Đề tài Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong quá trình gia nhập WTO

Thứ nhất: Đẩy nhanh quá trình hội nhập của Việt Nam và thực hiện cải cách mạnh hơn nữa các chính sách về kinh tế, kinh doanh và lao động phải làm cho các tổ chức, doanh nghiệp và bản thân người lao động hiểu được rõ hơn về hội nhập và các khía cạnh khác nhau của hội nhập để chuẩn bị cho quá trình tham gia hội nhập tốt nhất.Tiếp tục rà soát dỡ bỏ những rào cản về thương mại và độc quyền kinh doanh, thực hiện tốt các chương trình cải cách nhằm thu hút đầu tư, hỗ trợ trong việc thành lập và nâng cao hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp ở trong nước cũng như trên các thị trường nước ngoài. Từng bước hoàn thiện cơ chế và chính sách về lao động và tạo việc làm cho người lao động, tăng cường quản lý thị trường lao động và giải quyết tốt các quan hệ lao động (tuyển dụng, sa thải, trả công và đãi ngộ). Đồng thời đẩy mạnh hội nhập về lao động, tăng cường xuất khẩu lao động và chuyên gia ra nước ngoài làm việc và nhập khẩu có chọn lọc người nước ngoài vào làm việc ở Việt Nam. Thứ hai: trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế, Việt Nam cần có một chính sách và chiến lược toàn diện về phát triển nguồn nhân lực cho quá trình hội nhập và tập trung mọi nỗ lực để thực hiện tốt chiến lược. Nếu coi con người là trung tâm thì chiến lược này cũng mang ý nghĩa rất quan trọng, trong đó việc giải quyết thành công những vấn đề của nguồn nhân lực Việt Nam. Chiến lược này phải mang tính trọng điểm quốc gia và bao gồm chiến lược hình thành và phát triển nguồn nhân lực và cân đối lao động trong xã hội, chiến lược đào tạo người lao động, chiến lược quản lý và sử dụng lao động và chiến lược phát triển tổng thể, đồng bộ nguồn lao động xã hội. Thứ ba: Đối với các doanh nghiệp, giải pháp quan trọng nhất vẫn là nâng cao hiệu quả kinh doanh. Doanh nghiệp phát triển tốt mới có thể thu hút được người lao động vào làm việc. Về nhân sự, giải quyết hài hòa các quan hệ, trước hết là quan hệ lợi ích giữa người lao động và doanh nghiệp. Những lợi ích này bao gồm cả lợi ích kinh tế và các lợi ích phi kinh tế khác như (phát triển cá nhân, điều kiện làm việc, môi trường hoạt động và các quan hệ xã hội trong làm việc ) thông qua các chính sách đúng về tiền lương và thu nhập, bố trí sử dụng hợp lý trên cơ sở năng lực và nhu cầu sử dụng người lao động, đảm bảo đúng người đúng việc để phát huy tối đa sở trường của mỗi người tạo dựng một môi trường làm việc bình đẳng, công tác tích cực với nhau giữa những người lao động, và các nhà quản lý. Các doanh nghiệp cũng phải phát triển nguồn nhân lực của doanh nghiệp bằng nội lực của mình "chuyên nghiệp hơn". Nhân lực là một trong không nhiều các nnhân tố thành công cơ bản cho nên chi phí phát triển người lao động phải được coi là một khoán đầu tư và thực tế đang được xem là một trong những đầu tư "khôn ngoan" và mang tính chiến lược của mọi doanh nghiệp. Đây sẽ là biện pháp tạo sự gắn bó, trung thành và tâm huyết trong làm việc của người lao động. Thứ tư: Tôn trọng và nâng cao vai trò, và tạo điều kiện phát huy khả năng của bản thân người lao động trong giải quyết các vấn đề về lao động và việc làm. Người lao động luôn là một trong những nhân tố đóng vai trò quyết định trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực xã hội. Người lao động cần hoàn thiện chính mình, tìm kiếm cơ hội và duy trì trạng thái làm việc ổn định và có lợi nhất. Họ cần tranh thủ mọi cơ hội việc làm giúp họ thoát khỏi tình trạng thấp nghiệp bằng cách chủ động tiếp cận và học được những kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp và kỹ thuật lao động tiên tiến hiện đại và tích lũy thêm kinh nghiệm để có được phạm vi kiến thức kỹ năng rộng hơn. Làm việc hiện nay cũng đòi hỏi người lao động có những phẩm chất phù hợp, đó là khả năng hòa nhập, hòa hợp với tốt với đồng nghiệp, khả năng và kỹ năng làm việc trong tập thể làm việc có trách nhiệm và tạo lòng tin đối với mọi người, năng nổ, sáng tạo chấp nhận cái mới, chấp nhận thách thức và cầu tiến bộ.

doc33 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1682 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong quá trình gia nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
khỏi những thiếu sót và sai lầm.Em mong có được sự đánh giá và góp ý them từ các thầy cô và các bạn để cóthể thu được kết quả tốt hơn trong những lần nghiên cứu sau. Chương I: Nguồn nhân lực - chất lượng nguồn nhân lực ,sự cần thiết phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực 1.1. Khái niệm nguồn nhân lực Khái niệm nguồn nhân lực có nhiều cách hiểu: - Nguồn nhân lực, với tư cách là nơi cung cấp sức lao động cho xã hội, bao gồm toàn bộ dân cư có cơ thể phát triển bình thường (không bị khiếm khuyết và di tật bẩm sinh). - Nguồn nhân lực, với tư cách là một nguồn lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội, là khả năng lao động của xã hội được hiểu theo nghĩa hẹp hơn. bao gồm nhóm dân cư trong độ tuổi lao đọng có khả năng lao động. - Nguồn nhân lực còn được hiểu với tư cách là tổng hợp cá nhân những con người cụ thể tham gia vào quá trình lao đọng. Với cách hiểu này, nguồn nhân lực bao gồm những người bắt đầu bước vào độ tuổi lao động trở lên có tham gia vào nền sản xuất xã hội. Các cách hiểu trên chỉ khác nhau về việc xác định quy mô nguồn nhân lực song đều có chung một ý nghĩa là nói lên khả năng lao động xã hội. Nguồn nhân lực được xem xét trên giác độ số lượng và chất lượng. Số lượng được biểu hiện thông qua các chỉ tiêu quy mô và tốc độ tăng nguồn nhân lực các chỉ tiêu về số lượng này có quan hệ mật thiết với chỉ tiêu quy mô và tốc độ tăng dân số. Quy mô dân số càng lớn, tốc độ tăng dân số càng nhanh dẫn đến quy mô và tốc độ tăng nguồn nhân lực càng lớn và ngược lại. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa dân số và nguồn nhân lực được biểu hiện sau một thời gian 15 năm (vì đến lúc đó con người mới bước vào độ tuổi lao động). Về mặt chất lượng nguồn nhân lực được xem xét trên các mặt: tình trạng sức khoẻ, trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn, năng lực phẩm chất.v.v.. Cũng giống như các nguồn lực khác, số lượng và đặc biệt là chất lượng nguồn nhân lực đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hộ Chất lượng nguồn nhân lực Chất lượng nguồn nhân lực là trạng thái nhất định của nguồn nhân lực thể hiện mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành nên bản chất bên trong của nguồn nhân lực. Chất lượng nguồn nhân lực không những là chỉ tiêu phản ánh trình độ phát triển kinh tế, mà còn là chỉ tiêu phản ánh trình độ phát triển về mặt đời sống xã hội, bởi lẽ chất lượng nguồn nhân lực cao sẽ tạo ra động lực mạnh mẽ hơn với tư cách không chỉ là một nguồn lực của sự phát triển, mà còn thể hiện mức độ văn minh của một xã hội nhất định 1.2. Phân loại nguồn nhân lực Tuỳ thuộc giác độ nghiên cứu mà người ta có thể phân loại nguồn nhân lực theo nhiều tiêu thức khác nhau. Trong phạm vi đề tài này, em chỉ đưa ra cách phân loại nguồn nhân lực căn cứ vào nguồn gốc hình thành. Theo đó nguồn nhân lực được phân thành ba loại chính: 1.2.1. Nguồn nhân lực có sẵn trong dân cư: Bộ phận này bao gồm toàn bộ những người nằm trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động, không kể đến trạng thái có làm việc hay không làm việc. Độ tuổi lao động là giới hạn về những điều kiện cơ thể, tâm sinh lý xã hội để con người có thể t ham gia vào quá trình lao động. Giới hạn độ tuổi lao động được quy định tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội của từng nước và trong từng thời kỳ. Giới hạn độ tuổi lao động gồm: - Giới hạn giới: Quy định số tuổi thanh niên bước vào độ tuổi lao động giới hạn này ở nước ta hiện này tròn 15 tuổi. - Giới hạn trên: Quy định độ tuổi về hưu. Nước ta quy định độ tuổi về hưu là hết 55 tuổi đối với nữ và 60 tuổi đối với nam. Nguồn nhân lực có sẵn trong dân cư c hiếm một tỷ lệ tương đối lớn trong dân số thường dao động xung quanh con số 50%, tuỳ theo đặc điểm dân số và nguồn nhân lực của từng nước. 1.2.2. Nguồn nhân lực tham gia vào hoạt động kinh tế (hay dân số hoạt động kinh tế) Loại này bao gồm những người có công ăn việc làm, đang hoạt động trong các ngành kinh tế và văn hoá của xã hội. Theo pháp luật của nước Việt Nam, việc làm là mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp luật cấp giữa nguồn nhân lực có sẵn trong dân cứ và nguồn nhân lực tham gia vào hoạt động kinh tế có khác nhau. Sự khác nhau này là do có một bộ phận những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động nhưng vì nhiều nguyên nhân khác nhau chưa tham gia vào hoạt động kinh tế (thất nghiệp, có việc làm nhưng không muốn làm việc, còn đang học tập, có nguồn thu nhập khác không cần đi làm.v.v…). 1.2.3. Nguồn nhân lực dữ trữ Các nguồn nhân lực dự trữ trong nền kinh tế bao gồm những người trong độ tuổi lao động nhưng vì các lý do khác nhau, họ chưa có công ăn việc làm ngoài xã hội. Số người này đóng vai trò của một nguồn dự trữ về nhân lực gồm có: - Những người làm công việc nội trợ trong gia đình: khi điều kiện kinh tế xã hội thuận lợi, nếu bản thân họ muốn tham gia lao động ngoài xã hội, họ có thể nhanh chóng rời bỏ công việc nội trợ để làm công việc thích hợp ngoài xã hội. Đây là nguồn nhân lực đáng kể và đại bộ phận là phụ nữ, hàng ngày vẫn đảm nhiệm những chức năng duy trì, bảo vệ và phát triển gia đình về nhiều mặt. - Những người tốt nghiệp ở các trường phổ thông và chuyên nghiệp được coi là nguồn nhân lực dự trữ quan trọng và có chất lượng. Đây là nguồn nhân lực ở độ tuổi thanh niên, có trình độ chuyên môn (nếu được đào tạo tại các trường dạy nghề và các trường trung cấp, đại học). Tuy nhiên, khi nghiên cứu nguồn nhân lực này cần phân chia tỷ mỉ hơn: +) Nguồn nhân lực đã đến tuổi lao động, tốt nghiệp trung học phổ thông, không tiếp tục học nữa, muốn tìm việc làm. +) Nguồn nhân lực đã đến tuổi lao động, chưa học hết trung học phổ tông không tiếp tục học nữa, muốn tìm việc làm. +) Nguồn nhân lực ở độ tuổi lao động, đã tốt nghiệp các trường chuyên nghiệp, trung cấp, cao đẳng, đại học thuộc các chuyên môn khác nhau, đang tìm việc làm. - Những người đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự cũng thuộc nguồn nhân lực dự trữ, có khả năng tham gia vào hoạt động kinh tế. Số người này cũng cần phân loại để biết rõ có nghề hay không có nghề, biết rõ trình độ văn hoá sức khoẻ,…từ đó tạo công ăn việc làm thích hợp. - Những người trong độ tuổi lao động đang bị thất nghiệp (có nghề hoặc không có nghề) muốn tìm việc làm, cũng là nguồn nhân lực dự trữ, sẵn sàng tham gia vào hoạt động kinh tế. 2.1. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng nguồn nhân lực. 2.1.1. Chỉ tiêu phản ánh tình trạng sức khoẻ của dân cư. Sức khoẻ là trạng thái thoải mái về thể chất, tinh thần và xã hội chứ không phải đơn thuần là không có bệnh tật. Sức khoẻ là tổng hoà nhiều yếu tố tạo nên giữa bên trong và bên ngoài, giữa thể chất và tinh thần. Có nhiều chỉ tiêu biểu hiện trạng thái về sức khoẻ. Bộ y tế kết hợp Bộ Quốc phòng căn cứ vào 8 chỉ tiêu để đánh giá. - Chỉ tiêu thể lực chung: Chiều cao, cân nặng, vòng ngực - Mắt - Tai, mũi, họng - Răng hàm mặt - Nội khoa - Ngoại khoa - Thần kinh tâm thần - Da liễu Căn cứ chỉ tiêu trên để chia thành 6 loại: Rất tốt, tốt, khá, trung bình, kém và rất kém. 2.1.2. Chỉ tiêu biểu hiện trình độ căn hoá của người lao động. Trình độ văn hoá của người lao động và sự hiểu biết của người lao động đối với những kiến thức phổ thông về tự nhiên và xã hội. Trình độ văn hoá được biểu hiện thông qua các quan hệ tỷ lệ như: Số lượng người biết chữ và chưa biết chữ. Số người có trình độ tiểu học. Số người có trình độ phổ thông cơ sở. Số người có trình độ phổ thông trung học. Số người có trình độ đại học và trên đại học.v.v… - Trình độ văn hoá của dân số hay nguồn nhân lực là một chỉ tiêu hết sức quan trọng phản ánh chất lượng của nguồn nhân lực và có tác động mạnh mẽ tới quá trình phát triển kinh tế xã hội. Trình độ văn hoá cao tạo khả nưng tiếp thu và vận dụng một cách nhanh chóng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào thực tiễn. 2.1.3. Chỉ tiêu biểu hiện trình độ chuyên môn kỹ thuật của người lao động. Trình độ chuyên môn là sự hiểu biết, khả năng thực hành và chuyên môn nào đó, nó biểu hiện trình độ được đào tạo ở các trường trung học chuyên nghiệp cao đẳng, đại học và sau đại học, có khả năng chỉ đạo quản lý một công việc thuộc một chuyên môn nhất định. Do đó trình độ chuyên môn của nguồn nhân lực được đo bằng: - Tỷ lệ cán bộ trung cấp. - Tỷ lệ cán bộ cao đẳng, đại học. - Tỷ lệ cán bộ trên đại học. Trong mỗi chuyên môn có thể chia thành những chuyên môn nhỏ hơn. Ví dụ như đại học có bao gồm kỹ thuật, kinh tế, ngoại ngữ…thậm chí trong từng chuyên môn lại chia thành chuyên môn nhỏ hơn nữa. Trình độ kỹ thuật của người lao động thường dùng để c hỉ trình độ của người được đào tạo ở các trường kỹ thuật, được trang bị kiến thức nhất định, những kỹ năng thực hành về công việc nhất định. Trình độ kỹ thuật được thông qua các chỉ tiêu: - Số lao động được đào tạo và lao động phổ thông. - Số người có bằng kỹ thuật và không có bằng. - Trình độ tay nghề theo bậc thợ. Trình độ chuyên môn và kỹ thuật thường kết hợp chặt chẽ với nhau, thông qua chỉ tiêu số lao động được đào tạo và không được đào tạo trong từng tập thể nguồn nhân lực. 2.1.4. Chất lượng nguồn nhân lực còn được thể hiện thong qua chỉ số phát triển con người (HDI - Human Development Index). Chỉ số này được tính bởi ba chỉ tiêu chủ yếu: - Tuổi thọ bình quân. - Thu nhập bình quân đầu người (GDP/người). - Trình độ học vấn (tỷ lệ biết chữ và số năm đi học trung bình của dân cư). Như vậy chỉ số HDI không chỉ đánh giá sự phát triển con người về mặt kinh tế, mà còn nhấn mạnh đến chất lượng cuộc sống và sự công bằng, tiến bộ xã hội. 2.Sự cần thiết nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong quá trình gia nhập WTO 2.1. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là một đòi hỏi khách quan bởi lẽ: - Nhu cầu về lao động là nhu cầu cần dẫn xuất do nhu cầu sản xuất sản phẩm nhất định; nhu cầu sản xuất sản phẩm lại xuất phát từ nhu cầu tiêu dùng của con người cùng với sự phát triển của nền sản xuất, nhu cầu của con người ngày càng phong phú và đa dạng, sản phẩm sản xuất ra càng nhiều hơn và chất lượng càng cao hơn. Điều đó chỉ có thể có được do loại lao động có trình độ cao sản xuất ra nên không thể không chăm lo tốt việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. - Nhu cầu nâng cao chất lượng cuộc sống, tăng cường sức khoẻ mở rộng tri thức, nâng cao trình độ tay nghề không chỉ do kết quả của sự phát triển sản xuất mà nó xuất phát từ nhu cầu của chính bản thân con người muốn nâng cao chất lượng cuộc sống. Do vậy, việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực không chỉ xuất phát từ yêu cầu sản xuất mà còn xuất phát từ chính nhu cầu của con người điều đó tạo ra điều kiện tốt cho việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực hiện nay. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là một xu hướng tất yếu của lịch sử, là quá trình trang bị kỹ thuật công nghệ hiện đại cho nên kinh tế quốc dân trong lĩnh vực nguồn nhân lực đã tạo ra sự chuyển biến về chất từ lao động thủ công sang lao động cơ k hí và lao động trí tuệ. - Hội nhập kinh tế thế giới là xu hướng tất yếu, khi đó doanh nghiệp Việt Nam sẽ có cơ hội làm bạn với các doanh nghiệp lớn, được cọ xát trong môi trường cạnh tranh mới, sản phẩm của ta sẽ có mặt ở nhiều thị trường khó tính. Tuy nhiên, để có thể tồn tại trong môi trường cạnh tranh khốc liệt đó, các doanh nghiệp phải tự điều chỉnh để thích nghi và khắc phục sự yếu kém. Một trong những khâu quan trọng đó là nâng cao chất lượng, chất lượng nguồn nhân lực. 2.2 -Những cơ hội và thách thức đối với việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong quá trình gia nhập WTO +) Những cơ hội mà gia nhập WTO đem lại việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Gia nhập WTO với mỗi quốc gia khác nhau sẽ đưa lại nhiều lợi ích khác nhau đối với việc đào tạo, phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của các nd đó, những lợi ích chủ yếu là: - Thứ nhất, tạo điều kiện cho các nước nhanh chóng tiếp nhận thông tin, tri thức mới, góp phần nâng cao dân trí, đào tạo phát triển nguồn nhân lực, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực hiện nay. Dễ dàng tiếp thu vốn trong tương lai, công nghệ, trình độ quản lý từ các quốc gia khác trong liên minh. Trên cơ sở đó sẽ thu được những phương pháp đào tạo mới, những kỹ thuật hiện đại về tổ chức quản lý, sản xuất để tiến hành đào tạo ra lao động có chất lượng cao một cách hiệu quả. Chất lượng nguồn nhân lực sẽ được nâng cao đáng kể. - Thứ hai, Khi gia nhập WTO, điều kiện buôn bán giữa các nước thành viên sẽ trở nên thuận lợi hơn, hấp dẫn hơn. Do có chính sách ưu đãi thuế quan nên dù một mặt hàng của một quốc gia trong liên minh cao hơn các nước khác ngoài liên minh thì nó vẫn có thể được các nước trong liên minh nhập khẩu vì giá cả sau thuế với mặt hàng của các nước trong liên minh vân thấp hơn ngoài liên minh. Như vậy sẽ có sự chuyển hướng mậu dịch từ buôn bán với các nước ngoài liên minh thành buôn bán với các nước trong liên minh kết quả là kim ngạch xuất nhập khẩu trong nội bộ liên minh sẽ tăng lên với mức giá thấp hơn trước, tạo điều kiện cho xuất nhập khẩu phát triển. Mặt khác việc tạo lập hệ mậu dịch vững chắc giữa các nước thành viên sẽ mở rộng hơn nữa khả năng xuất nhập khẩu hàng hoá của các nước hàng liên minh với các nước, các khu vực khác tiên tiến trên thế giới và việc xuất nhập khẩu củng ổn định hơn. Cùng với sự nâng cao hiệu quả xuất khẩu theo quy mô, các ngành sản xuất phục vụ cho xuất khẩu sẽ phát triển đòi hỏi thêm lao động không chỉ có vậy, nền kinh tế quốc dân cũng sẽ chú ý đến nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đào tạo nguồn nhân lực mới nhằm tạo ra một cơ cấu lao động mới phù hợp với sự chuyển dịch cơ cấu, ngành nghề. Song song với việc đẩy mạnh xuất khẩu có hiệu quả ta sẽ tạo được điều kiện thuận lợi cho việc gia tang vốn tích luỹ, tạo lập cân bằng cán cân thanh toán theo hướng tích cực và do đó thúc đẩy tái sản xuất mở rộng không ngừng, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế. Khi nền kinh tế phát triển hơn, đời sống của nhân dân phát triển chất lượng nguồn nhân lực sẽ được nâng cao. - Thứ ba, hội nhập cũng gây áp lực với mỗi quốc gia trong các ngành xuất khẩu, buộc các ngành này phải nhanh chóng thay đổi công nghệ, áp dụng rộng rãi những kinh nghiệm quản lý, những thành tựu mới và hiện đại của cuộc cách mạng khoa học công nghệ. Do đó nguồn nhân lực cho các ngành này se được chú trọng hơn. - Thứ tư, gia nhập sân chơi lớn, đối với các công ty vừa là cơ hội vừa là thách thức lớn. Họ sẽ phải đầu tư cho sản xuất nhiều hơn, hiệu quả hơn. Đòi hỏi trình độ chuyên môn hoá cao hơn để đặt chi phí sản xuất thấp nhất. Muốn làm được điều này, việc phát huy nguồn vốn con người là tiền đề cho phát huy các nguồn vốn khác. - Thứ năm, cùng với xu thế toàn cầu hoá là tăng dung lượng thị trường lao động quốc tế. Cùng với sự bành chướng của các tập đoàn xuyên quốc gia, sự phát triển khoa học kỹ thuật có hai dòng di chuyển lao động. Một là dòng lao động di chuyển tới những nước phát triển và khan hiếm lao động từ những nước đang phát triển và dư thừa lao động. Hai là dòng di chuyển ld vào các công ty xuyên quốc gia do có sự bành chướng của các công ty này thông qua FDI. Đặc điểm chung của cả hai dòng di chuyển là đòi hỏi người lao động phải có kỹ thuật, trình độ cao. Điều này thu hút được sự quan tâm của người lao đọng đến việc học tập nâng cao trình độ của bản thân để tiếp cận được công nghệ mới. - Thứ sáu, một hàng rào phi thúc quan với danh nghĩa "tiêu chuẩn lao động quốc tế" như là điều kiện cho phép hàng hoá nhập khẩu vào nước này như ISO 9000 - ISO 9002 tiêu chuẩn SA 8000 (trách nhiệm xã hội - Solial Accamtability đã ràng buộc các doanh nghiệp trong việc tuyển lao động, an toàn lao động, trả công, hệ tống quản lý.v.v…Những quy định đó khiến các công ty phải chi phí cho quá trình tổ chức, tạo cơ sở vật chất cho xây dựng áp dụng và quản lý các tiêu chuẩn đồng thời phải đào tạo công nhân. Do vậy nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là rất cần thiết. +) Những thách thức mà gia nhận WTO đem lại việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Bên cạnh một số lợi ích nêu trên, ta cầm thấy rằng việc hội nhập kinh tế thế giới đã và đang đặt ra những thách mà cần phải ứng xử cho phù hợp thì mới có thể hội nhập thành công. Thứ nhất, gia nhập WTO đồng nghĩa với việc tự do hoá thương mại đã kích thích cơ cấu thương mại thay đổi nhanh chóng. Thương mại dịch vụ có thế giới đã tăng từ 380,9 tỷ USD năm 1985 lên 1167,8 tỷ USD năm 1995. Xu thế phát triển của các ngành thương mại, dịch vụ đã tạo nên sự chuyển dịch lao động từ các ngành công nghiệp và đặc biệt là nông nghiệp song những ngành này. Mặt khác, số lượng, chủng loại mặt hàng, trao đổi thương mại quốc tế ngày càng đa dạng, nhưng theo hướng tăng dần các mặt hàng tinh chế, giảm dần các mặt hàng nguyên liệu thô, sơ chế. Hiện thực này hiện rõ qua những thông tin, số liệu về tình hình xuất nhập khẩu của nước ta trong những năm qua. Xu thế này đưa tới sự thay đổi về cơ cấu ngành. Giá cả những mặt hàng tinh chế cao, mang lại nhiều lợi nhuận. So về chiến lược lâu dài để phát triển kinh tế đất nước thì ngành sản xuất này đang rất có triển vọng phát triển. Do đó khi quy mô những ngành sản xuất này mở rộng, đòi hỏi thêm lao động. Trong khi đó, nguồn tài nguyên thiên nhiên ngày càng cạn kiệt sẽ làm cho các ngành sản xuất mặt hàng thô, sơ chế thu hẹp sản xuất, từ đó giảm nhu cầu về lao động. Nguồn lao động sẽ dịch chuyển sang các ngành công nghiệp chế biến. Nguồn nhân lực trong tương lai sẽ tập trung vào những ngành này, đòi hỏi phải thay đổi cơ cấu đào tạo cho phù hợp. - Thứ hai khi gia nhập WTO tiềm năng kinh tế của các nước thành viên được khai thác một cách có hiệu quả. Các ngành sản xuất không phải là thế mạnh (gây lãng phí nguồn lực khi đầu tư) sẽ được thay thế bằng cách phát triển các ngành thế mạnh của mình. Khi đó, được hưởng lợi từ những ưu dãi về kinh tế nhưng sẽ dẫn tới sự thay đổi cơ cấu lao động trong các ngành nghề của các quốc gia thành viên. Sự thay đổi đó đòi hỏi nhà nước phải có tầm nhìn chiến lược lâu dài cho tương lai để tập trung đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho những ngành thế mạnh của mình. Như vậy, nếu đánh giá sai về xu thế phát triển ngành nghề tương lai ở nước ta khi gia nhập WTO sẽ dẫn đến lãng phí nguồn lực, sử dụng thiếu hiệu quả ưu đãi về kinh tế khi gia nhập WTO. Thách thức hiện nay là do thông tin ngày càng phát triển, việc kiểm soát thị trường lao động cũng như nắm bắt chính xác nhu cầu lao động có chất lượng cho từng ngành nghề hết sức phức tạp. - Thứ ba, khi gia nhập WTO ngoài cạnh tranh về thương mại, hàng hoá các nước để vào Việt Nam còn có một lực lượng lao động hơn lớn tham gia vào thị trường lao động ở nước ta. Tình hình đó khiến chúng ta cần nhanh chóng năng cao chất lượng nguồn nhân lực hiện nay cũng như thay đổi chiến lược đào tạo cho mai sau. Bởi nếu không thì người lao động Việt Nam sẽ không có việc trong khi ấy chúng ta sẽ giải quyết vấn đề thất nghiệp cho các nước thành viên. Điều đó gây bất ổn về kinh tế - xã hội, mà còn gây bất lợi về chính trị chúng ta buộc phải nhanh chóng tìm cách nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Chương II: Thực trạng chất lượng nguồn nhân lực hiện nay ở Việt Nam 1. Khái quát tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam trong những năm gần đây. Việc thực hiện thắng lợi kế hoạch 5 năm 2001-2005 với phương hướng mục tiêu và các nhiệm vụ đặt ra có ý nghĩa rất quan trọng .Vì đây là kế hoạch 5 năm dầu tiên thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001-2010 . Khi triển khai thực hiện kế hoạch 5 năm này , thuận lợi cơ bản nhất là sau 15 năm đổi mới và hội nhập quốc tế, thế và lực của nước ta cũng như kinh nghiệm tổ chức , quản lý và điều hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã được tăng lên đáng kể.Tuy nhiên , khó khăn cũng không phải là ít.Trong khi nền kinh tế nước ta còn nhiều mặt yếu kém, kinh tế thế giới chưa thoát khỏi cảnh trì trệ, thì lại phải đối phó với những tác động tiêu cực của khủng bố quốc tế liên tiếp xảy ra ở nhiều quốc gia trên thế giới và khu vực, của chiến tranh Afganixtan, chiến tranh Irắc, dịch bệnh viêm đường hô hấp cấp SARS, dịch cúm gà H5N1 gây ảnh hưởng lớn đến người dân . Dù vậy,tình hình kinh tế - xã hội nước ta vẫn rất khả quan. Về thu nhập của dân cư , trong năm 2003-2004, thu nhập bình quân đầu người/tháng theo giá hiện hành đạt 484.000 đồng ,tăng 36% so với năm 2001-2002. ở khu vực thành thị,thu nhập đạt 795.000 đồng, tăng 27,8%; khu vực nông thôn đạt 377.000 đồng,tăng 36,9% so với năm 2001-2002 và tăng nhanh hơn so với khu vực thành thị.Nhờ đó đến nay, tỷ lệ hộ nghèo về lương thực, thực phẩm của cả nước đã giảm từ 9,9% xuống còn 7,8%, trong đó ở thành thị còn 3,5%,riêng ở khu vực nông thôn còn 8,9% giảm 3% so với năm 2001-2002. Mức chi tiêu cho đời sống năm 2003-2004 của cả nước đạt 370.000 đồng/người/tháng theo giá hiện hành , tăng 37,5% so với năm 2001-2002, góp phần giảm số hộ nghèo cả nước xuống còn 24,1%. Cũng theo kết quả khảo sát , hệ số chênh lệch về thu nhập bình quân 1 người/tháng giữa nhóm hộ giàu nhất và nhóm hộ nghèo nhất trong thời kỳ 2003-2004 tăng so với các năm trước 13,5 lần (năm 2001-2002 là 12,5 lần)… (Nguồn VietNamNet) 2.Vài nét về WTO và việc Việt Nam gia nhập WTO. 2.1.WTO - Mục tiêu hoạt động và chức năng WTO với tư cách là một tổ chức thương mại của tát cả các nước trên thế giới, thực hiện những mục tiêu đã được nêu trong lời nói đầu của Hiệp định GATT 1947 là nâng cao mức sống của nhân dân các nước thành viên, đảm bảo việc làm, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và thương mại, sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực của thế giới. WTO hoạt động với 3 mục tiêu cụ thể sau: -Thúc đẩy tăng trưởng thương mại hàng hoá và dịch vụ trên thế giới,phục vụ cho sự phát triển ổn định, bền vững bảo vệ môi trường. - Thúc đẩy sự phát triển các thể chế thị trường; giải quyết các bất đồng và tranh chấp thương mại giữa các nước thành viên trong khuôn khổ của hệ thống thương mại da phương; phù hợp với các nguyên tức cơ bản của công pháp Quốc tế, bảo đảm cho các nước đang phát triển và đặc biệt là các nước kém phát triển nhất được hưởng thụ những lợi ích từ sự tăng trưởng của thương mại quốc tế, phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế của các nước này và khuyến khích các nước này ngày càng hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế thế giới. - Nâng cao mức sống, tạo công ăn việc làm cho người dân các nước thành viên, đảm bảo các quyền và tiêu chuẩn lao động tối thiểu được tôn trọng. WTO thực hiện 5 chức năng sau: - Thống nhất quản lý việc thực hiện các hiệp định và thoả thuận thương mại đa phương và nhiều bên, giám sát, tạo thuận lợi kể cả hỗ trợ kỹ thuật cho các nước thành viên thực hiện các nghĩa vụ thương mại quốc tế của họ. - Và khuôn khổ thể chế để tiến hành các vòng đàm phán thương mại đa phương trong khuôn khổ WTO, theo quyết định của Hội nghị Bộ trưởng WTO. - Là cơ chế giải quyết tranh chấp giữa các nước thành viên liên quan đến việc thực hiện và giải thích hiệp định WTO và các hiệp định thương mại đa phương . - Là cơ chế kiểm điểm chính sách thương mại của các nước thành viên bảo đảm thực hiện mục tiêu thúc đẩy tự do thương mại và tuân thủ các quy định của WTO. Hiệp định thành lập WTO đã quy định 1 cơ chế kiểm điểm chính sách thương mại áp dụng chung đối với tất cả các thành viên. - Thực hiện việc hợp tác với các tổ chức kinh tế quốc tế khác như quỹ tiền tệ Quốc tế và Ngân hàng thế giới trong việc hoạch định những chính sách và dự báo về những xu hướng phát triển tương lai của kinh tế toàn cầu. 2.2. Tính tất yếu của việc gia nhập WTO Do sự phát triển nhanh mạnh của KHKT, đặc biệt là công nghệ thông tin trong các thập kỷ gần đây, nền kinh tế thế giới đã đi theo xu hướng toàn cầu hoá. Gia nhập WTO là vấn đề đối với hầu hết các quốc gia và là kết quả tất yếu của toàn cầu hoá, bởi vì toàn cầu hoá không để một quốc gia nào có thể đứng ngoài cuộc. Ta có thể thấy được sức mạnh thâm nhập của toàn cầu hoá qua một ví dụ cho dù quốc gia đó là một nước vùng ả - rập, thì ngày nay các cố gái đòi hỏi đi ngoài đường cũng đã dùng che mặt bằng một thứ khăn không hoàn toàn cho nước các cô dệt. Gia nhập WTO sẽ tạo sự liên kết giữa các nền kinh tế, nên nhà nước không thể không có các chính sách gia nhập, trong đó việc hội nhập của người lao động. Nếu không hội nhập, hoạc hội nhập thành công, thi coi như tụt hậu - Một điều mà không một quốc gia nào muốn vì như thế là đã không đi được với thế giới - một thế giới lợi ích do tính chất thời đại đưa lại. Ta có thể việc gia nhập WTO như bắt kịp hay không kịp một chuyến tàu rời khỏi sự lạc hậu khi mà nhà ga chỉ cài chuyến tàu cuối cùng. 2.3. Một số thuận lợi đối với nguồn nhân lực Việt Nam trong giai đoạn nhập WTO. Khi gia nhập WTO, nguồn nhân lực Việt Nam đang có không ít những thuận lợi. - Thứ nhất: Việt Nam là nước có nền chính tri xã hội ổn định, an ninh bảo đảm, từ đó mà tạo ra được mối trường và sự tin cậy để huy động các nguồn lực vật chất nước ngoài. Mặt khác, nước ta hiện nay lại đang tăng cường tham gia vào phần công lao động quốc tế, đẩy nhanh tiến trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới, phục vụ cho sự phát triển kinh tế xã hội. Đây là môi trường thuận lợi cho nguồn nhân lực Việt Nam gia nhập sâu hơn vào thị trường lao động thế giới cũng như tự phát triển chính mình. - Thứ hai: nước ta có nguồn nhân lực dồi dào, mức tiền công lao động thấp, đồng thời lao động của ta được đánh gia là trẻ, có trình độ, cần cù, thông minh, khéo léo, có khả năng tiếp thu nhanh tiến bộ xã hội kinh tế và công nghệ của thế giới giá trên cùng với đặc điểm về tiền công sẽ tạo lợi thế so sánh cho nguồn nhân lực Việt Nam khi bước vào thị trường lao động thế giới trong quá trình gia nhập WTO nguồn nhân lực Việt Nam khi bước vào thị trường ld thế giới trong quá trình gia nhập WTO. - Thứ ba: sự phát triển của xu thế hội nhập đã phá bỏ những hàng rào ngăn cách giữa các quốc gia, tạo cơ chế cho nước ta hội nhập mạnh vào nền kinh tế thế giới, mở rộng thị trường vốn, hàng hoá, dịch vụ và lao động nhờ đó, nước ta tiếp cận được các nguồn vốn, công nghệ, tri thức, thông tin và các phương pháp quản lý hiện đại phục vụ cho phát triển kinh tế cũng như đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. Đồng thời, khi gia nhập WTO người lao động của nước ta có thể học tập nhiều kinh nghiệm của nước ngoài tự hoàn thiện mình. - Thứ tư :xu thế hội nhập và toàn cầu hoá tác động làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động. Ví dụ như, các nguồn vốn FDI, ODA được thu hút vào nước ta ngày càng lớn. Nhờ có vốn, các ngành xuất khẩu đã phát triển tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu lao động. Giúp chúng ta xuất lao động tại chỗ, nâng cao chất lượng lao động mà phí đào tạo đã được các liên doanh chịu một phần. - Thứ năm : các ngành nghề phát triển có nhiều ngành nghề mới đòi hỏi người lao động tìm tòi học hỏi vừa nâng cao được chất lượng nguồn nhân lực. Bên cạnh đó đã phát triển đào tạo lao động chuyên môn kỹ thuật cao để đáp ứng kích thích nhu cầu của các doanh nghiệp. 2.4. Những thách thức mà gia nhập WTO đem lại cho việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Bên cạnh một số lợi ích nêu trên, ta cần thấy rằng việc hội nhập kinh tế thế giới đã và đang đặt ra những thách thức mà cần phải ứng xử cho phù hợp thì mới có thể hội nhập thành công Thứ nhất, gia nhập WTO đồng nghĩa với việc tự do hoá thương mại đã kích thích cả cơ cấu thương mại thay đổi nhanh chóng. Thương mại dịch vụ thế giới đã tăng từ 380,9 tỷ USD năm 1985 lên 1167,8 tỷ USD năm 1995. Xu thế phát triển của các ngành thương mại, dịch vụ đã tạo nên sự chuyển dịch lao động từ các ngành công ng hiệp và đặc biệt là nông nghiệp sang những ngành ngày. Mặt khác, số lượng, chủng loại mặt hàng, trao đổi thương mại quốc tế ngày càng đa dạng, nhưng hướng tăng dần các mặt hàng tinh chế, giảm dần các mặt hàng nguyên liệu thô, sơ chế. Hiện thực này hiện rõ qua những thông tin, số liệu về tình hình xuất nhập khẩu của nước ta trong những năm qua. Xu thế này đưa tới sự thay đổi về cơ cấu ngành giá cả những mặt hàng tính chế cao, mang lại nhiều lợi nhuận. So về chiến lược lâu dài để phát triển kinh tế đất nước t hì ngành sản xuất này đang rất có triển vọng phát triển. Do đó khi quy mô những ngành sản xuất này mở rộng, đòi hỏi thêm lao động. Trong khi đó, nguồn tài nguyên thiên nhiên ngày càng cạn kiệt sẽ làm cho các ngành sản xuất mặt hàng thô sơ chế, thu hẹp sản xuất, từ đó giảm nhu cầu về lao động. Nguồn lao động sẽ dịch chuyển sang các ngành công ng hiệp chế biến. Nguồn nhân lực trong tương lai sẽ tập trung vào những ngành này, đòi hỏi phải thay đổi cơ cấu đào tạo cho phù hợp. - Thứ hai, khi gia nhập WTO tiền năng kinh tế của các nước thành viên được khai thác một cách có hiệu quả. Các ngành sản xuất không phải là thế mạnh (gây lãng phí nguồn lực khi đầu tư) sẽ được thay thế bằng nướ cách phát triển các ngành thế mạnh của mình. Khi đó, được hưởng lợi từ những ưu đãi về kinh tế nhưng sẽ dẫn tới sự thay đổi cơ cấu lao động trong các ngành nghề của các quốc gia thành viên. Sự thay đổi đó đòi hỏi nhà nước phải có tầm nhìn chiến lược lâu dài cho tương lai để tập trung đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho những ngành thế mạnh của mình. Như vậy, nếu đánh giá sai về xu thế phát triển ngành nghề tương lai ở nước ta khi gia nhập WTO sẽ dẫn đến lãng phí nguồn lực, sử dụng thiếu hiệu quả ưu đĩa về kinh tế khi gia nhập WTO. Thách thức hiện nay là do thông tin ngày càng phát triển, việc kiểm soát thị trường lao động cũng như nắm bắt chính xác nhu cầu lao động có chất lượng cho từng ngành nghề hết sức phức tạp. - Thứ ba, khi gia nhập WTO ngoài cạnh tranh về thương mại, hàng hoá các nước để vào Việt Nam còn có một lực lượng lao động hơn tham gia vào thị trường lao động ở nước ta. Tình hình đó khiến chúng ta cần nhanh chóng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực hiện nay cũng như thay đổi chiến lược đào tạo cho mai sau. Bởi nếu không thì người lao động Việt Nam sẽ không có việc trong khi ấy chúng ta sẽ giải quyết vấn đề thất nghiệp cho các nước thành viên. Điều đó gây bất ổn về kinh tế - xã hội, mà còn gây bất lợi về chính trị chúng ta buộc phải nhanh chóng tìm cách nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. 3. Thực trạng chất lượng nguồn nhân lực. Dựa theo cách đánh giá về chất lượng nguồn nhân lực thông qua 1 số chỉ tiêu chủ yếu ta rút ra một số vấn đề về chất lượng nguồn nhân lực. 3.1. Đánh giá về tình trạng sức khoẻ dân cư. Tuy rằng sự phát triển kinh tế xã hội đã đưa mức sống của người dân lên mức cao hơn, tuổi thọ trung bình 68,2 năm. Trong đó, nam - 65,5 năm, nữ - 70,1 năm. Dân số nước ta trong năm 2003 là 80,7 triệu người. Nhưng thể chất và sức khoẻ người lao động thấp so với thế giới. Số lao động được đào tạo ít, nhiều ngành nghề chuyên môn được đào tạo chưa phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế về cơ cấu ngành nghề lẫn chất lượng chuyên môn. Khi chuyển sang cơ chế thị trường, thực hiện hội nhập quốc tế, tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì nguồn nhân lực nước ta bộc lộ nhiều nhược điểm. Đáng lưu ý là sự yếu kém không chỉ về kỹ thuật tay nghề mà cả về trình độ tổ chức, quản lý việc sử dụng lao động. Những yếu kém trên dẫn đến thu nhập của người lao động thấp, không có điều kiện học tập nâng cao trình độ chuyên môn và do vậy, cũng không đủ tiềm lực để nuôi dưỡng, đào tạo con cái - nguồn nhân lực tương lai chất lượng nguồn nhân lực của các thế hệ nối tiếp bị ảnh hưởng trong vòng luẩn quẩn này. 3.2. Đánh giá về trình độ văn hoá người lao động. Trong 15 năm qua, tỷ suất sinh ở nước ta giảm liên tục, dẫn đến sự suy giảm về tốc độ tăng trưởng dân số. Do vậy, quy mô giáo dục ngày càng có điều kiện giảm xuống về số lượng và tăng về chất lượng - tổng số dân trong độ tuổi đi học ở nước ta từ 6 đến 21 tuổi vào khoảng 22 triệu người. Theo điều tra năm 2002, tỷ lệ người lớn biết chữ c hiếm 91% dân số. Tỷ lệ nhập học ở tiểu học là 92% Tỷ lệ nhập học ở trung học cơ sở 67% Tỷ lệ nhập học ở trung học phổ thông 38% Mạng lưới đào tạo dạy nghề của nước ta có sự phát triển mạnh về qui mô và chất lượng đào tạo. Hiện nay cả nước có 204 trường dạy nghề, 148 trung tâm dạy nghề, 104 trường cao đẳng, 74 trường đại học (chưa kể các trường của Bộ Công An và Bộc Quốc phòng, hàng năm đào tạo hơn 900 học sinh học nghề và 1 triệu sinh viên cao đẳng, đại học. Các cải cách về giáo dục, đào tạo đã có tác động đến nâng cao chất lượng nguồn nhân lực mở rộng tri thức, khả năng sáng tạo, phát minh, óc tưởng tượng và các kỹ năng thực hành nghề nghiệp của người lao động. Bộ phận lớn người lao động nước ta đã làm chủ được khoa học, công nghệ mới hiện đại chuyển gia từ nước ngoài, đáp ứng được sự phát triển tăng tốc của các ngành nghề công nghệ cao, ngành nghề dịch vụ mới (công nghệ thông tin, viễn thông, vật liệu mới, công nghệ sinh học, máy móc thiết bị chính xác, hàng không, ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, tư vấn kinh tế và pháp luật….). Tuy nhiên so với các nước trên thế giới thì qui mô và chất lượng nguồn nhân lực nước ta vẫn đang đứng trước những thách thức to lớn. 3.3. Đánh giá theo trình độ chuyên môn kỹ thuật của người lao động theo điều tra năm 2001 về trình độ chuyên môn kỹ thuật (CMKT) Đơn vị: % so lực lượng lao động (LLLĐ Không có CMKT Có CMKT Sơ cấp chứng chỉ Công nhân kỹ thuật không bằng Công nhân kỹ thuật có bằng Trung học chuyên nghiệp Cao đẳng đại học trở lên Cả nước 82,95 17,05 1,33 4,55 3,89 3,61 3,67 Còn theo kết quả điều tra lao động việc làm năm 2002 Đơn vị tính: % LLLĐ Lao động có chứng chỉ nghề trở lên Công nhân kỹ thuật có bằng trở lên Cả nước 19,49 12,47 Đồng bằng sông Hồng 25,59 15,32 Đông Bắc 16,13 12,11 Tây Bắc 10,8 8,69 Bắc Trung Bộ 18,56 10,99 Duyên Hải, Nam Trung Bộ 18,72 10,65 Tây Nguyên 13,69 9,29 Đông Nam Bộ 27,60 20,03 Đồng bằng Sông Cửu Long 12,65 7,18 Thông qua kết quả điều tra trên ta thấy nguồn nhân lực nước ta hiện nay phần lớn vẫn là lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật, chưa qua đào tạo. 3.4. Đánh giá qua chỉ số phát triển con người HDI. Theo báo cáo phát triển con người (HDR) năm 2004 với tiêu đề tự do văn hoá trong thế giới đa dạng ngay nay, được công bố vào ngày 26 tháng 7 năm 2004, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam tiếp tục được cải thiện. Theo báo cáo năm nay giá trị HDI của Việt Nam tiếp tục tăng từ 0,686 năm 2003 lên 0,691. Điều đó cho phép Việt Nam duy trì vị trí xếp hạng về phát triển con người ở mức trung bình là 112 trên 117 nước được xếp hạng. Qua đó cho thấy Việt Nam còn nhiều việc phải làm để nâng cao chỉ số HDI 3.5. Một số vấn đề với lao động làm việc trong các doanh nghiệp khi gia nhập WTO Trong thời gian gần đây, Việt Nam đã được một số thành công quan trọng về lao động và việc làm như: kiểm soát và điều tiết được tỷ lệ tăng lao động theo hướng tích cực (giảm từ 3,03% những năm cuối 1980, xuống còn khoảng 2,7% đầu những năm 2000). Tỷ lệ lao động qua đào tạo có chuyên môn tay nghề được nâng lên (gần 20% tổng lao động xã hội); số việc làm được tạo ra hàng năm tăng (mỗi năm có thêm khoảng 1,5 triệu người có việc làm). Tuy nhiên, sự phát triển của thị trường lao động chưa đầy đủ, những chính sách cơ chế về lao động việc làm chưa hoàn thiện, còn nhiều nhược điểm. Người lao động không có việc làm còn chiếm một tỷ lệ khá lớn (khoảng 6%). Trình độ của người lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp không cao và rất không đồng đều…Với một thực trạng như vậy khi tham gia hội nhập, chúng ta sẽ đối diện với nhiều vấn đề phức tạp. Trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế: Khi tham gia hội nhập, sản xuất kinh doanh phát triển mạnh tạo cơ hội việc làm cho người lao động. Tuy nhiên trong những năm tới, thị trường lao động sẽ có những thách thức nguy cơ không nhỏ, bao gồm: - Nguy cơ thất nghiệp. Nguồn lao động vãn còn tăng khá cao. Nguyên nhân của tình trạng này do tác động mạnh của hội nhập làm cho thất ng hiệp trở thành một nguy cơ lớn. Nhiều doanh nghiệp Nhà nước tiến hành tổ chức, cơ cấu lại quá trình kinh doanh theo hướng hiệu quả hơn và chú trọng đầu tư kỹ thuật công nghệ hiện đại, giảm quy mô kinh doanh…Điều đó tất yếu làm dôi dư một bộ phận lao động. Số người này sẽ được đẩy vào thị trường lao động. Đối với các doanh nghiệp, các tổ chức kinh doanh trong các thành phần kinh tế khác (các doanh nghiệp tư nhân công ty trách nhiệm hữu hạn, các hợp tác xã…), những đơn vị yếu kém cũng sẽ bị phá sản. Người lao động trong các doanh nghiệp này sẽ mất việc làm trở thành thất nghiệp. - Biến động của thị trường lao động. Việc mở cửa nền kinh tế và tham gia vào các thị trường, các quan hệ thương mại, tài chính, tiền tệ khu vực và quốc tế cũng có thể làm lạm phát tăng, kinh tế biến động và nhiều hoạt động kinh doanh không ổn định. Thị trường lao động chắc chắn cũng sẽ có những diễn biến không hoàn toàn có lợi cho nền kinh tế, cơ cấu lao động trong xã hội thay đổi, các luồng luân chuyển/di biến động lao động giữa các khu vực kinh tế, các ngành, các vùng… và với các nước khác diễn ra mạnh và khó quản lý hơn. Thất nghiệp cơ cấu cũng tăng lên. -Biến động của thị trường lao động :Việc mở cửa nền kinh tế và tham gia vào các thị trường , các quan hệ thương mại,tài chính, tiền tệ khu vực và quốc tế cũng có thể làm lạm phát tăng, kinh tế biến động và nhiều hoạt động kinh doanh không ổn định. Thị trường lao động chắc chắn cũng sẽ có những diễn biến không hoàn toàn có lợi cho nền kinh tế, cơ cấu lao động trong xã hội thay đổi, các luồng luân chuyển di biến động lao động giữa các khu vực kinh tế các ngành, các vùng.. và với các nước khác diễn ra mạnh và khó quản lý hơn. Thất nghiệp cơ cấu cũng tăng lên. - Sự phân hóa, phân tầng về lao động. Sự phân hóa và phân tầng về lao động trên tất cả các mặt gia tăng. Hội nhập đem đến sự đa dạng hơn về điều kiện làm việc, cơ hội phát triển và cả những cạnh tranh mạnh mề việc làm và thu nhập trên thị trường lao động. Khoảng cách về trình độ và năng lực làm việc, tay nghề và kỹ năng và thu nhập sẽ mở rộng ra, dãn cách nhiều hơn. Cơ hội tiếp cận với các điều kiện việc làm sẽ rất khác nhau. Những người có trình độ thấp sẽ rất khó tìm kiếm và duy trì hay ổn định được việc làm và thu nhập. Rõ ràng, Việt Nam phải chịu nhiều sức ép rất lớn: Số người không có việc làm có thể tăng, nhu cầu việc làm trở nên bức xúc, thị trường lao động mất cân đối cung vượt xa cầu, tình trạng thiếu nhiều lao động có trình độ kỹ thuật chuyên môn giỏi và tay nghề cao trở nên gay gắt hơn, di dân và lao động ngày càng phát sinh tự phát, khó kiểm soát, sự khác biệt trong đối xử đối với người lao động giữa các khu vực về tiền lương việc làm và các quan hệ lao động khác.. ngày càng lộ rõ. ở cấp dộ doanh nghiệp: Tham gia vào quá trình hội nhập các doanh nghiệp phải cải tổ chính mình để nâng cao hiệu quả kinh doanh v à tăng sức cạnh tranh. Đó là con đường duy nhất để tồn tại và phát triển. Để làm được điều này, các doanh nghiệp phải dựa vào các nguồn lực trong đó có nguồn nhân lực của mình, một trong những nguồn lực đang xem là có giá trị có vai trò quan trọng nhất tạo ra lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp trong kinh doanh. tuy nhiên số các doanh nghiệp mạnh ở nước ta chưa nhiều và sự bền vững về sức mạnh của họ cũng chưa được khẳng định. Còn lại, phần lớn các doanh nghiệp đều là với nhiều hạn chế và khó khăn về nguồn nhân lực, đó là: - Hạn chế về trình độ năng lực, tay nghề và phong cách làm việc. Phần lớn lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp đều hạn chế về năng lực làm việc, kể cả lao động trực tiếp và lao động quản lý. Người lao động ít được đào tạo một cách bài bản, kiến thức nghề nghiệp và kỹ năng làm việc của nhiều người hoặc không còn phù hợp hoặc chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tế. - Chi phí lao động ngày càng tăng. Các doanh nghiệp đang đứng trước áp lực về đòi hỏi tiền lương tăng lên ngay cả khi doanh nghiệp làm ăn chưa thực sự hiệu quả. Đó là do tác động từ đời sống xã hội bên ngoài doanh nghiệp, từ những thay đổi của các yếu tố môi trường vĩ mô (các chính sách về lao động, tiền lương, thu nhập chẳng hạn) và đặc biệt là từ môi trường cạnh tranh trực tiếp, từ các doanh nghiệp khác, từ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Mặt khác để nâng cao trình độ năng lực của người lao động, các doanh nghiệp phải tiến hành đào tạo nguồn nhân lực cho mình. Chi phí đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cũng đang ngày càng tốn kém hơn cả về thời gian và kinh phí. Chi phí nhân lực đang là loại "chi phí biến đổi lũy tiến". Đó cũng là lý do mà nhiều doanh nghiệp không có điều kiện và sự quan tâm đúng mức đến các hoạt động đào tạo nhân sự của mình. - Đối mặt với những thay đổi về lực lượng lao động. Sự hkông ổn định của nguồn nhân lực trong nội bộ cũng là vấn đề mới đối với các doanh nghiệp. Việc ổn định và nhất là giữ người lao động, giỏi làm việc một cách trung thành với các doanh nghiệp đang ngày càng khó hơn. giữa các doanh nghiệp đang có sự cạnh tranh quyết liệt về nhân lực, khi công khai, lúc ngấm ngầm trên thị trường lao động bên cạnh các thị trường khác (hàng hóa, tiền tệ, kỹ thuật công nghệ…) Đối với người lao động, hội nhập kinh tế quốc tế mang lại nhiều cơ hội và lợi ích cho bản thân người lao động. Họ sẽ có nhiều lựa chọn hơn về nghề nghiệp và công việc, và có quyền chọn những nơi làm việc có thu nhập cao nếu họ có năng lực tốt. Trên thị trường lao động có sự cạnh tranh thì ưu thế thuộc về người lao động nào có trình độ chuyên môn tốt, trở thành " nguồn lực quý hiếm" mà các doanh nghiệp đang cần. Tuy nhiên, họ cũng đang đứng trước những thách thức. Thách thức của nguy cơ mất việc làm. Thất nghiệp nếu trước đây ít được nói đến thì hiện nay không phải là xa lạ và có thể xảy đổi với bất cứ ai vì có nhiều nguyên nhân của phá sản doanh nghiệp nằm ngoài "sự định đoạt" của người lao động. Khi xảy ra thất nghiệp họ luôn là người đầu tiên phải hứng chịu những hậu quả xấu. - Thiếu điều kiện nâng cao khả năng làm việc. Muốn có được một công việc tốt và thu nhập cao, ổn định người lao động phải nâng cao năng lực và hiệu quả làm việc. Trên thực tế không phải người lao động nào cũng có đủ điều kiện (kinh phí, năng lực cá nhân, trình độ học vấn cơ hội làm việc và điều kiện học hành…) cần thiết để làm được như vậy. - Điều kiện và môi trường làm việc hạn chế phát huy khả năng cá nhân. Trừ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, và một số ít doanh nghiệp thuộc các ngành có sự ưu tiên đầu tư lớn của Nhà nước có công nghệ và kỹ thuật tương đối hiện đại, số còn lại hầu hết đang hoạt động với trang thiết bị lạc hậu, không đầy đủ và điều kiện làm việc không thực sự tốt. Sử dụng người lao động trái với chuyên môn hoặc không hết năng lực chuyên môn đã được đào tạo là một thực tế rất phổ biến. Những yếu kém trong hoạt động quản lý, ràng buộc về cơ chế… cũng đang hạn chế người lao động, phát huy hết khả năng làm việc của mình làm giảm dần động lực làm việc. Chương III- Một số giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. I. Một số giải pháp phát triển giáo dục. 1-Đổi mới mục tiêu, chương trình đào tạo và phương pháp dạy học. 1.1-Đổi mới mục tiêu đào tạo: Đào tạo giáo dục phổ thông phải nhằm mục tiêu từng bước chuẩn bị cho thế hệ trẻ tự tin,sáng tạo bước vào tương lai trên cơ sở có trình độ học vấn phổ thông cơ bản, toàn diện và có kỹ năng lao động, đáp ứng được những yêu cầu của công cuộc phát triển kinh tế – xã hội,có sức khỏe, có ý thức bản thân và có trách nhiệm với gia đình, xã hội. Mục tiêu đào tạo của giáo dục phổ thông phải thể hiện tính phát triển theo từng giai đoạn.Mục tiêu đào tạo ở tiểu học và trung học cơ sở phải hướng đến cung cấp vốn học vấn phổ thông cũng như kỹ thuật nghề nghiệp tối thiểu để có thể phân hóa sơ bộ học sinh vào các khối ngành phù hợp với khả năng, trên cơ sở đó dẫn học sinh tới việc chọn hướng đi thích hợp.Phổ thông trung học – giai đoạn chuyển tiếp từ giáo dục sang đào tạo cần đặt ra yêu cầu hoàn chỉnh vốn hộc vấn và kỹ thuật nghề nghiệp phổ thông , từng bước chuẩn bị một cách tốt nhất cho học sinh tiếp tục được phân hóa sâu dần vào từng ngành nghề nhỏ hơn, phù hợp nhất đối với bản thân để học sinh có thể tiếp tục học lên đại học , vào trường trung học chuyên nghiệp và dạy nghề , hay trực tiếp tham gia lao động sản xuất. 1.2-Đổi mới chương trình đào tạo: Cải cách chương trình giáo dục đang là yêu cầu bức xúc trong nhiệm vụ đổi mới hệ thống giáo dục- đào tạo. Chương trình giáo dục phải đáp ứng được yêu cầu tạo nền tảng tri thức cho sự phát triển con người toàn diện đồng thời phải phù hợp với đòi hỏi của thời đại hội nhập và kinh tế tri thức. Mặc dù trong những năm trở lại đây, nhà nước đã có nhiều chính sách mới trong đào tạo như phổ cập cấp I và tiến tới phổ cập cấp II ,cấp III,đổi mới sách giáo khoa, có chính sách mới trong tuyển sinh đại học, cao đẳng. Nhưng vẫn cần chú ý tới những yêu cầu sau: -Khung chương trinh bên cạnh việc bảo đảm phổ thông ,cơ bản ,toàn diện cần phải có tính hướng nghiệp .Giảm bớt lý thuyết và tăng dần kiến thức thực hành.Đặc biệt nâng ccao vai trò của ngoại ngữ và tin học -Tăng dần tỷ lệ số môn học tự chọn trong chương trình cho phù hợp với hoàn cảnh từng địa phương -Xây dựng từng bước các môn học thích hợp nhằm cập nhật những kiến thức khoa học hiện đại cho học sinh -Biên soạn mới hệ thống SGK, tăng cường tài liệu tham khảo cho giáo viên và học sinh,xuất bản các tạp chí chuyên ngành một số môn phục vụ cho việc nâng cao chất lượng giảng dạy,đặc biệt góp phần phát hiện và bồi dưỡng những tài năng trẻ 1.3.Đổi mới phương pháp dạy học: Xuất phát từ mục tiêu đào tạo mới nêu trên, phương pháp dạy và học cần chuyển mạnh sang hướng trang bị những chách thu nhận và xử lý thông tin , tri thức cũng như phát triển năng lực xác định và giải quyết vấn đề.Để thực hiện điều này, ta cần phát triển tư duy độc lập sáng tạo của học sinh bằng cách chuyển nhanh việc giảng dạy theo hướng tích cực hóa các hoạt động học tập 2. Một số giải pháp khác: Thứ nhất: Đẩy nhanh quá trình hội nhập của Việt Nam và thực hiện cải cách mạnh hơn nữa các chính sách về kinh tế, kinh doanh và lao động phải làm cho các tổ chức, doanh nghiệp và bản thân người lao động hiểu được rõ hơn về hội nhập và các khía cạnh khác nhau của hội nhập để chuẩn bị cho quá trình tham gia hội nhập tốt nhất.Tiếp tục rà soát dỡ bỏ những rào cản về thương mại và độc quyền kinh doanh, thực hiện tốt các chương trình cải cách nhằm thu hút đầu tư, hỗ trợ trong việc thành lập và nâng cao hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp ở trong nước cũng như trên các thị trường nước ngoài. Từng bước hoàn thiện cơ chế và chính sách về lao động và tạo việc làm cho người lao động, tăng cường quản lý thị trường lao động và giải quyết tốt các quan hệ lao động (tuyển dụng, sa thải, trả công và đãi ngộ). Đồng thời đẩy mạnh hội nhập về lao động, tăng cường xuất khẩu lao động và chuyên gia ra nước ngoài làm việc và nhập khẩu có chọn lọc người nước ngoài vào làm việc ở Việt Nam. Thứ hai: trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế, Việt Nam cần có một chính sách và chiến lược toàn diện về phát triển nguồn nhân lực cho quá trình hội nhập và tập trung mọi nỗ lực để thực hiện tốt chiến lược. Nếu coi con người là trung tâm thì chiến lược này cũng mang ý nghĩa rất quan trọng, trong đó việc giải quyết thành công những vấn đề của nguồn nhân lực Việt Nam. Chiến lược này phải mang tính trọng điểm quốc gia và bao gồm chiến lược hình thành và phát triển nguồn nhân lực và cân đối lao động trong xã hội, chiến lược đào tạo người lao động, chiến lược quản lý và sử dụng lao động và chiến lược phát triển tổng thể, đồng bộ nguồn lao động xã hội. Thứ ba: Đối với các doanh nghiệp, giải pháp quan trọng nhất vẫn là nâng cao hiệu quả kinh doanh. Doanh nghiệp phát triển tốt mới có thể thu hút được người lao động vào làm việc. Về nhân sự, giải quyết hài hòa các quan hệ, trước hết là quan hệ lợi ích giữa người lao động và doanh nghiệp. Những lợi ích này bao gồm cả lợi ích kinh tế và các lợi ích phi kinh tế khác như (phát triển cá nhân, điều kiện làm việc, môi trường hoạt động và các quan hệ xã hội trong làm việc…) thông qua các chính sách đúng về tiền lương và thu nhập, bố trí sử dụng hợp lý trên cơ sở năng lực và nhu cầu sử dụng người lao động, đảm bảo đúng người đúng việc để phát huy tối đa sở trường của mỗi người tạo dựng một môi trường làm việc bình đẳng, công tác tích cực với nhau giữa những người lao động, và các nhà quản lý. Các doanh nghiệp cũng phải phát triển nguồn nhân lực của doanh nghiệp bằng nội lực của mình "chuyên nghiệp hơn". Nhân lực là một trong không nhiều các nnhân tố thành công cơ bản cho nên chi phí phát triển người lao động phải được coi là một khoán đầu tư và thực tế đang được xem là một trong những đầu tư "khôn ngoan" và mang tính chiến lược của mọi doanh nghiệp. Đây sẽ là biện pháp tạo sự gắn bó, trung thành và tâm huyết trong làm việc của người lao động. Thứ tư: Tôn trọng và nâng cao vai trò, và tạo điều kiện phát huy khả năng của bản thân người lao động trong giải quyết các vấn đề về lao động và việc làm. Người lao động luôn là một trong những nhân tố đóng vai trò quyết định trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực xã hội. Người lao động cần hoàn thiện chính mình, tìm kiếm cơ hội và duy trì trạng thái làm việc ổn định và có lợi nhất. Họ cần tranh thủ mọi cơ hội việc làm giúp họ thoát khỏi tình trạng thấp nghiệp bằng cách chủ động tiếp cận và học được những kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp và kỹ thuật lao động tiên tiến hiện đại và tích lũy thêm kinh nghiệm để có được phạm vi kiến thức kỹ năng rộng hơn. Làm việc hiện nay cũng đòi hỏi người lao động có những phẩm chất phù hợp, đó là khả năng hòa nhập, hòa hợp với tốt với đồng nghiệp, khả năng và kỹ năng làm việc trong tập thể làm việc có trách nhiệm và tạo lòng tin đối với mọi người, năng nổ, sáng tạo chấp nhận cái mới, chấp nhận thách thức và cầu tiến bộ. Kết luận Hội nhập kinh tế quốc tế nói chung về việc gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) nói riêng là bước đi tất yếu của nền kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, với điều kiện là một quốc gia đang trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế chỉ huy sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc gia nhập tổ chức thương mại thế giới sẽ là nhiệm vụ khó khăn và nhiều thử thác đối với toàn bộ nền kinh tế. Bên cạnh việc tự cải cách, tự hoàn thiện, kiện toàn bộ máy tổ chức Nhà nước cơ chế quản lý kinh tế, hệ thống pháp luật và nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế đào tạo, phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là vấn đề cấp thiết đói với nước ta hiện nay, thời hạn của mục tiêu hội nhập đã đến gần, để hội nhập thành công, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, rút ngắn được khoảng cách phát triển với các nước trên thế giới không chỉ đòi hỏi nỗ lực của Nhà nước mà còn của cả mỗi người dân.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28081.doc
Tài liệu liên quan