Đề tài Một số vấn đề về xuất khẩu lao động ở Việt Nam

Xuất khẩu lao động là một hoạt động kinh tế mang lại nhiều nguồn lợi cho nước ta. Đây chính là chủ trương mà Đảng và Nhà nước ta đang hướng tới trong chiến lược phát triển chung của đất nước. Đặc biệt, hiện nay Việt Nam đang tiến hành hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa trên mọi lĩnh vực, thì Việt Nam muốn phát triển kinh tế cần phải gắn kết với nền kinh tế thế giới. Trong đó chúng ta phải chú trọng phát triển nguồn nhân lực quốc tế thông qua hoạt động xuất khẩu lao động. Hoạt động XKLĐ đã và đang mang lại rất nhiều lợ ích cho các bên tham gia, từ Nhà nước, doanh nghiệp XKLĐ cho tới bản thân người lao động- chủ thể của quá trình XKLĐ.Trong thời gian qua chúng ta đã cố gắng hết sức để đưa 490736 lao động ra làm việc ở nước ngoài, họ phục vụ chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp, phụ giúp gia đình, xây dựng và các thị trường chủ yếu có thể kể đến là 4 thị trường chính và truyền thống:Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaisia, Đài Loan và một số thị trường còn lại.Ngoại tệ chuyển về nước ngày càng tăng mạnh, ước tính hơn 1,6 tỷ USD, đồng thời Nhà nước cũng tiết liệm được hàng tỷ đô la Mỹ mỗi năm do không phải đầu tư tạo việc làm mới cho số lao động tương đương số lao động xuất khẩu.Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đã đạt được chúng ta không tránh khỏi những hạn chế trong XKLĐ,đặc biệt trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt diễn ra trên khắp các lĩnh vực.Người lao động gặp nhiều khó khăn trong trong vấn đề thủ tục, nhân quyền, công việc do vậy đã gây ra những vấn đề bất mãn trong lao động, phá bỏ hợp đồng .ảnh hưởng đến danh dự của người lao động nói riêng và của đất nước ta nói chung.Nguyên nhân không trực tiếp chỉ thuộc về người lao động mà còn bộc lộ một số khiếm khuyết trong công tác quản lý của Nhà nước và bản thân các doanh ngiệp XKLĐ.Sự thiếu liên kết chặt chẽ từ trung ương đến địa phương và các doanh nghiệp khiến cho công tác XKLĐ gặp nhiều khó khăn.Bản thân Nhà nước chưa thực sự cố gắng trong công tác tạo việc làm cho người lao động về nước dẫn đến tình trạng thiếu việc làm ,thất nghiệp diễn ra ngày càng nhiều .Khắc phục tình trạn đó không chỉ thực hiện được chỉ với sự nỗ lực từ một phía nào đó, đây là công việc cần sự phối hợp của nhiều cấp, ngành, từ Nhà nước, các bộ ngành liên quan tới các doanh nghiệp, các cơ quan truyền thông và bản thân người lao động.

doc62 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1716 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số vấn đề về xuất khẩu lao động ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ực tiếp vào lực lượng lao động ở nước nhà. Đến giai đoạn 1990 – 2008, lao động Việt Nam hiện đang làm việc ở 40 nước và vùng lãnh thổ, trong 30 ngành nghề khác nhau: Xây dựng, cơ khí, điện tử, dệt may, chế biến hải sản, dịch vụ, vận tải biển, chuyên gia y tế, giáo dục…và giúp việc gia đình. Một thực tế về chất lượng nguồn nhân lực của nước ta qua các đợt tham gia XKLĐ được tăng lên đáng kể. Do yêu cầu về lao động của nước bạn như: Lao động phải có tác phong công nghiệp, làm việc đúng giờ, đúng nguyên tắc, nắm vững tay nghề, trình độ kỹ thuật, ứng dụng, tiếp thu nhanh khoa học kỹ thuật vào dây chuyền sản xuất. Thừa hưởng được điều này từ những năm tháng lao động tại nước bạn, bên cạnh tích lũy dần những kinh nghiệm, học hỏi được ở bạn, lao động Việt Nam ngày càng tự nâng cao tay nghề của mình theo chiều sâu hơn nữa. Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, xu hướng của nền kinh tế là toàn cầu hóa, nên vấn đề chuyển giao khoa học kỹ thuật ngày càng phổ biến ở khắp các nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Hơn nữa Việt Nam đã trở thành thành viên của WTO thì vấn đề sử dụng thay đổi những dây chuyền sản xuất cũ kỹ, lạc hậu bằng các dây chuyền, kỹ thuật mới là điều cấp thiết. Vì vậy việc trang bị tay nghề, trình độ cho lực lượng lao động nước nhà là tiền đề cần thiết cũng như là động lực thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam phát triển. Bên cạnh hướng đào tạo nghề trong các trường cao đẳng, kỹ thuật, một biện pháp đang được nhà nước đặc biệt chú trọng là hướng đi XKLĐ, hình thức này vừa tiết kiệm được thời gian cũng như kinh phí đào tạo, ngoài ra còn tăng thu nhập, tăng ngoại tệ đóng góp vào nâng cao cải thiện đời sống nhân dân. e. Tăng cường quan hệ ngoại giao với các nước Vào giai đoạn những năm 1980 – 1990, với sự phát triển của hệ thống các nước XHCN mà đại biểu là Liên Xô và các nước Đông Âu. Thời kỳ này do sự ảnh hưởng của Liên Xô nên nước ta chủ yếu ký kết các hợp đồng XKLĐ với các nước XHCN. Trong giai đoạn này trong tổng số 288.106 người được đưa đi xuất khẩu thì có 261.605 người đi sang các nước XHCN, còn lại 19.301 người đi sang các nước ngoài các nước XHCN. Sau Đại hội Đảng lần thứ VI (1986), với việc nhìn nhận thẳng thắn những khuyết điểm, sai lầm lệch lạc trong đường lối nên Đảng ta khẳng định Việt Nam luôn mở rộng cánh cửa giao lưu hợp tác với tất cả các nước trên thế giới, đa phương hóa, đa dạng hóa trên tinh thần hợp tác, bình đẳng đôi bên cùng có lợi. Vì vậy hoạt động XKLĐ giai đoạn này cũng hướng theo những chủ trương của Đảng. Ngoài những nước XHCN như: Liên Xô, các nước ở Đông Âu…nước ta còn ký kết nhiều hợp đồng XKLĐ với các nước ở Châu Á, Châu Phi, Châu Mĩ mà cụ thể tập trung vào thị trường: Hàn Quốc, Đài Loan, Malaysia, Nhật Bản…thông qua những hợp đồng XKLĐ này mà tinh thần hữu nghị của Việt Nam và các nước ngày càng được củng cố nâng cao, là điều kiện để thúc đẩy tìm kiếm thị trường, bước đầu đã ký được một số hợp đồng XKLĐ với các thị trường khó tính như: Mỹ, Singapore, EU…Và hiện nay Việt Nam vẫn tiếp tục mở rộng quan hệ ngoại giao ra nhiều nước và khu vực, trên cơ sở ban đầu là đáp ứng được nhu cầu về lao động của nước bạn. Bên cạnh mục tiêu, nhiệm vụ quan trọng khác của XKLĐ, thì đây là một nhiệm vụ chiến lược, lâu dài trong việc đẩy mạnh, mở rộng quan hệ, hợp tác ngoại giao với các nước khác. Chính nó cũng tạo tiền đề quan trọng trong việc đẩy nhanh tiến trình quốc tế hóa của Việt Nam trong những năm gần đây, để rút ngăn và ngày càng khẳng định vị trí quan trọng của Việt Nam trên trường quốc tế. 2: TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC Bên cạnh những tác động tích cực của XKLĐ đã có những đóng góp quan trọng trong quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế của đất nước, thì XKLĐ cũng đang phản ánh thực tế là có những tác động tiêu cực đến nền kinh tế Việt Nam, mà 2 tác động rõ rệt nhất là nạn “chảy máu” chất xám và dễ dàng du nhập những tư tưởng văn hóa xấu bị ảnh hưởng từ nước bạn. a. Nạn chảy máu chất xám Hoạt động XKLĐ ngay từ đầu đã gây ra những ảnh hưởng không nhỏ đến nguồn nhân lực của nước ta, nó gây ra những biến động lớn với xu hướng là sự di chuyển nguồn “chất xám” ra các thị trường lớn, gây tổn thất cho thị trường lao động trong nước. Nguyên nhân của hiện tượng này chúng ta phải kể đến một số vấn đề như sau. thứ nhất do hiệu quả kinh tế mang lại. Những người tham gia XKLĐ luôn có một nguồn thu nhập tốt, ổn định thể hiện ở sự cải thiện đời sống của bản thân và gia đình, chính những điều này đã thu hút nhiều lao động sang nước ngoài làm việc, đặc biệt là những lao động có tay nghề, có trình độ kỹ thuật thì được ưu đãi ngày càng cao. Thứ hai là những dòng lao động sang đó vì có một môi trường kỹ thuật cao, có điều kiện để phát huy năng lực bản thân. Ở những nước này do trình độ khoa học phát triển, nền kinh tế phát triển nên môi trường làm việc của công nhân được nâng cao rõ rệt. Thứ ba phải kể đến chính sách đãi ngộ của nước bạn, họ đưa ra nhiều chính sách với mức đã ngộ cao cả về vật chất lẫn tinh thần, đã thu hút nhiều lao động có trình độ tay nghề cao của Việt Nam. Ban đầu chỉ là những hợp đồng XKLĐ ngắn hạn, sau khi có cơ sở ổn định, những người XKLĐ này tìm cách nhập quốc tịch và có thể lao động lâu dài tại các nước này. Chính những điều này đã gây ra tổn thất không nhỏ đến nguồn nhân lực của Việt Nam. Những lao động có năng lực, có tay nghề thì chủ yếu làm việc ở nước ngoài, để lại trong nước một nguồn chất xám nghèo nàn, vì vậy nó không tạo được động lực để tiến hành phat triển kinh tế. Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay của nền kinh tế thế giới đó là xu hướng quốc tế hóa, thì xu hướng “chảy máu” chất xám càng là vấn đề quan trọng, liên quan tới sự phát triển của mỗi quốc gia. Vì thể trong tình hình mới, Đảng và Nhà nước ta phải có những chính sách đúng đắn, kịp thời để thu hút cũng như khuyến khích, phát huy được hiệu quả của nguồn nhân tài của đất nước, trong quá trình CNH – HĐH đất nước. b. Những tác động khác XKLĐ với tính phức tạp của nó về nhiều mặt, đặc biệt về mặt quản lý nguồn lao động xuất khẩu này, hàng năm nước ta đều có một lượng lớn lao động đang sinh sống và làm việc trên khắp các quốc gia trên thế giới. Vì vậy việc quản lý những lao động này là vấn đề khó khăn. Nên lao động Việt Nam dễ dàng bị du nhập những văn hóa xấu trong đời sống sinh hoạt, cũng như trong nếp sống, suy nghĩ, ảnh hưởng lớn đến những luồng tư tưởng trong nước. Mặt khác những LĐXK cũng góp phần làm tăng các tệ nạn như: nhập lậu hàng hóa, trốn thuế…. Như vậy nhìn nhận đánh giá một cách toàn diện về XKLĐ cả về mặt tích cực cũng như tiêu cực thì Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương coi XKLĐ là một hướng phát triển chiến lược để góp phần thực hiện những mục tiêu lâu dài: giải quyết việc làm, giảm thất nghiệp, tăng thu nhập cải thiện chất lượng cuộc sống, phát triển nguồn nhân lực, tăng nguồn thu ngoại tệ…Bên cạnh đó việc hạn chế những tồn tại của XKLĐ là một vấn đề cấp thiết và quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế của đất nước. IV: NHỮNG VẤN ĐỀ SAU XUẤT KHẨU Hoạt động xuất khẩu lao động là một hoat động quan trọng trong công tác giải quyết việc làm ở nước ta, Xuất khẩu lao động trước tiên là để xóa đói, giảm nghèo cho gia đình người lao động, quan trọng hơn là góp phần làm giàu cho đất nước và làm giàu cho “người lao động có ý chí, tâm huyết với việc làm giàu” bằng cách ra sức học tập, tiếp thu công nghệ, kỹ thuật mới, phương pháp tổ chức và quản lý tiên tiến, ra sức trao dồi ngoại ngữ, kết thân với nhiều bạn bè mới… và phải hết sức “tiết kiệm”, hạn chế đầu tư vào tiêu dùng. Song thực tế còn nhiều vấn đề đáng quan tâm đối với lượng lao động sau khi về nước. 1.Về thu nhập của những người đi xuất khẩu lao động về nước . Hầu hết số người đi xuất khẩu lao động về nước đều có mức thu nhập cao hơn trước kinh tế gia đình khá giả hơn , cuộc sống no đủ hơn . Trước đây ,khi còn ở nhà hầu như họ là những người không có nghề nghiệp ổn định ,không có trình độ ,chuyên môn , đa số là lao động nông thôn ,trình độ hết lớp 12 .Họ không có cơ hội tìm những công việc phù hợp và trở thành lực lượng thất nghiệp, bán thất nghiệp . Thu nhập của họ thấp chủ yếu dựa vào đồng ruộng . Thêm vào đó,ruộng đất ngày càng bị thu hẹp, số lượng lao động nhàn rỗi ngày một nhiều. Không có việc làm, thu nhập nên họ quyết định đi xuất khẩu lao động với một lý do rất đơn giản :” ở nhà cả năm không kiếm nổi 5 triệu vậy mà chỉ cần đi giúp việc gia đình thôi 1 tháng cũng có thể kiếm được ngần đó, thậm chí là gấp đôi”. Họ đi làm với hi vọng sau 2 đến 3 năm họ có thể để ra một chút tiền để trả nợ và lấy vốn kinh doanh. Những người đi xuất khẩu lao động sau 2 đến 3 năm trở về nước, họ đã có tiền để xây dựng nhà cửa sắm sửa đồ đạc trong nhà và để ra được một ít vốn để làm ăn buôn bán. Nhiều người trước đây vốn có đầu óc, yêu thích việc kinh doanh buôn bán. Muốn mở 1 cửa hàng để kinh doanh nhưng không có vốn nên lực bất tòng tâm. Vì thế khi đi xuất khẩu lao động sẵn với khoản tiền mình tiết kiệm được họ đã mở cửa hàng buôn bán, làm ăn có lãi. Mang lại thu nhập cao. Nhiều gia đình phất lên trông thấy . Theo số liệu điều tra, có đến 41% số người được điều tra đã tự mở cửa hàng kinh doanh buôn bán. Ngoài ra một số người nhờ có được kinh nghiệm làm việc ở nước ngoài cộng với vốn ngoại ngữ khá cũng kiếm được những công việc tốt, thu nhập ổn định. 2.Về tình trạng gia đình Do thu nhập của người đi lao động xuất khẩu về cao hơn so với ở nhà nên hoàn cảnh gia đình khá giả hơn trước nên đa số họ có được một mái ấm gia đình hạnh phúc : con cái ngoan ngoãn học giỏi ,vợ chồng hòa thuận. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn có những người kém may mắn hơn ,khi lao động về nước họ phải đối mặt với những vấn đề liên quan đến hạnh phúc gia đình con cái . Có những người cảm thấy đau lòng khi nghỉ đến việc phải khó khăn vất vả cô đơn như thế nào ở nơi đất khách quê người để kiếm tiền gửi về cho gia đình. Mong muốn với số tiền mồ hôi nước mắt mình kiếm được sẽ cho con có điều kiện ăn học hơn, vợ chồng mình ở nhà lấy vốn để tăng gia sản xuất. Nhưng cuối cùng khi về nước cái mà họ nhận được đó là : con cái hư hỏng, chơi bời lêu lổng, bỏ bê học hành, sẵn có tiền bố mẹ gửi về tiêu sài đàn đúm với bạn bè. Thiếu sự chỉ dạy chăm sóc, bảo ban của cha mẹ, thiếu tình cảm dể khiến con cái cảm thấy hụt hẩng và hư hỏng. Có người còn đau khổ hơn khi phải chưng kiến chồng mình ở nhà sẵn tiền vợ gửi về, dựa dẫm, không tu chí làm ăn, mắc phải các tệ nạn như : rượu chè, cờ bạc, ma túy, ngoại tình… Một thực trạng nữa xảy ra đó là, một số người chủ yếu là phụ nữ, sau khi trở về nước đã phải ly hôn. Theo ước tính tỉ lệ li hôn đối với những người sau khi về nước chiếm gần 1/3 các vụ li hôn. 3.Tình trạng việc làm Cứ tính bình quân mỗi năm có khoảng 50.000 lao động hết hạn hợp đồng về nước. Cho biết có đến 80% lao động đi XKLĐ trở về có việc làm bấp bênh hoặc thất nghiệp. Chỉ 20% có việc làm nhưng chủ yếu là tự mở cơ sở sản xuất kinh doanh nhỏ theo kiểu gia đình, ít người tìm được công việc ổn định phù hợp với ngành nghề mình tu nghiệp ở nước ngoài. Theo điều tra chúng tôi nhận thấy trong 20% có việc làm thì chỉ có khoảng 9% làm việc đúng ngành nghề,còn lại họ thường dùng số tiền tiết kiệm được đẻ kinh doanh hay đầu tư vào lĩnh vực nào đó. Cũng không ít trường hợp người lao động sau khi trở về nước có xu hướng cho phép mình nghỉ ngơi để bù lại những năm kiếm tiền bên nước bạn. Có những người làm việc được một thời gian trong nước thấy mức lương ít ỏi so với nước bạn, khó khăn hơn và vất vả hơn nên họ quyết định ra nước ngoài tiếp tục làm việc.Nam giới và đặt biệt là những người chưa lập gia đình có xu hướng trở lại làm việc ở nước ngoài hoặc có ý định tiếp tục đi xuất kẩu là rất cao chiếm 60%.Ngược lại với những phụ nữ đã lập gia đình( có con) họ đi xuất khẩu thường là vì mục đích kiếm được chút ít tiền làm vốn về sau chính vì vậy sau khi trở về nước dù làm việc vất vả hơn nhưng họ cũng không có ý định tiếp tục làm hồ sơ xuất khẩu. 4.Tình trạng sử dụng số tiền sau khi tiết kiệm được. Hầu hết những người đi xuất khẩu lao động trở về đều cầm trong tay một số tiền nhất định. Nhưng cách họ sử dụng vốn như thế nào lại là một vấn đề muôn vẻ: Việc đầu tiên mà người nào cũng làm đó là xây dựng nhà cửa, mua sắm các tiện nghi trong gia đình. Đến gia đình nào, chúng em cũng thấy nhà cửa khang trang, tiện nghi đầy đủ. Đó là điều đáng mừng. Nhưng cũng thật đáng buồn, đáng tiếc, khi gặp không thiếu trường hợp người đàn ông trong gia đình sẵn có tiền mình kiếm được đã đánh cờ, đánh bạc, làm hư hỏng con cái, tụ tập ăn uống nhậu nhẹt triền miên gây mất trật tư xã hội. Một số người, sau khi mua sắm các đồ dùng gia đình, còn lại một số tiền, không biết kinh doanh gì , sợ thua lỗ nên đã ăn chắc bằng cách gửi ngân hàng . Khiến cho đồng tiền mình kiếm ra không phát huy hết tác dụng của nó. Một số người năng động hơn, sẵn có đồng vốn trong tay họ nghĩ cách để đồng tiền đó có thể sinh lời nhiều hơn. Như vậy có rẩt nhiều vấn đề cần giải quyết đối với lao động sau khi về nước. Giải quyết nó cần sự phối kết hợp không chỉ của Nhà nước mà bản thân các doanh nghiệp và chính bản thân người lao động phải vào cuộc. CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG XKLĐ LAO ĐỘNG Ở VIỆT NAM. Với chủ trương mở rộng, đa dạng hóa trong XKLĐ, những chính sách cởi mở tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế, cho người lao động. Trong bối cảnh quan hệ ngoại giao và quan hệ hợp tác kinh tế giữa nước ta và các nước khác có nhiều thuận lợi thì khả năng đưa được một số lượng lớn lao động và chuyên gia ra nước ngoài làm việc là một hiên thực trong những năm tới. Mục tiêu cụ thể của hoạt động XKLĐ nước ta đến năm 2010 như sau: Thống nhất và nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành, của doanh nghiệp và người lao động về lợi ích kinh tế, chính trị và ngoại giao trong hoạt động xuất khẩu lao động và chuyên gia, bảo đảm uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Xây dựng một đội ngũ lao động có trình độ về chuyên môn kỹ thuật, ngoại ngữ và có ý thức chấp hành pháp luật. Tăng cường năng lực của các doanh nghiệp để đủ sức cạnh tranh trên thị trường lao động quốc tế. Trong thời gian từ nay đến năm 2010, phấn đấu hàng năm bình quân đưa đi khoảng 100.000 lao động và sau năm 2010 có thể đưa đi khoảng 150.000 – 200.000 lao động/năm và có khoảng 400.000 – 500.000 lao động và chuyên gia làm việc thường xuyên ở nước ngoài. Như vậy nước ta đã xác định những mục tiêu rất cụ thể, đây chính là động lực để hướng dẫn hoạt động XKLĐ của nước ta trong thời gian tới. Chúng ta chỉ cần đạt được những mục tiêu này là đã đạt được những hiệu quả đáng kể trong XKLĐ. I: MỘT SỐ GIẢI PHÁP 1: NGUỒN LAO ĐỘNG Chúng ta phải tận dụng triệt để sự đa dạng, phong phú của nguồn lao động. Chúng ta cần tích cực khuyến khích người lao động tham gia XKLĐ bằng các chính sách hỗ trợ, đãi ngộ, ưu tiên người lao động như việc hình thành các quỹ hỗ trợ XKLĐ nhằm cung cấp tài chính cho những người lao động không có điều kiện kinh tế. Bên cạnh việc tăng quy mô XKLĐ, chúng ta cũng cần phải nâng cao chất lượng của lao động xuất khẩu. Để thực hiện được mục tiêu này mà ban đầu là việc nâng cao trình độ văn hóa của LĐXK thì vai trò của nhà trường phổ thông là rất quan trong giúp cho học sinh có những nhận thức đúng đắn về hoạt động XKLĐ nhà trường cần tuyên truyền sâu rộng những chủ trường đường lối và chính sách của Đảng và Nhà nước ta về hoạt động XKLĐ. Bên cạnh đó cũng cần một đội ngũ cán bộ giáo viên hướng nghiệp cho học sinh một cách toàn diện về các loại ngành nghề mà nhu cầu thị trường lao động hiện tại và tương lai cần đến. Một trong những nguyên nhân tác động sâu sắc đến trình độ chuyên môn, kỹ thuật của LĐXK đó chính là hệ thống dạy nghề ở nước ta. Để khắc phục những yếu kém và thực hiện tốt những mục tiêu đề ra thì đòi hỏi hệ thống dạy nghề phải có những bước chuyển biến lớn với những yêu cầu sau: Cần tăng cường, đẩy mạnh công tác đào tạo nghề cho lao động xuất khẩu: Tăng cường đầu tư tài chính cho công tác giáo dục, đào tạo, nhất là đào tạo nghề. Nhà nước cần đầu tư xây dựng các trường, trung tâm giáo dục hướng nghiệp, đào tạo dạy nghề, nhất là ở các vùng sâu vùng xa, nông thôn, miền núi, đầu tư nâng cấp trang bị các phương tiện kỹ thuật phục vụ cho việc đào tạo, dạy nghề sao cho phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế, khoa học công nghệ trong nước và quốc tế. Tránh tình trạng thiếu các phương tiện kỹ thuật phục vụ giảng dạy, thí nghiệm thực hành hay sử dụng các phương tiện lạc hậu. Mở rộng và nâng cao chất lượng các cơ sở đào tạo nghề. Tập trung đầu tư, xây dựng các cơ sở, bộ phận đào tạo chuyên nghiệp LĐXK để tạo ra một nguồn lao động xuất khẩu có chất lượng tốt, đáp ứng được nhu cầu của các nước NKLĐ. Xây dựng và ban hành quy chế chặt chẽ về đào tạo, các quy chuẩn về chất lượng đào tạo đối với các cơ sở đào tạo LĐXK, đồng thời thực hiện kiểm tra trường xuyên chất lượng đào tạo đối với các cơ sở này đề đảm bảo chất lượng LĐXK, nâng cao uy tín và khả năng cạnh tranh của lao động Việt Nam. Tiếp theo cần nghiên cứu, chấn chỉnh lại công tác đào tạo LĐXK. Nhà nước chỉ áp dụng quy định phải có cơ sở đào tạo LĐXK đối với những doanh nghiệp XKLĐ có đủ điều kiện về tài chính, cơ sở vật chất và nhân lực phục vụ có hiệu qua cho công tác đào tạo nâng cao chất lượng của lao động Việt Nam. Đổi mới phương pháp và nâng cao chất lượng giáo dục hướng nghiệp và đào tạo nghề cho người lao động đi XKLĐ. Hệ thống giáo dục kỹ thuật, dạy nghề cần đẩy mạnh đào tạo nghề chủ lực như xây dựng, cơ khí, điện tử, dệt may, nông nghiệp, y tế, thuyền viên thủy thủ, chế biến hải sản…Đồng thời phải có định hướng đào tạo lao động đáp ứng các nhu cầu lao động ở các ngành công nghệ cao, mũi nhọn ở các nước NKLĐ. Ngoài đào tạo nghề có chất lượng cao, cần trang bị cho những người lao động những kỹ năng cần thiết khác như là: Trình độ ngoại ngữ, giáo dục định hướng, phong tục tập quán của nước sở tại, hệ thống pháp luật của nước đến làm việc và thông lệ quốc tế. Trong quá trình dạy nghề, chú trọng giáo dục tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động, rèn luyện ý thức bảo hộ, an toàn lao động, ý thức rèn luyện sức khoẻ, nhằm nâng cao chất lượng nguồn lao động, để đáp ứng được nhu cầu lao động ngày càng cao của thị trường lao động quốc tế. Nghiên cứu biên soạn và chuẩn hóa giáo trình, chương trình giảng dạy, đảm bảo cho người XKLĐ nắm bắt được các kiến thức cơ bản phục vụ cho công việc sẽ làm ở nước ngoài. Các chương trình cần tập trung, bổ sung các phần kiến thức còn thiếu hụt và yếu kém của lao động Việt Nam hiện nay như: Tăng thời gian học ngoại ngữ cũng như thời gian đi thực hành ở các cơ sở và doanh nghiệp đang hoạt đọng thực tế. Đào tạo đội ngũ cán bộ giảng dạy năm vững chuyên môn, am hiểu chính sách XKLĐ của nhà nước cũng như những thông lệ quốc tế, để đảm bảo việc đào tạo người lao động, giúp họ nắm được những kiến thức cơ bản cũng như nâng cao ý thức của người lao động, các kiến thức xã hội để bảo đảm làm việc tốt nhất và hiệu quả. Thực hiên đào tạo nghề dài hạn và bổ túc ngắn hạn cho người tham gia XKLĐ. Đào tạo nghề dài hạn hướng tới trình độ lành nghề, đào tạo công nhân kỹ thuật cao. Trong quá trình đào tạo, phải trang bị kiến thức và kỹ năng nghề diện rộng và chuyên sâu đảm bảo lao động có thể thực hiện được những công việc phức tạp, xử lý được những tình huống đa dạng, nhanh nhạy trong các dây chuyền sản xuất công nghiệp hiện đại. Đào tạo ngắn hạn áp dụng đối với nguồn lao động đã qua đào tạo nghề, nguồn nhân lực có sẵn tuyển dụng từ các nhà máy, xí nghiệp, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội. Đào tạo trong giai đoạn này chủ yếu là trang bị các kiến thức về ngoại ngữ, xã hội, phong tục tập quán…để lao động dễ thích nghi với mộ trường. Hợp tác quốc tế về đào tạo lao động xuất khẩu. Chính quyền địa phương cũng như các doanh nghiệp XKLĐ cần có những phương án kết hợp đào tạo, tuyển dụng đối với các nước có nhu cầu NKLĐ, đặc biệt trong công tác giáo dục, đào tạo, trang bị những kiến thức mà nhu cầu thị trường đang cần. Để ngày càng nâng cao sự thích ứng, đáp ứng ngày càng cao và phù hợp với nhu cầu của các nước NKLĐ. Đẩy mạnh việc thực hiện mô hình liên kết trong công tác XKLĐ. Đẩy mạnh việc tuyển chọn LĐXK trên cơ sở gắn kết trách nhiệm của doanh nghiệp XKLĐ vớI các đơn vị sản xuất kinh doanh với chính quyền địa phương và gia đinh lao động xuất khẩu. Một mặt, nhằm tạo sự thay đổi trong nhận thức của các ngành, các cấp, các đoàn thể cũng như bản thân người lao động, trong việc đẩy mạnh hoạt động XKLĐ, tạo ra sự xã hội hóa hoạt động XKLĐ. Mặt khác, để tăng cường vai trò, trách nhiệm của các tổ chức chính trị, chính quyền các cấp cơ sở đến với việc tuyển chọn và nâng cao chất lượng LĐXK. Cần huy động mọi nguồn lực cho xuất khẩu lao động: Hiện tại, chưa có trương chình đào tạo hoàn chỉnh dành riêng cho XKLĐ theo từng nhóm ngành, nghề, từng khu vực thị trường quốc tế. Do vậy, để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về chất lượng LĐXK cần đổi mới chính sách về đào tạo nguồn nhân lực cho XKLĐ, trong đó giải pháp tạo nguồn lực được coi là giải pháp quan trọng. Nguồn lực tài chính đảm bảo cho hoạt động dạy nghề bao gồm: Ngân sách trung ương và địa phương, vốn của các tổ chức, cá nhân, học phí, tiền xây dựng trường lớp, các nguồn tài trợ trong và ngoài nước. Nguồn kinh phí đầu tư hoặc đóng góp dạy nghề của các doanh nghiệp, dự án trong và ngoài nước khi xây dựng các công trình công nghiệp và dịch vụ. Các nguồn khác: Huy động nguồn lực từ ngân sách nhà nước. Trên thực tế, ngân sách nhà nước dành cho dạy nghề chủ yếu là nguồn chi thường xuyên, xây dựng cơ bản, chương trình mục tiêu quốc gia, tuy nhiên nó chỉ đảm bảo một phần rất nhỏ so với nhu cầu, phần lớn là do các cơ sở dạy nghề tự lo liệu. Vì vậy cần tăng kinh phí dành cho dạy nghề trong tỷ trọng ngân sách của nhà nước, cụ thể là: Tăng tỷ lệ nguồn cho dạy nghề, trong tổng ngân sách Trung ương dành cho giáo dục từ 8% cho các năm 2003 – 2005 lên 10% cho giai đoạn 2006 – 2010. Các địa phương cần dành một tỷ lệ ngân sách cho phát triển dạy nghề ngoài nguồn lực từ ngân sách nhà nước. Trước mắt, tăng cường đầu tư nâng cao năng lực của một số trường nòng cốt để phát triển thành các trung tâm đào tạo nguồn có chất lượng cao cho XKLĐ. Huy động các nguồn lực ngoài nguồn ngân sách nhà nước. Huy động vốn tín dụng ngân hàng, vốn đầu tư của các nhà đầu tư trong và ngoài nước qua các dự án hỗ trợ phát triển. Thu hút nguồn đóng góp cho dạy nghề từ các doanh nghiệp thông qua khuyến khích các doanh nghiệp gửi lao động đến học tại các cơ sở dạy nghề hoặc mở các cơ sở đào tạo gắn liền với doanh nghiệp. Tuy nhiên để thực hiện được vấn đề trên, rất cần những giải pháp mang tính điều kiện, đó là: Thứ nhất ban hành chính sách thu học phí, cấp học bổng hợp lý, ưu tiên cho học sinh học nghề, nhất là học sinh học các nghề độc hại, nặng nhọc, học sinh vùng sâu vùng xa, dân tộc thiểu số và các đối tượng chính sách xã hội; Thứ hai là hoàn thiện chính sách tạo quyền tự chủ cho các cơ sở dạy nghề thực hiện các dịch vụ kỹ thuật chuyển giao công nghệ, sản xuất kinh doanh phù hợp với ngành nghề đào tạo; Thứ ba doanh nghiệp XKLĐ cần thành lập các quỹ đào tạo cán bộ làm công tác chuyên môn, nghiệp vụ XKLĐ được tính vào chi khí kinh doanh. Xã hội hóa công tác dạy nghề cho lao động xuất khẩu Xã hội hóa không có nghĩa là giảm nhẹ trách nhiệm của nhà nước ta mà nhà nước cần tìm thêm nguồn thu để tăng tỷ lệ ngân sách chi cho dạy nghề, quản lý tốt nguồn lực tài chính để nâng cao chất lượng, hiệu quả sử dụng kinh phí. Do đó cần huy động vốn đóng góp của học sinh, mở rộng các mô hình liên kết XKLĐ giữa các doanh nghiệp XKLĐ và địa phương để có ngay nguồn tức thì hỗ trợ kinh phí cho người lao động trong học nghề, bổ túc kỹ năng nghề, đào tạo ngoại ngữ, giáo dục định hướng trước khi đi làm việc ở nước ngoài. Như vậy hệ thống giáo dục, đào tạo nghề của nước ta cần có một sự thay đổi toàn bộ, để có thể cải thiện cả về chất lượng cũng như số lượng đối với lực lượng lao động cũng như là phục vụ cho XKLĐ, đáp ứng ngày càng nhiều nhu cầu lao động của thị trường khu vực và thế giới. Như trên là những giải pháp lâu dài, nhưng nhìn vào sự phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là sự phát triển nguồn nhân lực phục vụ XKLĐ thì ta thấy nước ta cần thực hiện một số giải pháp trước mắt là: Hiện nay tỷ lệ thất nghiệp của nước ta là rất lớn. Lực lượng thất nghiệp tập trung ở một số nguồn chính: Những thanh niên ở nông thôn nghỉ học từ nhỏ, bộ đội xuất ngũ hàng năm, số công nhân thất nghiệp do sự thay đổi nguồn lực của công ty, những người nông dân ngoài thời vụ, hiện nay còn một lượng lớn những lao động đã qua đào tạo nhưng chưa tìm được việc như là học sinh, sinh viên. Từ trước đến nay, nguồn LĐXK nước ta chủ yếu là các đối tượng: Lao động không qua đào tạo, lao động phổ thông, công nhân thất nghiệp. Như vậy nước ta còn chưa sử dụng triệt để được hết tiềm năng của mình. Nguyên nhân của điều này cũng là do hạn chế của cả việc cung ứng lao động của ta cũng như chính là cầu về lao động trên thị trường. Hiện nay để tăng XKLĐ ta cần hướng đến khai thác lực lượng chủ yếu là sinh viên, học sinh ra trường mà chưa tìm được việc làm. Bởi vì đây là lực lượng đã qua đào tạo cơ bản vì thế đã có kiến thức nhất định, đặc biệt là về trình độ ngoại ngữ. Tuy vậy đây là lực lượng chưa có kinh nghiệm làm việc, đưa bộ phận này đi XKLĐ có thể tăng được tay nghề cho lao động, học hỏi được những kỹ năng chuyên môn. Sau đó trở về nước thì có cơ hội việc làm nhiều hơn, hơn thế nữa đây là một trong những nguồn lực dự bị để đáp ứng được về nhu cầu về lực lượng lao động có trình độ cao của nước ta trong tương lai. Mặt khác cũng là để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường quốc tế. Vì vậy những công việc lao động thủ công, thô sơ ngày càng được thu hẹp ở các nước, lao động có tay nghề ngày càng cao được nhập khẩu nhiều hơn. Do đó, nước ta cần có hướng thay đổi sao cho phù hợp với sự thay đổi trên, để có thể đáp ứng lao động có hiệu quả, thực hiện tốt những nhiệm vụ kinh tế của XKLĐ. Tóm lại, nguồn lao động - một nhân tố đóng vai trò quan trọng trong hoạt động XKLĐ quyết định đến quy mô XKLĐ ở nước ta. Nguồn lao động ở nước ta tuy có nhiều mặt ưu điểm cả về chủ quan lẫn khách quan nhưng vẫn tồn tại nhiều khuyết điểm: Trình độ văn hóa thấp, trình độ tay nghề kém…Như vậy chúng ta phải thực hiện tốt những giải pháp trên nhằm nâng cao hơn chất lượng lao động, đó chính là động lực chính đẩy mạnh hoạt động XKLĐ. Tạo ra sự đóng góp to lớn hơn nữa của hoạt động XKLĐ vào sự phát triển kinh tế của đất nước. 2: THỊ TRƯỜNG Bên cạnh việc củng cố, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, để đẩy mạnh hoạt động XKLĐ thì nước ta cần tập trung vào việc phát triển, mở rộng thị trường để tranh thủ được thị trường quốc tế. Giải pháp của ta cần tập trung theo 2 hướng chính: Cải thiện, củng cố duy trì những thị trường cũ song song với việc đẩy mạnh khai thác thị trường mới, thị trường tiềm năng. Thứ nhất đối với các thị trường đã được khai thông và khai thác có hiệu quả như: Mailaisia, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan…nhà nước ta cần củng cố và duy trì mức ổn định của các thị trường này bằng cách: Tiến hành cơ cấu, tổ chức lại hệ thống những lao động đang tham gia lao động, có chính sách khuyến khích, đãi ngộ đối với những lao động có thành tích tốt, có chế độ khen thưởng hợp lý. Cần có những biện pháp cứng rắn kết hợp với chỉnh phủ nước bạn để ngăn chặn những biểu hiện tiêu cực như: Lao động phá bỏ hợp đồng, lao động vi phạm hợp đồng, vô trách nhiệm, thiếu ý thức kỷ luật…và các tệ nạn xã hội, để ngày càng cải thiện, nâng cao uy tín, sự cạnh tranh của lao động Việt Nam trên trường quốc tế. Bên cạnh đó cần tập trung vào công tác giáo dục, đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn lao động chuẩn bị đưa sang làm việc về chuyên môn và ý thức cá nhân. Bên cạnh đó chúng ta cần đẩy mạnh công tác khai thác, tìm kiếm nhiều ngành nghề, tìm nhu cầu mới của những thị trường này nhằm mục đích đa dạng hóa ngành nghề đào tạo cho LĐXK, đáp ứng đầy đủ trên diện rộng nhu cầu của các nước NKLĐ. Cần tuyên truyền nâng cao nhận thức về môi trường làm việc cho người lao động để thu hút ngày càng nhiều lao động vào các thị trường này, đặc biệt là những lao động đã qua đào tạo, có trình độ chuyên môn kỹ thuật. Thứ hai, chúng ta cần đẩy mạnh công tác khai thác tìm kiếm những thị trường mới, những thị trường tiềm năng, có nhiều cơ hội để phát triển. Như hiện nay chúng ta đang tập trung khai thác thị trường các Tiểu Vương quốc Ả Rập thống nhất, Quatar, Ả rập Xê Út, Makau…; xúc tiến đưa lao động sang một số thị trường mới như: Australia, Canada, EU, Mĩ…Trước khi quyết đinh lựa chon thị trường cần phân tích rõ những cơ hội và thách thức của những thị trường mới này, để từ đó có những hướng giải quyết để đạt hiệu quả cao trong XKLĐ. Mặt khác cũng cần tăng cường công tác quảng bá hình ảnh của Việt Nam, đặc biệt là về những lợi thế của lao động Việt Nam trên trường quốc tế. Để các nước khác có sự nhìn nhận đúng đắn về lao động Việt Nam, đó cũng chính là cơ sở để họ xác định nhu cầu về lao động quốc tế đối với những lao động Việt Nam, từ đó ta sẽ có thêm thuận lợi để ra nhập những thị trường này. Đi liền với những biện pháp trên thì nhà nước ta cần tăng cường hoạt động ngoại giao, hợp tác ký kết các hiệp định song phương về việc đưa lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài, đặc biệt là những thị trường mới. Từ đó mở rộng các hình thức hợp tác, xây dựng các mục tiêu ổn định lâu dài để nhằm chiếm lĩnh thị trường, biến thị trường mới tiềm năng thành thị trường truyền thống. Để thực hiện được những giải pháp trên, thì một vấn đề quan trọng đó là phát triển cả về quy mô lẫn chất lượng các tổ chức tham gia XKLĐ. Quy mô của các doanh nghiệp này không chỉ dừng lại ở các doanh nghiệp thuộc nhà nước, mà cần khuyến khích sự tham gia của các doanh nghiệp tư nhân. Các doanh nghiệp này cần gia tăng về số lượng cũng như quy mô hoạt động, để đảm bảo cung cấp một nguồn lao động chất lượng cao, đáp ứng đầy đủ về nhu cầu đa dạng các loại ngành nghề của XKLĐ. Để đảm bảo một sự khai thác triệt để các nguồn lực trong nước và những thị trường tiềm năng. Nhà nước cần ban hành những chính sách khuyến khích phát triển các doanh nghiệp này, đồng thời có những quy định để giảm thiểu các thủ tục hành chính phức tạp nhằm tạo ra bầu không khí thân thiện cho những người tham gia vào xuất khẩu lao động. Như vậy chúng ta cần thực hiện tốt các biện pháp trên, nhằm phát triển thị trường XKLĐ của Việt Nam ngày càng sâu rộng, duy trì những thị trường ổn định, hiệu quả, khai thác triệt để các thị trường truyền thống cũng như mở rộng thêm các thị trường mới. Tạo động lực mạnh mẽ trong việc hội nhập nguồn lực quốc tế trong xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. 3: QUẢN LÝ LAO ĐỘNG Một trong những giải pháp mà nước ta hướng tới đó chính là đẩy mạnh công tác quản lý lao động xuất khẩu ở nước ta. Vấn đề này chíng ta cần học tập kinh nghiệm của một số nước cũng tham gia vào hoạt động XKLĐ như: Singapore, Thái Lan…Chúng ta cần chú ý một số điểm sau của hệ thông quản lý lao động nước ngoài của Philipin: Tối đa hóa lợi ích của lao động xuất khẩu Thưởng phạt nghiêm minh Các dịch vụ đối với người lao động Việc cấp giấy phép kinh doanh Các hiệp hội và phương thức hoạt động Đa dạng mẫu hợp đồng lao động Phúc lợi lao động đối với người lao động làm việc ở nước ngoài Trên cơ sở học tập kinh nghiệm của nước bạn, áp dụng vào tình hình cụ thể của công tác quản lý của nước ta hiện nay, thì nước ta cần thực hiện một số biện pháp cụ thể để khắc phục những thiếu sót trong công tác quản lý. Thứ nhất, trong công tác quản lý hoạt động của những doanh nghiệp tham gia XKLĐ, Nhà nước cần kiểm soát nghiêm ngặt thực trạng về tài chính, nguồn vốn, chương trình đào tạo của doanh nghiệp trước khi có quyết đinh thành lập để nhằm tránh trường hợp người lao động bị lừa đảo…gây tâm lý hoang mang cho người lao động. Trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp, Nhà nước phải thường xuyên tổ chức kiểm tra, giám sát, sàng lọc những doanh nghiệp về mọi mặt để đảm bảo cung cấp một nguồn lao động chất lượng cao đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thị trường quốc tế. Nhà nước cũng cần có những chính sách khuyến khích phát triển, thu hút đầu tư vào các doanh nghiệp này để ngày càng cải thiện chất lượng cũng như số lượng các doanh nghiệp. Thứ hai, cần đẩy manh công tác tuyên truyền giáo dục, nhằm nâng cao ý thức của bản thân người lao động. Giúp họ và gia đình hiểu được bản chất của hoạt động XKLĐ, mục tiêu của nhà nước, để nâng cao nhận thức của họ về XKLĐ, từ đó nâng cao tinh thần hợp tác, ý thức kỷ luật, tinh thần dân tộc của mỗi lao động nhằm giảm thiêu những hiện tượng tiêu cực từ phía những người lao động có thể xảy ra khi làm việc ở nước ngoài. Thứ ba, phát triển hơn nữa hoạt động liên kết, hợp tác quản lý với các nước có lao động tham gia làm việc. Phát triển các hình thức đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài như: doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài, nhận thầu công trình ở nước ngoài, hình thức hợp tác ba bên. Tại mỗi nước này cần xây dựng những cơ sở, văn phòng đại diện của mình ở đó, để trực tiếp quản lý lực lượng lao động đang làm việc, nhanh chóng giải quyết những vấn đề nảy sinh, những khó khăn gặp phải. Tạo một tâm lý an toàn, tin cậy cho những người lao động làm việc ở nước ngoài. Đảm bảo cao nhất lợi ích cho người lao động. Kết hợp những chính sách khen thưởng, động viên tinh thần của người lao động. Bên cạnh đó, Nhà nước cần kết hợp với chính phủ các nước để có những biện pháp cứng rắn, ngăn chặn tình trạng tiêu cực xảy ra trong hoạt động xuất khẩu lao động. II: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 1:ĐỐI VỚI NHÀ NƯỚC VÀ CÁC BỘ, NGÀNH LIÊN QUAN Các ngành chức năng cần có sự phối hợp chặt chẽ, đảm bảo giải quyết nhanh gọn, kịp thời các thủ tục gây phiền hà cho người lao động và doanh nghiệp đặc biệt là thủ tục ban đầu, tạo điều kiện thông thoáng về các chính sách hỗ trợ thủ tục, vốn vay cho số lao động đạt tiêu chuẩn Phải tăng cường quan hệ hợp tác giữa ngành chức năng với các công ty XKLĐ, thẩm định doanh nghiệp, chọn đơn hàng, hợp đồng lao động với các chế độ cụ thể, rõ ràng... Khi phát sinh vướng mắc, ngành chức năng cần nhanh chóng cập nhật thông tin chính xác để trả lời cho người dân Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội tổ chức nhiều cuộc thanh tra và kiểm tra các doanh nghiệp xuất khẩu lao động, qua đó kịp thời chấn chỉnh các thiếu sót của một số doanh nghiệp, phát hiện và xử lý hành chính đối với các doanh nghiệp vi phạm xuất khẩu lao động. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cũng đã hợp tác chặt chẽ với các cơ quan bảo vệ pháp luật trong việc phát hiện, điều tra và xử lý những tổ chức, cá nhân lừa đảo . Tăng cường công tác kiểm soát cửa khẩu để phát hiện và kịp thời ngăn chặn việc đưa người lao động Việt Nam ra nước ngoài làm việc bất hợp pháp. Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền, phổ biến thông tin. Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội phối hợp chặt chẽ với các cơ quan thông tin đại chúng phổ biến chủ trương, chính sách và pháp luật về xuất khẩu lao động, thường xuyên đưa các thông tin về thị trường, về hoạt động tuyển chọn của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động để người lao động nắm được thông tin, tránh bị kẻ xấu lừa đảo và giúp người lao động tìm hiểu thông tin việc làm tôt hơn sau khi về nước .Đổi mới công tác thông tin, tuyên truyền về xuất khẩu lao động đến tận người dân với nhiều hình thức phù hợp . Đồng thời liên hệ mật thiết với cục Quản lý lao động ngoài nước để tổ chức đường dây nóng giải đáp thông tin cho người lao động. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách, các văn bản hướng dẫn Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng một cách đồng bộ, có chế tài đủ mạnh để xử lý đối với những tổ chức, cá nhân vi phạm; nghiên cứu ban hành các chính sách hỗ trợ đầu tư để hình thành những doanh nghiệp mạnh có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường, chính sách hỗ trợ đồng bào dân tộc, lao động ở vùng sâu vùng xa tham gia XKLĐ. Các địa phương và ngành ngân hàng cần tiếp tục duy trì chính sách hỗ trợ người lao động và đối tượng chính sách về chi phí đào tạo – bồi dưỡng kiến thức cần thiết và vay vốn đi xuất khẩu lao động; cải tiến thủ tục, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong quá trình thực hiện mô hình liên kết tuyển lao động tại địa phương.  UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cần chỉ đạo các cấp chính quyền và các cơ quan chức năng trực thuộc tăng cường giáo dục, vận động nhân dân thực hiện đúng các quy định của Nhà nước về xuất khẩu lao động; đầu tư và hỗ trợ các doanh nghiệp tạo nguồn lao động có chất lượng; tăng cường quản lý hoạt động xuất khẩu lao động trên địa bàn, ngăn chặn các hành vi tiêu cực ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao động, của các doanh nghiệp và hoạt động xuất khẩu lao động.  Phải nâng cao trình độ chuyên môn, tay nghề và đào tạo ngoại ngữ cho người lao động một khóa dài hơn và chất lượng hơn tránh tình trạng bất đồng ngôn ngữ khá lớn. Tiếp tục nâng cao chất lượng công tác giáo dục định hướng cho người lao động trước khi xuất cảnh, đặc biệt là các thông tin cần thiết về luật, quy định của nước tiếp nhận, tôn giáo, phong tục, tập quán, điều kiện sống và sinh hoạt ở nước tiếp nhận một cách chi tiết, rõ ràng và dễ hiểu qua nhiều hình thức khác nhau. Đây là yêu cầu cho toàn bộ lao động trong nước và càng có ý nghĩa quan trọng đối với lao động xuất khẩu Tiếp tục đẩy mạnh triển khai mô hình liên kết giữa các doanh nghiệp và địa phương để có nguồn lao động đáp ứng yêu cầu; thực hiện đào tạo nguồn nhân lực phục vụ công tác hội nhập kinh tế quốc tế của Chính phủ; các doanh nghiệp cần nâng cao chất lượng đào tạo – bồi dưỡng kiến thức cần thiết cho người lao động trước khi đi làm việc ở nước ngoài để đảm bảo có nguồn lao động xuất khẩu lao động đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động quốc tế; Nhà nước hỗ trợ đầu tư từ nguồn kinh phí chương trình mục tiêu việc làm và các chương trình, dự án khác để mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng đào tạo nguồn lao động…  Tăng cường công tác quản lý và bảo vệ người lao động ở nước ngoài: Triển khai thoả thuận đã ký về hợp tác lao động để bảo vệ quyền lợi cho người lao động; thúc đẩy đàm phán và ký kết các thoả thuận với các nước khác; kiểm tra, giám sát các doanh nghiệp trong việc ký kết hợp đồng với đối tác nước ngoài bảo đảm các điều kiện theo quy định để làm cơ sở cho việc bảo vệ quyền lợi của người lao động; tăng cường phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý trong và ngoài nước, giữa cơ quan đại diện ngoại giao với đại diện các doanh nghiệp tại nước ngoài .Liên kết với các công ty trong và ngoài nước để tuyển chọn nguồn nhân lực ngay sau khi họ trở về nước. Cùng với các doanh nghiệp xuất khẩu lao động, Nhà nước cần quan tâm cải thiện đời sống văn hoá, tinh thần cho người lao động ở nước ngoài thông qua việc cung cấp sách, báo và tổ chức các đoàn nghệ thuật đi biểu diễn ở các điểm có nhiều người lao động Việt Nam sinh sống và làm việc. Việc quy hoạch, sắp xếp một số DN XKLĐmạnh là việc làm cần thiết. Tuy nhiên, sắp xếp một số DN mạnh không có nghĩa là cắt bỏ hoặc rút hết giấy phép của số DN còn lại, vì như thế sẽ giảm cạnh tranh giữa các DN và vô hình dung lại tạora sự độc quyền trong XKLĐ. Vấn đề quan trọng hơn là phải có một hành lang pháp lý chặt chẽ để hướng tất cả các DN đến một sân chơi bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh. Khi đó nếu DN nào không tự cải thiện mình hoặc không tuân thủ luật chơi đương nhiên sẽ bị đào thải. Nên có vai trò tổ chức công đoàn, các tổ chức có năng lực với cơ chế bảo vệ rõ ràng, hiệu quả thì không bao giờ quyền lợi người lao động có thể được bảo vệ tốt. Vì vậy, vai trò của các tổ chức xã hội dân sự phải mạnh hơn nữa. Rất cần sự vào cuộc đồng bộ của cơ quan quản lý nhà nước về dạy nghề và về xuất khẩu lao động. Vai trò các cơ quan này chính là “bà đỡ” tạo cơ chế và theo dõi, chỉ đạo sự gắn kết đó đi đúng hướng, hiệu quả. Đây cũng chính là sự đầu tư cần thiết và hiệu quả của Nhà nước trong phát triển nguồn nhân lực và đem lại lợi ích to lớn nhiều mặt của xuất khẩu lao động cho xã hội.Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội phối hợp chặt chẽ với Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Tài chính xây dựng phương án học phí hợp lý để thúc đẩy phát triển dạy nghề. Chính phủ dành một nguồn kinh phí cần thiết để thực hiện tín dụng ưu đãi cho học nghề và tạo việc làm và xuất khẩu lao động, đặc biệt cho đối tượng thanh niên, thông qua Ngân hàng Chính sách xã hội hoặc Ngân hàng Phát triển. Tiếp tục ổn định mở rộng các thị trường truyền thống bao gồm Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Malaysia…; phát triển thị trường các khu vực vùng Vịnh gồm các Tiểu Vương quốc Ả Rập thống nhất, Quatar, Ả Rập Xê út… Xúc tiến đưa lao động sang một số thị trường mới như Australia, Canada, EU, Hoa Kỳ… Cần đa dạng hóa ngành nghề, nhất là các nghề mà Việt Nam có ưu thế như may mặc, điện tử, xây dựng. Hiện nay ở Hàn Quốc, lao động Việt Nam phần lớn lựa chọn làm việc trong lĩnh vực sản xuất chế tạo, nhưng theo ông Shin Ho Chinh- đại diện Bộ lao động Hàn Quốc thì trong năm 2007, các ngành nông, ngư nghiệp, chăn nuôi ở nước này có nhu cầu tuyển dụng lớn nên cần chuyển hướng đáp ứng. Thị trường Malaysia cũng đưa ra yêu cầu tiếp nhận 2 loại lao động cấp cao và cấp thấp. Đối với những thị trường cao cấp khác lại rất cần những chuyên gia, kỹ sư, y tá,…làm việc trong các viện nghiên cứu, ngành công nghệ thông tin, bệnh viện, muốn thâm nhập được thị trường phải hướng theo yêu cầu đó.. Phát triển các hình thức đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài như: doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài, nhận thầu công trình ở nước ngoài, thông qua doanh nghiệp xuất khẩu lao động hoặc cá nhân người lao động tự tìm ký hợp đồng lao động làm việc ở nước ngoài. Hình thức hợp tác 3 bên rất hiệu quả giữa Việt Nam, Tổ chức Nông Lương Liên hiệp quốc (FAO) và các nước Châu Phi về hợp tác cung cấp các chuyên gia trong lĩnh vực nông nghiệp cần được tích cực duy trì và phát triển.      Công tác khám sức khoẻ cũng cần rất chặt chẽ và tỷ mỉ để tránh những trường hợp ra đến nước ngoài lại phải về nước. Nâng cao hơn nữa hiệu quả của Quỹ hỗ trợ xuất khẩu lao động hiện nay, trong đó cần huy động được sự đóng góp đáng kể của doanh nghiệp và người lao động nhằm hỗ trợ người lao động khi ốm đau, tai nạn hoặc bị rủi ro. Trong chính sách hỗ trợ việc làm chính sách tạo điều kiện cho người lao động ở nước ngoài trở về nước được tham gia đào tạo, hoặc đào tạo lại tại các Trung tâm dạy nghề, các trường dạy nghề cần phải chú tronhj hơn nữa để họ có cơ hội tìm việc làm trong nước và cũng là giải quyết những vấn đề mà chúng ta đang rất quan tâm về lực lượng lao động trong nước 2:ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG Về phía các doanh nghiệp tham gia XKLĐ, vẫn còn những doanh nghiệp khi tìm hiểu và ký kết với đối tác nước ngoài chưa kiểm tra, xem xét kỹ nên khi đưa người lao động sang làm việc đã gặp khó khăn như: Thiếu việc làm, công việc không đúng với hợp đồng đã ký với người lao động... Do vậy doanh nghiệp cần tìm hiểu kỹ mọi thông tin trước khi cho lao động xuất khẩu. Doanh nghiệp XKLĐ, ngoài việc đảm bảo các cam kết với người lao động cần phải giải quyết tốt các trường hợp lao động bị về nước trước thời hạn. Đồng thời phải có thông báo cụ thể cho địa phương và ngành chức năng về nguyên nhân người lao động bị về nước trước thời hạn để có biện pháp phối hợp giải quyết, tránh trường hợp người lao động vi phạm kỷ luật bị về nước, không thấy lỗi của mình, tuyên truyền không tốt về XKLĐ. Thực hiện mô hình liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp xuất khẩu lao động và chính quyền địa phương trong công tác chuẩn bị nguồn, tuyển chọn và đào tạo lao động xuất khẩu. Các doanh nghiệp xuất khẩu lao động khi có nhu cầu tuyển lao động đi làm việc ở nước ngoài phải báo cáo và phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chính quyền địa phương để thông báo công khai tiêu chuẩn tuyển chọn, cùng địa phương tổ chức tuyển chọn để tuyển chọn trực tiếp, đảm bảo tuyển được lao động đúng tiêu chuẩn. Qua đó, chính quyền các cấp đã thực sự quản lý được hoạt động xuất khẩu lao động, hạn chế tối đa các hiện tượng tiêu cực, cò mồi, lừa đảo người lao động Có thể thấy rằng việc quản lý thông tin XKLĐ đang trở nên cấp bách. Đặc biệt là với những DN có nhiều trung tâm nằm tại nhiều địa bàn khác nhau. Do vậy việc chuẩn hoá và đưa vào sử dụng một hệ CSDL dùng chung là điều mà các DN XKLĐ cần làm. Việc chuẩn hoá CSDL cũng như quy trình nghiệp vụ, đồng thời cho phép người dùng có thể cập nhật, khai thác CSDL ấy trên nền công nghệ web, đồng thời giúp lãnh đạo DN có thể nắm bắt được dữ liệu về người lao động (từ khâu tuyển chọn, làm thủ tục giấy tờ, chi phí, hợp đồng, thông tin lao động đang làm việc tại nước ngoài, mức lương hiện tại, giai đoạn lao động về nước...). Bên cạnh đó, các biểu mẫu báo cáo cũng được xây dựng đầy đủ, tự động cập nhật, đáp ứng được các yêu cầu quản lý của DN và yêu cầu báo cáo của cục Quản Lý Lao Động Nước ngoài. Các doanh nghiệp xuất khẩu lao động phải có bộ phận chuyên trách bồi dưỡng kiến thức cần thiết cho người lao động; phải bảo đảm trang thiết bị, nơi ăn ở, sinh hoạt, học tập nội trú cho 100 học viên trở lên. Cần đặc biệt chú trọng giáo dục tư tưởng, tình yêu quê hương đất nước, lòng tự tôn dân tộc... cho người đi XKLĐ. Trong ngắn hạn, mỗi doanh nghiệp xuất khẩu lao động cần hợp tác với một số trường nghề và ngược lại, mỗi trường nghề có quan hệ hợp tác với một số doanh nghiệp xuất khẩu lao động để tư vấn, tuyển chọn, tạo điều kiện cho số học sinh có nguyện vọng đi xuất khẩu lao động được bổ túc thêm nghề ngắn hạn đáp ứng yêu cầu hợp đồng. 3:ĐỐI VỚI CÁ NHÂN XUẤT KHẨU Người lao động trước khi ra nước ngoài làm việc cần được trang bị những kiến thức cần thiết. Đó là những hiểu biết tối thiểu về luật xuất khẩu lao động Việt Nam, cũng như pháp luật, phong tục, tập quán, nếp sống, sinh hoạt và nội quy làm việc của nước tiếp nhận lao động. Từ đó giúp người lao động nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật và tác phong công nghiệp... Người lao động cần hiểu rõ vai trò khi tham gia vào XKLĐ nó không chỉ có ý nghĩa cho bản thân và gia đình mình mà còn là uy tín của toàn lao động Việt Nam trên thị trường quốc tế. Tuân thủ mọi quy định trong hợp đồng lao động và luật pháp của Việt Nam và nước sở tại. Luôn trau dồi kiến thức,kỹ năng, chuyên môn…khi tham gia lao động ở nước ngoài. Xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với giới chủ, không ngừng quảng bá về văn hóa cũng như con người Việt Nam với thế giới. 4:ĐỐI VỚI CÁC CƠ QUAN THÔNG TIN-TUYÊN TRUYỀN Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền phổ biến các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, các quy định pháp luật về xuất khẩu lao động và chuyên gia nhằm tạo ra sự nhận thức đúng đắn từ các cấp các ngành đến người dân và xã hội.Thông tin nhanh, kịp thời, đầy đủ và chính xác giúp cho mọi người nắm bắt thời cơ, vận hội tốt hơn. Quản lý tốt các thông tin, các bài liên quan đến hoạt động xuất khẩu lao động, tạo điều kiện cho công tác ổn định và phát triển thị trường lao động ngoài nước, tạo lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp và lao động của ta trên thị trường quốc tế.Kiên quyết đấu tranh với các hiện tượng tiêu cực, những vi phạm trong xuất khẩu lao động nhưng phải đảm bảo quan hệ hợp tác với nước ngoài. KẾT LUẬN Xuất khẩu lao động là một hoạt động kinh tế mang lại nhiều nguồn lợi cho nước ta. Đây chính là chủ trương mà Đảng và Nhà nước ta đang hướng tới trong chiến lược phát triển chung của đất nước. Đặc biệt, hiện nay Việt Nam đang tiến hành hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa trên mọi lĩnh vực, thì Việt Nam muốn phát triển kinh tế cần phải gắn kết với nền kinh tế thế giới. Trong đó chúng ta phải chú trọng phát triển nguồn nhân lực quốc tế thông qua hoạt động xuất khẩu lao động. Hoạt động XKLĐ đã và đang mang lại rất nhiều lợ ích cho các bên tham gia, từ Nhà nước, doanh nghiệp XKLĐ cho tới bản thân người lao động- chủ thể của quá trình XKLĐ.Trong thời gian qua chúng ta đã cố gắng hết sức để đưa 490736 lao động ra làm việc ở nước ngoài, họ phục vụ chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp, phụ giúp gia đình, xây dựng…và các thị trường chủ yếu có thể kể đến là 4 thị trường chính và truyền thống:Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaisia, Đài Loan và một số thị trường còn lại.Ngoại tệ chuyển về nước ngày càng tăng mạnh, ước tính hơn 1,6 tỷ USD, đồng thời Nhà nước cũng tiết liệm được hàng tỷ đô la Mỹ mỗi năm do không phải đầu tư tạo việc làm mới cho số lao động tương đương số lao động xuất khẩu.Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đã đạt được chúng ta không tránh khỏi những hạn chế trong XKLĐ,đặc biệt trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt diễn ra trên khắp các lĩnh vực.Người lao động gặp nhiều khó khăn trong trong vấn đề thủ tục, nhân quyền, công việc…do vậy đã gây ra những vấn đề bất mãn trong lao động, phá bỏ hợp đồng….ảnh hưởng đến danh dự của người lao động nói riêng và của đất nước ta nói chung.Nguyên nhân không trực tiếp chỉ thuộc về người lao động mà còn bộc lộ một số khiếm khuyết trong công tác quản lý của Nhà nước và bản thân các doanh ngiệp XKLĐ.Sự thiếu liên kết chặt chẽ từ trung ương đến địa phương và các doanh nghiệp khiến cho công tác XKLĐ gặp nhiều khó khăn.Bản thân Nhà nước chưa thực sự cố gắng trong công tác tạo việc làm cho người lao động về nước dẫn đến tình trạng thiếu việc làm ,thất nghiệp diễn ra ngày càng nhiều .Khắc phục tình trạn đó không chỉ thực hiện được chỉ với sự nỗ lực từ một phía nào đó, đây là công việc cần sự phối hợp của nhiều cấp, ngành, từ Nhà nước, các bộ ngành liên quan tới các doanh nghiệp, các cơ quan truyền thông và bản thân người lao động. Chắc chắn với những nỗ lực này chúng ta có quyền tin vào sự thành công trong công tác XKLĐ cũng như tạo việc làm cho người xuất khẩu khi trở về nước,nhằm cải thiện đời sốngcho người dân, giải quyết bài toán việc làm cho người lao động và tăng ngoại tệ cho đất nước. TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình Kinh tế quốc tế - Khoa kinh tế ĐHQGHN. Một số vấn đề cần biết về xuất khẩu lao động – NXB Thanh Niên 2003. Tạp chí Nghiên cứu kinh tế Tạp chí Kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương Tạp chí kinh tế phát triển. Tạp chí lao động và Công đoàn Tạp chí Lao động và Xã hội Tạp chí Kinh tế và Dự báo Tạp chí Thương mại - Bộ thương mại Báo cáo tổng hợp giai đoạn 2000-2007, cục quản lý lao động ngoài nước-Bộ lao động thương binh và xã hội. Báo cáo tổng hợplao động xuất khẩu hàng năm Giáo trình kinh tế lao động-TS.MAI QUỐC CHÁNH Tạp chí công sản Văn kiện đại hội toàn quốc lần thứ IX,X,XI Các web site: www.vnexpress www.thanhnien.com www.vietnamnet www.dafel.gov.vn www.vneconomy www.danntri.com.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc20723.doc
Tài liệu liên quan