Đề tài Một số vấn đề về phát triển lâm nghiệp tỉnh Hà Tĩnh trong quá trình hội nhập WTO

ĐẶT VẤN ĐỀ 1.1. Sự cần thiết phải nghiên cứu đề tài. Lâm nghiệp là một ngành sản xuất vật chất độc lập có đối tượng lao động, phương pháp lao động và lực lượng lao động riêng mang tính chuyên ngành, lâm nghiệp còn là một ngành nghề lâu đời ở các quốc gia, đặc biệt là ở Việt Nam. Dưới tác động của các cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ, các công cụ lao động của ngành lâm nghiệp cũng được cải tiến và hoàn thiện, công nghệ mới được áp dụng trong công nghiệp khai thác, chế biến lâm sản. Đồng thời công nghệ sinh học hiện đại đã góp phần đáng kể trong việc chăm sóc, bảo vệ, phòng trừ sâu dịch bệnh cho cây rừng Bên cạnh đó ngành lâm nghiệp có vị trí kinh tế - xã hội quan trọng. Lâm nghiệp hiện đang cung cấp sản phẩm tiêu dùng trong nước, đảm bảo công ăn việc làm cho hàng ngàn lao động và góp phần không nhỏ trong tổng GDP và kim ngạch xuất khẩu nước nhà. Phát triển sản xuất lâm nghiệp gắn liền với việc xóa đói giảm nghèo, đặc biệt là đối với đồng bào dân tộc miền núi, vùng cao, vùng sâu Là một tỉnh thuộc vùng Bắc Trung Bộ với diện tích đất lâm nghiệp chiếm hơn 60% diện tích tự nhiên của toàn tỉnh trong nhiều năm qua công việc trồng rừng ở Hà Tĩnh đang nặng về phòng hộ, bảo vệ môi trường sinh thái mà chưa thực sự quan tâm đến lợi ích kinh tế, các chính sách và giải pháp chưa đồng bộ, do đó chưa khơi dậy được tiềm năng của nghề rừng. Trên cơ sở chiến lược phát triển lâm nghiệp Quốc gia trong xu thế mới, thời cuộc mới đòi hỏi Hà Tĩnh phải có những định hướng phát triển lâm nghiệp để phù hợp với xu thế phát triển của đất nước, khu vực, thế giới đặc biệt là khi nước ta đã gia nhập WTO đặt ra cho nước ta nói chung và Hà Tĩnh nói riêng rất nhiều cơ hội để phát triển nhưng cũng đặt ra không ít thách thức mà chúng ta phải đối mặt và vượt qua 1.2. Mục tiêu nghiên cứu. * Mục tiêu chung: Đề tài được thực hiện với mục tiêu chung là góp phần thúc đẩy phát triển ngành lâm nghiệp Hà Tĩnh sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO. * Mục tiêu cụ thể: - Tìm hiểu thực trạng ngành lâm nghiệp Hà Tĩnh, các tiềm năng phát triển và những cơ hội thách thức của ngành trong xu thế hội nhập. - Đề xuất các giải pháp phát triển nhằm lâm nghiệp Hà Tĩnh phù hợp với quá trình gia nhập WTO. 1.3. Nội dung nghiên cứu. Với mục tiêu nghiên cứu như trên thì nội dung nghiên cứu của đề tài bao gồm các phần chính sau: - Tìm hiểu tổ chức thương mại thế giới và các hiệp định của WTO liên quan đến lĩnh vực nông nghiệp. - Nghiên cứu tác động của quá trình hội nhập đến phát triển ngành lâm nghiệp Hà Tĩnh cụ thể là các hoạt động lâm nghiệp. - Đề xuất các giải pháp và chính sách lâm nghiệp để thúc đẩy các hoạt động của ngành lâm nghiệp phù hợp với yêu cầu hội nhập - Kết luận và kiến nghị 1.4. Phương pháp nghiên cứu. * Phương pháp thu thập số liệu: - Kế thừa có chọn lọc các tài liệu liên quan đến hoạt động lâm nghiệp. - Điều tra, thu thập trực tiếp số liệu thông qua các báo cáo của Chi cục Lâm nghiệp và Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. - Khảo sát trực tiếp tại cơ sở. - Tham khảo ý kiến của các chuyên gia và những người có kinh nghiệm trong quản lý các hoạt động lâm nghiệp và đánh giá thực trạng phát triển của ngành cũng như nền kinh tế trong quá trình hội nhập. * Phương pháp xử lý số liệu: - Phương pháp thống kê kinh tế. - Phương pháp phân tích kinh tế. - Phương pháp phân tích điểm yếu điểm mạnh.

doc62 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1668 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số vấn đề về phát triển lâm nghiệp tỉnh Hà Tĩnh trong quá trình hội nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hực hiện cắt bỏ các hình thức trợ cấp như khen thưởng xuất khẩu, trợ giá xuất khẩu… bên cạnh đó thực hiện kiểm soát chặt chẽ nguồn nguyên liệu đầu vào đảm bảo uy tín của sản phẩm tạo niềm tin cho thị trường xuất khẩu. Hoạt động chế biến lâm sản nhìn chung đã tận dụng và phát huy được thế mạnh của ngành tuy nhiên sản phẩm sản xuất ra phục vụ cho tiêu dùng và xuất khẩu phần lớn đang là sản phẩm thô hoặc chỉ mới qua chế biến thô nên giá trị mang lại chưa cao. Bên cạnh đó ngành chế biến lâm sản Hà Tĩnh còn chưa phát triển là do một số nguyên nhân sau: Các doanh nghiệp chế biến đa phần là có quy mô nhỏ, công nghệ và thiết bị còn lạc hậu lại thiếu sự hợp tác liên kết giữa các doanh nghiệp với nhau sản xuất kinh doanh theo kiểu mạnh ai người đó làm nên sản xuất khó phát triển, không thực hiện được các hợp đồng lớn do một doanh nghiệp không đủ điều kiện thực hiện mà lại không chia sẽ hợp đồng với các doanh nghiệp khác nên bỏ lỡ nhiều cơ hội. Ngoài ra các doanh nghiệp xuất khẩu lâm sản tại Hà Tĩnh chủ yếu là xuất khẩu qua trung gian nên giá trị mang lại thấp, đồng thời không có tiếng nói trên thị trường. Mặt khác việc rừng thiếu Chứng chỉ rừng là một trong những nguyên nhân mà Hà Tĩnh sẽ khó mở rộng được thị trường xuất khẩu lâm sản. Nhìn vào biểu 3.07 và biểu 3.08 ta thấy rằng tình hình tiêu thụ lâm sản của 3 năm qua luôn có xu hướng tăng lên cả tiêu thụ nội địa lẫn xuất khẩu điều đó chứng tỏ trong xu thế phát triển của ngành lâm nghiệp có chiều hướng đi lên. Chỉ riêng có colophan là có xu hướng giảm nhẹ trong năm 2007. Phân tích tình hình tiêu thụ được thể hiện cụ thể như sau: Biểu 3.07 thể hiện tình hình tiêu thụ lâm sản trong nước của tỉnh Hà Tĩnh, tốc độ bình quân của lâm sản tiêu thụ trong nước đạt 118.5% tăng 18.5% năm do sự tăng lên của các sản phẩm chế biến đặc biệt là SP mây tre đan tăng nhiều nhất tăng 40,3% sau đó là đồ mộc các loại tăng 24,7% và ván bóc tăng 15,5% và các sản phẩm khác cũng tăng lên. Riêng colophan qua giá trị tiêu thu của từng năm có xu hướng giảm nhưng về tốc độ phát triên bình quân của cả 3 năm vẫn tăng 8,4%. Và hai loại sản phẩm đồ mộc các loại và gỗ xể XDCB thay nhau chiếm tỷ trọng cao trong giá trị tiêu thụ trong nước, cụ thể trong năm 2005 sản phẩm mộc các loại chiếm 35,7%, gỗ xẻ XDCB chiếm 41,3% trong giá trị tiêu thụ trong nước; tương ứng năm 2006 là 32,4% và 37,2% ; năm 2007 là 39,6% và 33,9%. Với giá trị sản phẩm gỗ có tốc độ tăng hàng năm là 15.7% đây là một mức tăng khá cao thể hiện những dấu hiệu tốt về tình hình tiêu thụ sản phẩm gỗ trong nước. Đạt được mức tăng như vậy là do nhu cầu về các loại sản phẩm gỗ trong nước tăng lên một cách đáng kể, nhất là các sản phẩm đồ mộc các loại (tăng 24.7%); đây là sản phẩm phục vụ nhu cầu tiêu dùng sinh hoạt và sản xuất khác nhau như: giường, bàn, ghế, tủ văn phòng… Bên cạnh đó tốc độ phát triển bình quân của ván bóc đạt được đáng kể 115.5% (tăng 15.5%). Có được sự phát triển như vậy là do trong giai đoạn phát triển hiện nay, các sản phẩm đồ gỗ từ gỗ tự nhiên ít dùng vừa tốn nguyên liệu mà giá lại cao, thay thế vào đó là các sản phẩm làm từ gỗ nhân tạo, gỗ ép vừa rẻ lại có tính thẫm mỹ cao nên được người tiêu dùng chấp nhận vì thế tình hình tiêu thụ sản phẩm này không ngừng tăng lên dự báo cho thấy rằng trong tương lai mức độ tiêu thụ còn lớn hơn nữa. Bên cạnh đó, gỗ xẻ xây dựng cơ bản cũng tăng lên đáng kể chủ yếu là do nhu cầu của ngành xây xựng cơ bản tăng, nhu cầu của thị trường tiêu dùng tăng lên. Hiện nay, do đời sống cao và do tính chất đặc trưng của sản phẩm gỗ nên người dân có xu hướng tăng nhu cầu sử dụng mặt hàng này nên tình hình tiêu thụ không ngừng tăng lên. Về lâm sản ngoài gỗ tốc độ phát triển bình quân tương đối đạt 109.1%. Nhìn chung đây là mặt hàng truyền thống và trong những năm qua nhu cầu sử dụng tương đối cao. Là mặt hàng chủ yếu để xuất khẩu tuy nhiên ba năm qua nhu cầu sử dụng trong nước tăng lên nên tình hình tiêu thụ tăng lên. Hơn nữa trong những năm qua có nhiều doanh nghiệp cũng như Sở Nông nghiệp Hà Tĩnh có nhiều đầu tư về kỹ thuật và vốn vào mặt hàng này nên nâng cao chất lượng tạo niềm tin cho người tiêu dùng trong và ngoài nước. Với các mặt hàng lâm sản xuất khẩu được thể hiện cụ thể ở biểu 3.08 như sau: Các mặt hàng xuất khẩu tuy ít về chủng loại song về số lượng và giá trị tương đối lớn. Tốc độ tăng bình quân chung là 21.7% tình hình xuất khẩu cụ thể từng loại sản phẩm thể hiện là: Trong giá trị của kim ngạch xuất khẩu thì ta thấy SP đồ mộc các loại chiếm tỷ trọng cao nhất năm 2005 chiếm 89,1%, năm 2006 chiếm 89,8% và năm 2007 chiếm 90,9% trong tổng giá trị xuất khẩu. Việc sản phẩm đồ gỗ chiếm tỷ trọng lớn như vậy đem lại nhiều ưu thế cho lĩnh vực sản xuất đồ mộc. Sản phẩm gỗ tốc độ tăng bình quân là 23.1%, đây chủ yếu là các sản phẩm đồ mộc các loại có chất lượng cao và dăm mảnh. Sản phẩm này chủ yếu tiêu thụ ở các nước như Đài Loan, EU, Mỹ… Điều đó chứng tỏ rằng sản phẩm của tỉnh Hà Tĩnh đủ tiêu chuẩn để có thể thâm nhập thị trường quốc tế nên cần phát huy ưu điểm của mình để mở rộng thị trường tiêu thụ trong tương lại. Bên cạnh các sản phẩm gỗ còn có lâm sản ngoài gỗ cũng là loại sản phẩm đang được các nước ưa chuông nhất là mặt hàng mây tre đan. Vốn dĩ đây là mặt hàng truyền thống của Việt Nam, mang nét đặc trưng của nền văn hoá Việt Nam nên được khách hàng thế giới ưa chuộng. Vì thế mặt hàng này ngày càng có nhiều đơn đặt hàng của các nước, qua đó cho thấy rằng mây tre đan của Hà Tĩnh không chỉ tạo niềm tin cho khách quốc tế bằng mẫu mã đẹp mà chất lượng còn tốt nữa. Vì thế Sở Nông nghiệp cũng như các doanh nghiệp Hà Tĩnh cần đầu tư nhiều kỹ thuật, vốn để tạo nên một thương hiệu cho hàng lâm sản của tỉnh mình. Biểu 3.07: Tình hình tiêu thụ lâm sản trong nước qua ba năm 2005 - 2007 Đvt: tr.đ TT Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 TĐPTBQ (%) Giá trị Giá trị TĐPT(%) Giá trị TĐPT(%) I Sản phẩm gỗ 41.800 45.200 108,1 56.000 123,9 115,7 1 Đồ mộc các loại 18.000 19.500 108,3 28.000 143,6 124,7 2 Gỗ xẻ XDCB 20.800 22.400 107,7 24.000 107,1 107,4 3 Ván bóc 3.000 3.300 110,0 4.000 121,2 115,5 II Lâm sản ngoại gỗ 12.354 15.049 121,8 14.710 97,7 109,1 1 Colophan 12.100 14.686 121,4 14.210 96,8 108,4 2 Mây tre đan 254 363 142,9 500 137,7 140,3 Tổng 50.359 60.249 119,6 70.710 117,4 118,5 Biểu 3.08: Tình hình xuất khẩu lâm sản trong các năm 2005 - 2007 Đvt: USD TT Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 TĐPTBQ (%) Giá trị Giá trị TĐPT(%) Giá trị TĐPT(%) II Sản phẩm gỗ 16.832.000 23.031.000 136,8 25.519.000 110,8 123,1 1 Đồ mộc các loại 16.112.000 22.001.000 136,6 24.319.000 110,5 122,8 3 Dăm mảnh 720.000 1.030.000 143,1 1.200.000 116,5 129,1 II Lâm sản ngoại gỗ 1.246.500 1.460.100 117,1 1.240.050 84,9 99,7 1 Colophan 1.223.000 1.435.000 117,3 1.206.400 84,1 99,3 2 Mây tre đan 23.500 25.100 106,8 33.650 134,1 119,7 Tổng 18.078.500 24.491.100 135,5 26.759.050 109,3 121,7 Nói tóm lại tình hình tiêu thụ lâm sản của Hà Tĩnh trong cũng như ngoài nước đạt tỷ trọng tương đối cao. Song bên cạnh mặt hàng tăng cũng có những mặt hàng giảm xuống như Colophan. Đây là sản phẩm sản xuất từ nhựa thông, song do tình hình cung cấp nguyên liệu giảm (do sâu bệnh phá hại) nên số lượng và chất lượng cung cấp bị giảm đáng kể. Mặt khác, ở trong nước cũng như trên thế giới có nhiều doanh nghiệp cung cấp sản phẩm này nên tình hình xuất khẩu của Hà Tĩnh giảm đáng kể. Vì thế để khắc phục tình trạng này cần có biện pháp tốt chống sâu bệnh phá hại cây cũng như có công nghệ tiên tiến giúp quá trình sản xuất hiệu quả tạo ra sản phẩm chất lượng cao đáp ứng nhu cầu của thị trường thế giới. 3.3. Đánh giá tình hình thực hiện hội nhập của lâm nghiệp Hà Tĩnh 3.3.1. Sự chủ động trong hội nhập Chủ động trong cơ chế thị trường Cơ chế thị trường luôn chứa đựng trong nó những diễn biến và các mối quan hệ phức tạp. Vì vậy để tồn tại và phát triển được ngành lâm nghiệp phải biết rõ được thực lực của mình, điểm mạnh, điểm yếu của mình để có thể chủ động tham gia thị trường không bị lúng túng. Ngay từ những năm đầu của thập kỷ 90 tỉnh Hà Tĩnh đã có những đổi mới trong cơ chế quản lý về lâm nghiệp. Thực chất là sự “cởi trói” khỏi cơ chế kế hoạch hoá tập trung đã xơ cứng và quan liêu. Từ đây ngành lâm nghiệp đã từng bước chủ động các nguồn lực để đầu tư vào sản xuất, kinh doanh và định hướng kế hoạch sản xuất kinh doanh không phụ thuộc quá nhiều vào các trợ cấp, cân đối từ ngân sách Nhà nước. Sự chủ động trong ngành lâm nghiệp của tỉnh Hà Tĩnh chính là việc nhanh chóng nắm bắt được sự cần thiết của thị trường lâm sản, để từ đó chủ động điều chỉnh cơ chế sản xuất trong lâm nghiệp. Trong những năm gần đây tỉnh đã nâng cấp được một khu bảo tồn thành Vườn quốc gia Vũ Quang và khu bảo tồn thiên nhiên Kẽ Gỗ nhằm bảo tồn lưu giữ nguồn gen động thực vật và tham gia dự án 661 phát triển vốn rừng. Những bước tiến với mục đích phát triển ngành du lịch sinh thái và các ngành lâm sản ngoại gỗ.Và đây chính là bước đầu cho sự phát triển của ngành trong tương lai, nhất là tạo sự khởi đầu cho quá trình hội nhập kinh tế thế giới. Chủ động trong điều chỉnh cơ chế quản lý đáp ứng yêu cầu hội nhập Có thể nói rằng trong bất cứ hoàn cảnh nào khi có cơ chế phù hợp, chọn đúng khâu đột phá thì nhất định ngành lâm nghiệp của tỉnh Hà Tĩnh sẽ có bước phát triển mạnh mẽ. Vì vậy để tiến tới hội nhập Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh đã chủ động hướng dẫn các doanh nghiệp lâm nghiệp chuẩn bị các điều kiện, chủ động nâng cao khả năng cạnh tranh cuả hàng hoá. Điều đó thể hiện qua việc hướng dẫn các đơn vị thực hiện linh hoạt các chính sách của nhà nước, khuyến khích các doanh nghiệp về đầu tư tăng cường năng lực và khả năng cạnh tranh, cụ thể: - Rà soát quỹ đất, tổ chức sắp xếp lại các Lâm trường Quốc doanh theo Quyết định 187 của Thủ tướng Chính phủ. - Tăng độ che phủ của rừng từ 34,1% năm 1999 lên 45% năm 2005, ngăn chặn cơ bản nạn chặt phá rừng tráí phép, góp phần vào việc giảm nhẹ thiên tai, bảo vệ môi trường sinh thái và mang lại hiệu quả kinh tế. - Thực hiện tốt giao đất khoán rừng, tạo công ăn việc làm cho lao động trên 10 huyện trong tỉnh, góp phần vào công cuộc xoá đối giảm nghèo. - Tiến hành thực hiện cải cách hành chính, đổi mới trong Quản lý Nhà nước theo yêu cầu của nền kinh tế, của hội nhập, đảm bảo sử dụng bền vững tài nguyên môi trường. Ngoài việc thực hiện tốt các công việc nêu ra ở trên thì có hai vấn để mà ngành lâm nghiệp Hà Tĩnh phải tiến hành thực hiện nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên như sau: Vấn đề thứ nhất: khai thác có hiệu quả tài nguyên rừng, nằm trong khả năng giải quyết của các doanh nghiệp trong lĩnh vực lâm nghiệp một khi xóa bỏ được tình trạng bao cấp và thay thế bằng cơ chế hoạt động hợp lý. Nghị quyết số 28 – NQ/TW, ngày 16/6/2003, của Bộ Chính trị về tiếp tục sắp xếp, đổi mới và phát triển nông, lâm trường quốc doanh đã khẳng định rõ mục tiêu, quan điểm, phương hướng và các giải pháp chủ yếu đối với các lâm nghiệp quốc doanh, trong đó đặc biệt nêu rõ quan điểm “đổi mới nông, lâm trường quốc doanh phải gắn với đổi mới về cơ chế quản lý theo hướng phân biệt rõ nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh và nhiệm vụ công ích. Nông, lâm trường làm nhiệm vụ kinh doanh là chủ yếu thì phải chuyển hẳn sang sản xuất và hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường...”. Cụ thể Hà Tĩnh là đơn vị được Bộ đánh giá là tỉnh thực hiện tốt, đã chuyển đổi 6 Lâm trường Quốc doanh thành 6 Ban quản lý rừng phòng hộ, đồng thời có 10 đơn vị quốc doanh, 09 xã, 01 hộ gia đình được Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Tĩnh cấp giấy khai thác nhựa thông. Vấn đề thứ hai: bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng là tiền đề quan trọng để khai thác có hiệu quả lâu dài tài nguyên này, nhưng cũng đang là vướng mắc lớn cho công tác quản lý nhà nước đối với ngành lâm nghiệp. Cơ chế bao cấp đối với việc trồng mới, chăm sóc và bảo vệ rừng như hiện nay rõ ràng không mang lại hiệu quả, và như vậy sẽ không thể đẩy mạnh việc khai thác rừng sản xuất vì sẽ làm giảm nhanh chóng tài nguyên rừng. Việc giao chỉ tiêu hạn chế đối với việc khai thác gỗ rừng nhằm hạn chế sự suy giảm của tài nguyên rừng trong điều kiện trồng mới rừng còn gặp nhiều khó khăn cũng chỉ là biện pháp thụ động không hiệu quả, vừa khiến cho các lâm trường sống lay lắt trông chờ vào Nhà nước, vừa là mảnh đất béo bở cho nạn “lâm tặc” phát triển. Tóm lại khi việc bảo vệ rừng trở thành thân thiết đối với người lao động ở lâm trường và các đơn vị kinh tế khác thì không những Nhà nước giảm được kinh phí trong việc bảo vệ rừng mà còn đem lại được lợi ích tốt hơn khi gắn hoạt động này với lợi ích trực tiếp của người sản xuất. c. Chủ động nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm của ngành. Về năng lực cạnh tranh có thể nói rằng, sản phẩm lâm nghiệp của cả nước nói chung và tỉnh Hà Tĩnh nói riêng đã tìm được chỗ đứng trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên để tìm chỗ đứng vững chắc cho sản phẩm lâm nghiệp, vấn đề nâng cao chất lượng để tăng khả năng cạnh tranh là điều cần quan tâm. Bởi hiện nay khoảng 70% gỗ nguyên liệu phục vụ chế biến phải nhập khẩu, vì thế ngành chế biến phát triển chưa đem lại hiệu quả cao cho nền kinh tế tỉnh cũng như lợi ích trực tiếp cho ngành trồng rừng. Việc chủ động nâng cao năng lực cạnh tranh hàng lâm sản không chỉ thực hiện qua việc đổi mới thiết bị công nghệ tiên tiến, đổi mới quản lý nhằm nâng cao năng suất mà còn phải trực tiếp tạo ra nguồn nguyên liệu trong nước để hạ giá thành bằng cách đầu tư trồng rừng và khai thác hợp lý nguồn nguyên liệu ở các khu rừng tự nhiên. Song song với việc khai thác, tỉnh Hà Tĩnh triển khai thực hiện chính sách trồng rừng phủ trống đồi trọc, vừa cải tạo môi trường, tạo công ăn việc làm, vừa tạo nguồn nguyên liệu phục vụ chế biến. Đặc biệt hiện nay Hà Tỉnh đang phát triển thêm ngành mây tre đan xuất khẩu, song chưa tạo được thương hiệu cho sản phẩm mà đây là điều kiện cần thiết để quảng bá sản phẩm, cần thiết hơn đối với tiến trình hội nhập thương mại quốc tế. Mặt khác, để nâng cao năng lực cạnh tranh tỉnh Hà Tĩnh đã có chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài đối với ngành lâm nghiệp là tương đối lớn. Chủ yếu là vốn đầu tư về công nghệ, kỹ thuật. Ngoài ra còn phổ biến các cơ chế chính sách kinh tế của ngành cho các doanh nghiệp lâm nghiệp như các luật lệ, thông lệ, thủ tục thương mại của các nước trên thế giới,… từ đó họ có sự chủ động trong hoạt động thương mại, quan hệ quốc tế với các nước không bị bỡ ngỡ. 3.3.2 Đánh giá cơ hội và thách thức. a. Cơ hội * Mở rộng thị trường Trong những năm qua ngành lâm nghiệp Việt Nam nói chung và tỉnh Hà Tĩnh nói riêng đã có sự chủ động trong điều chỉnh cơ chế, chính sách cho phù hợp với yêu cầu của hội nhập và đổi mới. Thực hiện quản lý sản xuất, tiếp thu công nghệ - kỹ thuật mới đáp ứng yêu cầu về chất lượng, mẫu mã theo yêu cầu của thị trường. Do vậy hàng lâm sản ngày càng có vị thế trên thị trường quốc tế, nhất là đối với hàng mây tre đan đã và đang chiếm lĩnh được nhiều thị trường khó tính trên thế giới. Sau những tiến trình đàm phán, thương lượng cuối cùng Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của tổ chức WTO. Như vậy, mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước sẽ tăng lên, đối tác thương mại sẽ quan tâm tới hàng hoá của Việt Nam nói chung và hàng lâm sản nói riêng. Trên thực tế hàng lâm sản của nước ta cũng như của tỉnh Hà Tĩnh nhìn chung chưa phát triển tốt trên thị trường thế giới. Tuy nhiên trong tương lai gần cùng với tiến trình hội nhập hàng lâm sản sẽ không những chiếm lĩnh được thị trường mà còn mở rộng thị trường sang các nước khác trên thế giới. Một minh chứng khẳng định cơ hội mở rộng thị trường xuất khẩu là hàng lâm sản (như mây tre đan) đã có mặt trên thị trường Đài Loan, Úc, EU… Bên cạnh đó tiền năng về ngành lâm nghiệp của tỉnh là tương đối khả quan. Ngoài 214.958 ha rừng tự nhiên với trữ lượng 21 triệu m3 gỗ hiện nay toàn tỉnh còn có 85.000 ha rừng trồng, hàng năm còn trồng thêm 13 – 15 triệu cây phân tán, đưa độ che phủ hiện nay đạt 47%. Đây là một thế mạnh và tiền năng quý giá để phát triển ngành chế biến lâm sản, đặc biệt là sản phẩm gỗ xuất khẩu, góp phần làm tăng thu ngân sách, tạo nhiều việc làm cho người lao động. Tham gia hội nhập chính là cơ hội cho chúng ta. Khi tham gia hội nhập, lâm sản cũng như các sản phẩm khác được hưởng quy chế tối huệ quốc (MFN) mức thuế nhập khẩu của các nước thành viên thấp, tạo điều kiện cho hàng lâm sản thâm nhập vào thị trường các nước thành viên thành viên thuận lợi hơn. * Tiếp thu công nghệ mới, phương thức quản lý tiên tiến Khoa học công nghệ, phương thức quản lý sản xuất ngành lâm nghiệp cũng như tất cả các ngành và lĩnh vực sản xuất trong nền kinh tế quốc dân là rất cần thiết. Trong nhưng năm trước đây vấn đề trang bị kỹ thuật và công nghệ trong ngành lâm nghiệp còn chưa được chú trọng, nhất là trong việc khai thác lâm sản chủ yếu là khai thác thô sơ nên chất lượng sản phẩm chưa cao. Tuy nhiên trong những năm gần đây, khi chúng ta bắt đầu tham gia quá trình hội nhập kinh tế ASEAN, APEC, WTO... ngành lâm nghiệp đã nhanh chóng tiếp thu công nghệ sản xuất tiên tiến của các nước trong khu vực và trên thế giới, đồng thời áp dụng các kinh nghiệm quản lý ngành tiên tiến. Như thực hiện xây dựng nhà máy sản xuất dăm mảnh xuất khẩu ở cảng Vũng Áng, đầu tư dây chuyền mới về chế biến nhựa thông… * Tăng trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ kinh doanh và rèn luyện đội ngũ doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh Có thể nói đội ngũ cán bộ quản lý có một vai trò rất quan trọng trong quá trình hội nhập. Đội ngũ cán bộ này phải có khả năng tiếp cận được với các yêu cầu của các tổ chức quốc tế, công ước quốc tế mà chúng ta tham gia cũng như những yêu cầu của thị trường để có thể chủ động các điều kiện đáp ứng các yêu cầu đó. Thực tế Sở Nông nghiệp tỉnh Hà Tĩnh đã chú trọng trong việc đào tạo cán bộ về ngoại ngữ, nâng cao trình độ quản lý, mở các lớp tập huấn cho các địa phương trong vùng. Đối với các doanh nghiệp lâm nghiệp, tỉnh cũng thường xuyên hướng dẫn và mời đi học các lớp đào tạo về kinh tế thương mại, cạnh tranh quốc tế. Nhưng nhìn chung Hà Tĩnh vẫn còn thiếu kinh nghiệm thực tế, vì vậy tham gia hội nhập chính là môi trường để các doanh nghiệp có thể thực hành, áp dụng thích hợp, linh động lý thuyết vào thực tiễn. * Các cơ hội khác - Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp gỗ Việt Nam xuất khẩu các loại lâm sản, đặc biệt là các sản phẩm chế biến từ gỗ, tăng khả năng hội nhập với thị trường thế giới nhờ nguyên tắc không phân biệt đối xử và chính sách cắt giảm hàng rào thuế quan và phi thuế quan đối với hàng nhập khẩu. Trên cơ sở đó, các doanh nghiệp sẽ được hưởng thuế nhập khẩu ưu đãi thuộc quy chế MFN dành cho các nước thành viên WTO. - Khi gia nhập WTO, các doanh nghiệp gỗ có cơ hội thuận lợi mở rộng hợp tác đầu tư, liên doanh liên kết, chuyển giao công nghệ, đồng thời tận dụng được lợi thế sẵn có về nhân công, tài nguyên thiên nhiên rừng phong phú nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh. - Các doanh nghiệp có khả năng rút ngắn khoảng cách tụt hậu, tranh thủ và bổ sung các lợi thế sẵn có giữa các doanh nghiệp. Ngoài ra, trong quá trình hội nhập các doanh nghiệp Việt Nam có thể học hỏi kinh nghiệm quản lý, tiếp thu kỹ thuật công nghệ, đặc biệt với các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ. - Vị thế của doanh nghiệp trên thị trường lâm sản thế giới được cải thiện nhờ quá trình đa phương hoá, đa dạng hoá các mối quan hệ kinh tế trong khu vực và trên thế giới. Ngoài những cơ hội trên thì các điều kiện tự nhiên thuận lợi về khí hậu, đất đai tạo cho lâm nghiệp Việt Nam thu hút được các chương trình thân thiện môi trường của các nước không có điều kiện thuận lợi về tài nguyên rừng như Nhật Bản, Phần Lan… trong việc hợp tác về xác định đánh giá thông tin hệ thống rừng, thực hiện chương trình trồng rừng, và thực hiện liên kết giữa các công ty trong lĩnh vực lâm nghiệp của Việt Nam và nước ngoài. Tuy nhiên do đặc tính của ngành nên ngành lâm nghiệp của tỉnh Hà Tĩnh cũng như của toàn Việt Nam luôn gặp phải những tồn tại như sau: - Nhận thức của các doanh nghiệp và kiến thức của họ đối việc gia nhập WTO còn thấp, các doanh nghiệp ít có những chuẩn bị cơ bản để gia nhập WTO. - Cơ chế quản lý thương mại nội địa và thương mại quốc tế còn nhiều bất cập, đòi hỏi sự thay đổi tương đối lớn. - Chất lượng hàng hoá và khả năng cạnh tranh của hàng hoá còn thấp hơn so với nhiều thành viên khác. - Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường thế giới thấp xuất phát từ khả năng cạnh tranh thấp của hàng hoá, kỹ năng quản lý chưa cao, kỹ năng quản lý chưa cao, kinh nghiệm quốc tế ít, trình độ cán bộ nhân viên còn hạn hẹp. Do vậy, khi tham gia hội nhập sẽ tăng khả năng cọ xát đối với ngành lâm nghiệp của tỉnh và làm nâng cao năng lực cạnh tranh của lâm sản. Có thể thấy rõ rằng khi trở thành thành viên chính thức của WTO, Việt Nam sẽ được hưởng những điều kiện đối xử tối huệ quốc của tất cả các nước thành viên WTO với hàng rào thuế quan thấp, tạo điều kiện cho hàng Việt Nam thâm nhập vào thị trường nước ngoài, cải thiện cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại với các cường quốc thương mại lớn, được hưởng hệ thống ưu đãi phổ cập cho các nước đang phát triển, và từ đó cải cách kinh tế của Việt Nam. b. Thách thức Tuy nhiên bên cạnh những cơ hội đó thì việc thực hiện hội nhập cũng chứa không ít thách thức mà ngành lâm nghiệp phải vượt qua: - Năng lực cạnh tranh yếu, năng suất lao động của các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh gỗ và lâm sản Việt Nam còn thấp. Tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước còn chậm chạp, do đó khả năng và tính năng động của các doanh nghiệp nhìn chung còn yếu. - Còn nhiều vấn đề trong việc cân đối và sử dụng vốn để đầu tư và tái đầu tư sản xuất của các doanh nghiệp gỗ Việt Nam. - Khả năng tiêu thụ sản phẩm gỗ và lâm sản nói chung của thị trường nội địa còn nhỏ, hạn chế việc kích thích các doanh nghiệp nâng cao hiệu quả sản xuất, cải cách cơ cấu mặt hàng, nâng cao năng lực cạnh tranh. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến môi trường kinh doanh của doanh nghiệp trong nước mà còn làm giảm tốc độ đầu tư trực tiếp nước ngoài. - Đội ngũ cán bộ lãnh đạo còn nhiều người chưa ý thức được ảnh hưởng của việc gia nhập WTO, những cơ hội và thách thức mà WTO mang lại, nên việc định hướng chiến lược cho các doanh nghiệp còn lúng túng, chưa chủ động có các biện pháp đối phó với thách thức và tận dụng cơ hội của việc gia nhập WTO. - Mức độ cạnh tranh ngày càng trở nên khốc liệt hơn do những điểm yếu của việc xử lý đối với các sản phẩm lâm sản, đặc biệt là các sản phẩm gỗ của Việt Nam để hạn chế những ảnh hưởng của thời tiết khí hậu và khả năng cạnh tranh thấp, nên khi gia nhập WTO, các doanh nghiệp phải đối mặt với không ít đối thủ cạnh tranh từ các nước thành viên có nền kinh tế phát triển hơn, với trình độ kỹ thuật cao hơn. - Chiến lược Lâm nghiệp được thực thi và Việt Nam gia nhập WTO sẽ tạo ra môi trường kinh doanh đa dạng, phong phú hơn đòi hỏi các doanh nghiệp gỗ không chỉ có phương án kinh doanh hiệu quả, đội ngũ nhân viên có trình độ chuyên môn cao, có kinh nghiệm kinh doanh quốc tế mà phải có trình độ thông thạo về hội nhập kinh tế quốc tế mới có thể khai thác lợi thế mà WTO và chiến lược Lâm nghiệp mang lại. 3.3.3. Điểm mạnh, điểm yếu. a. Điểm mạnh Tuy đang nằm trong diện là những tỉnh nghèo và phát triển chậm nhưng Hà Tĩnh cũng có những điểm mạnh cần phải phát huy trong quá trình phát triển kinh tế tỉnh phù hợp với yêu cầu hội nhập như sau: - Hà Tĩnh là tỉnh có nguồn tài nguyên rừng khá phong phú và có nhiều loại đặc hữu có giá trị cao về mặt sinh học lẫn kinh tế. - Thuộc vùng Bắc Trung Bộ nên Hà tĩnh là cầu nối giao thông từ bắc vào nam đồng thời có cửa khẩu Cầu Treo nên thuận lợi trong việc giao lưu kinh tế với các nước như Lào, Thái Lan, Campuchia, bờ biển dài với nhiều cảng lớn nhỏ là một thế mạnh để phát triển giao lưu kinh tế bằng đường biển. - Là tỉnh có dân số cao, lực lượng lao động dồi dào; mặt khác Hà Tĩnh là nơi được biết đến với những con người hiếu học, cần cù, ham học hỏi… đây là một nguồn lực không thể thiếu trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của tỉnh. b. Điểm yếu Bên cạnh những điểm mạnh nỗi bật thì Hà Tĩnh vẫn đang còn tồn tại khá nhiều những hạn chế trong quá trình phát triển kinh tế tỉnh nói chung và ngành lâm nghiệp nói riêng. - Công tác điều tra đánh giá nguồn lợi tuy đã được quan tâm nhưng kết quả còn hạn chế. - Công tác quản lý, bảo vệ và phát triển lâm nghiệp chưa thu được kết quả cao, sức ép về lao động và thu nhập còn rất đáng kể trong việc thực thi các quy định về bảo vệ rừng và tài nguyên rừng - Rất nhiều các doanh nghiệp chế biến lâm sản còn trong tình trạng thiết bị sản xuất lạc hậu, hoạt động sản xuất manh mún nhỏ lẻ, thiếu sự liên kết giữa các doanh nghiệp với nhau nên không thực hiên được các hợp đồng các dự án lớn. - Phần lớn đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp chưa đào tạo cơ bản về kỹ năng quản lý cũng như các kiến thức trong tổ chức và phát triển thị trường trong bối cảnh hội nhập và đòi hỏi cạnh tranh gay gắt. Ngoài ra Hà Tĩnh là một tỉnh mà nền kinh tế chưa thật sự phát triển, theo nhịp độ phát triển của đất nước do nằm trong khu vực nhiều thiên tai của đất nước. Mặc dù cũng đã có những chuyển biến về sự phát triển của nền kinh tế, tuy nhiên sau một năm gia nhập WTO thì nền kinh tế Hà Tĩnh nói chung chưa có biến đổi nhiều đặc biệt là lĩnh vực lâm nghiệp do chưa thực sự thu hút được sự quan tâm của các nhà đầu tư vào lĩnh vực mà rủi ro khá cao này. Chương 4 MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGÀNH THEO YÊU CẦU HỘI NHẬP 4.1 Quan điểm, mục tiêu phát triển 4.1.1. Quan điểm Xuất phát từ mục tiêu cơ bản của chiến lược phát triển kinh tế xã hội Việt Nam đến năm 2010 là thu nhập bình quân đầu người phải đạt 1000USD cộng với việc ngành lâm nghiệp đóng vai trò quan trọng trong tạo việc làm cho người dân, tăng thu nhập. Ngoài ra ngành lâm nghiệp còn phải đảm bảo cung cấp về lâm sản cho tiêu dùng trong nước đồng thời góp phần vào bảo vệ chủ quyền vùng biên giới. Để thực hiện đúng chức năng của mình ngành lâm nghiệp phải được phát triển trên quan điểm sau: - Thực hiện cơ giới hoá ngành lâm nghiệp đưa máy móc công nghệ và các khoa học kỹ thuật tiên tiến nhằm đẩy mạnh quá trình phát triển ngành và chủ động trong xu thế hội nhập. Tiếp tục chuyển đổi cơ cấu sản xuất,, vừa khai thác tiềm năng hiệu quả, vừa quản lý bảo vệ môi trường, phát triển, tái tạo nguồn lợi đảm bảo tốc độ tăng trưởng ổn định, bền vững. Chuyển đổi cơ cấu kinh tế lâm nghiệp trong mọi lĩnh vực từ ươm giống, trồng rừng, khai thác đến chế biến, coi trọng các sản phẩm xuất khẩu lâm sản đồng thời quan tâm phục vụ nhu cầu trong nước. - Phát triển lâm nghiệp phải theo quy hoạch đồng bộ, theo vùng và khu vực thích hợp với từng giống cây trồng nhằm phát huy lợi thế, tạo hệ thống liên hoàn giữa các khâu: ươm giống - trồng rừng - khai thác - chế biến – tiêu thụ. - Lâm nghiệp là ngành ít được quan tâm đầu tư nên muốn phát triển cần huy động mọi nguồn lực trong và ngoài nước, thu hút mọi tầng lớp nhân dân, mọi thành phần kinh tế trong đó cần sự quan tâm nhiều của Nhà nước. Từ đó tạo điều kiện cho ngành phát triển một cách ổn định, bền vững. - Phát triển kinh tế lâm nghiệp phải gắn liền với việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, hạ tầng, đào tạo nhân lực và giải quyết các vấn đề xã hội, nâng cao dân trí, tạo việc làm tăng thu nhập cho người dân. - Chính phủ đóng vai trò quan trọng trong phát triển lâm nghiệp Việt Nam nói chung và của Hà Tĩnh nói riêng thông qua các chính sách đầu tư và quản lý đúng đắn, phù hợp với tính chất đặc thù của ngành, nghề rừng. 4.1.2. Mục tiêu phát triển Về mục tiêu chung tỉnh Hà Tĩnh có chủ trương phát triển mạnh kinh tế rừng, nhất là trồng rừng nguyên liệu, bảo tồn phát triển cây con quí hiếm. Bên cạnh đó môi trường sinh thái, bảo tồn đa dạng sinh học là vấn đề tỉnh đã và đang quan tâm từ nhiều năm nay. Và tạo việc làm, nâng cao đời sống người dân, đặc biệt là dân trong vùng ven rừng là điều cần thiết nhằm đưa thu nhập của ngành Lâm nghiệp tương xứng với tiềm năng đất đai hiện có. Về mục tiêu cụ thể đến năm 2010 tỉnh Hà Tĩnh đặt ra cụ thể như sau: - Đưa độ che phủ của rừng từ 45% (năm 2005) lên 55% (năm 2010). - Tạo việc làm, nâng cao đời sống cho 50.000 lao động sống gần rừng: Nâng cao đời sống của người dân tiến tới làm giàu từ rừng, đưa thu nhập bình quân lên trên 1 triệu đồng/tháng/người lao động lâm nghiệp. Đưa thu nhập của nghề rừng tương xướng với tiềm năng Lâm nghiệp hiện có. Dự kiến sau năm 2010 bình quân mỗi năm: + Giá trị hàng hoá cho Công nghiệp và xuất khẩu 752 tỷ đồng, tương ứng với 47 triệu USD. + Nộp ngân sách 76 tỷ đồng. 4.2 Dự báo một số xu hướng thị trường trong những năm tới Chúng ta đã biệt việc gia nhập WTO có tác động đến đến mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội. Tuy nhiên theo nhận định của các nhà nghiên cứu kinh tế thì khi xoá bỏ thuế nhập khẩu sẽ ảnh hưởng không nhiều đến sản xuất và tiêu dùng lâm sản trên phạm vi toàn thế giới (bao gồm cả gỗ tròn). Mà điều này nó có thể sẽ tác động nhiều đến thương mại giữa các nước với nhau. Với nhận định như vậy những năm tới đây có thẻ dự báo một số xu hướng của thị trường lâm sản có thể tác động mạnh đến hoạt động ngành lâm nghiệp như sau: - Nhu cầu sử dụng lâm sản có nguồn gốc xuất xứ ngày càng tăng đối với những thị trường khó tính như EU, Nhật Bản, Mỹ… đòi hỏi sản phẩm xuất khẩu phải có nguồn gốc rõ ràng, bảm bảo việc khai thác chế biến đúng quy trình kỹ thuật, đồng thời đảm bảo được mục tiêu sản xuất bền vững. - Ngành chế biến lâm sản Hà Tĩnh nói riêng và của cả nước nói chung thì nguyên liệu dùng cho sản xuất vẫn chủ yếu là nhập khẩu do đó chưa khai thác và tận dụng được các nguồn lực trong nước để đảm bảo phát triển ngành nghề một cách toàn diện. Do đó để đáp ứng được nhu cầu của ngành, hiện nay đã có rất nhiều dự án trồng rừng nguyên liệu đã và đang được tiến hành, đây sẽ là nguồn nguyên liệu cần thiết cho tương lai phát triển của ngành. - Xu hướng sản xuất sản phẩm bền vững tiếp tục tăng: Sản xuất bền vững đã và đang trở thành một phần không thể thiếu trong sản xuất kinh doanh. Xu thế phát triển bền vững là một tất yếu mà bất kỳ một nền kinh tế nào cũng phải tuân nếu muốn đứng vững trên trường quốc tế. - Các cuộc chiến về thương mại vẫn tiếp tục tăng: Trong môi trường kinh doanh quốc tế thì các nước có thế mạnh về chất lượng, mẫu mã, thương hiệu sản phẩm sẽ là nước chiếm ưu thế trong quá trình cạnh tranh. Đối với thị trường trong nước cũng vậy, doanh nghiệp nào biết tận dụng thời cơ phát huy được các thế mạnh thì doanh nghiệp đó sẽ chiến thắng. Đây là xu thế “cá lớn nuốt cá bé” trong thời cuộc mới. Từ đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải biết nắm bắt thời cơ để phát triển, nếu không sẽ phải lùi bước nhường đường cho người khác tiến lên. Đây là một xu thế tất yếu của cơ chế thị trường cạnh tranh, và cạnh tranh là điều kiện cần thiết cho sự phát triển của một nền kinh tế. - Người tiêu dùng càng ngày càng có nhiều lựa chọn hơn trong nhu cầu tiêu dùng của mình do sự đa dạng và phong phú của các mặt hàng, do đó càng ngày họ càng đòi hỏi cao hơn về chất lượng sản phẩm, đồng thời giá cả và hình thức sản phẩm cũng là những chỉ tiêu quan trọng đối với người tiêu dùng. Những xu hướng thị trường như trên có ảnh hưởng rất lớn đến việc phát triển ngành lâm nghiệp cả nước nói chung và Hà Tĩnh nói riêng. Vì vậy các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, đặc biệt là các doanh nghiệp xuất khẩu cần phải chuẩn bị các điều kiện một cách tốt nhất, phải nắm rõ được các xu thế biến động của thị trường để từ đó có những điều chỉnh xử lý kịp thời, linh hoạt, tránh tối thiểu những tác động xấu lên sự phát triển của ngành. 4.3 Một số giải pháp thúc đẩy ngành lâm nghiệp Hà Tĩnh phát triển theo yêu cầu hội nhập Trong bối cảnh xu thế hoá, các quốc gia trên thế giới ở mức độ này hay mức độ khác đều tuỳ thuộc vào nhau, có quan hệ qua lại với nhau. Nước nào đóng cửa với thế giới là đi ngược lại với thời đại. Hội nhập bên cạnh những lợi ích, cơ hội thì còn có những khó khăn, thách thức có thể dẫn đến lệ thuộc vào các nước lớn. Vì vậy cần phải có những biện pháp phát triển thích hợp nhằm đảm bảo sự phát triển của ngành: Để có được định hướng phát triển đúng đắn, phù hợp với mục tiêu chung của nền kinh tế, hoàn thành mục tiêu cụ thể đặt ra cũng như phù hợp với xu thế của thị trường thì sự can thiệp của Nhà nước là rất quan trọng mang tính chất định hướng thông qua thể chế chính sách. Trên cơ sở thực hiện các chính sách của Nhà Nước thì ngành lâm nghiệp Hà Tĩnh cần thực hiện một số giải pháp sau: a. Rà soát điều chỉnh qui hoạch 3 loại rừng Công tác điều tra quy hoạch có thể nói là quan trọng hàng đầu, làm cơ sở định hướng phát triển bền vững. Trên cơ sở qui định về tiêu chí phân cấp phòng hộ, việc điều chỉnh qui hoạch 3 loại rừng sẽ được thực hiện theo hướng ưu tiên đẩy mạnh phát triển rừng sản xuất, những vùng đất tốt, thuận lợi cho sản xuất, không thuộc lưu vực sông, hồ đập lớn mà trước đây đã qui hoạch phòng hộ thì nay chuyển sang sản xuất: - Ra soát điều chỉnh qui hoạch 3 loại rừng theo hướng tăng lâm phận sản xuất, làm rõ ranh giới lâm phận 3 loại rừng trên bản đồ và ngoài thực địa, công bố rộng rãi qui hoạch 3 loại rừng để tổ chức quản lý, thực hiện đảm bảo đúng qui hoạch - Trên qui hoạch tổng thể các loài cây mà đề án đưa ra, cần phải điều tra, qui hoạch chi tiết đến từng xã của từng huyện, làm rõ trên bản đồ và ngoài thực địa các vùng sản xuất theo từng loại cây cụ thể. Công bố qui hoạch và xây dựng các dự án đầu tư. - Khảo sát đánh giá hiệu quả một số diện tích rừng trồng hiện có như nhựa thông, keo tràm, Bạch đàn Phú Khánh… nếu hiệu quả thấp thì cần thanh lý, khai thác để chuyển sang trồng các loài cây có giá trị cao hơn như Cao su, Keo lai, Bạch đàn mô, Dó trầm, Phi lao hom - Rà soát hệ thống các cơ sở chế biến lâm sản, qui hoạch, xác định số lượng và qui mô phù hợp trên cơ sở khả năng nguồn nguyên liệu, cương quyết loại bỏ các cơ sở chế biến lâm sản bất hợp pháp. b. Về ứng dụng khoa học, công nghệ và khuyến lâm - Tăng cường năng lực về công nghệ thông tin cho các cơ quan quản lý, các doanh nghiệp nhằm tiếp cận nhanh với các thông tin kinh tế, kỹ thuật và thị trường. - Tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng công nghệ tạo giống từ mô, hom nhằm tạo giống tốt cho rừng trồng. Tổ chức nghiên cứu khảo nghiệm và đánh giá đúng về khả năng sinh trưởng, phát triển của các xuất xứ giống đưa vào trồng rừng. Tiến tới cần xây dựng một trung tâm tạo giống gốc, cây mẹ để cung ứng vật liệu giống cho các vườn ươm trong tỉnh. - Tổ chức theo dõi quá trình sinh trưởng, phát triển và tình hình sâu bệnh hại rừng trồng để có giải pháp xử lý kịp thời các tình huống xảy ra. - Xây dựng các mô hình trình diễn về kinh doanh, kỹ thuật thâm canh rừng, làm nơi tham quan học tập cho nông dân. Hàng tháng phối hợp với đài truyền hình tỉnh mở chuyên mục cùng dân làm giàu, để giới thiệu các mô hình, các cách thức làm ăn của các hộ sản xuất giỏi. Xây dựng cẩm nang về quy trình kỹ thuật trồng rừng các cây chủ lực, tổ chức tập huấn chuyển giao kỹ thuật đến tận từng người làm rừng, xây dựng một số mô hình thâm canh rừng để có kết luận nhằm phổ biến rộng rãi. c. Về đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật - Cũng cố xây dựng các vườn ươm công nghiệp, các khu rừng giống đảm bảo cung ứng đủ giống cây lâm nghiệp có chất lượng cao. - Nhà nước cần đầu tư ngân sách để nâng cấp sữa chữa và mở mới các tuyến đường lâm nghiệp nhằm tạo thuận lợi, khuyến khích sản xuất phát triển. Bình quân 100 ha rừng trồng mới cần mở 1 km đường cấp phân phối, tổng chiều dài đường cần nâng cấp, mở mới là 515 km. - Củng cố cơ sở vật chất, kỹ thuật, tăng cường năng lực cho Đoàn điều tra Qui hoạch nông lâm nghiệp và các trạm khuyến nông - khuyến lâm ở các huyện nhằm đáp ứng yêu cầu công tác qui hoạch, chuyển giao công nghệ. d. Về chính sách - Đẩy mạnh giao đất, khoán rừng, tổ chức giao khoán rừng đến từng hộ nhằm phát huy lợi thế về đất đai và lao động của tỉnh. Thực hiện tốt chính sách hưởng lợi trong nhận khoán làm rừng. - Xây dựng chính sách khuyến khích đầu tư và chính sách hỗ trợ cho sản xuất lâm nghiệp. Như chính sách hỗ trợ giống, miễn, giảm tiền thuê đất trong chu kỳ kinh doanh đầu… - Giảm lãi suất tiền vay từ quỹ đầu tư phát triển e. Về tổ chức sản xuất - Thực hiện tốt Nghị định 200/2004/NĐ-CP ngày 3/12/2004 của Chính phủ về sắp xếp, đổi mới hoạt động các lâm trương quốc doanh; củng cố tổ chức hoạt động của các đơn vị, các Ban quản lý rừng phòng hộ, rừng đặc dụng hiện có, đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ chính và phát huy được tiềm năng lợi thế của từng đơn vị để tham gia sản xuất kinh doanh và làm bà đỡ cho kinh tế hộ - Đẩy mạnh liên doanh, liên kết thông qua hợp đồng giữa các nhà đầu tư với các đơn vị lâm nghiệp của tỉnh, hợp đồng giữa doanh nghiệp và nông dân. Các đơn vị doanh nghiệp tổ chức hợp đồng giao khoán đến người lao động làm cho mỗi lô rừng đều có chủ trực tiếp quản lý, sản xuất. - Thông qua chính quyền xã, huyện tiến hành hỗ trợ giống, vật tư và chuyển giao kỹ thuật cho các hộ có đất trồng rừng. - Tiếp tục lựa chọn các mô hình sản xuất kinh doanh Lâm nghiệp có hiệu quả dưới nhiều hình thức như: Hợp tác xã Lâm nghiệp, Công ty Cổ phần, Trang trại Lâm nghiệp… từ đó nhân ra diện rộng. - Cần hình thành một đơn vị kinh tế chuyên cung ứng vật tư phục vụ trồng rừng trên địa bàn tỉnh. - Tiếp tục tiến hành qua trình chuyển đổi cơ cấu sản xuất, thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước thành các Công ty cổ phần. f. Về tổ chức quản lý - Qui hoạch các loại cây trồng sẽ được công bố rộng rãi đến các địa phương. Tổ chức quản lý chặt chẽ qui hoạch đã được duyệt, đối với các đơn vị Nhà nước thì thông qua việc thẩm định thiết kế trồng rừng để quản lý qui hoạch, đối với hộ dân và các tổ chức khác thì yêu cầu phải đưa vào phương án sử dụng đất, nếu không thực hiện đúng thì có biện pháp xử lý hoặc thu hồi. - Nghiên cứu áp dụng hình thức đấu giá thuê quyền sử dụng đất để cho mọi thành phần kinh tế cùng tham gia đầu tư phát triển rừng. - Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chịu trách nhiệm trước Uỷ Ban Nhân Dân tỉnh tổ chức chỉ đạo thực hiện, lập kế hoạch hàng năm về chính sách hổ trợ, đầu tư từ ngân sách cho Đề án phát triển lâm nghiệp. - Nghiên cứu xây dựng giá sàn cho sản phẩm lâm nghiệp để quản lý tránh tình trạng ép giá gây thiệt thòi cho người sản xuất. g. Về phát triển nguồn nhận lực Nhằm đáp ứng cho ngành một lực lượng lao động có đủ năng lực chuyên môn, nhất là trong các lĩnh vực như tạo giống, kỹ thuật khai thác và chế biến lâm sản, đồng thời giải quyết công ăn việc làm cho những hộ nông dân ven rừng không ngừng nâng cao đời sông thu nhập cho hộ. Muốn vậy họ phải được trang bị những kiến thức nhất định, ý thức phấn đấu cho một ngành lâm nghiệp bền vững, bảo vệ nguồn lợi cho đất nước. Bên cạnh đó trong trong bối cảnh hội nhập quốc tế, đòi hỏi có một đội ngũ lao động biết làm tiếp thị, hiểu biết hệ thống pháp luật, thông lệ buôn bán với các thị trường và thương nhân đặc biệt là thương mại có yếu tố nước ngoài. Cụ thể: - Đào tạo đội ngũ các cán bộ quản lý giỏi kiến thức chuyên môn, xã hội để có thể quản lý ngành phát triển bền vững. Đội ngũ các nhà doanh nghiệp giỏi để có tập thể trách nhiệm cao, năng động và hiểu biết chuyên môn sâu; cán bộ khoa học có khả năng nghiên cứu, tiếp thu và ứng dụng những tiến bộ kỹ thuật công nghệ tiên tiến của thế giới trong mọi lĩnh vực. - Ngoài ra còn phải đào tạo đội ngũ cán bộ kỹ thuật và công nhân giỏi đặc biệt lĩnh vực chế biến lâm sản, đáp ứng yêu cầu chuyên môn ngày càng cao. h. Giải pháp về tăng cường mở rộng thị trường Để có thể phát triển ngành thì ngoài việc phải tạo chổ đứng cho sản phẩm ở thị trường trong nước, việc mở rộng thị trường ra các nước khác là điều tất yếu. Càng xuất khẩu ra nhiều nước có nghĩa là Hà Tĩnh góp phần trong việc nâng vị thế của nước mình trên trường quốc tế. Dù bước đầu tham gia vào thị trường mới sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc quảng bá, giới thiệu sản phẩm từng bước tạo niềm tin của sản phẩm đối với khách hàng. Nhưng chính thị trường sẽ là nơi chất lượng sản phẩm được đưa ra phán quyết một cách công bằng nhất. Do vậy xâm nhập thị trường quốc tế sẽ giúp cho các doanh nghiệp tự hoàn thiện chất lượng sản phẩm, khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Một số giải pháp mở rộng thị trường cho sản phẩm: * Đối với thị trường trong nước: - Đa dạng hoá chủng loại sản phẩm, đặc biệt là các sản phẩm có chất lượng cao mẫu mã đẹp, phù hợp với thị hiếu tiêu dùng trong nước. - Hoàn thiện mạng lưới bán hàng, thực hiện bán hàng theo nhiều kênh phân phối đảm bảo cung cấp hàng đến tận tay người tiêu dụng. - Có những ưu đãi đối với những cá nhân và tổ chức mua hàng hoá với số lượng lớn. Nhưng chúng ta có thể thấy rằng hiện nay hoà nhập vào nền kinh tế thế giới thì hơn hết chúng ta phải đẩy mạnh sản phẩm của mình ra thị trường quốc tế. * Đối với thị trường quốc tế Thị trường quốc tế có ảnh hưởng rất lớn đến kim nghạch xuất khẩu hàng lâm sản. Cho nên phải coi trọng công tác cập nhật thông tin thị trường từ mọi nguồn tin. Thiết lập quan hệ gắn bó với các bạn hàng cũ ( Mỹ, Nhật, EU, Đài Loan,…) để bổ sung thông tin về thị trường, về đối tác và làm tốt công tác dự báo nhu cầu thị trường, diễm biến thị trường cho các doanh nghiệp và những người sản xuất. Tham gia hoạt động tìm kiếm thị trường mới thông qua đẩy mạnh công tác quảng cáo, tiếp thị, hướng dẫn tiêu dùng. Tham gia các hội chợ trong và ngoài nước để quảng bá sản phẩm và tìm đối tác kinh doanh. Chú trọng thị trường có sức mua lớn đi đôi với khảo sát, mở rộng thăm dò thị trường mới, chủ động phòng ngừa những đột biến của thị trường. Đi vào một số thị trường cụ thể: - Đối với thị trường Mỹ, Nhật Bản, EU là những thị trường “khó tính” tiềm ẩn rất nhiều khó khăn biến động và yêu cầu đòi hỏi của những thị trường này rất cao nhưng không vì thế mà chúng ta không đẩy sản phẩm vào các thị trường này. - Thị trường Nhật Bản là thị trường truyền thống hay một số nước Châu Á vì vậy chúng ta vẫn nên giữ vững thị phần của mình và không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm nhằm nâng sức cạnh tranh. - Ở thị trường EU cần tăng số lượng các doanh nghiệp đủ điều kiện vào danh sách xuất hàng sang thị trường này nhằm nâng cao vị thế của các doanh nghiệp tạo điều kiện phát triển thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu. - Ngoài ra hiện nay chúng ta đã thâm nhập được hàng lâm sản của mình vào các nước Châu Phi. Đây là một tín hiệu đáng mừng cho ngành kinh tế lâm nghiệp Việt Nam nói chung và Hà Tĩnh, là điều cần phát huy trong tương lai. Việc mở rộng thị trường sẽ rất có lợi cho việc tăng lượng hàng xuất khẩu sang nước bạn. Tuy vậy, cũng phải xem xét giữa cơ hội có được từ các thị trường mới và những mất mát từ thị trường cũ khi có thêm thị trường mới. Nhiều khi giá trị kim ngạch xuất khẩu ở thị trường mới không bù đắp được giá trị xuất khẩu ở thị trường đã có. Do vậy cần phải có chiến lược về thị trường xuất khẩu, đối tượng xuất khẩu. Thu hút các nguồn lực đầu tư vào phát triển lâm nghiệp Từ thực tế đầu tư phát triển ngành lâm nghiệp trong những năm qua chưa tương xứng với tiềm năng phát triển của ngành, không đồng bộ nên hiệu quả thu được chưa cao. Với xu hướng đi lên và những đòi hỏi đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế cần có những biện pháp để thu hút huy động vốn đầu tư, phát triển ngành lâm nghiệp. Các biện pháp đó là: Thu hút nguồn vốn trong nước và ngoài nước đầu tư vào phát triển sản xuất lâm sản, khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư cho lĩnh vực này. Nguồn vốn trong nước bao gồm: Ngân sách Nhà nước, vốn tín dụng, vốn huy động từ dân và doanh nghiệp. Đây là nguồn vốn chiếm tỷ trọng cao nhất cũng chính là nguồn vốn có thể kích thích tăng nhanh nhất. Vì vậy, để tăng nguồn vốn đầu tư này cần khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển sản xuất kinh doanh, xuất nhập khẩu lâm sản để thúc đẩy và thu hút vốn đầu tư, nhất là chế độ ưu đãi về thuế. Bên cạnh đó, Nhà nước cần có chính sách ưu tiên, ưu đãi vốn cho các khu vực còn gặp nhiều khó khăn ở vùng ven biên giới, vùng sâu, vùng xa, đầu tư phát triển các khu rừng nguyên liệu cung cấp cho sản xuất. Nguồn vốn nước ngoài bao gồm vốn ODA, FDI … cần thu hút hàng năm 60 – 70 triệu USD chiếm khoảng 30% vốn đầu tư vào lĩnh vực lâm nghiêp. Để thu hút được nguồn vốn này cần hoàn thiện cơ cấu đầu tư, các định chế pháp lý, mở rộng các hoạt động tư vấn đầu tư, tạo môi trường hấp dẫn hơn cho đầu tư. - Tiếp tục chuyển dịch cơ cấu đầu tư theo hướng chuyển dịch cơ cấu sản xuất ngành. Khuyến khích đầu tư đổi mới công nghệ, đổi mới quản lý trong tất cả các khâu khai thác, chế biến và dịch vụ lâm sản nhằm tăng khả năng cạnh tranh cho sản phẩm lâm sản Việt Nam. - Khuyến khích đầu tư cho nghiên cứu khoa học nhất là nghiên cứu ứng dụng công nghệ tiên tiến phục vụ cho sản xuất kinh doanh. Đầu tư có trọng điểm cho công tác nghiên cứu khoa học, công nghệ, đào tạo và hình thành các cụm công nghiệp chế biến và tiêu thụ lâm sản lớn. 4.4 Một số kiến nghị cho ngành lâm nghiệp Việt Nam nói chung và Hà Tĩnh nói riêng trong thực hiện lộ trình hội nhập WTO 4.4.1 Đối với chính phủ - Có cơ chế chính sách đầu tư đồng bộ hệ thống cơ sở hạ tầng cho lâm nghiệp để đáp ứng được yêu cầu phát triển bền vững và tương xứng với tiềm năng của lâm nghiệp. Tiến độ đầu tư phải phù hợp với lộ trình hội nhập và kế hoạch thực hiện chuyển dịch cơ cấu ngành. - Trên cơ sở hoàn thiện Luật bảo vệ và phát triển rừng đáp ứng yêu cầu đổi mới và hội nhập, nâng cao năng lực thực thi pháp luật trong đó có việc phối hợp thực hiện quy định giữa các Bộ, ngành và các chủ trương chính sách phát triển ngành của tỉnh. Điều chỉnh cơ chế khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư vào lĩnh vực phát triển ngành nghề lâm nghiệp. - Có cơ chế hỗ trợ cho nhưng nguời sản xuất lâm nghiệp tham gia các lớp đào tạo kỹ thuật và tham quan học tập kinh nghiệm của nước ngoài. - Có cơ chế tín dụng lâm nghiệp phù hợp như đề nghị ngân hàng và các cơ quan tài chính có những cơ chế về hỗ trợ về xúc tiến thị trường, khuyến lâm… 4.4.2 Đối với các nhà đầu tư a. Hỗ trợ đào tạo - Đào tạo cán bộ chuyên sâu về hội nhập, hướng dẫn thực hiện quy phạm thực hành sản xuất và chế biến lâm sản - Các dự án hỗ trợ kỹ thuật về đào tạo đội ngũ cán bộ để đổi mới quản lý cho các cơ quan hành chính, cán bộ về marketing am hiểu về luật lệ và các chính sách kinh tế thương mại của các nước và quốc tế - Hỗ trợ kỹ thuật để tăng cường năng lực về quản lý, bảo vệ các nguồn lợi lâm sản, tăng cường năng lực bảo vệ môi trường sinh thái. b. Đầu tư Đề nghị các nhà đầu tư quan tâm đến phát triển lâm nghiệp bền vững và thực hiện lâm nghiệp xã hội. Đồng thời khuyến khích các nhà đầu tư tham gia vào các dự án về chuyển giao công nghệ chế biến, nâng cấp đổi mới công nghệ chế biến. Bên cạnh đó đầu tư vào các dự án nâng cấp, đổi mới năng lực đào tạo của các trường đại học, trung học chuyên nghiệp, các Viên nghiên cứu gồm đầu tư trang thiết bị kỹ thuật, các thiết bị thí nghiệm… KẾT LUẬN Lâm nghiệp Hà Tĩnh trong những năm qua đã có những đóng góp tích cực vào việc đảm bảo an ninh môi trường, hạn chế thiên tai, góp phần giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo, ổn định cuộc sống cho dân cư sống ven rừng và đồi núi. Tham gia vào sự phát triển công nghiệp của tỉnh, cũng như việc góp phần làm tăng thu nhập cho nền kinh tế của tỉnh.Chỉ tính riêng ngành chế biến và xuất khẩu lâm sản và lâm sản ngoài gỗ đã thu về lượng ngoại tệ góp phần cho tăng trưởng kinh tế của tỉnh, giải quyết việc làm, nâng cao đời sống của người dân. Hiện nay đã là thành viên của WTO chúng ta đã và đang tiếp tục thực hiện các điều kiện tham gia vào tổ chức thương mại thế giới. Ngành nông nghiệp nói chung hay ngành lâm nghiệp nói riêng được coi là lĩnh vực khá nhạy cảm. Do vậy tham gia quá trình hội nhập, ngành lâm nghiệp chúng ta có nhiều cơ hội để mở rộng thị trường tiêu thụ, tiếp thu công nghệ mới tiên tiến vào quản lý sản xuất kinh doanh, nâng cao hơn nữa sức cạnh tranh sản phẩm đồng thời nâng cao trình độ kinh nghiệm của đội ngũ cán bộ ngành. Tuy nhiên bên cạnh đó ngành lâm nghiệp cũng phải đối mặt với rất nhiều thách thức cần phải vượt qua như trình độ sản xuất còn yếu kém, lạc hậu so với thế giới, sản phẩm chưa có thương hiệu uy tín… Chính vì vậy để ngành lâm nghiệp Hà Tĩnh nói riêng và Việt Nam nói chung phát triển vững chắc trong quá trình hội nhập thì phải có các giải pháp đúng đắn, phát triển tương xứng với tiềm năng vốn có của ngành, góp phần thúc đẩy kinh tế đất nước phát triển đi lên hoà cùng với sự phát triển của nền kinh tế thế giới. Tài liệu tham khảo Tài liệu tham khảo Tiếng việt 1) Bộ Kế hoạch và đầu tư (2005), Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010 2) GVC. ThS Nguyễn Xuân Đệ (2005), Giáo trình kinh tế lâm nghiệp, NXB nông nghiệp, Hà Nội. 3) PGS.TS. Phạm Văn Khôi (2007), Chính sách thuế quan và phi thuế quan đối với hàng nông sản Việt Nam trong quá trình hội nhặpWTO, Tạp chí kinh tế và phát triển số 5/2007, tr.12-16 5) Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Tĩnh (2003), Chiến lược phát triển ngành lâm nghiệp Hà Tĩnh giai đoạn 2004 - 2010 4) Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Tĩnh (2004), Chương trình phát triển nguyên liệu cho công nghiệp và xuất khẩu đến năm 2010 6) Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Tĩnh (2004), Đề án phát triển cây lâm nghiệp chủ lực, Chương trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn Hà Tĩnh đến năm 2010 MỤC LỤC BẢNG TÓM TẮT KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP Tên khoá luận: “Một số vấn đề về phát triển ngành lâm nghiệp tỉnh Hà Tĩnh trong quá trình hội nhập WTO”. Mục tiêu nghiên cứu: Mục tiêu chung: Góp phần thúc đẩy ngành lâm nghiệp Hà Tĩnh sau khi việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO. Mục tiêu cụ thể: - Tìm hiểu thực trạng ngành lâm nghiệp Hà Tĩnh, các tiềm năng phát triển và những cơ hội thách thức của ngành trong xu thế hội nhập. - Đề xuất các giải pháp phát triển lâm nghiệp Hà Tĩnh để thúc đẩy phát triển rừng sản xuất, chế biến lâm sản và dịch vụ lâm nghiệp phù hợp với quá trình gia nhập WTO. Nội dung khoá luận: Gồm 4 chương. Chương 1: Đặt vấn đề. Chương 2: Cơ sở lý luận và thực tiễn để phát triển lâm nghiệp Hà Tĩnh với việc gia nhập WTO. Chương 3: Thực trạng của ngành lâm nghiệp Hà Tĩnh với yêu cầu hội nhập WTO. Chương 4: Một số giải pháp phát triển ngành theo yêu cầu hội nhập.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc16.doc
Tài liệu liên quan