thống NHTM. Khi mức dự trữ tăng lên, dòi hỏi các NHTM phải tăng lãi suất cho vay đối với nền kinh tế, giá các khoản vay đắt hơn, khả năng cho vay các NHTM giảm xuống và theo đó lượng tiền cung ứng cũng giảm xuống. Ngược lại, khi tỷ lệ dự trữ bắt buộc giảm xuống, các NHTM có cơ hội giảm lãi suất cho vay đối với nền kinh tế, giá các khoản vay rẻ hơn, tăng khả năng cho vay của các NHTM và theo đó lượng tiền cung ứng tăng lên. 4. Kiểm soát hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng được xác định trên cơ sở chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế và chỉ tiêu lạm phát dụ kiến hàng năm, ngoài ra còn dựa vào một số tín hiệu thị trường khác: tỷ lệ thất nghiệp, tỷ giá, thâm hụt ngân sách nhà nước, tốc độ lưu thông tiền tệ... Trên cơ sở đó, hạn mức tín dụng được phân bổ cho các NHTM cho từng thời kỳ phù hợp với mục tiêu chính sách tiền tệ. Để hạn chế việc tạo tiền quá mức của NHTM làm tăng tổng khối lượng tiền tệ trong nền kinh tế, NHTW qui định hạn mức tín dụng tối đa cho từng NHTM. Trong phần lớn các trường hợp, những hạn mức riêng này được xác định căn cứ vào tỷ trọng cho vay của nó trong quá khứ so với tổng mức cho vay của hệ thống ngân hàng. NHTM chỉ được cấp tín dụng cho nền kinh tế tối đa bằng hạn mức tín dụng được qui định. Hạn mức tín dụng được NHTW sử dụng như một công cụ quan trọng của chính sách tiền tệ, khi mà các công cụ truyền thống kém hiệu quả. Tuy nhiên, khống chế hạn mức tín dụng có thể làm cho lãi suất thị trường tăng lên, làm giảm cạnh tranh giữa các NHTM , làm lệch lạc cơ cấu đầu tư của các NHTM, làm phát sinh các thị trường tài chính”ngầm” ngoài sự kiểm soát của NHTW, gây khó khăn về vốn cho các doanh nghiệp nhỏ... 5. Quản lý lãi suất của các ngân hàng thương mại. Khi sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ của NHTW(thị trường mở, chiết khấu, tỷ lệ dự trữ bắt buộc, hạn mức tín dụng) đều có tác động đến lãi suất cho vay của các NHTM đối với nền kinh tế. Trong đó, đặc biệt là lãi suất chiết khấu của NHTW tác động mạnh đến lãi suất cho vay của các NHTM. Song, khi các công cụ trên đây hoạt động chưa có hiệu quả, thì NHTW có thể trực tiếp qui định khung lãi suất hoặc trần lãi suất cho vay của các NHTM. Để tránh rủi ro, bảo vệ quyền lợi của các ngân hàng, NHTW thường qui định mức lãi suất “sàn” tối đa cho tiền gửi và lãi suất “trần” tối thiểu cho tiền vay. Nếu nhằm bảo đảm quyền lợi cho khách hàng của NHTM, thì NHTW thường qui định ngược lại: mức lãi suất tối thiểucho tiền gửi và mức tối đa cho tiền vay. NHTW muốn kiểm soát được lãi suất, bởi vì lãi suất có tác động mạnh đến tiết kiệm và đầu tư, qua đó tác động vào tăng trưởng kinh tế và giá cả. Tuy nhiên, kiểm soát lãi suất của các NHTM sẽ triệt tiêu cạnh tranh trong quá trình hoạt động của nó. Hiện nay các nước phát triển và đang phát triển đã và đang chuyển sang quá trình tự do hoá lãi suất ngân hàng. Tính tất yếu của việc chuyển từ công cụ điều tiết lượng tiền trực tiếp sang gián tiếp: Việc sử dụng công cụ trực tiếp trong 10 năm qua ( từ 1990-1999 ) đã đem lại những thành công đáng kể tỷ lệ lạm phát dưới một chữ số cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình 8,6%/năm. Như vậy việc sử dụng công cụ trực tiếp là hoàn toàn cụ thể trong thời gian qua. Tuy nhiên trước xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế sau 10 năm sử dụng công cụ trực tiếp đã bộc lộ một số hạn chế: a.NHTW không có khả năng kiểm soát các sự biến động số dư dự trữ của NHTM. Đây là một trong căn cứ quan trọng để có thể sử dụng cơ chế điều chỉnh gián tiếp. Vì số dư dự trữ quá mức này phụ thuộc vào mối quan hệ của nó với chủ thể phi ngân hàng, do đó khả năng cập nhật thông tin đối với NHTW là rất khó khăn làm hạn chế khả năng kiểm soát và dự báo chính xác sự biến động mức dự trữ của hệ thống ngân hàng. b.Mối liên hệ giữa lượng tiền cơ sở và tổng lượng tiền cung ứng là rất khó dự đoán do sự biến động bất thường của cả cơ số tiền và các nhân tố ảnh hưởng đến hệ số tạo tiền. c.Hệ thống thị trường tài chính và thị trường chứng khoán chưa thật sự phát triển. d.Các công cụ trực tiếp không cho phép ngân hàng trung ương điều chỉnh một cách linh hoạt vốn khả dụng trong điều kiện dư thừa. Ngoài công cụ dự trữ bắt buộc, NHTW không có cách nào hấp thụ số vốn một cách chủ động gây cho NHTM một áp lực mạnh mẽ về chi phí vốn. e.Công cụ trực tiếp ngày càng tỏ ra thiếu chủ động trong điều tiết lượng tiền cung ứng. Như chúng ta đã biết trong hai năm 1998-1999 khi trần lãi suất giảm thì giá cả và lãi suất không những tăng mà lại giảm. Chính sách tiền tệ không chủ động đối mặt với tình trạng này và tỏ ra kém hiệu quả. f.Hiệu lực tác động của chính sách tiền tệ bị hạn chế vì không lợi dụng được các kênh dẫn truyền đa dạng qua lãi suất, tín dụng, thị trường tài chính với những ảnh hưởng qua giá trái phiếu, cổ phiếu và ngoại tệ. Như vậy, việc sử dụng các công cụ trực tiếp tạm thời có hiệu quả trong việc kiểm soát sự mở rộng tín dụng đặc biệt ở những nước có hệ thống ngân hàng thô sơ và tính cạnh tranh yếu. Tuy nhiên chúng làm cho các NHTW chịu một gánh nặng hành chính hạn chế cạnh tranh do đó cản trở sự tăng trưởng trong khu vực tư nhân. Mặt khác, công cụ kiểm soát tiền tệ gián tiếp lại có hiệu quả và linh hoạt hơn bằng cách loại bỏ những hạn chế của công cụ trực tiếp, nó tăng cường cho quá trình trung gian cho phép phát triển sâu rộng thị trường tài chính linh hoạt hơn trước các cú sốc ngoại sinh, sai lầm chính sách. Như vậy, xu thế giảm dần tính trực tiếp cứng nhắc và ít hiệu quả sang phát huy tính gián tiếp linh hoạt thích hợp và đồng bộ với một số công cụ là tính khách quan tất yếu. Điều kiện chuyển đổi từ công cụ trực tiếp sang gián tiếp: ở Việt Nam hiện nay do sự kém hiệu quả trong việc kiểm soát lượng tiền bằng công cụ trực tiếp nên chuyển sang các công cụ gián tiếp là hết sức cần thiết. Vì điều kiện nền kinh tế Việt Nam hiện nay cách tốt nhất là chuyển sang một cách dần dần khi thị trường tài chính chưa vững mạnh, nền kinh tế phát triển chưa cao. Tuy nhiên nền kinh tế Việt Nam đang dần phát triển, thị trường tiền tệ đang được hoàn thiện cùng với sự hoạt động có hiệu quả của thị trường chứng khoán và khả năng thanh toán liên ngân hàng, ngày càng có nhiều các công ty tham gia niêm yết trên thị trường chứng khoán. Nhà nước thực hiện chính sách kinh tế mở đang thu hút được sự đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài. Sự cạnh tranh giữa các ngân hàng trong khu vực tài chính làm cho các nỗ lực mở rộng hệ thống tài chính nhiều hơn tạo điều kiện cho cạnh tranh lành mạnh, mạnh mẽ là một phần quan trọng trong việc chuyển sang điều tiết lượng tiền bằng công cụ gián tiếp. Nhưng kinh nghiệm ở một số nước cho thấy rằng việc lựa chọn chính sách tiền tệ còn tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng nước. Việc sử dụng công cụ gián tiếp sẽ là không khả thi trong điều kiện nền tài chính nước ta còn kém phát triển và vốn còn hạn chế. Nhưng trong những năm qua nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng với tốc độ tương đối cao, đầu tư nước ngoài vào Việt Nam nhiều hơn, tỷ lệ lạm phát giảm, nhập siêu giảm tăng suất khẩu. Ngày càng có nhiều kênh dẫn vốn, nền kinh tế đã đủ tiềm năng để thực hiện chính sách điều tiết lượng tiền trực tiếp sang điều tiết gián tiếp. IV. Chính sách tiền tệ ở Việt Nam. 1.Chính sách tiền tệ với công cuộc cải cách và phát triển kinh tế ở Việt Nam. Vào những năm đầu thời kỳ đổi mới (1986-1990), nền kinh tế Việt Nam chưa thực sự hội nhập với kinh tế thế giới và đang phải vật lộn với nạn lạm phát phi mã. Mục tiêu lúc đó là đẩy lùi, kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, tìm lối thoát ra khỏi tình trạng trì trệ, suy thoái bởi khủng hoảng kinh tế kéo dài. Bên cạnh một số giải pháp tình thế chống lạm phát hữu hiệu, nổi lên hai điểm đáng lưu ý là mạnh dạn nâng lãi suất tiền gửi ngân hàng lên ở mức siêu cao để thu hút tiền cung ứng về ngân hàng, đồng thời từng bước thả nổi tỷ giá hối đoái ( VND/USD ) nhằm tạo lập quan hệ cung-cầu ngoại tệ. Thực tế cho thấy thành quả lạm phát chỉ là tức thời, nếu chính sách tiền tệ thiếu tích cực linh hoạt. Một nội dung hết sức quan trọng của chính sách tiền tệ là vấn đề bảo đảm các nguồn tích luỹ, tiết kiệm nguồn vốn nhàn rỗi khác trong nền kinh tế để khai thác huy động tối đa và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn vốn trong và ngoài nước để hỗ trợ đầu tư và phát triển kinh tế được hết sức coi trọng. Chiến lược huy động vốn qua hệ thống ngân hàng được phát động mạnh mẽ liên tục suốt thời kỳ 1993-1997. Phương châm hạn chế, giảm thiểu dần cung ứng tiền cơ bản qua kênh tín dụng buộc các ngân hàng thương mại phải đi vay để cho vay, làm tốt vai trò các trung gian tài chính của nền kinh tế. Các hình thức huy động vốn cũng được đa dạng, cơ cấu lại hợp lý hơn nhằm đáp ứng yêu cầu đầu tư trung và dài hạn. Bên cạnh đó NHTW và một số NHTM cũng lần lượt khai thông được quan hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế ( IMB, WB, ADB ) và các NHTM lớn trên thế giới để vay vốn, hùn vốn liên doanh phục vụ đầu tư phát triển, tài trợ đầu tư xuất nhập khẩu, thanh toán quốc tế. Huy động vốn ngày càng đóng vai trò quan trọng tích cực hỗ trợ thực hiện tốt các mục tiêu của chính sách tiền tệ kể từ cuối năm 1993 khi NHTW tổ chức hình thành được thị trường nội tệ liên ngân hàng và sau đó gần một năm là thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Các NHTM, tổ chức tín dụng có điều kiện làm quen với cơ chế tự điều hoà vốn với nhau, nâng cao hiệu suất vốn, khả năng trong toàn hệ thống, hạn chế đến mức thấp nhấtnhu cầu tái cấp vốn từ NHTW. Phối hợp với Bộ Tài chínhđến tháng 6-1995, NHTW chính thức tổ chức đấu giá tín phiếu kho bạc, tạo thêm công cụ huy động vốn mới trên thị trường tiền tệ, đồng thời góp phần lành mạnh hoá ngân sách. Bên cạnh đó hoạt động phát hành trái phiếu kho bạc hay công trái Chính phủ diễn ra khá thường xuyên bổ sung tăng thêm bộ phận lớn nguồn đầu tư phát triển kinh tế. Trên cơ sở nguồn vốn huy động khá dồi dào, tín dụng ngân hàng đối với nền kinh tế cũng liên tục gia tăng mạnh mẽ đồng thời chuyển từ cho vay chủ yếu đối với các xí nghiệp quốc doanh sang cho vay mọi thành phần kinh tế. Cơ cấu tín dụng đổi mới theo hướng tăng cường đầu tư cho các ngành sản xuất, dịch vụ; chuyển từ cho vay ngắn hạn là chủ yếu sang cho vay trung, dài hạn và tham gia một phần đầu tư xây dựng cơ bản. Các NHTM, các quỹ tín dụng nhân dân mở rộng cho vay hộ nông dân, cho vay tạo việc làm, cho vay xoá đói giảm nghèo, cho vay hỗ trợ xây dựng nhà ở đồng bằng sông Cửu Long, cho vay phát triển kinh tế trang trại... Việc huy động các nguồn vốn nhàn rỗi vào ngân hàng và cung ứng tín dụng ngày càng nhiều đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế là một trong những nhân tố quan trọng thúc đẩy quá trình tiền tệ hoá về kinh tế. Bên cạnh cung ứng tiền tệ cho kinh tế thông qua con đường tín dụng, hàng năm ngân hàng trung ương còn phải bổ sung một phần tiền cung ứng khi chuyển đổi ngoại tệ ròng kết dư nhằm phục vụ mục tiêu ổn định sức mua đối với đồng tiền Việt Nam. Mặt khác, về cơ bản việc phát hành tiền cho vay bù đắp thâm hụt ngân sách của trung ương được chấm dứt từ cuối năm 1994. Kết quả là tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán (M2) hàng năm nhìn chung ổn định, phù hợp với các động thái tăng trưởng và lạm phát. 2.Các công cụ gián tiếp được sử dụng trong thời gian vừa qua tại Việt Nam a.Dự trữ bắt buộc ở Việt Nam Như chúng ta đã biết, dự trữ bắt buộc là công cụ quan trọng nhất thuộc tầm chiến lược của chính sách tiền tệ. Một tỷ lệ dự trữ bắt buộc hợp lysex làm cho các NHTM có thể thực hiện được chức năng tạo tiền và hạn chế được khả năng tạo tiền khi cần thiết. Thực tế cho thấy quốc gia nào sử dụng tốt công cụ này thì sẽ có thể điều tiết được một cách có hiệu quả chu kỳ phát triển của nền kinh tế, ổn định tiền tệ và kiểm soát được lạm phát. ở nước ta, công cụ dự trữ bắt buộc được chính thức sử dụng từ năm 1989. Từ đó đến nay, công cụ này đóng vai trò rất quan trọng trong việc làm tăng, giảm hệ số tạo tiền, kiểm soát tốc đọ tăng tổng phương tiện thanh toán và áp lực tăng giá của nền kinh tế. Tại điều 45 Pháp lệnh ngân hàng, Nhà nước quy định “ tỷ lệ dự trữ bắt buộc ít nhất ở mức 10% và nhiều nhất ở mức 35% ”. Trong một thời gian dài, tỷ lệ 10% (trong đó theo quy định 70% gửi tại NHNN và 30% dưới dạng tiền mặt và ngân phiếu thanh toán tại các NHTM) được ổn định một cách cố định dù chính sách tiền tệ đã trải qua nhiều thời kỳ, với các chủ trương thắt chặt, nới lỏng khác nhau. Như vậy, việc thực hiện bơm tiền vào lưu thông luôn được thực hiện theo những dự kiến nhất định mà không hề tính đến sự biến động của nền kinh tế. Đến đầu năm 1994, ngân hàng Nhà nước có sự thay đổi trong quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc (đối với tiền gửi không kỳ hạn là 13% và với tiền gửi có kỳ hạn là 7%) nhưng vẫn là để áp dụng trong nhiều năm. Mà thực tế đã chứng minh việc thực hiện tỷ lệ dự trữ bắt buộc phải thường xuyên thay đổi phù hợp với yêu cầu của việc thực hiện chính sách tiền tệ thì công cụ này mới có ý nghĩa. Ngoài ra khi tổ chức thực hiện công cụ dự trữ bắt buộc thì theo nguyên tắc việc trích ký quỹ dự trữ đặc biệt phải được thực hiện hàng ngày, phải nắm được số dư tiền gửi hàng ngày nhưng trên thực tế ở nước ta vẫn thực hiện theo định kỳ nửa tháng. Điều này cũng góp phần làm giảm tính chất nhạy cảm của công cụ này. Như vậy ở Việt Nam công cụ dự trữ bắt buộc thực sự chưa được sử dụng linh hoạt, nhạy bén nên đã hạn chế các chức năng vốn có của nó. Từ năm 1999 đến nay, ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã có những điều chỉnh giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đã giảm từ 10% xuống 5%trong năm 2000 đối với các tổ chức tài chính. Đối với các ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn, quỹ tín dụng trung ương, quỹ tín dụng khu vực tỷ lệ này là 1%. Còn các NHNN&PTNT tỷ lệ này giảm xuống mức 3%. Việc hạ thấp tỷ lệ dự trữ bắt buộc trên đã góp phần làm giảm được chi phí hoạt động của các ngân hàng thương mại, tạo cho các ngân hàng thương mại linh hoạt nguồn vốn khả dụng của mình, tạo thêm cơ hội đầu tư vốn có hiệu quả. b.Lãi suất tái chiết khấu Lãi suất tái chiết khấu là một công cụ quan trọng và được sử dụng khá hiệu quả ở nhiều quốc gia trên thế giới trong việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Do vậy, ngày nay, ngay sau khi cải cách hệ thống ngân hàng (từ hệ thống ngân hàng một cấp lên hệ thống ngân hàng hai cấp), công cụ lãi suất tái chiết khấu đã được Nhà nước ta chính thức đưa vào sử dụng tại điều 41 và 43 pháp lệnh ngân hàng. Nhưng thực tế lúc này Việt Nam đang ở trong giai đoạn đầu của kinh tế thị trường nên chưa có đầy đủ các công cụ (trái phiếu, thương phiếu...) để thực hiện công cụ lãi suất tái chiết khấu. Vì thế, Ngân hàng Nhà nước đã sử dụng hình thức cho vay cầm cố. Hình thức này được thực hiện bằng cách các ngân hàng thương mại đem các loại giấy tờ có giá trị đến ngân hàng trung ương làm vật thế chấp để vay tiền. Trong một thời gian khá dài, đây được dùng là công cụ thay thế lãi suất tái chiết khấu và cũng góp phần thúc giúp ngân hàng trung ương điều khiển khối lượng tín dụng khá hữu hiệu. Tuy nhiên, khi áp dụng hình thức cho vay cầm cố, ngân hàng trung ương thường áp dụng tỷ lệ lãi suất bị động, chạy theo lãi suất của các ngân hàng thương mại quốc doanh, chỉ các ngân hàng thương mại quốc doanh mới chịu sự chi phối của công cụ này còn các ngân hàng thương mại cổ phần thì hoàn toàn đứng ngoài cuộc. Hiện nay, khi thị trường tiền tệ của chúng ta phát triển hơn, đã có các công cụ lưu thông: trái phiếu, thương phiếu... thì lãi suất tái chiết khấu bắt đầu được áp dụng để chức năng điều tiết tất cả lãi suất tín dụng trên thị trường. Điều 9 khoản 14 Luật ngân hàng Nhà nước quy định:”lãi suất tái chiết khấu là hình thức lãi suất tái cấp được áp dụng khi ngân hàng Nhà nước tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác cho các ngân hàng thương mại”. Ngày 1/7/1997, thống đốc ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định lãi suất cho vay ngắn hạn là 1%/tháng. Vậy ngân hàng thương mại được lợi 0,1%/tháng. Đến đầu năm 2000, lãi suất tái chiết khấu 0,45%/tháng. Tuy nhiên, do hạn chế của nền kinh tế và thị trường tiền tệ nước ta cũng như việc điều hành các công cụ chính sách tiền tệ nên công cụ lãi suất tái chiết khấu ít ảnh hưởng đến cung cầu trên thị trường vốn, chưa đem lại những hiệu quả mong muốn trong việc thi hành chính sách tiền tệ quốc gia. c.Nghiệp vụ thị trường mở Với tầm quan trọng của công cụ nghiệp vụ thị trường mở, Việt Nam cũng đã dần có những bước đi vững chắc trong việc hoàn thiện nó. Tính cho đến nay, nghiệp vụ thị trường mở của NHNN Việt Nam đã hoạt động được hơn 2 năm và cũng một phần nào thể hiện được vai trò quan trọng của nó đối với NHNN Việt Nam trong việc điều hành chính sách tiền tệ của NHTM. Tuy nhiên, việc thực hiện nghiệp vụ thị trường mở ở nước ta còn bộc lộ nhiều hạn chế. Cụ thể hiện tại số lượng thành viên hiện đang niêm yết trên thị trường vẫn còn rất ít, ngoài ra doanh số mua bán còn hạn chế trong mỗi phiên giao dịch; nhìn chung hoạt động thị trường mở còn trầm lặng chưa trở thành công cụ đắc lực của chính sách tiền tệ ở nước ta hiện nay. Nguyên nhân của những hạn chế là do nghiệp vụ thị trường mở là nghiệp vụ rất mới mẻ đối với các tổ chức tín dụng ở Việt Nam. Người dân biết quá ít về chứng khoán và các nghiệp vụ thị trường mở. Mặt khác trên thị trường liên ngân hàng chưa thực sự phát triển. Bên cạnh đó hàng hoá trên thị trường rất hạn chế về cả chủng loại và số lượng, thường xuyên diễn ra tình trạng khan hiếm hàng hoá làm nản lòng các nhà đầu tư. Ngoài ra việc sử dụng tín phiếu kho bạc trên thị trường thứ cấp chưa linh hoạt, các tổ chức tín dụng thường sử dụng các tín phiếu này như một công cụ đầu tư hơn là một công cụ của thị trường tiền tệ để điều tiết lượng vốn không dồi dào nguồn tiền Việt nam để tham gia mua tín phiếu trên thị trường sơ cấp từ đó dẫn đến việc không có hàng hoá trên thị trường mở. Theo số liệu của NHNN cho đến nay có hơn 20 tổ chức tín dụng đã được cấp giấy công nhận thành viên tham gia nghiệp vụ thị trường mở. Từ khi khai trương đến tháng 12/2000, thị trường chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh đã thực hiện 13 phiên giao dịch nghiệp vụ thị trường mở với tổng khối lượng tín phiếu mua bán là 1428 tỷ. Với những con số cụ thể ở trên ta đã thấy được hạn chế trong nghiệp vụ thị trường mở ở nước ta, vậy ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ có giải pháp gì? Chúng tôi xin đề xuất một số giải pháp sau đây. Trước hết NHNN Việt Nam nên xem xét kế hoạch để trình Chính phủ cho sửa đổi các quy định cũ, nhằm cho phép tất cả các loại trái phiếu đều có thể tham gia giao dịch và đưa cổ phiếu do cơ quan tín dụng Nhà nước phát hành vào thị trường mở và xem xét lại những văn bản pháp quy những quy định liên quan đến thị trường mở nhằm thu hút thêm số lượng thành viên tham gia niêm yết, Một mặt NHNN cần có thêm hàng hoá để tăng cường và hoàn thiện các hoạt động của thị trường mở coi đó là một phương tiện quan trọng để quản lý đối với tiền tệ, mặt khác sẽ mở rộng hoạt động của thị trường mở để hiện đại hoá hệ thống thanh toán liên ngân hàng. Các cơ quan NHNN Việt nam, Bộ Tài chính, Kho bạc Nhà nước cùng phối hợp để phát triển thị trường bán đấu giá trái phiếu kho bạc. Hy vọng với những bước đi thích hợp đã nêu ở trên, công cụ điều tiết lượng tiền gián tiếp của Nhà nước sẽ có hiệu quả hơn góp phần đạt được mục tiêu của chính sách tiền tệ là ổn định tiền tệ tăng trưởng kinh tế trở thành một kênh huy động vốn đắc lực của Việt Nam. 3.Các công cụ trực tiếp được sử dụng thời gian qua a.Lãi suất tín dụng Trước hết chúng ta phải khẳng định rằng công cụ lãi suất tín dụng là một công cụ trực tiếp sắc bén trong điều hành chính sách tiền tệ, nhằm góp phần cùng với các công cụ khác của chính sách tiền tệ đạt được mục tiêu cuối cùng. NHTW là cơ quan duy nhất có quyền điều khiển trực tiếp lãi suất tín dụng trong nền kinh tế. Những năm trước đây NHTW điều hành lãi suất, cơ chế lãi suất “trần - sàn”, có nghĩa là giới hạn các NHTM không được cho vay với lãi suất vượt mức lãi suất cao nhất mà NHTW ấn định và NHTM không được trả lãi suất cho người gửi với mức lãi suất thấp hơn quy định. Biện pháp này nhằm bảo vệ quyền lợi người vay và người cho vay trước các NHTM. Sau đó NHTW Việt nam (giai đoạn từ đầu năm 1996 đến 8/2000) chỉ quy định trần lãi suất cho vay và chỉ đạo mức chênh lệnh giữa lãi suất cho vay và lãi suất nhận gửi tối đa là 0,35%/tháng. Trên cơ sở đó định hướng cho các NHTM chủ động quy định mức lãi suất nhận gửi cho phù hợp. Nhưng chính sách này chỉ thích hợp trong trường hợp: Cầu tín dụng lớn hơn cung tín dụng Ngân hàng hoạt động trong môi trường độc quyền. Trong những điều kiện đó ngân hàng sẽ cho vay với mức lãi suất cao nhất để tối đa hoá lợi nhuận. Tuy nhiên trong trường hợp ngược lại khi cung tín dụng lớn hơn cầu về tín dụng các NHTM buộc phải cắt giảm mức lãi suất, chính sách trần lãi suất tỏ ra mất tác dụng, các NHTM khó sử dụng công cụ lãi suất một cách nhạy cảm. Liên hệ thực tế ở Việt Nam những năm 1999, đặc biệt là những tháng cuối năm nhu cầu vay vốn bị thu hẹp, vốn ở các NHTM bị đóng băng, tình trạng này làm tăng thêm tính quyết liệt trong cạnh tranh giữa các NHTM trong việc hạ lãi suất. Có NHTM cho vay với lãi suất 0,68%/tháng, điều này làm nảy sinh các tiêu cực trong cạnh tranh làm suy yếu hệ thống tài chính, làm mất ổn định nền kinh tế. Trước tình hình đó, NHNN đã có quyết định bãi bỏ trần lãi suất cho vay và chuyển sang công bố lãi suất cơ bản dựa trên việc tham khảo lãi suất cho vay ngắn hạn thông thường của NHTM. Lãi suất cho vay và lãi suất huy động gắn liền với lãi suất cơ bản. Hiện nay tại Việt nam lãi suất cơ bản quy định là 0,65%. Việc chuyển sang điều hành lãi suất cơ bản hạn chế được những nhược điểm hình thành lãi suất bình quân hợp lý trên cơ sở quan hệ cung cầu, phản ánh kịp thời các tín hiệu của thị trường vốn tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh đồng thời NHTW giảm bớt mức độ can thiệp thị trường của mình, và hoạt động lãi suất cung ứng tiền tệ giao quyền tự chủ nhiều hơn trong các NHTM, tổ chức tín dụng kịp thời đáp ứng nhu cầu về vốn trên thị trường. Bằng việc điều hành lãi suất này, NHTW có thể can thiệp vào thị trường tiền tệ một cách hữu hiệu hơn góp phần làm ổn định lạm phát. Để duy trì tỷ giá ở mức hợp lý, một trong những biện pháp của NHTW có thể làm là thay đổi mức lãi suất khi lãi suất tăng đồng tiền của nước đó có giá trị hơn và làm tăng tỷ giá của dồng nội tệ so với ngoại tệ. Chính vì vậy mà chính sách tỷ giá và chính sách lãi suất là một phần không thể thiếu được trong chính sách tiền tệ. Đây là một bước tiến quan trọng trên con đường chuyển từ điều tiết lượng tiền trực tiếp sang gián tiếp ở Việt Nam. b.Chính sách tỷ giá Đây là một công cụ điều tiết lượng tiền trực tiếp bổ trợ cho các công cụ khác của chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên chúng ta cũng phải thừa nhận rằng trong thời gian qua NHNN Việt Nam đã có những thành công nhất định trong việc điều hành chính sách tỷ giá đặc biệt là trong lĩnh vực ổn định thị trường ngoại tệ. Nền kinh tế nước ta ngày càng phát triển thì cơ chế trên vẫn chưa thật sự thuyết phục. Chính vì vậy tháng 2 năm 1999 NHTW quyết định thay đổi cơ chế điều hành tỷ giá mới ở Việt Nam. Thay cho việc công bố tỷ giá chính thức như trước đây (tỷ giá này thường xuyên không phản ánh đúng tỷ giá thực tế trên thị trường) bằng việc công bố tỷ giá bình quân ngoại tệ trên thị trường liên ngân hàng, với biên độ được phép là 0,1% so với tỷ giá giao dịch ngày hôm trước. Với cơ chế điều hành tỷ giá mới, tỷ giá bình quân trên thị trường liên ngân hàng sẽ trở nên gần gũi hơn với tỷ giá tự do, phản ánh chính xác hơn cung cầu trên thị trường ngoại tệ. Xét trên tầm vĩ mô, những biến động về tỷ giá giúp cho NHTW quan sát được tình trạng cung cầu về ngoại tệ trong nền kinh tế để có quyết định kịp thời. Giữa lãi suất và tỷ giá có mối quan hệ khá chặt chẽ biểu hiện khi tỷ giá có xu hướng giảm thì người ta quan tâm đến lãi suất và ngược lại. Để ổn định được tỷ giá, NHTW phải kiểm soát được các nguồn ngoại tệ di chuyển, thu hút thêm ngoại tệ để tăng nguồn dự trữ quốc gia không nên vội vã áp dụng tỷ giá thả nổi khi chưa đủ các điều kiện. V. Định hướng và giải pháp hoàn thiện chính sách tiền tệ ở Việt Nam. 1.Định hướng Phần trên ta đã nghiên cứu chính sách tiền tệ ở Việt nam, những mặt được và chưa được của chính sách tiền tệ, một công cụ quan trọng trong hệ thống chính sách kinh tế xã hội của Chính phủ. Trong thời gian tới Việt Nam cần phải năng động hơn trong bối cảnh hiện trạng kinh tế trong nước, trong khu vực cũng như trên toàn cầu đang sôi động đòi hỏi sự nhanh nhạy chính xác hiệu quả. Từ trước tới nay về cơ bản Việt Nam thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm ổn định kinh tế, do xu hướng biến chuyển của nền kinh tế ngày càng cần một chính sách mềm dẻo linh hoạt nhằm hướng vào các mục tiêu của nền kinh tế. Một số việc cần làm trong thời gian tới: Chuyển điều tiết lượng tiền từ công cụ trực tiếp sang gián tiếp Nới lỏng chính sách tiền tệ để kích cầu và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ổn định tiền tệ, bảo vệ giá trị đối nội và đối ngoại của đồng tiền trên cơ sở kiểm soát được lạm phát, cân bằng được cán cân thanh toán quốc tế, ổn định được tỷ giá hối đoái cũng như chống thâm hụt ngân sách. Thực hiện một chính sách tiền tệ góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm. Trên đây là một số các mục tiêu cơ bản nhằm tăng thêm sức mạnh của chính sách tiền tệ làm tăng hiệu quả và vai trò của chính sách tiền tệ trong quản lý kinh tế vĩ mô. Qua đó chính sách tiền tệ phát huy tối đa tác dụng của mình giúp Chính phủ thực hiện được những mục tiêu quản lý vĩ mô nền kinh tế đồng thời xây dựng được một thị trường tiền tệ có sức mạnh, một hệ thống tín dụng ngày càng hoàn thiện nâng cao hơn nữa nghệ thuật và chiến lược sử dụng chính sách tiền tệ của quản lý vĩ mô. Vậy con đường trong tương lai để đạt được các mục tiêu đề ra trong chính sách tiền tệ là phải thực hiện một chính sách mềm dẻo linh hoạt với các công cụ gián tiếp rất nhạy cảm với thị trường tiền tệ. 2. Giải pháp Để chuyển sang công cụ gián tiếp chúng ta cần phải có một hệ thống ngân hàng hoạt động lành mạnh trong môi trường có sự cạnh tranh. Như vậy chúng ta cần phải chấn chỉnh lại hoạt động của hệ thống ngân hàng, nâng cao chất lượng và đảm bảo NHTW giữ vị trí trung tâm. Củng cố chức năng của NHTW, NHTW phải đóng vai trò chủ chốt trong việc củng cố thị trường liên ngân hàng và thị trường tiền tệ còn yếu kém. Cơ cấu tổ chức lại để các biện pháp gián tiếp đạt hiệu quả. Xây dựng lại cơ cấu của NHTM, hiện đại hoá các hệ thống thanh toán, đa dạng hoá các hình thức cho vay cũng như thu hút các nguồn vốn. Tạo điều kiện thuận lợi cho thị trường tiền tệ thứ cấp phát triển, phát huy hiệu quả của nó trong thị trường tiền tệ. Tiếp tục hoàn thiện các kênh truyền đẫn vốn để đảm bảo cho các công cụ gián tiếp đạt hiệu quả, không ngừng củng cố và hoàn thiện hệ thống tài chính. Phát triển hơn nữa thị trường chứng khoán, khuyến khích cổ phần hoá để tăng thêm lượng các công ty ra nhập thị trường chứng khoán làm tăng thêm sức mạnh của các công cụ trên thị trường mở. Hy vọng rằng khi hội đủ các điều kiện trên đây, chúng ta sẽ hoàn toàn tự tin khi chuyển các công cụ từ trực tiếp sang gián tiếp. Kết luận Đất nước ta đã bước sang một thời kỳ mới, thời kỳ của sự giao lưu và hợp tác quốc tế. Trước xu thế hợp tác hoá và toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ trong đó liên kết kinh tế là yếu tố hàng đầu. Để bắt kịp xu thế của thời đại, chúng ta cần phải có những bổ sung điều chỉnh thích hợp trong chính sách tiền tệ theo hướng chủ động phù hợp với hoàn cảnh trong nước trên cơ sở tham khảo những mô hình của nước ngoài. Trong bài viết ngắn này, dựa vào những kiến thức đã tích luỹ được trong môn học cùng với sự tham khảo những tài liệu có liên quan em hy vọng rằng với những ý kiến có thể chưa thật sắc bén của mình nhưng nó thể hiện việc ham học hỏi và nghiên cứu. Đề tài này là một công trình nghiên cứu chính vì vậy còn nhiều thiếu sót khuyết điểm, rất mong được sự châm chước và phê bình. Lời cuối cùng cũng là lời cảm ơn trân trọng nhất xin được gửi tới PGS.TS Lê Đức Lữ, người đã hướng dẫn, góp ý cho đề tài được hoàn thành. Tài liệu tham khảo 1. Giáo trình kinh tế vĩ mô 2. Giáo trình Lý thuyết Tài chính - tiền tệ 3. Tạp chí Khoa học ngân hàng 4. Tạp chí Economic 5. Tạp chí Tài chính Mục lục Phần mở đầu 1 I. Chính sách tiền tệ và mục tiêu của chính sách tiền tệ 1.Vị trí và vai trò của chính sách tiền tệ 2 2.Mục tiêu của chính sách tiền tệ 3 2.1.Kiểm soát lạm phát, ổn định giá cả, ổn định sức mua đối nội của đồng tiền 4 2.2.ổn định sức mua của đồng tiền 4 2.3.Tăng trưởng kinh tế 5 2.4.Tạo công ăn việc làm 6 II. Nội dung cơ bản của chính sách tiền tệ 7 1.Cung ứng và điều hoà khối tiền tệ 7 2.Chính sách tín dụng cho nền kinh tế 10 3.Chính sách ngoại hối 11 4.Chính sách đối với ngân sách nhà nước 14 III. Các công cụ thực hiện chính sách tiền tệ 15 1.Nghiệp vụ thị trường mở 15 2.Chính sách chiết khấu 16 3.Dự trữ bắt buộc 17 4.Kiểm soát hạn mức tín dụng 17 5.Quản lý lãi suất của các ngân hàng thương mại 18 IV.Chính sách tiền tệ ở Việt nam 20 1.Chính sách tiền tệ với công cuộc cải cách và phát triển kinh tế ở Việt nam 20 2.Các công cụ gián tiếp được sử dụng trong thời gian vừa qua tại Việt Nam 22 3.Các công cụ trực tiếp được sử dụng thời gian qua 25 V.Định hướng và giải pháp hoàn thiện chính sách tiền tệ ở Việt Nam 27 1.Định hướng 27 2..Giải pháp 28 Kết luận 30 Tài liệu tham khảo 31

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0898.doc
Tài liệu liên quan