Đề tài Một số vấn đề về huy động vốn trong nước cho đầu tư phát triển ở Việt Nam

* Phát hành công trái với nhiều hình thức có thể vô danh hoặc hữu danh ghi sổ, có in mệnh giá hoặc không in mệnh giá. Lãi suất công trái phải được xác định dựa trên nguyên tắc bảo toàn vốn cho ngưới mua công trái theo tỉ lệ lạm phát, kết hợp với động viên tinh thần yêu nước của nhân dân và trách nhiệm nghĩa vụ của công dân mua công trái góp phần xây dựng tổ quốc. * Phát hành trái phiếu Chính phủ bằng đồng Việt Nam, có thể thực hiện theo các hình thức như đấu thầu thông qua đại lí, môi giới để huy động vốn nhàn rỗi trong các tổ chức tài chính, ngân hàng, bảo hiểm. Đối tượng tham gia đấu thầu là các đại lí đấu thầu để bảo lãnh phát hành, thanh toán trái phiếu Chính phủ là các ngân hàng thương mại, công ty tài chính, quỹ đầu tư, công ty bảo hiểm. Đơn vị được lựa chọn sẽ làm môi giới bán lẻ trái phiếu ra thị trường thứ cấp. Cách phát hành này thực chất là chứng khoán hoá các trái phiếu Chính phủ mà nhiều nước đã làm. Nó sẽ tạo điều kiện cho Nhà nước chủ động huy động được một lượng vốn lớn kịp thời đáp ứng được nhu cầu sử dụng, giảm lãi suất huy động đồng thời tạo được nhiều hàng hoá để phát triển thị trường vôn, thị trường chứng khoán , tạo khả năng huy dộng vốn dài hạn.

doc33 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1415 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số vấn đề về huy động vốn trong nước cho đầu tư phát triển ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
y động nguồn vốn này cũng không dễ dàng. Vốn viện trợ thường không thường xuyên và có những ràng buộc nhất định, đôi khi còn tuỳ thuộc vào quan hệ chính trị giữa các nước . Vốn vay cũng không đơn giản và còn phải tính đến khả năng hoàn trả chưa kể còn có những khoản lãi lớn. Đối với loại vốn này người vay thường phải chấp nhận nhiều điều kiện bất lợi như phải mua các thiết bị và công cụ lao động của nước cho vay, thường là lạc hậu so với công nghệ hiện đại, hoặc phải thuê chuyên gia của nước cho vay lắp đặt, hướng dẫn vận hành với tiền công rất cao ... Trong nhiều trường hợp, vốn vay đã gây hậu quả nặng nề cho nền kinh tế. Kinh nghiệm cảu Braxin và nhiều nước khác đã cho chúng ta nhiều bài học bổ ích về việc vay vốn nước ngoài. Tình hình vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào Việt Nam trong thời gian qua cho thấy, cần phải cân nhắc kĩ lưỡng khi gọi đầu tư nước ngoài. Trong các dự án đầu tư thì chủ yếu là của các nước NIC , các công ty lớn chưa nhiều và phần lớn vẫn tập trung ở thành phố và các nghành dịch vụ, du lịch, khách sạn. Còn ở các khu vực và nghành đang cần vốn đầu tư nước ngoài thì quá ít chẳng hạn như các dự án về nông - lâm - ngư nghiệp. Việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài trong những năm qua đã thu được những kết quả đáng khích lệ và phải đẩy mạnh hơn nữa . Nhưng dù có thể đạt được tỉ lệ cao hơn trong thời gian tới thì nguồn vốn trong nước vẫn giữ vai trò quyết định trong giai đoạn đầu của sự nghiệp công nghiêp hoá - hiện đại hoá đất nước. Chương II . tổng quan tình hình huy động vốn trong nước cho đầu tư phát triển . Nguồn lực tài chính. Nguồn vốn Nhà nước. 1.1.1. Nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước. * Thực trạng huy động vốn từ ngân sách Nhà nước. - Mặc dù ngân sách Nhà nước luôn trong tình trạng căng thẳng nhưng hàng năm ngân sách Nhà nước vẫn cố gắng dành trên dưới 20% chi ngân sách cho xây dựng cơ bản. Hiện nay việc huy động nguồn vốn này tập trung chủ yếu vào đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế, văn hoá, xã hội, phát triển nông lâm nghiệp, an ninh quốc phòng, đầu tư hỗ trợ vốn doanh nghiệp Nhà nước và quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia, làm nguồn vốn mở đường thu hút các nguồn vốn khác. Các dự án từ phần vốn này cũng chủ yếu là các dự án giao thông, thủy lợi, trồng rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ, bảo tồn thiên nhiên, giáo dục y tế. Phúc lợi công cộng, nghiên cứu khoa học, quốc phòng an ninh, công trình văn hóa xã hội.Tỉ trọng chi cho đầu tư phát triển trong tổng chi ngân sách Nhà nước trong những năm gần đây đã tăng khá song vẫn còn thấp chỉ đạt khoảng 23%, Tỉ lệ đầu tư từ ngân sách Nhà nước so với GDP mới chỉ đạt khoảng 6.6% không kể khấu hao. - Đầu tư từ ngân sách Nhà nước hiện nay tuy có hiệu quả hơn trước đây, đã tạo ra dược nhiều công trình quan trọng cho đất nước song vẫn còn một số tình trạng yếu kém. Đó là sự dàn trải đầu tư cho nhiều công trình ở nhiều nghành trên phạm vi cả nước nhất là những công trình thuộc nhóm C với khá nhiều vốn bị "chôn" vào các công trình dở dang và nhất là còn tình trạng yếu kém trong quản lí gây thất thoát vốn do nạn tham nhũng. * Khả năng huy động vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước. Trong những năm gần đây quy mô ngân sách Nhà nước không ngừng tăng lên nhờ mở rộng nhiều nguồn thu khác nhau nhưng chủ yếu qua huy động thuế và phí ( chiếm trên 90% các khoản thu ngân sách Nhà nước ), tỉ lệ động viên GDP vào ngân sách Nhà nước cũng tăng ( trên 20% GDP ). Song nhiều nguồn thu như thu từ đất đai nhà ở, dịch vụ công ích còn để thất thoát và lãng phí lớn. Vì vậy nguồn đầu tư từ đây sẽ không phải là nguồn đầu tư chủ yếu mà chỉ mang tính chất định hướng đầu tư vào các công trình trọng diểm và làm vốn mở dường thu hút các nguồn vốn khác đầu tư vào phát triển sản xuất kinh doanh. 1.1.2. Nguồn vốn trong các doanh nghiệp Nhà nước. Hiện nay các doanh nghiệp Nhà nước vẫn đang nắm giữ những nghành then chốt nhất trong nền kinh tế song nguồn vốn của các doanh nghiệp Nhà nước có tỉ trọng trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội còn thấp ước khoảng 15%. Nguồn vốn đầu tư ban đầu và các nguồn vốn cấp bổ sung chủ yếu dược rót từ ngân sách Nhà nước với lượng khá lớn song tình trạng phân tán vốn ngân sách vào nhiều doanh nghiệp vẫn còn, dẫn đến không tích tụ tập trung. Đã vậy số vốn thực hoạt động ( vốn chủ sở hữu trừ đi số vốn không hoạt động như tài sản cố định chưa cần dùng, nợ khó đòi, nợ phải thu ) của doanh nghiệp vẫn còn rất thấp. Nguồn từ khấu hao cơ bản để lại và lợi nhuận sau thuế cũng rất thấp. Thêm nữa tình trạng nợ nhiều và chiếm dụng vốn lớn còn làm cho vòng quay vốn lưu động giảm xuống.. Theo số liệu của tổng cục quản lý và tài sản Nhà nước tại doanh nghiệp, tổng số nợ phải thu của DNNN là 91.079 tỷ đồng, bằng khoảng 4 lần vốn lưu động của họ, trong đó nợ khó đòi là 2.096 tỷ đồng, bằng khoảng 9,2% vốn lưu động. Vốn vay nhiều, lãi suất tín dụng cao, tiền lãi phải trả lớn, năm 2000 số lãi phải trả là 4.852 tỷ đồng, chiếm 2,2% tổng chi phí của các doanh nghiệp và bằng 37% tổng số lợi nhuận của các DNNN trong năm. Nguyên nhân của sự yếu kém kể trên là do hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp, đánh giá tài sản cố định chưa đúng, khấu hao chưa hết, đầu tư cho thiết bị quá thấp, dây chuyền thiết bị công nghệ thiếu đồng bộ, chắp vá và còn lạc hậu, đội ngũ cán bộ thiếu trình độ năng lực quản lí ... Tuy nhiên mấy năm gần đây, các DNNN đã mở rộng cả về số lượng và qui mô cũng như đã hướng đầu tư hơn theo chiều sâu và mở rộng kinh doanh Số lượng DNNN đến cuối năm 2000 được ghi nhận là 6.480 trong đó số doanh nghiệp có mức vốn dưới 1 tỷ đồng và doanh nghiệp có số công nhân dưới 100 người đang giảm dần, trong khi số doanh nghiệp có số vốn trên 1 tỷ đồng và có số công nhân trên 500 người đang tăng lên. Số vốn của các doanh nghiệp tự đầu tư trong  năm 2000 là 2.500 tỷ đồng ( chỉ chiếm 3,2% tổng số vốn của DNNN). 1.2. Nguồn vốn dân cư 1.2.1.Nguồn vốn cá nhân, hộ gia đình Theo các chuyên gia kinh tế, nguồn vốn trong dân cư hiện có khoảng 6 - 8 tỉ USD, qua diều tra của bộ kế hoạch và đầu tư, tổng cục thống kê cho thấy lượng vốn huy động từ các cá nhân, hộ gia đình thường qua các hình thức sau: - Huy động qua tiền gửi tiết kiệm, gửi không kì hạn, kì phiếu , trái phiếu của các tổ chức tín dụng với các mức lãi suất khác nhau và cũng khá hấp dẫn, thường là cao hơn mức lạm phát và mới đây là gửi tiền vào Quỹ tiết kiệm bưu điện. Do đó đây là hình thức được lựa chọn phổ biến và rộng rãi nhất ở nước ta. - Huy động qua trái phiếu Kho bạc Nhà nước . Hình thức này mới xuất hiện ở nước ta từ năm 1992 đến nay. Loại trái phiếu này có lãi suất cao nhất, cao hơn cả lãi suất tiền gửi ngân hàng cùng kì hạn lại đảm bảo nhất. Đây là điều khác hẳn so với các nước và thông lệ quốc tế. Đồng thời trái phiếu không phải phát hành qua Sở giao dịch chứng khoán mà do Kho bạc Nhà nước trực tiếp bán lẻ ra công chúng. Do đó, đây cũng là hình thức được đông đảo dân chúng lựa chọn. - Đầu tư, hùn vốn kinh doanh nhưng chủ yếu là đầu tư ngắn hạn .. . - Mua cổ phiếu của các công ty. Tuy nhiên hình thức này không mang tính chất phổ biến, chỉ tập trung ở một phạm vi hẹp nào đó, do số lượng các công ty này chưa nhiều, làm ăn chưa có uy tín và người dân chưa quen với việc mua cổ phiếu trong các công ty cổ phần mà chủ yếu là cán bộ và công nhân trong doanh nghiệp cổ phần hoá, hoặc những người có thu nhập cao ... - Ngoài các hình thức huy động vốn trên còn có một số hình thức khác song vẫn còn một lượng lớn người dân để tại nhà cho tiện chi tiêu sử dụng hoặc mua vàng đôla cất giữ đặc biệt là trong những thời điểm lạm phát tăng cao hoặc tỉ giá biến động. Đây là hình thức phổ biến nhất ở Việt Nam nhất là những người kinh doanh hoặc bán buôn bán lẻ, còn hình thức mua vàng thường phổ biến ở những người già. Hình thức này chiếm 44% tiền để dành của dân. 1.2.2 .Nguồn vốn của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh . Nhờ chính sách đổi mới kinh tế, chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần nên nhiều doanh nghiệp ngaòi quốc doanh ( như công ty trách nhiệm hữu han, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân ) đã dược hình thành, tập hợp được một lực lượng vốn ngày càng lớn cả số lượng và về chất lượng góp phần cải thiện điều kiện đời sống của nhân dân, thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng , giải quyết công ăn ăn việc làm cho xã hội tăng thu nhập lao động , tăng mức nộp ngân sách, tăng khả năng thu hút vốn. Hiện nay tỉ trọng của nguồn vốn này trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội khá cao ( khoảng 30% ) và có tốc độ tâng tương đối nhanh ( trên 10% ) . Tuy vậy về quy mô các doanh nghiệp này còn nhỏ, công nghệ còn lạc hậu, hầu như không liên doanh liên kết được với nhau, khoảng 50% số doanh nghiệp không được mở rộng đầu tư chỉ có 36% tăng vốn điều lệ 1 đến 2 lầnvà 5% tăng trên 2 lần. Theo ước tính nguồn vốn của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có khoảng trên 30 nghìn tỉ đồng nhưng hiện mới huy động được khoảng 70% tổng nguồn vốn. Phần còn lại do chưa có biện pháp thu hút tốt nên đã được dùng để mua vàng, đôla tích trữ hoặc mua các đồ dùng đắt tiền, lâu bền mà chưa dành cho đầu tư tăng trưởng. Ngoài ra, việc đầu tư cũng chưa được định hướng tốt. Phần nhiều còn dành cho việc xây dựng nhà cửa, khách sạn mini hoặc đất đai với mục đích đầu cơ tích trữ hay giữ tiền. 2. Nguồn lực khác. Nguồn lực lao động Số người trong độ tuổi lao động nước ta hiện nay có khoàng 40 triệu. Tốc độ tăng nguồn lao động cũng rất cao nhưng chất lượng lao động chưa cao.Mặc dù chất lượng lao động của nước ta ngày càng được nâng cao, lực lượng lao động có kĩ rhuật ngày càng tăng song vẫn có gần 90% lao động không có trình độ chuyên môn kĩ thuật, lao động kĩ thuật chỉ chiếm trên10%, trong số đó chỉ có 20% trinh độ đại học trở lên Lực lượng lao động kĩ thuật đã ít nhưng việc huy động vào các vùng và các nghành cũng chưa hợp lí, tập trung quá mức ở các cơ quan trung ương và thành phố, trong khi đó ở các địa phương nhất là các tỉnh miền núi cao nguyên lực lượng lao động kĩ thuật chiếm rất ít. Lực lượng lao động trong các nghành kinh tế quốc dân và các nghành sản xuất chủ yếu có tỉ trọng lao động kĩ thuật còn chưa cao. Với một nguồn lao động phong phú và giá nhân công rẻ như nước ta hiện nay là một thuận lợi lớn song lao động thiếu kĩ thuật lại là một khó khăn đáng lo ngại. Vì vậy việc huy động nguồn lực lao động vào các nghành vùng cho đầu tư phát triển sản xuất như thế nào cũng cần phải được quan tâm thích đáng. Nguồn lực tự nhiên. Nước ta nằm ở rìa bán đảo Đông Nam á có nhiều tài nguyên thiên nhien về năng lượng nhiên liệu, khoáng sản, tài nguyên rừng, tài nguyên biển, tài nguyên đất thuận lợi cho phát triển công nghiệp, nông-lâm-ngư nghiệp. Song việc huy động các tài nguyên này vào phát triển kinh tế xã hội thật sự chưa được quan tâm đúng mức. Trong nông nghiệp còn chưa có những chính sách tốt để huy động tối đa những nguồn lực tự nhiên, trong công nghiệp do trình độ thấp nên nhiều tài nguyên chưa được khai thác , sử dụng 2.3.Vật tư kĩ thuật, cơ sở hạ tầng vật chất xã hội. Đây là nguồn lực mang tính chất cơ sở nền tảng để công nghiêp hoá - hiện đại hoá vì chúng ta có xây dựng, bố trí cơ cấu cơ sở hạ tầng vật chất xã hội theo đúng hướng phục vụ cho mục tiêu đất nước chúng ta mới có dược những cơ sở vững chắc để phát triển kinh tế. Cơ sở hạ tầng vật chất xã hội là lĩnh vực cần nhiều vốn song lại thu hồi vốn chậm nên có ít dự án đầu tư nước ngoài do đó cần phải dựa vào vốn đầu tư trong nước. Hiện nay cơ sở hạ tầng vật chất xã hội ở nước ta còn chưa được tốt, hệ thống giao thông ahưa thật sự phát triển hoặc phát triển chậm so với yêu câuc phát triển của kinh tế - xã hội, hệ thống nhà xưởng bến bãi kho tàng còn yếu kém, mạng lưới y tế giáo dục cũng như nhiều cơ sở hạ tầng khác cũng còn ở mức thấp chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của kinh tế - xã hội. Chương III . các biện pháp tăng cường huy động vốn trong nước ở Việt Nam. 1. Tiết kiệm, tích luỹ. 1.1. Khuyến khích tiết kiệm Nền kinh tế nước ta có bước khởi đầu rất thấp, thu nhập bình quân đầu người hiện nay khoảng 400 USD một năm, cơ sở vật chất kĩ thuật kinh tế xã hội của đất nước nhìn chung còn lạc hậu, nghèo nàn do vậy đòi hỏi chúng ta phải coi trong tiết kiệm. Để có thể khuyến khích người dân tiết kiệm Nhà nước cần có các biện pháp như: - Gương mẫu trong tiết kiệm chi triêu công cộng để người dân tin rằng nguồn vốn của mình được Chính phủ sử dụng có hiệu quả, giảm tối đa các khoản chi chưa thật bức xúc, nhanh chóng đổi mới bộ máy quản lí Nhà nước ở các cấp, tinh giản biên chế để giảm khoản chi nuôi bộ máy Nhà nước quá cồng kềnh, đồ sộ mà hiệu lực chưa cao như hiện nay, đẩy mạnh chống hiện tượng thất thoát, lãng phí , tham nhũng ... - Tạo cho nhân dân thói quen tiết kiệm bằng một số biện pháp khuyến khích hay bắt buộc hoặc hạn chế chi tiêu của nhân dân như khuyến khích cán bộ công nhân viên giữ lại một phần lương tiết kiệm hay bắt buộc, với môt số đối tượng phải giữ lại một tỉ lệ lương vào quỹ dự phòng ( ở Singapo nộp 40% lương vào quỹ dự phòng ) . Đặc biệt là đánh thuế cao vào những hàng hoá xa xỉ nhập từ nước ngoài hoặc các nơi kinh doanh dịch vụ giải trí đắt tiền chưa phù hợp với thu nhập người dân nói chung hoặc một số dịch vụ tuy là mang tính chất giải trí song nó lại là không cần thiết và không có những tác động tốt đến nghỉ ngơi giải trí của dân cư. - Duy trì lạm phát ở mức thấp, giữ tỉ giá ổn định để đảm bảo cho người dân an tâm khi gửi tiền hay đầu tư bởi lẽ nếu đồng tiền bất ổn định, người dân sẽ thích mua vàng đôla để cất trữ hơn là đầu tư , tiết kiệm. 1.2. Khuyến khích các doanh nghiệp tự tích lũy Trước hết doanh nghiệp phải tự mình tạo lập và phát triển nguồn vốn tự có bằng cách trích từ lợi nhuận thu được chứ không phải là đòi hỏi cấp thêm vốn vì thua lỗ. Mặt khác việc phân phối lợi nhuận của doanh nghiệp phải dựa trên nguyên tác bảo toàn vốn, tránh hiện tượng lãi giả lỗ thật ăn cả vào vốn và cuối cùng không đủ để tái đầu tư giản đơn phục chế tài sản ban đầu.Để khuyến khích cũng các doanh nghiệp tự tích luỹ thì cần phải - Có các cơ chế thích hợp để các doanh nghiệp hùn vốn hoặc vay vốn của nhau trên thị trường đặc biệt là với các doanh nghiệp nhỏ điều này sẽ tạo ra một lượng vốn lớn để các doanh nghiệp tham gia đầu tư phát triển. - Có các quy định cụ thể cho phép các doanh nghiệp bán các tài sản hoặc quyền sử dụng đất đai mà doanh nghiệp sử dụng không hiệu quả để có thêm vốn đầu tư trang thiết bị hiện đại . - Mở rộng quyền tự chủ kinh doanh của các doanh nghiệp theo hướng cơ cấu lại vốn sản xuất và tài sản của doanh nghiệp một cách hợp lí, tính đủ giá trị quyền sử dụng đất vào vốn và tài sản tại doanh nghiệp. - Cho phép các doanh nghiệp được khấu hao nhanh để tạo vốn cho tái đầu tư là điều kiện để đổi mới công nghệ, đầu tư vào chiều sâu, hạ giá thành sản phẩm để tăng tích luỹ ở giai đoạn kế tiếp. - Sắp xếp cho các doanh nghiệp theo hướng hợp nhất các đơn vị làm ăn có hiệu quả để mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh đồng thời nâng cao chất lượng quản lí để đủ sức cạnh tranh với các nước trên thế giới. Phát triển các công ty cổ phần và thị trường chứng khoán. 2.1. Phát triển các công ty cổ phần. Công ty cổ phần sẽ là một hình thức huy động vốn phổ biến nhất trong tương lai, là chủ thể quan trọng để hình thành nên thị trường vốn song hiện nay việc thành lập các công ty cổ phần cũng như thí điểm cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta diễn ra còn rất chậm. Vì vậy chúng ta cần cấp thiết đẩy mạnh cổ phần hoá nhất là các công ty cổ phần đại chúng có phát hành cổ phiếu trái phiếu. Đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước cũng là để tăng vốn đầu tư mới cho doanh nghiệp đồng thời làm tăng thu ngân sách Nhà nước. Hiện nay tuy môi trường thể chế cần thiết đã hình thành, nhưng còn thiếu cụ thể trên nhiều phương diện, đôi khi còn mâu thuẫn nhau. Để giải quyết những tồn tại đó, không nên làm theo cách " sai đâu sửa đó ", " vừa làm vừa sửa " mà nên làm một cách cơ bản, có triết lí và có hệ thống từ đầu: * Nhà nước cần hiểu rõ điều mà các doanh nghiệp quan tâm hàng đầu khi đưa ra phương án sản xuất kinh doanh đó là làm sao mở rộng và đa dạng hoá nghành nghể, đa dạng hoá các phương thức tiếp cận thị trường và cung ứng hàng hoá, đa dạng hoá các dịch vụ trước và sau bán hàng, nâng cao mức lợi nhuận và mức lãi cổ đông. Nếu điều đó không được quan tâm đến mà chỉ chú trọng các khoản thuế và đóng góp, đề ra các thủ tục và cơ chế (mà có thể là gây rắc rối hơn, giải quyết yêu cầu chậm hơn và vòng vèo hơn) ... thì cổ phần hoá sẽ không thể có nhiều sức hấp dẫn và cũng chẳng có cơ sở để tăng nguồn thu. * Tạo môi trường luật pháp cho các công ty cổ phần phát triển.Sửa đổi các quy định về thành lập công ty cổ phần, cơ chế phát hành cổ phiếu ban đầu khi thành lập và phát hành cổ phiếu để gọi thêm vốn đầu tư, đa dạng hoá các hình thức huy động vốn các phương thức phát hành cổ phiếu, cải tiến cơ chế mua bán, chuyện nhượng cổ phiếu. * Đẩy mạnh tiến độ cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước một cách hợp lí. Đối với những doanh nghiệp Nhà nước đã và đang cổ phần hoá, Nhà nước chỉ nên nắm đa số hay tỉ lệ khống chế cổ phần đặc biệt. Phần còn lại dược bán cho ngưòi lao động trong doanh nghiệp hoặc cho các tổ chức cá nhân ngoài doanh nghiệp, nhưng tốt nhất là các cán bộ công nhân trong doanh nghiệp đó cùng đấu thầu các cổ phần ngoài cổ phần khống chế của Nhà nước. Số cổ phần của Nhà nước thì cho những người này vay theo lãi suất quy định. Trên cơ sở cổ phần mà thành lập hội đồng quản trị gồm những người mua cổ phiếu và đại diện của tổng cục quản lí vốn, tài sản của doanh nghiệp Nhà nước.Theo mô hình này, đại diện của Nhà nước không nên chiếm quá 1/3 để các thành viên của doanh nghiệp có thể chủ động trong kinh doanh. Nhà nước nên thực hiên việc bảo lãnh toàn bộ hoặc bảo lãnh ban đầu cho một số các doanh nghiệp Nhà nước đủ điều kiện phát hành trái phiếu trong nước và phát hành ra nước ngoài để tăng khả năng thu hút vốn trên thị trường. * Sớm ổn định và phát triển thị trường chứng khoán. * Đặc biệt cần có sự phối hợp gữa Nhà nước và doanh nghiệp để nghiên cứu thực tế tình hình Việt Nam nhằm đưa ra các biện pháp thích ứng cho công ty cổ phần hoạt động và phát triển tốt trong những bước sơ khai này sao cho công ty cổ phần thực sự là nơi thu hút vốn đầu tư từ nhiều nguồn khác nhau, tạo ra sự tin tưởng cho các nhà đầu tư để khuyến khích họ đầu tư. 2.2. Phát triển thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán sẽ là một nơi huy động vốn tốt nhất trong tương lai. Việc thành lập thị trường chứng khoán là một nhu cầu cấp bách song không có nghĩa là bằng mọi giá phải cho ra ngay một thị trường chứng khoán hoàn chỉnh mà không dựa trên nền tảng vốn có của nền kinh tế. Sự nôn nóng xây dựng thị trường chứng khoán thoát ly khỏi các yếu tố tiên quyết sẽ dẫn đến đổ vỡ thất bại. Đây là bài học kinh nghiệm mà nhiều nước đi trước đã gặp phải, nước ta đi sau cần chú ý rút kinh nghiệm. Hiện nay về cơ bản thị trường chứng khoán đã tạo được cơ sở hạ tầng ban đầu cho định hướng của thị trường chứng khoán và đã thu hút được khá nhiều nhà đầu tư song vẫn còn nhiều những khó khăn. Các loại chứng khoán trên thị trường còn ít cả về chủng loại và giá trị niêm yết. Tác dụng thúc đảy huy động vốn qua thị trường chứng khoán chưa cao, việc cung cấp các thông tin chưa đáp ứng được yêu cầu. Công tác quản lí của Chính phủ chưa kịp thời, can thiệp qua sâu làm ảnh hưởng đến tính linh hoạt của thị trường.Hệ thống trang bị kĩ thuật để vận hành thị trường chứng khoán chưa đồng bộ. Vậy muốn thị trường chứng khoán phát triển thì cần phải: * Thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhằm tạo ra một nền kinh tế phát triển bền vững. Trong điều kiện nền kinh tế tăng trưởng, nhu cầu đầu tư sẽ tăng, từ đó sẽ xuất hiện các công cụ nợ đa dạng về thời gian đáo hạn và tạo ra cơ chế cạnh tranh về lãi suất mới đưa đến sự hình thành lãi suất thị trường, làm cho thị trường vốn sôi động. Mục tiêu là trong giai đoạn đầu của thị trường chứng khoán Việt Nam, trái phiếu Chính phủ sẽ đóng vai trò chủ đạo nhưng trên thực tế hiện nay thì giới đầu tư lại quay lưng với trái phiếu Chính phủ. Vậy để đưa trái phiếu Chính phủ vào giao dịch và đóng vai trò chủ đạo thì phải giữ cho nền kinh tế phát triển ổn định bền vững để cho lãi suất trái phiếu Chính phủ luôn phù hợp với tộc độ tăng trưởng tạo sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư. * Tăng cung chứng khoán bằng cách nới lỏng điều kiện niêm yết: Để khắc phục tình trạng chứng khoán trên thị trường ít cả về số lượng, chủng loại lẫn giá trị nên chăng xem xét nới lỏng điều kiện để công ty cổ phần được niêm yết trên thị trường chứng khoán chẳng hạn như giảm bớt vốn điều lệ trong điều kiện phát hành chứng khoán bởi lẽ hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam đều là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Bên cạnh đó, cần tạo điều kiện cho các công ty cổ phần niêm yết dễ dàng hơn tại trung tâm giao dịch chứng khoán, đẩy mạnh phát triển các loại chứng khoán khác như trái phiếu Chính phủ, trái phiếu công ty, đặc biệt là trái phiếu của các ngân hàng, các tổ chức tài chính phi ngân hàng ... có như vậy mới giảm được áp lực thiếu cung chứng khoán. * Phát triển thêm các hiệp hội kinh doanh chứng khoán và các công ty xếp hạng tín nhiệm. Sự ra đời của hiệp hội là cần thiết và đóng vai trò quan trọng làm nhiệm vụ dẫn đường, phối hợp hành động với các cơ quan quản lí Nhà nước hoàn thiện cơ chế chính sách pháp luật, nhằm đưa hệ thống các tổ chức trung gian trên thị trường tiếp cận với các tiêu chuẩn về chuyên môn nghiệp vụ, hướng tới sự phát triển bền vững của thị trường chứng khoán. Tuy nhiên để Hiệp hội kinh doanh chứng khoán có thể ra đời, cần phải có những điều kiện nhất định, trong đó quan trọng nhất là các tiêu chuẩn về pháp lí cũng như sự hình thành và phát triển của các tổ chức tham gia trên thị trường chứng khoán. Mặt khác cần sớm cho ra đời các công ty xếp hạng tín nhiệm. Thông qua các công ty này mà nhà đầu tư có cái nhìn chính xác hơn về tình hình công ty muốn đầu tư. Hoạt động của các công ty xếp hạng sẽ tạo áp lực làm cho các công ty được nêm yết làm ăn một cách đàng hoàng minh bạch trong các hoạt động kinh doanh của mình. * Khẩn trương xây dựng thị trường phi tập trung để giao dịch các cổ phiếu chưa đủ điều kiện niêm yết. Việc xây dựng và phát triển thị trường này sẽ tạo điều kiện cho tất cả các công ty cổ phần có thể tham gia. Đây nguồn rất lớn, góp phần làm giảm áp lực thiếu cung trên thị trường. Tuy nhiên để hình thành và phát triển thị trường này cần phải giải quyết một số khó khăn về cơ sở vật chất , quy trình nghiệp vụ, đào tạo cán bộ, lựa chọn " hàng hoá" và phổ cập kiến thức cho công chúng. Ngoài ra còn cần có sự hỗ trợ của Nhà nước về mặt các văn bản pháp luật bởi lẽ thị trường này còn qua xa lạ đối với nước ta. * Đẩy nhanh việc hình thành và phát triển hệ thông các trung gian tài chính hoạt động trên thị trường chứng khoán, nhất là loại hình quỹ đầu tư chứng khoán nhằm nâng cao khả năng thu hút các nhà đầu tư nhỏ, các nhà đầu tư thiếu kinh nghiệm tham gia thị trường chứng khoán. * Phát triển các công ty cổ phần. * Tăng cường công tác quản lí của Nhà nước trên khía cạnh đảm bảo lợi ích cho các nhà đầu tư, xử lí nghiêm những trường hợp mua bán nội gián, lũng đoạn thị trường ... tiến tới giảm bớt các biện pháp hành chính để quản lí thị trường. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh công tác thông tin bao gồm cả việc đào tạo, phổ biến kiến thức về chứng khoán, thị trường chứng khoán, đầu tư chứng khoán... cho công chúng và cung cấp thông tin của các công ty niêm yết, tạo sự minh bạch cho thị trường chứng khoán. 2.3. Tăng cường sự tương tác, thúc đẩy lẫn nhau cùng phát triển giữa công ty cổ phần và thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán là thị trường vốn dài hạn cho các công ty cổ phần. Có các công ty cổ phần mà không có thị trường chứng khoán thì cũng như có sản phẩm mà không biết nhur cầu sẽ biến động như thế nào, không biết có nên sản xuất nữa hay không , rút cuộc sản phẩm cũng không thành hàng hoá được, và lại có nguy cơ quay về nền kinh tế tự cung tự cấp, do vậy cần phải tăng cường sự thúc đẩy phát triển lẫn nhau giữa chúng. Để đạt được điều này thì cần phải: - Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục về lợi ích của việc phát hành chứng khoán ra công chúng trong các doanh nghiệp cổ phần nhất là những doanh nghiệp Nhà nước còn đang tiến hành cổ phần hoá chậm - Làm đa dạng các loại hình doanh nghiệp cổ phần hoá không chỉ với các doanh nghiệp Nhà nước mà còn với cả các doanh nghiệp ngoài quốc doanh khác - Có chính sách thuế ưu đãi hợp lí với công ty niêm yết để khuyến khích các doanh nghiệp đã đủ điều kiện niêm yết nhanh chóng đưa cổ phần lên tham gia vào trung tâm giao dich chứng khoán. 3. Đổi mới hoạt động của các ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính trung gian Trong các kênh huy động vốn hiện nay , huy động vốn qua hệ thống các ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính trung gian là quan trọng nhất. Trong điều kiện hiện nay khi mà thị trường chứng khoán hầu như chưa hoạt động thì cần phải đặt nhiệm vụ huy động vốn qua các ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính trung gian là nhiệm vụ trung tâm của ngân hàng. Đây là cầu nối gữa người có vốn và người cần vốn, đồng thời là nhân tố kích thích tích luỹ, đầu tư. Để việc huy động vốn thông qua các ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính trung gian có hiệu quả đặc biệt là tạo sự tin cậy trong đảm bảo an toàn , bí mật nguồn vốn cho người gửi cần phải giải quyêt các vấn đề : - Về lãi suất huy động vốn : cần diều chỉnh lãi suất thích hợp theo giá cả thị trường trên cơ sở lãi suất tiết kiệm bao giờ cũng lớn hơn tỉ lệ lạm phát để đảm bảo lãi suất thực dương ( song tất nhiên phải lớn hơn lãi suất huy động đảm bảo sinh lời cho ngân hàng ). Mặt khác lãi suất dài hạn bao giờ cũng phải cao hơn lãi suất ngắn hạn. Về mức lãi suất cụ thể cần khắc phục một số bất hợp lí trong lãi suất trần và lãi suất sàn hiện nay. Thực hiện cơ chế điều hành theo hướng lãi suất tự do (lãi suất thoả thuận), trước tiên là trong một số nghành, lĩnh vực nhằm tạo ra sự linh hoạt trong hoạt động của các ngân hàng , đặc biệt là trong xử lí mối quan hệ giữa lãi suất và thời hạn. - Về hình thức huy động vốn : các ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính trung gian cần mở rộng nhiều hình thức huy động vốn như phát hành kì phiếu ngân hàng , thực hiện tiết kiệm bậc thang, tiết kiệm học đường , tiết kiệm mua nhà , mua ô tô, trái phiếu dài hạn bằng cả nội tệ và ngoại tệ... Ngân hàng trung ương có thể cho phép triển khai thí diểm trước một số hình thức mới ở một số ngân hàng thương mại nào đó, sau đó cho triển khai rộng nhằm thích ứng từng bước với tâm lí, tập quán và trình độ dân trí ở nước ta. Riêng tín dụng ngân hàng có vị trí hết sức quan trọng trong huy động vốn nên bản thân hoạt động tín dụng cần dược xem xét kĩ , chỉnh sửa để gắn chặt với các dạng hình đầu tư chẳng hạn đầu tư thông qua tín dụng thương mại , tín dụng giữa các doanh nghiệp với nhau, với dân và tín dụng của nhiều mối quan hệ khác. Vì vậy cần phát triển tín dụng ngân hàng đa dạng rộng khắp thuộc đủ mọi thành phần kinh tế từ nông thôn đến thành thị để tín dụng đến dược cả những vũng xa xôi. - Về thủ tục hành chính và đội ngũ cán bộ: Đổi mới cải cách các thủ tục hành chính, nâng cao trình độ phẩm chất của các cán bộ ngân hàng đâp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong nền kinh tế thị trường tạo sự thoải mái cho khách hàng khi tham gia vào các dịch vụ của ngân hàng. - Giữa các ngân hàng thương mại nên phối hợp với nhau tạo sự linh hoạt trong việc điều hoà nguồn vốn trong toàn hệ thống ngân hàng, không nên diều hành theo hình thức giao chỉ tiêu huy động vốn tại chỗ hay kế hoạch điều hoà vốn cho từng chi nhánh một cách cứng nhắc. Ngân hàng nên tạo ra sự an tâm cho người gửi cả về vốn lẫn lãi như sử dụng chế độ bảo hiểm vốn .. . 4. Đa dạng hoá các định chế tài chính trung gian. Các định chế tài chính trung gian cũng là một hình thức huy động vốn không kém phần quan trọng bên cạnh hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính trung gian. ở nước ta một số định chế tài chính đã khá phát triển như bảo hiểm, công ty xổ số, quỹ hội từ thiện.. . nhưng cũng có một số định chế chưa thực sự phát triển mà diển hình nhất là quỹ đầu tư. 4.1.Quỹ đầu tư. 4.1.1. Lợi ích của các quỹ đầu tư Quỹ đầu tư là một định chế mới đối với Việt Nam song nó sẽ là một trong những nguồn cung ứng vốn quan trọng cho nhiều dự án đầu tư phát triển của Nhà nước, doanh nghiệp quốc doanh, các tập doàn kinh tế, công ty liên doanh, công ty cổ phần.. . trong tương lai. Quỹ đầu tư là một mô hình có nét đặc thù khác với các dịnh chế tài chính trung gian khác, tuy nó cũng là một loại doanh nghiệp được xếp vào loại tài chính-ngân hàng và thuộc nhóm các định chế tài chính trung gian phi ngân hàng . Quỹ đầu tư là loại trung gian tài chính chuyên môn hoá trong lĩnh vực đầu tư hay nói cách khác nó là doanh nghiệp chuyên kinh doanh vốn trung và dài hạn dưới hình thức đầu tư trung và dài hạn : nó đóng vai trò gạch nối giữa cung và cầu vốn . ở các nước phát triển, qũy đầu tư thường dược thành lập dưới dạng một công ty cổ phần phát hành cổ phiếu rộng rãi ra công chúng, thu hút mọi nguồn tiết kiệm trong dân chúng. Tuy nhiên, thay vì dược sử dụng để mua máy móc, thiết bị hoặc thuê công nhân sản xuất ra sản phẩm hàng hoá, nguồn vốn tập trung này của quỹ đầu tư được dùng để góp vốn liên doanh, mua cổ phiếu hoặc mua trái phiếu của các công ty cổ phần khác. Theo mô hình này , quỹ đầu tư chính là người sở hữu vốn của nhiều doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau và cũng vì tính chất như vậy, quỹ đầu tư có thể sở hữu nhiều công ty khác nhau và chi phối các đơn vị trực thuộc mình bằng các công cụ thị trường tài chính và kĩ năng quản trị. Kinh nghiệm phát triển quỹ đầu tư ở nhiều nước cho thấy mô hình này có nhiều tác động tích cực đến nhiều đối tượng của nền kinh tế . - Trước hết đối với dân chúng, những người có vốn tiết kiệm , quỹ đầu tư là một tổ chức đáng tin cậy cho họ sử dụng vốn vào các dự án đầu tư mà bản thân họ, nếu đầu tư riêng không có khả năng sinh lời vì nhiều li do như vốn nhỏ, khả năng quản trị kinh doanh hạn chế, tỉ lệ sinh lời không đủ bù dắp chi phí đầu tư và rủi ro ... Đối với những người cần vốn như các công ty các chủ dự án, quỹ đầu tư đóng vai trò như những nhà tài trợ chuyên nghiệp, những nhà đầu tư tập thể . ở đây, các quỹ đầu tư đóng vai trò hỗ trợ cho những người cần vốn như tìm kiếm và vận động cơ hội đầu tư, cung cấp các dịch vụ tư vấn tài chính, cung cáp vốn và tham gia quản trị doanh nghiệp. Như vậy với sự tham gia của các quỹ đầu tư vào dự án , tính khả thi của dự án sẽ tăng lên nhiều do vừa có thể được hỗ trợ về tài chính lại vừa dược giúp đỡ về kinh doanh . - Mặt khác khi các công ty cổ phần phát hành cổ phiếu, nếu bán cho các quỹ đầu tư thì thường ít tốn kém về chi phí phát hành so với bán qua các ngân hàng thương mại và nhờ vậy huy động được nhiều hơn. Các quỹ đầu tư cúng được coi là những nhà đầu tư lớn , có ảnh hưởng và đóng góp tích cực vào sự nghiệp phát triển nền kinh tế . Đối với Việt Nam , sự hình thành và phát triển các quỹ đầu tư ngoài việc tham gia vào việc giải quyết một phần nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp thì còn có tác dụng hỗ trợ hai chương trình lơns của Nhà nước là cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước và thành lập thị trường chứng khoán . 4.1.2. Các biện pháp phát triển quỹ đầu tư: muốn phát triển quỹ đầu tư cần phải có những điều kiện quan trọng sau: - Có được sự ủng hộ mạnh mẽ của Nhà nước, đặc biệt về mặt bình ổn khung pháp lí và các chính sách có liên quan - Nhà nước hỗ trợ một lượng vốn đáng kể cho quỹ đầu tư đặc biệt là trong giai đoạn khởi đầu nhằm tạo ra " cú huých " cho quỹ đầu tư phát triển , đồng thời cũng là để kiểm soát một phần các dự án đầu tư. - Quỹ đầu tư phải có quyền điều hành độc lập , đưa ra các quyết định đầu tư một cách khoa học, hợp với tình hình thị trường . Điều đó tạo ra sự linh hoạt trong hoạt động của các quỹ đầu tư nhưng đồng thời cũng tạo ra trách nhiệm sử dụng vốn của cá nhà quản lí . - Có một đội ngũ cán bộ nhân viên chuyên nghiệp thông thạo nghuệp vụ tài chính-tín dụng-quản trị doanh nghiệp-thẩm định dự án trong một nền kinh tế theo cơ chế thị trường. 4.2. Các tổ chức tín dụng thuê mua Đối với nước ta hiện nay việc thiết lập thị trường tín dụng thuê mua là một đòi hỏi bức bách. Có thể nói tín dụng thuê mua là một hình thức tín dụng đầu tư có hiệu quả, đóng vai trò tài trợ và có ý nghĩa quan trọng ở các nền kinh tế đang phát triển ( do có vốn đầu tư thấp ). Hoạt động tín dụng thuê mua gắn với lĩnh vực kinh doanh và đặc biệt thích ứng với xí nghiệp quy mô vừa và nhỏ đang có nhu cầu vốn trung và dài hạn để đổi mới công nghệ thiết bi. Như đã biêt, tín dụng thuê mua là một biện pháp thay thế vay vốn ngân hàng để đầu tư nhà xưởng, đổi mới công nghệ , mua sắm máy móc thiết bị theo yêu cầu của người sử dụng và cho người sử dụng thuê các tài sản này trong phần lớn thời kì hữu ích cảu tài sản. Khác với cho vay trung và dài hạn của các ngân hàng, khác với thị trường chứng khoán, trên thị trường tín dụng thuê mua, không chỉ cung cấp tín dụng bằng hiện mà còn hỗ trợ đào tạo và hướng dẫn kĩ thuật cho người thuê để có thể nâng cao được hiệu quả sử fụng tài sản thuê mua. Nền kinh tế nước ta đang trong giai đoạn công nghiêp hoá-hiện đại hoá việc phát triển các công ty thuê mua không những giúp các doanh nghiệp huy động vốn dễ dàng hơn sử dụng có hiệu quả cao hơn mà còn giúp các doanh nghiệp không phải vay ngân hàng để đầu tư tài sản cố định cũng như có thể áp dụng hình thức " thuê lại " , theo đó các doanh nghiệp có thể bán một phần tài sản của mình cho công ty thuê mua đồng thời kí hợp đồng thuê lại số tài sản này. 4.3.Các công ty bảo hiểm 4.3.1. Lợi ích của các công ty bảo hiểm. Với tính chất là một tổ chức tài chính trung gian, các công ty bảo hiểm là một kênh huy động vốn không thể thiếu được của nền kinh tế và hiện đang được khai thác có hiệu quả. ở nước ta cùng với sự gia tăng nhanh chóng về số lượng doanh nghiệp, mở rộng quy mô hoạt động và đa dạng hoá sản phẩm, các công ty bảo hiểm đã góp phần đáng kể vào việc sớm hình thành thị trường vốn ở Việt Nam. Song nhìn chung các sản phẩm đầu tư của công ty bảo hiểm ở Việt Nam còn đơn điệu, tập trung chủ yếu vào những cộng cụ đầu tư có tính thanh khoản cao để đáp ứng kịp thời các nhu cầu chi trả thường xuyên. Tuy nhiên cũng vì thế mà hiệu quả đầu tư của các công ty bảo hiểm còn chưa cao. Hình thức đầu tư chủ yếu là gửi tiền vào các ngân hàng thương mại để hưởng lãi. Thực trạng này chủ yếu là do hạn chế của pháp luật và môi trường đầu tư chưa thông thoáng, ổn định. 4.3.2.Các biện pháp tăng cường huy động vốn thông qua các doanh nghiệp bảo hiểm: cần phải nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm bằng các biện pháp sau: - Thành lập các tập đoàn tài chính với nòng cốt là các hoạt động kinh doanh bảo hiểm, có mở rộng ra các lĩnh vực kinh doanh bất động sản, kinh doanh chứng khoán, ngân hàng ... theo mô hình của các công ty bảo hiểm nước ngoài như Prudential, AIG, AXA. - Nâng cao tính chuyên nghiệp , chất lượng và hiệu quả của hoạt động đầu tư thông qua việc thành lập các định chế đầu tư độc lập ( dưới hình thức công ty hay quỹ đầu tư ) do công ty bảo hiểm sở hữu toàn bộ hay nắm số cổ phần chi phối hoặc mua cổ phần trong những tổ chức đầu tư khác. - Đa dạng hoá các kênh đầu tư, mở rộng các loại hình đầu tư, tăng cường tỉ lệ đầu tư vào các dự án công trình xây dựng cơ sở hạ tầng và đầu tư chứng khoán. - Tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp lí cho hoạt động đầu tư. * Ngoài ba định chế nêu trên thì nước ta cũng cần phát triển các công ty xổ số với nhiều loại hình, phát triển các quỹ hội từ thiện vì hình thức này vừa mang tính nhân đạo lại vừa góp phần vào phát triển nước nhà. 5. Hoàn thiện khung pháp lí , cải thiện đồng nhất môi trường kinh doanh. Mức độ đảm bảo an toàn vốn đầu tư khỏi những rủi ro chính trị xã hội pháp lí và cả những rủi ro kinh tế ( chủ yếu là mất ổn đức chính sách tỉ giá, tiền tệ ) luôn là căn cứ nhạy cảm số một để mỗi chủ đầu tư lựa chọn và thông qua các quyết định đầu tư của mình . Chỉ một sự thay đổi nhỏ trong lãi suất, tỉ giá hay kinh tế-chính trị - xã hội - đối ngoại cũng tạo nên những động thái rõ rệt của các dòng vốn đầu tư nhất là đầu tư tư nhân chẳng hạn như rút vốn ồ ạt hay nằm im đợi thời cơ... 5.1. Hoàn thiện khung pháp lí . Nhà nước cần bình ổn khung pháp lí để tạo điều kiện cho thu hút vốn vào đầu tư phát triển : - Xoá bỏ hiện tượng " hình sự hoá" các quan hệ dân sự , quan hệ kinh tế. - Sửa đổi luật công ty, luật doanh nghiệp tư nhân theo hương dơn giản hoá các thủ tục , rút ngắn thời gian thành lập doanh nghiệp. - Ban hành các luật chống độc quyền, - Các văn bản dưới luật phải dược ban hành đầy đủ kịp thời tránh chồng chéo nhau. - Chính sách thuế cần được xác định một cách đồng bộ , hợp lí , khắc phục tình trạng thiếu rõ ràng, quá phức tạp, chồng chéo nhau hoặc bỏ sót . Nhà nước phải tạo ra một hệ thông thuế đảm bảo khai thác các nguồn thu mới phát sinh trong quá trình nền kinh tế ngày càng phát triển và hội nhập quốc tế, đặc biệt là các khoản thu liên quan đến việc mua bán nhà đất. - Thiết lập một môi trường thể chế rõ ràng và thống nhất. Việc hình thành một môi trường thể chế thuận lợi và nhất quán không những là mong muốn của doanh nghiệp mà còn tạo điều kiện thuận lợi rất lớn cho các cơ quan Nhà nước. Đã có rất nhiều quy định và giấy phép lỗi thời cản trở sự phát triển kinh tế đã được xem xét bãi bỏ nhưng không phải đã hết quy định và thủ tục phiến hà. Không những đòi hỏi có sự thống nhất ở mọi cấp, mọi nghành, mọi địa phương mà một luật, pháp lệnh mới ra đời sẽ kéo theo nó hàng loạt thay đổi. Nếu không kịp thời chỉnh sửa, các văn bản có liên quan sẽ trở nên lạc hậu hoặc không đủ để thực hiện, vô hình chung lại gây khó khăn cho những người thực hiện. - Cụ thể hoá và phân định rõ ràng hơn về phương thức, lộ trình và trách nhiệm thực hiện. Đây là một yêu cầu lớn đối với các thể chế của ta hiện nay. Cũng như việc các cấp trên quản lí doanh nghiệp có phải chịu trách nhiệm hành chính và trước pháp luật đối với các quyết định của mình nếu quyết định đó sai hoặc chậm trễ, làm thiệt hại lợi ích của doanh nghiệp và cũng là lợi ích chung của xã hội hay không? Thực tế là vì không có quy định ở điều luật nào cả nên khi gặp tình huống khó khăn thì doanh nghiệp phải một mình hứng chịu, mặc dù doanh nghiệp không tự quyết định đước các tình huống đó. - Hiện nay nhiều hệ thống pháp lí với một số luật cơ bản như bảo hộ quyền tài sản tư nhân, luật thương mại, luật khuyến khích đầu tư trong nước, luật chứng khoán, luật khối phiếu, thưong phiếu... đã và đang được hoàn thiện song chưa thực sự phát huy hiệu quả trong cuộc sống . Nhà nước nên đưa ra một số văn bản hướng dẫn và có những chính sách khuyến khích để những luật này thực sự phát huy tác dụng. 5.2. Cải thiện đồng nhất môi trường kinh doanh. Môi trường kinh doanh là một yếu tố hêt sức quan trọng trong huy động vốn, để có môi trường kinh doanh tốt Nhà nước cần thực hiện: - ổn định vĩ mô về kinh tế và chính trị xã hội. Tại ra dư luận và tâm lí xã hội chung thuận lợi và ủng hộ các nhà đầu tư. Có các chính sách khuyến khích đầu tư phù hợp và hợp với thông lệ quốc tế chung, tạo lập lòng tin cho các chủ đầu tư an tâm triển khai các dự án nhất là đầu tư dài hạn. - Lập một cơ quan Chính phủ chuyên trách và định kì xem xét, sửa đổi đồng nhất và hoàn thiện môi trường đầu tư , trước hết là các chính sách quản lí vĩ mô có liên quan đến việc huy động các nguồn lực trong các thành phần kinh tế và dân cư cho đầu tư tăng trưởng , phát triển kinh tế. - Có các biện pháp để duy trì tốc độ tăng trưởng khá của nền kinh tế ( mức tốt nhất là 9-10% một năm ) để tạo ra nhu cầu vốn thực sự. Mặt khác phải kiềm chế giữ cho lạm phát ở mức thấp hợp lí từ đó mới đảm bảo được sự bình ổn đồng tiền, sức mua trong nước đồng thời tạo điều kiện cho các ngân hàng hoạt động cũng như tạo sự yên tâm cho người dân khi gửi tiến hay tham gia kinh doanh. - Duy trì hệ thống ưu đãi tài chính, tín dụng cao không thua kém các mức chung của khu vực và thế giới, trước hết là các ưu đãi về thuế với các mức thuế thấp kềm theo nhiều chế độ miễn giảm thủ tục thuế. Thực hiện ưu đãi về lãi suất và thủ tục với một số loại dự án, nhất là các dự án đầu tư trung và dài hạn. - Các chính sách huy động vốn cần phải có sự thiết kế xây dựng đưa vào vận hành trên thị trường vốn để người đầu tư có thể tham gia đầu tư một cách hiệu quả nhất, được hưởng một khoản lợi nhuận thích đáng bù đắp rủi ro. - Chấn chỉnh, hoàn thiện hệ thống kế toán, kiểm toán và tư pháp hỗ trợ, đảm bảo kinh doanh lành mạnh, chống tham nhũng, lừa đảo trong kinh doanh, trong vay vốn . 6. Các biện pháp khác. 6.1. Hỗ trợ huy động vốn đầu tư tư nhân Nhà nước cho phép lập các hiệp hội doanh nghiệp tư nhân ở các cấp các địa phương và các nghành sản xuất , lập những thể chế trung gian cầu nối có quy chế chính thức và rõ ràng giữa Chính phủ và giới doanh nghiệp để tăng quan hệ thông hiểu và hỗ trợ cập nhật tin tức kinh doanh và quản lí . Lập các trung tâm thông tin và hỗ trợ kinh doanh giúp đỡ các doanh nghiệp thâm nhập thị trường một cách hữu hiệu cả trong và ngoài nước. 6.2. Tăng khả năng huy động vốn từ ngân sách Nhà nước Muốn huy động được nhiêu vốn từ ngân sách Nhà nước thì ngân sách Nhà nước phải đủ mạnh, để đạt được điều đó thì phải: - Tăng thu ngân sách Nhà nước thông qua tăng thuế và sửa đổi một số loại thuế, phí và lệ phí nhằm tạo tích luỹ cho đầu tư phát triển. - Giảm chi thường xuyên của ngân sách một cách hợp lí để tăng chi cho đầu tư phát triển. - Tổ chức quản lí và kiểm soát tài sản công một cách chặt chẽ và có hiệu quả. - Có biện pháp nâng cao hiệu suất sử dụng tài sản công. - Bán hoặc cho thuê một số tài sản công của Nhà nước để tăng thu cho ngân sách Nhà nước. 6.3. Nhà nước mở đường trong đầu tư Nhà nước thông qua hoạt động đầu tư để huy động vốn bằng cách mở đường trong đầu tư. Song không được mở rộng thái quá vì điều đó sẽ hạn chế và làm thui chột khả năng của các thành phần kinh tế khác. Mặt khác nguồn vốn đầu tư phát triển từ ngân sách Nhà nước thường có hiệu quả kinh tế trực tiếp tương đối thấp, ít năng động, nên việc sử dụng nguồn vốn này cần phải được cân nhắc kĩ lưỡng, có kế hoạch định hướng tổng thể trong cả nước theo nguyên tắc: cái gì trong nước làm được thì không gọi đầu tư nước ngoài, cái gì tư nhân nhân làm được thì Nhà nước không làm ( trừ một số nghành đặc biệt ). Mặt khác ngân sách Nhà nước cũng phải biết đầu tư đúng lúc đúng chỗ thì mới có hiệu quả. Trong giai đoạn trước mắt, Nhà nước vẫn phải tập trung vào đầu tư các nghành mũi nhọn và chịu trách nhiệm chính trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội , những công trình dự án trong những lĩnh vực quan trọng cso ý nghĩa quốc gia, quốc tế mang tính định hướng cho nền kinh tế mà các thành phần khác không đủ năng lực đầu tư hoặc đầu tư kém hiệu quả. 6.4. Phát triển nguồn lực lao động Bên cạnh nguồn lực tài chính, nguồn nhân lực dồi dào của hàng chục triệu người lao động cũng cần được huy động và coi là một nguồn vốn lớn. đặc biệt có khoảng 7 triêu lao động trong độ tuổi từ 18 đến 27 song rất nhiêu trong số đó không có công ăn việc làm tức là không có đóng góp gì cho đất nước, điều đó là không hợp lí. Pháp lệnh về lao động công ích cần quy định tăng đóng góp bằng ngày công lao động hoặc bằng tiền trong các loại lao động công ích như xây dựng cơ sở hạ tầng vật chất xã hội. Nguồn lực này cần được sử dụng có hiệu quả quản lí chặt chẽ, tập trung tránh buông lỏng , sử dụng lãng phí Không những phải tận dụng tối đa nguồn nhân lực hiện có mà còn phải nâng cao trình độ đội ngũ lao động trong cả nước. Việc thiếu các nhân lực kĩ thuật cao, các nhà lãnh đạo, quản lí cấp cao, các nhà doanh nghiệp tài ba sẽ làm giảm bớt các cơ hội đầu tư do không triển khai đước các dự án, điều đó làm mất khả năng khai thác các nguồn vốn trong nước cho đầu tư phát triển đồng thời làm giảm khả năng cạnh tranh hợp tác với bên ngoài. Để thực hiên nâng cao trình độ lao động Nhà nước nên thực hiện xã hội hoá đầu tư phát triển sự nghiệp giáo dục, y tế nhằm huy động thêm nguồn lực của nhân dân vào nâng cao chất lượng dạy học và chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho nhân dân, đây cũng đồng thời là một hình thức huy động vốn từ dân cư. 6.5. Thị trường hoá các tiềm lực trong nước Mọi " hàng hoá " cần phải xác định chủ sở hữu rõ ràng. Việc xác định chủ sở hữu sẽ cho phép các tiềm lực có thể tự do lưu thông, trao đổi, chuyển nhượng nhanh chóng thuận tiện trên các thị trường (đã có hoặc đang cần có sự hỗ trợ để hình thành phát triển). Các tài sản công (trừ các loại dùng cho các mục đích công ích phi thương mại) như các khoản nợ đọng, công nghệ ... cần được khảo sát thống kê và định giá đầy đủ, chính xác để đưa vào lưu thông như các hàng hoá khác. Việc thị trường hoá các tiềm lực sẽ tăng khả năng giao lưu vốn từ đó tăng khả năng huy động vốn trung và dài hạn phục vụ phát triển kinh tế . 6.6. Phát triển cơ sở hạ tầng. Việc phát triển cơ sở hạ tầng sẽ tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi cho đầu tư phát triển, làm tăng khả năng huy động vốn. Do đó cần phải phát triển và đồng bộ hệ thống giao thông vận tải với cầu, cảng, đường xá, kho bãi và các phương tiện vận tải; hệ thống dịch vụ thông tin bưu điện, liên lạc viễn thông; hệ thống điện, nước; mạng lưới các dịch vụ khác về y tế giáo dục, giải trí, về hải quan, tài chính, thương mại cũng như về quảng cáo và dịch vụ kĩ thuật. 6.7. Phát hành công trái, trái phiếu Chính phủ bằng đồng Việt Nam. * Phát hành công trái với nhiều hình thức có thể vô danh hoặc hữu danh ghi sổ, có in mệnh giá hoặc không in mệnh giá. Lãi suất công trái phải được xác định dựa trên nguyên tắc bảo toàn vốn cho ngưới mua công trái theo tỉ lệ lạm phát, kết hợp với động viên tinh thần yêu nước của nhân dân và trách nhiệm nghĩa vụ của công dân mua công trái góp phần xây dựng tổ quốc. * Phát hành trái phiếu Chính phủ bằng đồng Việt Nam, có thể thực hiện theo các hình thức như đấu thầu thông qua đại lí, môi giới để huy động vốn nhàn rỗi trong các tổ chức tài chính, ngân hàng, bảo hiểm. Đối tượng tham gia đấu thầu là các đại lí đấu thầu để bảo lãnh phát hành, thanh toán trái phiếu Chính phủ là các ngân hàng thương mại, công ty tài chính, quỹ đầu tư, công ty bảo hiểm. Đơn vị được lựa chọn sẽ làm môi giới bán lẻ trái phiếu ra thị trường thứ cấp. Cách phát hành này thực chất là chứng khoán hoá các trái phiếu Chính phủ mà nhiều nước đã làm. Nó sẽ tạo điều kiện cho Nhà nước chủ động huy động được một lượng vốn lớn kịp thời đáp ứng được nhu cầu sử dụng, giảm lãi suất huy động đồng thời tạo được nhiều hàng hoá để phát triển thị trường vôn, thị trường chứng khoán , tạo khả năng huy dộng vốn dài hạn. 6.8. Huy động các nguồn lực tự nhiên vào phát triển kinh tế - xã hội. Các nguồn lực tự nhiên ở nước ta khá phong phú như tài nguyên đất, nhiến liệu, năng lượng, khoáng sản... điều này cho phép nước ta thuận lợi trong phát triển nông - lâm - ngư nghiệp và một số nghành công nghiệp khác. Về nông nghiệp, ở nước ta đó vốn là một nghành mang tính thời vụ, vậy nên để tận dụng tối đa đất đai cũng như nguồn lao động trong tiết nông nhàn thì cần phải kết hợp nuôi trồng hợp lí. Mặt khác cũng phải gắn nông nghiệp với công nghiệp chế biến để tăng tính chuyên môn hoá của sản xuất và tăng giá trị của sản phẩm. Đối với lâm ngư nghiệp cần phải kết hợp trồng gây giống một cách hợp lí những cây, con có giá rị kinh tế cao để tạo ra nguồn lực to lớn cho đất nước. Đối với những nghành công nghiệp cũng phải cố gắng khép kín chu trình sản xuất tạo ra sản phẩm tinh chứ không phải sản phẩm thô như nhiều nghành hiện nay vẫn đang làm. Thực hiện tốt được những điều này sẽ tạo ra một tiền đề to lớn để huy động các nguồn lực của đất nước vào phát triển kinh tế - xã hội. Kết luận Vấn đề huy động vốn trong nước trong giai đoạn công nghiêp hoá - hiện đại hoá ở nước ta hiện nay là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất. ỏ một góc độ nào đó, có thể nói rằng việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng nhanh, lâu bền mà Việt Nam đang theo đuổi tại điểm xuất phát thấp hiện tại, phụ thuộc rất nhiều vào năng lực giải quyết nhiệm vụ nói trên. Thực tiễn những năm qua đã chứng tỏ tính chính xác của đường lối phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng và Nhà nước ta đã lựa chọn. Không ít đánh giá cho rằng, những thành tích kinh tế mà Việt Nam đạt được là rất đáng khích lệ, rằng đó là sự khởi đầu cho một nước có nền kinh tế phát triển. Những thành tích đó phần nào đều phụ thuộc vào việc huy động vốn trong nước. Một mặt những thành tích đó còn cho thấy rằng nước ta có nhiều điều kiện khách quan cơ bản thuận lợi để huy động tốt nguồn vốn trong nước. Tuy về mặt chủ quan thực hiện còn có những trục trặc do nhiều yếu tố là khó tránh khỏi trong bước đầu song tầm quan trọng của vấn đề và việc giải quyết vấn đề đã tỏ rõ là đúng đắn. Mặt khác cần phải có những tính toán về giải pháp và bước đi thận trọng. Một thành công nhanh chóng và tương đối dễ dàng, cộng thêm vào đó là nhu cầu to lớn về vốn đầu tư dễ gây ra sự chủ quan, một điều nguy hại cho phát triển sau này Các nước đi trước, cả nước thành công lẫn chưa thành công, ở những mức độ khác nhau, đều đã phải trả giá để có được những bài học thiết thân trong lĩnh vực này. Nước đi sau như nước ta có lợi thế hơn là có thể học kinh nghiệm của những nước đi trước để giảm bớt tổn thất về thời gian cũng như về những thiệt hại vật chất có thể xảy ra. Vì vậy vấn đề huy động vốn trong nước đối với nước ta vừa có những thuận lợi lại vừa có những khó khăn riêng, chúng ta cần phải coi trọng vấn đề một cách thích đáng. Có như vậy nền kinh tế mới thực sự phát triển độc lập, vững chắc và ổn định lâu dài. Danh mục tài liệu tham khảo Giáo trình lí thuyết tài chính tiền tệ - trường Đại học kinh tế quốc dân Sử dụng công cụ tài chính tiền tệ để huy động vốn cho đầu tư phát triển - Nguyễn Đình Tài - Nhà xuất bản Tài chính Tạp chí Cộng sản số 11/97, số 5/2002 Tạp chí Kinh tế và dự báo số 4/97, số 6/2002 Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 7/97, số 10/2000 Tạp chí Ngân hàng số 5/98, số 5/99, số 1+2/2000, số 1/2001, số 6/2001, số 3/2002 Tạp chí Phát triển kinh tế số 95/98, số 96/98, số 99/98, số 109/99, số 116/2000, số Tạp chí Tài chính số 4/97, số 6/2001, số 12/2001, số 3/2002 Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ số 123/2002 Tạp chí Thông tin tài chính số 12/2001

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29590.doc
Tài liệu liên quan