Đề tài Nâng cao chất lượng xuất khẩu lao động của Việt Nam trước xu thế hội nhập kinh tế quốc tế

Với một nước đông dân như Việt Nam, giải quyết việc làm cho người lao động luôn là một trong những nỗ lực lớn của Chính phủ. Với hơn 82 triệu dân, trên một nửa là số người trong độ tuổi lao động, nhưng số người thất nghiệp ở thành thị lên đến 5,6% và số thời gian chưa được sử dụng ở nông thôn lên đến trên 20%, thì XKLĐ của Việt Nam là một kênh giải quyết việc làm rất có ý nghĩa cho người lao động. Từ những năm 2001 trở về trước, Việt Nam có hai thị trường xuất khẩu lao động chính là: châu Á (Lào, Nhật Bản, Đài Loan.), chiếm khoảng 79% tổng số lao động xuất khẩu năm 2001, và thị trường các nước Đông Âu (Nga (Liên Xô cũ), Đức, Cộng hoà Séc,.), chiếm khoảng 15%. Sau sự thay đổi về chính trị - xã hội ở Đông Âu, thì kể từ năm 2001, thị trường xuất khẩu lao động chính của Việt Nam vẫn là châu Á, chiếm tới 97% năm 2004, chủ yếu trong đó là thị trường Đài Loan (chiếm khoảng 56%) và Malayxia (22%), và khi đó thị trường châu Âu chỉ còn chiếm 0,6%. Nhưng từ năm 2004, nhiều thị trường lao động mới (như châu Mỹ, châu Phi, Trung Đông) đã được mở ra và các thị trường cũ (châu Âu, Trung Đông) đã được khôi phục lại. Ví dụ, như đối với thị trường châu Mỹ, năm 2004, ta đã đưa được 186 lao động sang Cộng hoà Paula (một thị trường được đánh giá là đầy tiềm năng) so với mức zêrô trong năm 2002 và 2003. Tương tự, thị trường châu Phi/Trung Đông cũng đã được khôi phục trong năm 2004 với số lượng lao động xuất khẩu là 607 so với mức zêrô trong năm 2003.

doc32 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 938 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nâng cao chất lượng xuất khẩu lao động của Việt Nam trước xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lệch này càng cao thì hiệu quả kinh tế thu được càng lớn. Tổng thu từ XKLĐ có thể thông qua lượng tăng thu nhập cho doanh nghiệp, tăng thu nhập quốc gia, qua lượng ngoại tệ gửi về, tăng tích lũy và đầu tư ở khu vực kinh tế tư nhân. Chi phí đầu tư cho XKLĐ bao gồm: chi cho nghiên cứu và khai thác thị trường, cho đào tạo cán bộ quản lý và cán bộ quản trị XKLĐ, cho đào tạo tay nghề, kỷ luật, trình độ ngoại ngữ người lao động 2.4.2 Hiệu quả xã hội Tiêu chí này được đánh giá thông qua các chỉ tiêu như: số lượng việc làm được giải quyết nhờ XKLĐ, tỷ lệ thất nghiệp giảm, góp phần xóa đói giảm nghèo, nâng cao mức sống cho người dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, góp phần mở rộng quan hệ quốc tế,tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân các nước nhận lao động. 2.4.3 Công tác tổ chức và quản lý XKLĐ Tiêu chí này được đánh giá qua các nội dung như: chính sách XKLĐ, sự phối hợp đồng bộ giữa doanh nghiệp XKLĐ với các cơ quan chức năng, hệ thống tuyển chọn, công tác đào tạo và định hướng trước khi xuất khẩu, quản lý người lao động đang làm việc ở nước ngoài, các chương trình tái hội nhập và hợp tác liên quốc gia thông qua các hiệp định song phương với các nước nhập khẩu nguồn lao động 3.Vai trò của XKLĐ Xuất phát từ những đặc điểm của XKLĐ có thể thấy được vai trò quan trọng của XKLĐ, đặc biệt với những nước đang phát triển như Việt Nam. Trước hết XKLĐ cho phép phát huy lợi thế so sánh về nhân công, khai thác tối đa ngoại lực trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Các nước đang phát triển sở hữu một nguồn lao động dồi dào với giá nhân công rẻ là điều kiện để phát huy lợi thế so sánh về nhân công, thu hút các nguồn vốn đầu tư nước ngoài, học hỏi công nghệphục vụ cho sự phát triển của đất nước. XKLĐ góp phần tạo việc làm cho người lao động, giảm thất nghiệp, góp phần xóa đói giảm nghèo, nâng cao mức sống, từ đó ổn định trật tự xã hội, tránh được những tệ nạn xã hội do thiếu việc làm gây nên. XKLĐ góp phần cải thiện trình độ lao động. Sau thời gian lao động ở nước ngoài (thường là ở các khu vực có trình độ công nghệ cao hơn), lao động xuất khẩu trở về quê hương sẽ có một tay nghề, được đào tạo về kỹ năng công việc, kỷ luật làm việc chặt chẽ hơn mà không mất chi phí đào tạo trong nước. XKLĐ tạo thu nhập cao cho người lao động, không những góp phần cải thiện cuộc sống của gia đình họ mà còn có ý nghĩa đặc biệt đối với quốc gia XKLĐ như đáp ứng nhu cầu nhập khẩu, tăng nhu cầu cho tiêu dùng, tăng đầu tư (ví dụ như vào nhà ở và khởi nghiệp các doanh nghiệp nhỏ), tăng mức tín nhiệm của các ngân hàng thực hiện các dịch vụ chuyển tiền cho người lao động ở nước ngoài, góp phần giải quyết việc làm. Hơn nữa, dòng tiền có được từ XKLĐ là dòng vốn chuyển giao, không tạo ra nghĩa vụ trả nợ trong tương lai nên còn có thể góp phần giảm nguy cơ khủng hoảng tài chính, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế của quốc gia có nguồn thu XKLĐ đáng kể. XKLĐ góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động xã hội theo yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa, kinh tế tri thức và kinh tế thị trường. Thu nhập từ XKLĐ giúp người lao động có thể đầu tư kinh doanh, từ đó xuất hiện nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức kinh doanh khác nhau, biến đổi cơ cấu kinh tế theo hướng gia tăng ngành dịch vụ, giảm tỷ trọng công nghiệp, nông nghiệp và cơ cấu lao động cũng bị biến đổi theo. XKLĐ góp phần tiếp cận, khám phá và thúc đẩy ứng dụng công nghệ tiên tiến trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa thông qua đội ngũ lao động xuất khẩu. XKLĐ thúc đẩy tăng cường hội nhập, mở rộng giao lưu quốc tế và hình thành cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, đưa hình ảnh Việt Nam giới thiệu với cộng đồng quốc tế, nâng cao vị thế người Việt. II – Thực trạng XKLĐ ở Việt Nam Thực trạng XKLĐ của Việt Nam hiện nay : Trong vài năm gần đây, nhất là từ sau khi có Chỉ thị số 41 của Bộ Chính trị, Nghị định số 152 của Chính phủ công tác xuất khẩu lao động và chuyên gia có tiến bộ rõ rệt, bước đầu đã đạt được những kết quả khả quan, tạo được đà cho sự phát triển trong thời kỳ tới : 1. Thị trường xuất khẩu lao động và chuyên gia đang dần được mở rộng ra nhiều nước 2. Công tác đào tạo nguồn lao động và chuyên gia để đi làm việc ở nước ngoài bước đầu được đặt ra và tổ chức thực hiện. 3. Nhà nước đã ban hành các văn bản pháp quy để điều chỉnh hoạt động xuất khẩu lao động và chuyên gia; phân biệt ngày càng rõ hơn công tác quản lý Nhà nước và hoạt động dịch vụ của doanh nghiệp xuất khẩu lao động, tạo ra cơ chế đã tương đối thông thoáng, đơn giản thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho hoạt động xuất khẩu lao động. Năm 2007, mặc dù đã đưa được 85.020 người đi làm việc ở nước ngoài, tăng 6,3% so với kế hoạch và tăng 7,8% so với năm 2006, nhưng thị trường XKLĐ năm 2008 đang phát ra những tín hiệu không thuận lợi. Theo đánh giá của các chuyên gia trong lĩnh vực này, năm 2007 vẫn là một năm “sóng gió” với công tác XKLĐ. Nhiều thị trường mới mở ra, nhưng một số thị trường truyền thống cũng gặp không ít khó khăn. Đơn cử như thị trường Malaysia năm qua số lao động đưa đi chỉ bằng 70% so với năm 2006. Mặc dù hiện có tới 120.000 lao động VN đang làm việc tại thị trường này, nhưng số người muốn đi lao động ở Malaysia đã giảm đáng kể. Đài Loan vẫn tạm dừng nhận lao động VN làm việc trong các gia đình; Qatar đã giảm tốc độ tiếp nhận lao động từ giữa năm 2006 do tình trạng lao động vi phạm kỷ luật ngày một tăng. Ngoài ra các thị trường mới đang tiến hành thí điểm như Canada, Hoa Kỳ đều chưa triển khai được do chưa giải quyết được vấn đề thủ tục nhập cảnh cho người lao động... Theo Cục QLLĐNN, mục tiêu của năm 2008 sẽ đưa 85 ngàn lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài, bằng năm 2007. Mục tiêu này không cao hơn năm 2007 là do thị trường XKLĐ đang tiềm ẩn nhiều khó khăn, đông về số lượng nhưng cần phải vững chắc. Nhiều thị trường mới sẽ mở ra, nhưng điều kiện để lao động Việt Nam vào được các thị trường này sẽ rất khó khăn. Tình hình đưa lao động đi trong năm 2007 vừa qua cho thấy thị trường hiện đã có bước chuyển rõ rệt sang nhu cầu nhận lao động có tay nghề và tay nghề cao, trong khi đó vẫn còn tình trạng lao động VN vi phạm hợp đồng, vi phạm pháp luật. Ngoài ra, tình trạng các tổ chức, cá nhân không có chức năng XKLĐ nhưng lừa đảo, thu tiền bất chính của người lao động vẫn đang xảy ra ở nhiều địa phương. Nhiều vụ lừa đảo đã bị phát hiện, xử lý, truy cứu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên các thủ đoạn lừa đảo vẫn đang diễn ra với trình độ ngày càng tinh vi, dẫn đến hình thành các vụ lừa đảo lớn, liên quan đến người lao động. Từ 1/7/2007, Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng đã có hiệu lực. Luật điều chỉnh và mở rộng tới 5 loại hình tham gia XKLĐ. Đó là : - doanh nghiệp hoạt động dịch vụ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài - doanh nghiệp trúng thầu, nhận thầu đưa người đi làm việc ở nước ngoài - tổ chức, cá nhân đầu tư ra nước ngoài đưa lao động đi làm việc - doanh nghiệp đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hình thức thực tập nâng cao tay nghề - tổ chức sự nghiệp của Nhà nước đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài Từ những thực trạng đó ta có thể thấy XKLĐ của Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể, không những góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế mà còn đạt được những kết quả xã hội trong việc giải quyết công ăn việc làm cho một bộ phận lực lượng lao động dư thừa. 1.Những kết quả đạt được của XKLĐ 1.1 Những kết quả về kinh tế Tổng thu từ XKLĐ xem xét qua:Số lượng ngoại tệ thu về XKLĐ làm tăng thu nhập quốc gia bằng cách làm tăng GDP thông qua các khoản thu dịch vụ như phí dịch vụ XKLĐ, tiền bán vé máy bay, các khoản dịch vụ khác phục vụ người lao động và các khoản thu nhập của lao động gửi về nước. Ngoài việc giúp cải thiện tình trạng đói nghèo, nguồn thu của lao động xuất khẩu còn có vai trò thúc đẩy đầu tư, giảm bớt sự lệ thuộc vào các khoản vay từ các tổ chức tài chính quốc tế, cũng như viện trợ của các nước phát triển. Số ngoại tệ của lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài chuyển về nước Đơn vị tính: triệu USD Năm 1995 1996 1997 1998 1999 Số ngoại tệ 181 250 321 342 404 Năm 2000 2001 2002 2003 2004 Số ngoại tệ 1250 1400 1450 1500 1600 Nguồn: Cục quản lý lao động ngoài nước, báo cáo đánh giá kết quả XKLĐ , dự kiến kế hoạch đến năm 2010 Như vậy, số ngoại tệ chuyển về tăng liên tục qua các năm. Chỉ trong vòng 10 năm từ 1995 – 2004 lượng ngoại tệ thu được từ lao động xuất khẩu đã tăng gần gấp 8 lần, bắt đầu từ năm 2000 số lượng ngoại tệ đã tăng đáng kể. Hiện ở Việt Nam, hàng năm số lao động làm việc ở nước ngoài đã gửi về nước số ngoại tệ khoảng 1,6 tỷ USD, xấp xỉ với số tiền thu được bằng xuất khẩu gạo cả năm, đã góp phần quan trọng trong công tác xóa đói giảm nghèo, nâng cao mức sống cho người lao động. Bảng : Mức gia tăng GDP, GNI từ XKLĐ Đơn vị: triệu USD Năm 2000 2001 2002 2003 2004 Mức gia tăng GDP từ XKLĐ 30 30 30 30 30 Số tiền lao động chuyển về nước 1250 1400 1450 1500 1600 Mức gia tăng GNI từ XKLĐ 1280 1430 1480 1530 1630 Nguồn: Cục quản lý lao động ngoài nước GNI = GDP + chênh lệch thu nhập nhân tố với nước ngoài Chênh lệch thu nhập nhân tố với nước ngoài Chi trả lợi tức nhân tố ra nước ngoài Thu nhập lợi tức nhân tố từ nước ngoài = _ Số tiền lao động chuyển về nước Mức gia tăng GDP từ XKLĐ Mức gia tăng GNI từ XKLĐ = + Việt Nam là một trong 20 quốc gia đứng đầu bảng xếp hạng tính theo lượng KH. KH và XKLĐ tại Việt Nam phát triển cùng chiều với thế giới, tăng nhanh từ 35 triệu USD năm 1991, 1.76 tỷ/2000, và khoảng 5 tỷ/2006, với kim ngạch tích lũy lên đến 23 USD; chiếm tỷ trọng quan trọng so với các nguồn vốn phát triển khác: 60% vốn FDI thực hiện và 137% vốn giải ngân của viện trợ phát triển (ODA). Trên phương diện tài chánh, theo tài liệu Báo cáo cập nhật tình hình phát triển và cải cách kinh tế của Việt Nam do WB ấn hành tháng 12/2006, KH đã góp phần giúp cho tài khoản vãng lai của Việt Nam thặng dư trong hai năm 2005 và 2006. Sự cải thiện cán cân vãng lai, cùng với các chỉ số kinh tế tài chánh khác, như tỷ lệ nợ trên kim ngạch xuất khẩu, dự trữ ngoại tệ, và các nguồn vốn đầu tư và phát triển, đã giúp nâng cao độ tin cậy tài chánh của Việt Nam trên thị trường tài chánh quốc tế; tháng 9/2006, Công ty Standard and Poor đã nâng hạng tín nhiệm ngoại tệ của Việt Nam lên một mức thành hạng BB, và nội tệ từ BB lên BB+. Chi phí cho XKLĐ Bộ LĐ-TB&XH vừa mới ban hành Quyết định 61/2008/QĐ-LĐTBXH về mức tiền môi giới người lao động hoàn trả cho doanh nghiệp tại một số thị trường. Theo đó, ở hầu hết thị trường lao động, phí môi giới đều giảm ít nhất là 50 USD và nhiều nhất là 2.000 USD; chỉ có thị trường Nhật Bản, Brunei là vẫn giữ nguyên. Tại thị trường Đài Loan, phí môi giới tối đa đối với lao động giúp việc gia đình, chăm sóc sức khỏe đã giảm từ 1.000 xuống 800 USD; tại các thị trường Qatar, Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất, Bahrain, Oman, phí môi giới lao động không nghề là 300 USD, lao động có nghề là 400 USD, giảm 100-150 USD so với quy định cũ; mức phí môi giới giảm nhiều nhất là Australia, chỉ còn 3.000 USD, giảm 2.000 USD. Phí môi giới giảm đã tạo điều kiện thuận lợi hơn cho những người tham gia lao động xuất khẩu, góp phần làm tăng khoản thu nhập ròng họ gửi về nước. - Bước đầu đa dạng hóa cơ cấu ngành nghề của lao động xuất khẩu. Hiện nay lao động Việt Nam làm việc trong khoảng 30 nhóm ngành nghề chủ yếu thuộc các lĩnh vực xây dựng công nghiệp và dân dụng, công nghiệp nhẹ, các ngành dịch vụ, vận tải biển và đánh bắt, chế biến hải sản 1.2 Kết quả về xã hội 1.2.1 Giải quyết việc làm: Số lượng lao động xuất khẩu tăng Với một nước đông dân như Việt Nam, giải quyết việc làm cho người lao động luôn là một trong những nỗ lực lớn của Chính phủ. Với hơn 82 triệu dân, trên một nửa là số người trong độ tuổi lao động, nhưng số người thất nghiệp ở thành thị lên đến 5,6% và số thời gian chưa được sử dụng ở nông thôn lên đến trên 20%, thì XKLĐ của Việt Nam là một kênh giải quyết việc làm rất có ý nghĩa cho người lao động. Từ những năm 2001 trở về trước, Việt Nam có hai thị trường xuất khẩu lao động chính là: châu Á (Lào, Nhật Bản, Đài Loan...), chiếm khoảng 79% tổng số lao động xuất khẩu năm 2001, và thị trường các nước Đông Âu (Nga (Liên Xô cũ), Đức, Cộng hoà Séc,...), chiếm khoảng 15%. Sau sự thay đổi về chính trị - xã hội ở Đông Âu, thì kể từ năm 2001, thị trường xuất khẩu lao động chính của Việt Nam vẫn là châu Á, chiếm tới 97% năm 2004, chủ yếu trong đó là thị trường Đài Loan (chiếm khoảng 56%) và Malayxia (22%), và khi đó thị trường châu Âu chỉ còn chiếm 0,6%. Nhưng từ năm 2004, nhiều thị trường lao động mới (như châu Mỹ, châu Phi, Trung Đông) đã được mở ra và các thị trường cũ (châu Âu, Trung Đông) đã được khôi phục lại. Ví dụ, như đối với thị trường châu Mỹ, năm 2004, ta đã đưa được 186 lao động sang Cộng hoà Paula (một thị trường được đánh giá là đầy tiềm năng) so với mức zêrô trong năm 2002 và 2003. Tương tự, thị trường châu Phi/Trung Đông cũng đã được khôi phục trong năm 2004 với số lượng lao động xuất khẩu là 607 so với mức zêrô trong năm 2003. Bảng: số lượng lao động xuất khẩu qua một số năm Năm Tổng số lao động xuất khẩu (người) Đạt chỉ tiêu kế hoạch năm 2005 70590 100,8% (590 người) 2006 78855 105% (3755 người) 2007 85.020 106% (5.020 người) Nguồn: Cục quản lý lao động ngoài nước, Bộ Lao động – Thương binh xã hội Như vậy lao động xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian qua tăng liên tục và luôn vượt chỉ tiêu đề ra, giải quyết đáng kể nguồn lao động dư thừa ở Việt Nam, lượng kiều hối gửi về nước cũng liên tục tăng nhanh và duy trì ở mức 1,6 tỷ USD Bốn thị trường lao động xuất khẩu lớn nhất Việt Nam Đơn vị tính: Lao động Thị trường lao động Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Malaysia 24600 25324 26.704 Đài Loan 22780 23124 23.646 Hàn Quốc 12100 12123 12187 Nhật Bản 2134 3047 5517 Nguồn: Cục quản lý lao động ngoài nước, Bộ Lao động – Thương binh xã hội Tính đến nay, lao động Việt Nam đang làm việc chủ yếu ở các thị trường Nước Số lượng lao động Thu nhập bình quân Malaysia Trên 100.000 người 150-200 USD/tháng Đài Loan Trên 90.000 người 300-500USD/tháng Hàn Quốc Trên 30.000 người 900-1000USD/tháng Nhật Bản Khoảng 19.000 tu nghiệp sinh 700-1.100 USD/tháng Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất 3000 người Quatar 10000 người Nguồn: Cục quản lý lao động ngoài nước, Bộ Lao động – Thương binh xã hội Việt Nam vẫn duy trì đẩy mạnh lao động xuất khẩu sang các nước thuộc thị trường lao động truyền thống vì đây là các thị trường dễ tính, không hạn chế số lượng lao động, không đòi hỏi cao về tay nghề, phù hợp với đại đa số lao động ở nông thôn. Do đó có thể thấy số lao động xuất khẩu nhiều nhất là tại Malaysia và Đài Loan. Trong 18 nước và vùng lãnh thổ tiếp nhận lao động Việt Nam, thị trường Malaysia vươn lên đứng đầu về số lượng. Đối với thị trường Malaixia tuy với mức lương (chỉ khoảng 150-200 USD một tháng), không cao bằng các thị trường khác, nhưng nếu khai thác tốt tiềm năng thì cơ hội xoá đói giảm nghèo sẽ đến được với nhiều người, nhiều địa phương. Thị trường Đài Loan (đứng thứ 2 vế số lượng) đang gặp khó khăn bởi vì từ đầu năm 2005, lao động Việt Nam (chủ yếu là giúp việc gia đình và chăm sóc bệnh nhân) bỏ trốn quá nhiều (chiếm trên 10% tổng số lao động Việt Nam ở thị trường này). Hiện nay, thị trường này vẫn “đóng băng”, mặc dù nhu cầu về giúp việc gia đình và chăm sóc bệnh nhân ở thị trường này vẫn cao, chiếm tới 75-80% tổng số lao động đưa đi hằng năm. Hàn Quốc được đánh giá là thị trường tăng trưởng mạnh về lao động trong năm 2005. Từ tháng 8/2004, Hàn Quốc đã rộng cửa đón lao động. Lao động Việt Nam được đánh giá cao và có số lượng lớn nhất trong 6 đối tác XKLĐ của Hàn Quốc, gồm: Việt Nam, Thái Lan, Inđônêxia, Phillipin, Xri Lanka và Mông Cổ. Thị trường Nhật Bản cũng là một trong những điểm dừng chân đem lại thu nhập cao cho lao động VN. Chủ yếu lao động Việt Nam đưa sang Nhật Bản là dưới dạng tu nghiệp sinh với thu nhập lên tới hơn 1000 USD/tháng, được phía bạn đánh giá cao tay nghề, tính cần cù, chịu khó và khả năng tiếp thu kỹ thuật lao động mới của lao động người Việt. Nhưng yêu cầu tuyển chọn cũng không dễ dàng như thị trường Malaysia, Đài Loan hay Trung đông nên số lượng đi còn hạn chế Chúng ta cũng đang bắt đầu triển khai kế hoạch đưa lao động sang nhiều thị trường mới như Cộng hòa Séc, Úc, Bruney, Macao 1.2.2 Về xóa đói giảm nghèo Nguồn thu nhập từ XKLĐ được WB coi là một công cụ để đấu tranh chống nghèo đói bởi số tiền này đã góp phần trang trải chi phí học hành của trẻ em, mua sắm nhà cửa, xây dựng đường sá...Một công trình nghiên cứu của một nhóm chuyên gia WB cho thấy nếu số người XKLĐ từ các nước đang phát triển tăng trung bình 10% thì số những người có thu nhập dưới 1 USD mỗi ngày ở những nước như vậy sẽ giảm đi được 2%. Ở Việt Nam, nguồn thu từ XKLĐ cũng tác động làm thay đổi bộ mặt của nhiều địa phương theo hướng tích cực, tăng cơ sở vật chất, giảm tỷ lệ hộ nghèo đói, nâng cao mức sống. Người tham gia lao động khi về nước với trình độ tay nghề cao, kinh nghiệm học hỏi ở nước ngoài đã tham gia làm kinh tế hộ gia đình, đầu tư kinh doanhthúc đẩy sự phát triển của địa phương. Nhiều địa phương trong cả nước cũng đã có những ghi nhận cụ thể về lợi ích thiết thực của công tác xuất khẩu lao động. Ông Phan Sỹ Dương, Phó giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Nghệ An cho biết, hiện cả tỉnh này đang có 36.000 người xuất khẩu lao động, nguồn thu nhập lao động gửi về qua các ngân hàng thương mại năm 2007 khoảng 90 triệu USD, chưa kể nguồn do lao động mang về trực tiếp, hoặc bằng con đường khác. Trước đây phần lớn các xã thuộc huyện miền núi của tỉnh Nghệ An chủ yếu là những xã nghèo. Từ khi có “phong trào” xuất khẩu lao động, nhiều gia đình trong xã đã có “của ăn của để”, nhà cửa khang trang Từ thuần nông, xã Xuân Liên (huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh) đã mạnh dạn mở ra hướng đưa con em đi xuất khẩu lao động, và đây chính là nguồn thu nhập cao giúp cho nhiều hộ nâng cao đời sống, số hộ nghèo từ 46% (năm 2000) nay đã giảm xuống còn 17%. Trong những năm qua, thực hiện phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm, Xuân Liên đã làm được 9 km đường bê tông, đường cấp phối, 2 công trình chứa nước: Đồng Bản, Chọ Thòi. Xuân Liên trở thành xã điển hình trong xoá đói giảm nghèo ở Hà Tĩnh. Ngoài những xã có số người đi xuất khẩu lao động như Cương Gián (Nghi Xuân), Thiên Lộc (Can Lộc), Kỳ Ninh (Kỳ Anh), Xuân Liên cũng được đánh giá là xã có hướng đi đúng, phá thế độc canh, mở ra hướng phát triển kinh tế khá mới mẻ. Hiện nay, Xuân Liên có gần 700 người đang lao động ở nước ngoài có thu nhập cao. Lâm Vượng, một trong những thôn nghèo của xã, nhờ có 200 người đi lao động nước ngoài hàng tháng gửi tiền về cho gia đình phát triển kinh tế, nay đời sống đã nâng lên rõ rệt, với 10 nhà cao tầng, số hộ khá chiếm 80%, không còn hộ nghèo. Chủ tịch xã Xuân Liên Hoàng Văn Cát cho biết: thông qua các tổ chức đoàn thể, chúng tôi đã vận động nhân dân đưa con em đi lao động nước ngoài, đồng thời giúp những gia đình khó khăn vay vốn để con em họ tham gia XKLĐ. Những năm trước, đời sống nhân dân xã Xuân Liên rất nhiều khó khăn, người dân chủ yếu làm nông nghiệp, một số gia đình làm ngư nghiệp. Chính quyền xã đã xem xuất khẩu lao động là mục tiêu chính trong xoá đói giảm nghèo, xã vận động nhân dân thành lập từng tổ liên gia góp vốn cho em đi làm việc ở nước ngoài. Các tổ chức đoàn thể như Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên, Hội cựu chiến binh đứng ra tín chấp vay vốn cho hội viên, nhiều gia đình có 5 đến 6 người đi xuất khẩu lao động. Xã Quang Yên( Lập Thạch – Vĩnh Phúc) có trên 2.560 người trong độ tuổi lao động, phần lớn số lao động không sử dụng hết quỹ thời gian, một số người phải tìm việc làm từ bên ngoài như: xây dựng, làm dịch vụ, làm thuê ngoại tỉnh và mỗi năm xã lại có thêm vài chục lao động đến tuổi lao động cần giải quyết việc làm. Xã đã có những chuyển đổi cơ cấu kinh tế, nhưng đời sống nhân dân vẫn gặp nhiều khó khăn, những năm gần đây xã đã tìm ra hướng đi mới trong xóa đói giảm nghèo (XĐGN), giải quyết việc làm - đó là xuất khẩu lao động.Mỗi năm Quang Yên có gần 10 tỷ đồng thu nhập từ bên ngoài gửi về góp phần tăng thu nhập bình quân từ 4,6 triệu đồng/người/năm; năm 2006 lên 5,6 triệu đồng/ người/năm; năm 2007, giảm tỷ lệ hộ nghèo của xã từ 33,9% đầu năm 2007 xuống còn 28,8% cuối năm, giảm 5,1 % số hộ nghèo, bộ mặt nông thôn có nhiều thay đổi. Xã có 17 thôn đến nay đã có 16 thôn xây dựng được nhà văn hóa thôn nhờ tiền đóng góp của nhân dân. Năm 2007, bằng nguồn vốn của nhân dân đóng góp, và sự hỗ trợ của Nhà nước xã Quang Yên đã xây dựng được 3 km đường bê tông nông thôn, trị giá gần 3 tỷ đồng 1.3. Về công tác tổ chức và quản lý XKLĐ 1.3.1 Công tác đào tạo Các số liệu cho biết từ năm 1998 – 2005, cả nước đưa được 360.959 lao động đi làm việc ở nước ngoài (riêng 6 tháng đầu năm 2006 là 35.171 lao động), trong đó 61.300 lao động có nghề chuyên môn, chiếm 27,5%. Hiện nay, Nhà nước đã quy hoạch và chuẩn hóa hệ thống trường, trung tâm dạy nghề cả nước, trong đó sẽ đầu tư 7.000 tỷ đồng tập trung vào các hệ thống dạy nghề kỹ thuật thực hành, xây dựng 40 trường dạy nghề trọng điểm quốc gia, trong đó có 15 trường đạt tiêu chuẩn khu vực, 3 trường đạt tiêu chuẩn quốc tế. Đồng thời phát triển mạnh hệ thống dạy nghề với 3 cấp trình độ và liên thông giữa các trình độ. Đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp liên kết để đầu tư ở góc độ đào tạo nghề ở mức độ nhỏ, theo khả năng và nhu cầu của doanh nghiệp. Mục tiêu cần đạt được trước nhất là phải nâng cao trình độ lao động xuất khẩu có tay nghề đạt tỷ lệ 55% đến 60% vào năm 2010. 1.3.2 Luật lao động Từ 1/7/2007, Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (Luật Xuất khẩu lao động) đã có hiệu lực. Luật được đánh giá là thông thoáng khi quy định Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp và người lao động; hỗ trợ đầu tư mở thị trường lao động mới, có chính sách tín dụng ưu đãi, khuyến khích đưa nhiều lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật đi làm việc ở nước ngoài, nhất là thị trường thu nhập cao; chấp nhận nhiều hình thức đưa lao động đi (thông qua hợp đồng của doanh nghiệp, đấu thầu công trình ở nước ngoài, thực tập nâng cao tay nghề và hợp đồng cá nhân). Luật cũng quy định rất rõ, nếu doanh nghiệp xuất khẩu lao động vi phạm pháp luật phải bị xử lý nghiêm minh, đình chỉ thực hiện hợp đồng hoặc thu hồi giấy phép xuất khẩu lao động. Đặc biệt, Luật quy định minh bạch vấn đề bảo lãnh, tiền môi giới, tiền dịch vụ, tiền ký quỹ. Theo Luật, người lao động phải nộp tiền ký quỹ vào tài khoản riêng được doanh nghiệp mở tại ngân hàng thương mại. Tiền ký quỹ của người lao động được hoàn cả gốc và lãi cho người lao động khi thanh lý hợp đồng. 1.3.3 Việc quản lý doanh nghiệp XKLĐ Đề án đưa người lao động đi làm việc nước ngoài đến năm 2015 của Chính phủ đang được thực hiện, theo đó cùng với việc nâng tỷ lệ đưa người lao động Việt Nam ra nước ngoài tăng, mở rộng thị trường lao động, nâng cao chất lượng, thì siết chặt quản lý, nhất là đối với các doanh nghiệp xuất khẩu lao động cũng được đặt ra cấp thiết. Đặc biệt, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã có văn bản yêu cầu các doanh nghiệp phải xây dựng văn phòng đại diện tại các thị trường có số lượng lao động trên 100 người. Với những doanh nghiệp nhỏ, số lượng lao động ít, dưới 100, có thể kết hợp với doanh nghiệp khác thành lập chung văn phòng đại diện, có trách nhiệm quan tâm, quản lý lao dộng của doanh nghiệp mình, không được để xảy ra tệ nạn, làm ảnh hưởng đến thị trường lao động chung. Về phía Bộ, Thứ trưởng cho biết, sắp tới Bộ sẽ thành lập Ban quản lý lao động Việt Nam tại Dubai. Chiến lược lâu dài mà Bộ Lao động Thương binh Xã hội đề ra là ở đâu có lao động Việt Nam, ở đó sẽ có ban quản lý. 1.3.4 Các chương trình tái hội nhập và hợp tác liên Quốc gia thông qua các hiệp định song phương với các nước nhập khẩu nguồn lao động Hiện, nước ta đang khai thác, mở rộng thị trường mới trên thế giới để tạo nhiều cơ hội cho nguồn lao động trong nước. Trong đánh giá của Bộ LĐ-TB-XH, Trung Đông là thị trường tiềm năng cho lao động Việt Nam và Nhà nước cũng đã có chính sách mở rộng thị trường. Mới đây, Chính phủ đã cho phép mở Đại sứ quán Việt Nam tại UAE và Bộ LĐ-TB-XH đã cử cán bộ sang quản lý lao động tại khu vực này. Riêng thị trường Qatar, đầu năm 2008, chúng ta đã ký Hiệp định về hợp tác lao động với Bộ Lao động và Xã hội Nhà nước Qatar. Theo Hiệp định này, từ nay tới năm 2010, Qatar sẽ tiếp nhận 100.000 lao động Việt Nam, trong đó riêng năm 2008 là 25.000 người. Chính phủ đã thiết lập được quan hệ chính thức với CH Séc, Ma-Cao, CH Síp, úc, Hoa Kỳ để phối hợp quản lý việc đưa lao động VN sang làm việc tại các nước này. 2. Những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế trong XKLĐ ở Việt Nam 2.1 Những hạn chế của XKLĐ ở Việt Nam 2.1.1 Về kinh tế - Chưa phát huy được hết hiệu quả và tiềm năng trong hoạt động XKLĐ Thu nhập ròng từ XKLĐ Việt Nam so với Phillipin và toàn vùng Nam Á, năm 2005 TT Nước và vùng địa lý Thu nhập ròng từ XKLĐ (tỷ USD) GDP (tỷ USD) % trên GDP (1) (2) (3) (4) (5)=(3)/(4) 1 Philippin 7* 79,2 9* 2 Việt Nam 1,6 53 3,0 3 Khu vực Nam Á 32 814.1 3,9     Nguồn: ADB.     Chú thích: *: Số tiền gửi qua kênh chuyển tiền chính thức là trên 7 tỉ USD, còn theo ước tính của ADB tính thêm cả kênh chuyển tiền không chính thức thì tổng số lên đến 14 - 21 tỉ USD, chiếm 15%-32% GDP của nước này. Phân tích nguồn thu nhập ròng từ XKLĐ trong năm 2005 cho thấy, so với những nước có điều kiện tương tự trong khu vực, thì tỷ lệ đóng góp vào thu nhập quốc dân của XKLĐ nước ta còn quá khiêm tốn, dưới mức bình quân chung của khu vực Nam Á (3,9% GDP), kém Philippines 3 lần (theo nguồn vốn qua kênh chính thức), và nếu tính cả những kênh không chính thức, có thể thấp hơn 5 – 10 lần (theo ước tính của ADB).  Trong một số năm gần đây, số lao động đi xuất khẩu của nước ta mỗi năm đã lên đến trên dưới 70 nghìn người và đến nay đã có khoảng 400 nghìn người Việt Nam đang làm việc ở khoảng 40 nước và vùng lãnh thổ. Song nếu so với Philippin với cùng số dân và số người trong tuổi lao động như Việt Nam, thì kết quả chưa đáng kể. Năm 2004, Philippin đã có 1 triệu lao động đi làm việc ở nước ngoài, đưa nước này vượt qua Mêhicô trở thành nước XKLĐ lớn nhất thế giới. Cho đến nay, nước này có khoảng 8 triệu lao động làm việc ở 56 nước, đông nhất là tại Mỹ, Ả-rập Xê út, Malaixia, Canađa, Nhật Bản... Số tiền lao động xuất khẩu của Phillipin lên đến 14-21 tỷ USD (ước tính của ADB) chiếm đến 32% GDP nước này. - Thêm vào đó, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp xuất khẩu lao động Việt Nam trên thị trường lao động quốc tế còn yếu, số doanh nghiệp có năng lực còn ít. Trong tổng số 145 doanh nghiệp chuyên doanh hiện nay, chỉ có khoảng 15 doanh nghiệp đưa được trên 1000 lao động xuất khẩu mỗi năm. 2.1.2 Về xã hội Chất lượng nguồn lao động xuất khẩu - Xuất khẩu chủ yếu lao động giản đơn hoặc có tay nghề thấp, lại phải cạnh tranh với một số nước có nguồn lao động tương tự nên tiền lương và thu nhập còn thấp. Tại thị trường lao động nước ngoài, chất lượng và kỷ luật của người lao động đang là một trong những yếu tố đáng quan tâm. Theo Tổng cục dạy nghề, những điểm yếu gây mất khả năng cạnh tranh của lao động Việt Nam là: “Không có tay nghề hoặc tay nghề thấp; kỷ luật lao động chưa cao; chưa có nhận thức đúng về quan hệ chủ - thợ trong cơ chế thị trường, phần lớn chưa có trình độ ngoại ngữ cần thiết”. Chất lượng lao động xuất khẩu của ta thấp chưa đáp ứng với yêu cầu ngày càng cao của thị trường tiếp nhận lao động, đặc biệt là thị trường có thu nhập cao. Thực tế cho thấy, hiện nay, phần lớn lao động đi xuất khẩu là lao động phổ thông, trình độ văn hoá chưa cao. Số liệu tổng hợp báo cáo của 64 doanh nghiệp XKLĐ cho thấy riêng trong năm 2004, trong tổng số 95.432 lao động đang làm việc ở nước ngoài, có 17,5% tốt nghiệp tiểu học, 63,5% tốt nghiệp trung học cơ sở, còn lại 19% tốt nghiệp phổ thông trung học, số người có qua đào tạo ngắn hạn tại doanh nghiệp là 12,8%. Tính chung, lao động qua đào tạo mới chỉ đạt 24%, trong đó lao động qua đào tạo nghề mới đạt 17%, chưa kể chất lượng đào tạo của ta chưa đáp ứng được tiêu chuẩn và không đồng đều. Vì vậy, lượng lao động Việt Nam đáp ứng được yêu cầu của thị trường đòi hỏi lao động có chuyên môn kỹ thuật cao như chuyên gia y tế, giáo dục, nông nghiệp...còn tương đối ít. Mặt khác, trình độ ngoại ngữ của đa số lao động Việt Nam còn rất yếu (thậm chỉ chưa đủ trình độ cần thiết để giao tiếp với chủ sử dụng lao động trong làm việc), một số lao động chưa có tác phong công nghiệp, thiếu hiểu biết về phong tục tập quán, thiếu ý thức tuân thủ pháp luật, nhận thức về quan hệ chủ thợ còn kém, do đó khó có khả năng làm việc độc lập như lao động của các nước khác. Do không có tay nghề hoặc tay nghề thấp, lao động của Việt Nam chủ yếu được bố trí làm việc trong các nhóm ngành nghề không đòi hỏi nhiều về trình độ chuyên môn và tay nghề, điều kiện vệ sinh an toàn lao động, thu nhập không cao. Lao động Việt Nam đang chịu sự cạnh tranh gay gắt với lao động các nước đã đi trước và đã có chỗ đứng, có uy tín trên thị trường. 2.1.3 Về công tác quản lý, đào tạo Một điều đáng lo ngại nữa là tình trạng phá vỡ hợp đồng vẫn còn diễn ra nhưng chưa có giải pháp hữu hiệu để giải quyết. Tỷ lệ lao động VN ở nước ngoài vi phạm hợp đồng, ra ngoài làm ăn cao hơn nhiều so với lao động từ các nước khác trong khu vực. Tại Nhật Bản, có đến 30- 40%, Hàn Quốc là 25- 30%, ĐàiLoan là khoảng gần 10% lao động Việt Nam vi phạm hợp đồng, trong khi đó tỷ lệ này của lao động Trung Quốc thấp hơn nhiều. Về phía các doanh nghiệp tham gia XKLĐ Hiện tượng các tổ chức, cá nhân lợi dụng để lừa đảo, thu tiền bất chính của người lao động đi XKLĐ vẫn còn. Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển của công tác xuất khẩu lao động, nhiều thị trường mới được mở ra thì các vụ việc phát sinh liên quan đến môi giới, lừa đảo, tuyển lao động bất hợp pháp dưới danh nghĩa đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài cũng diễn ra ngày càng tinh vi, phức tạp. Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ của Cục Quản lý Lao động Ngoài nước, năm 2005, đã phát hiện 43 vụ, trong đó có 23 vụ liên quan đến tuyển lao động bất hợp pháp (15 vụ do các tổ chức, cá nhân không có giấy phép hoạt động xuất khẩu lao động; 8 vụ liên quan đến các doanh nghiệp được cấp giấy phép); năm 2006, phát hiện 117 vụ việc, trong đó 58 vụ tuyển chọn lao động bất hợp pháp (47 vụ việc do các tổ chức, cá nhân ngoài xã hội tiến hành, 11 vụ liên quan đến các doanh nghiệp có giấy phép hoạt động XKLĐ). Riêng năm 2007, đã phát hiện 44 vụ liên quan đến tuyển chọn lao động bất hợp pháp do các tổ chức, cá nhân ngoài xã hội tiến hành, 72 vụ có liên quan đến doanh nghiệp XKLĐ. Tình trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp ở cả trong và ngoài nước đã dẫn đến giảm quyền lợi, tăng chi phí đóng góp của người lao động. Ở ngoài nước, các doanh nghiệp tăng phí môi giới, hoa hồng, giảm tiền lương và chế độ đối với người lao động để tranh giành hợp đồng cung ứng lao động. ở trong nước, nếu như các năm trước đây, việc tuyển lao động ở huyện, xã không phải mất tiền hoặc chỉ hỗ trợ khoảng 300.000 - 500.000 đồng để tuyển được 1 lao động, thì nay các doanh nghiệp tranh giành nhau, đẩy mức phí lên 700.000 đồng - 1.200.000 đồng, thậm chí có nơi đến 1.500.000 đồng để tuyển được 1 lao động, làm tăng thêm chi phí của người lao động khi đi xuất khẩu. Ngoài các chi phí theo quy định, người lao động đi các thị trường có thu nhập cao như Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan còn phải đóng thêm các khoản phí khác không công khai như chi phí cho tuyển chọn lao động ở một số địa phương, chi phí người môi giới, trung gian "cò mồi" trong nước để được đi XKLĐ. Sự phối hợp đồng bộ giữa doanh nghiệp XKLĐ với các cơ quan chức năng - Việc quản lý người lao động đang làm việc ở nước ngoài chưa được Nhà nước và các doanh nghiệp quan tâm đúng mức (chưa có bộ phận quản lý Nhà nước và cán bộ quản lý Nhà nước trong cơ quan đại diện của Việt Nam), do đó hạn chế trong việc bảo vệ quyền lợi người lao động và không giải quyết kịp thời các tranh chấp lao động. - Khi về nước, người lao động chưa được hướng dẫn, hỗ trợ để phát triển kinh tế, bố trí làm việc trong các ngành nghề phù hợp gây lãng phí lớn nguồn lực. 2.2 Nguyên nhân của những hạn chế 2.2.1 Về kinh tế Kết quả XKLĐ chưa tương xứng với tiềm năng và nhu cầu của đất nước đó là do cả nguyên nhân khách quan và chủ quan. Về khách quan: các thị trường mới chưa biết nhiều về lao động của ta nên tiếp nhận với quy mô nhỏ, mặt khác còn do yếu tố chính trị. Về chủ quan: việc cụ thể hóa chủ trương, chính sách và tổ chức thực hiện chưa thật phù hợp và chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động quốc tế; các chính sách, cơ chế XKLĐ còn nhiều hạn chế, chưa tạo được sự phối hợp giữa các ngành, các cấp có liên quan. Mặt khác, thủ tục hành chính còn rườm rà, nhất là thủ tục xuất nhập cảnh, chưa tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đáp ứng kịp thời nhu cầu lao động nước ngoài, nhiều khi gây khó khăn rất lớn cho người lao động, làm phát sinh nhiều hiện tượng tiêu cực. Theo Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, nguyên nhân là do thị phần lao động của nước ta còn hạn chế. Việc tìm và phát triển thị trường XKLĐ còn gặp không ít khó khăn. Nhà nước mới chỉ ký những hiệp định khung hoặc thông báo chung về nhu cầu tiếp nhận lao động của các nước, còn việc tìm và ký kết hợp đồng cụ thể như số lượng, nơi làm việc, ngành nghề, chế độ, quyền lợi... hiện lại hầu như giao cho doanh nghiệp XKLĐ tự thân vận động, tìm kiếm đối tác, môi giới, thoả thuận. Trong khi đó, chính các doanh nghiệp XKLĐ của nước ta lại đang rơi vào tình trạng không nắm được nguồn thông tin, nên chủ yếu vẫn phải dựa vào trung gian, môi giới và trả phí cho môi giới. Cuối cùng khoản phí “bất đắc dĩ”ấy đều dồn lên vai người lao động - Chưa tạo được sự phối hợp đồng bộ giữa doanh nghiệp XKLĐ với cơ quan chức năng trong việc quản lý và chỉ đạo triển khai thực hiện các hợp đồng lao động. Từ đó dẫn đến những hiện tượng: tuyển chọn không đúng đối tượng, thu tiền cao hơn mức quy định của Nhà nước, giả danh các công ty được phép XKLĐ để lừa đảo, thu tiền bất chính người lao động - Doanh nghiệp XKLĐ nhiều nhưng không mạnh, thiếu sự đồng thuận và cạnh tranh không lành mạnh để giành giật đối tác nước ngoài cũng như nguồn lao động trong nước. - Về phía người lao động xuất khẩu, phần lớn đều xuất thân từ nông thôn, chưa qua đào tạo, làm việc tập trung tại các nhà máy nên kỷ luật lao động, tác phong công nghiệp còn thấp, tỷ lệ vi phạm hợp đồng cao. 2.2.2 Về công tác quản lý, đào tạo Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc người lao động Việt Nam phá vỡ hợp đồng, bỏ trốn ra ngoài tìm việc. Theo điều tra của Thời báo kinh tế Việt Nam, hai nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng trên là: Thứ nhất, do người lao động phải trả cho chi phí đầu vào để được tham gia XKLĐ quá cao; Thứ hai, không có cơ hội để gia hạn hợp đồng cho người lao động xuất khẩu. Với đúng thời gian hợp đồng XKLĐ – 2 năm, người lao động làm cật lực mới chỉ đủ trả số nợ ngân hàng, và chi phí cho việc học và được đi XKLĐ. Tuy hợp đồng cho phép ký thêm 01 năm nữa nhưng như vậy, người lao động làm việc trong cả 3 năm, nhưng chỉ mang về cho mình được một năm giá trị sức lao động đã bỏ ra! Trong khi đó, nếu trốn ra ngoài làm việc, người lao động sẽ vừa không bị trừ tiền lương hàng tháng vừa có thu nhập cao hơn rất nhiều (3-5 lần). Bên cạnh đó, cơ chế quản lý người lao động ở nước ngoài vẫn còn lỏng lẻo. Thực tế này dẫn tới một cám dỗ quá lớn đối với người lao động. - Nhận thức về công tác dạy nghề, học nghề, giải quyết việc làm ở các ngành, các cấp, các địa phương và trong xã hội còn bất cập và chưa được quan tâm đúng mức, đầu tư còn hạn chế, tuyên truyền về công tác dạy nghề, học nghề còn yếu. Hệ thống dạy nghề còn mất cân đối, nhiều nơi phát triển chậm, nhất là dạy nghề dài hạn; cơ cấu ngành nghề đào tạo chưa sát với nhu cầu của thị trường lao động, thiếu lao động kỹ thuật cao. Việc triển khai xây dựng các trường chất lượng cao, trường đạt trình độ tiên tiến của khu vực còn chậm. - Nguyên nhân của việc lừa đảo XKLĐ - Thông tin về xuất khẩu lao động chưa đến được với mọi người lao động. Phần lớn người lao động không biết tiếp cận với cơ quan, đơn vị nào để làm thủ tục đi làm việc ở nước ngoài. Do thiếu thông tin, nhẹ dạ, cả tin, lại có tâm lý nôn nóng, muốn được đi làm ngay ở nước ngoài với thu nhập cao nên người lao động rất dễ bị môi giới, cò mồi và những tổ chức cá nhân không có chức năng xuất khẩu lao động lợi dụng tuyên truyền có thể đưa đi làm việc ở những thị trường, ngành nghề, công việc có thu nhập cao, tiêu chuẩn về tay nghề, ngoại ngữ không cao, thời gian xuất cảnh nhanh. - ở một số địa phương, công tác quản lý hoạt động xuất khẩu lao động của cơ quan chức năng trên địa bàn chưa chặt chẽ, chưa kịp thời phát hiện, ngăn chặn những vụ việc lừa đảo người lao động. - Việc mở nhiều chi nhánh, trung tâm của các doanh nghiệp XKLĐ cũng khiến tình hình trở lên phức tạp. Hiện cả nước có khoảng 150 doanh nghiệp có chức năng XKLĐ nhưng một số doanh nghiệp lập trung tâm, cơ sở đào tạo tràn lan không quản lý được, có doanh nghiệp còn bán giấy phép. III - Một số kinh nghiệm từ hoạt động XKLĐ của Philippines và giải pháp nâng cao sức cạnh tranh của xuất khẩu lao động Việt Nam trước xu thế hội nhập kinh tế quốc tế 1.Một số kinh nghiệm từ hoạt động XKLĐ của Philippines Kết quả đạt được về kinh tế Việt Nam và Philippines là 2 nước có số dân và số người trong tuổi lao động là tương đương nhau nhưng kết quả đạt được từ XKLĐ của nước này thật đáng kể. Philippines được mệnh danh là cường quốc XKLĐ, mỗi năm nước này thu về ít nhất từ 8-10 tỷ USD từ lao động xuất khẩu (theo thống kê của Ngân hàng phát triển châu Á – ADB) Philippines có hơn 8 triệu lao động làm việc ở nước ngoài vào năm 2006, đông nhất là tại Mỹ, Ả-rập Xê út, Malayxia, Canada, Nhật Bản, đã gửi về nước 11,8 tỷ USD kiều hối qua các kênh chuyển tiền chính thức. Ước tính, tổng số kiều hối do lao động nước này gửi về qua các kênh khoảng từ 14 tỷ đến 21 tỷ USD, lớn hơn cả số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI và viện trợ quốc tế vào Philippines, chiếm đến 32% GDP nước này. Dự kiến vào năm 2010, con số này sẽ tăng lên 21,4 tỷ USD. Lực lượng xuất khẩu lao động của Philippines rất đa dạng về ngành nghề, từ giúp việc gia đình, công nhân tàu biển, ca sĩ hát trong các khách sạn, lao động Philippines làm việc ở nước ngoài, có tới xấp xỉ 30% là lao động chất lượng cao, thường đảm nhiệm các vị trí quan trọng trong quản lý và điều hành các công ty. Kết quả đạt được về công tác quản lý, đào tạo Phân tích hoạt động XKLĐ, nhiều nhà quản lý nhận ra, thành công của Philippines có được bắt đầu từ khung pháp lý. Khung pháp lý hoàn thiện có vai trò to lớn để đất nước này đưa được 8 triệu lao động (chiếm 10% dân số) đi làm việc ở 56 nước. Philippines có Bộ luật lao động từ năm 1973 và có luật lệ rõ ràng trong XKLĐ. Chương trình làm việc ngoài nước của Phippines bắt đầu từ năm 1974, nó được thực hiện như một quốc sách, có sự phối hợp tham gia của tất cả các ngành, các cấp có liên quan. Philippines có khả năng nắm bắt cơ hội việc làm ở nước ngoài là nhờ xây dựng thành công cơ chế tiếp cận thị trường, phổ biến thông tin và thương lượng các hợp đồng. Năm 1995, Philippines ban hành đạo luật số 8042: “ Luật lao động di cư và người Phippines ở nước ngoài” nhằm bảo vệ quyền lợi cho người lao động ở nước ngoài. Lao động Philippines làm mọi ngành nghề, trong bất kỳ lĩnh vực nào họ cũng đều thể hiện được tính chuyên nghiệp cao, chăm chỉ và trung thực. Nhà nước coi XKLĐ là 1 trong 3 chính sách ngoại giao quan trọng, có cơ chế hoàn chỉnh thống nhất từ TW đến địa phương, cả trong ngoài nước về chính sách ưu đãi XKLĐ, nhất là đảm bảo phúc lợi cao cho lao động làm việc ở nước ngoài (đã thành lập 27 cơ quan bảo trợ xã hội ở 27 nước có nhiều người làm việc). Ngoài các tổ chức nhà nước tham gia vào XKLĐ còn có nhiều tổ chức tư nhân mang tính chuyên nghiệp cao. Hiện có trên 1.300 công ty hàng năm tuyển khoảng 1 triệu lao động, tạo thành những mắt xích quan trọng để liên kết với các chủ nước ngoài. Chính phủ chú trọng sự tham gia của KVTN vào XKLĐ, quản lý thông qua cấp giấy phép và đăng ký hoạt động. Ngoài ra còn có thường xuyên những lớp học về đất nước, con người, phong tục tập quán, pháp luật ở những nước mà người lao động sẽ tới làm việc để tránh những xung đột lao động và văn hoá có thể xảy ra, đặc biệt tránh được những hậu quả nghiêm trọng làm ảnh hưởng tới hình ảnh đất nước cũng như quan hệ ngoại giao. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam - Tạo hành lang pháp lý thông thoáng, thuận tiện cho công tác XKLĐ - Khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp XKLĐ phát triển - Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động 2. Quan điểm về XKLĐ và mục tiêu XKLĐ giai đoạn 2006 – 2010 Xuất khẩu lao động (XKLĐ) đã được xác định là một trong những mũi nhọn phát triển kinh tế của Việt Nam, được Đảng, chính phủ, các bộ ngành và địa phương hết sức quan tâm. Ngay từ khi đất nước thống nhất, hoạt động XKLĐ đã diễn ra, tuy nhiên XKLĐ chỉ bó hẹp trong phạm vi các nước XHCN và Đông Âu và chỉ có thành phần kinh tế thuộc sở hữu Nhà nước được tham gia hoạt động XKLĐ. Đại hội Đảng toàn quốc lần VI, tháng 12/1986 chủ trương: “ Mở rộng hợp tác lao động với nước ngoài, kết hợp với việc đào tạo tay nghề cho thanh niên và nâng cao trình độ cho chuyên gia” Ngày 9/11/1991 Hội đồng Bộ trưởng ra Nghị định 370/HĐBT ban hành quy chế về đưa người lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. Tháng 7/2007 Luật lao động nước ngoài ra đời Chính phủ đã xác định hướng đi trong thời gian tới của XKLĐ Việt Nam: Mở rộng và phát triển các thị trường XKLĐ là một hướng đi chủ đạo, đặc biệt đi sâu vào các thị trường có thu nhập cao, an toàn cho người lao động, trong đó ổn định và phát triển thị trường Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Đông và Malaysia, mở thị trường mới như Hoa Kỳ, Australia, Canada, Baranh, Czech Mục tiêu XKLĐ giai đoạn 2006 - 2010 Theo Bộ LĐ-TB-XH, mục tiêu đặt ra là đến năm 2010, nâng tỉ lệ lao động xuất khẩu có nghề lên mức tối thiểu 75% trong tổng số lao động đưa đi hằng năm, trong đó lao động có trình độ từ trung cấp nghề trở lên chiếm 40%; đến năm 2015, chủ yếu XKLĐ có nghề, lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật và chuyên gia; 100% lao động xuất khẩu được đào tạo ngoại ngữ, giáo dục định hướng. Bộ LĐ-TB-XH đã xây dựng xong đề án nói trên và đang tiến hành các bước triển khai. 3. Một số giải pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh của xuất khẩu lao động Việt Nam trước xu thế hội nhập kinh tế quốc tế Theo mục tiêu đặt ra đến năm 2010, hàng năm Việt Nam sẽ đưa 100.000 lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, ưu tiên đối với thanh niên có nghề, người lao động ở vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất, bộ đội xuất ngũ, vùng dư thừa lao động Để đạt được mục tiêu đó, chúng ta cần thực hiện các giải pháp sau: - Các Bộ, ngành, các cấp chính quyền địa phương, các doanh nghiệp phải đặt công tác xuất khẩu lao động và chuyên gia đúng với vị trí và yêu cầu của nó đối với đất nước. Coi vấn đề xuất khẩu lao động và chuyên gia là một trong các nhiệm vụ chính trị không chỉ có ý nghĩa kinh tế, mà còn có ý nghĩa xã hội to lớn, không chỉ có ý nghĩa trước mắt, mà còn có ý nghĩa lâu dài... để từ đó có kế hoạch và giải pháp thiết thực và hiệu quả. - Tiếp tục bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp quy về xuất khẩu lao động và chuyên gia : Bộ Tài chính chủ trì phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan xây dựng chính sách tái đầu tư thuế xuất khẩu lao động cho doanh nghiệp; chính sách hỗ trợ doanh nghiệp từ Quỹ phát triển thị trường; phối hợp với Bộ Lao động Thương binh và Xã hội xây dựng quy định về phí môi giới. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xây dựng chính sách tín dụng cho người nghèo đi xuất khẩu lao động. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì cùng các cơ quan liên quan xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo nguồn lao động và kiến nghị sửa đổi, bổ sung chính sách bảo hiểm xã hội. Bộ Tư pháp triển khai ký kết các Hiệp định tương trợ tư pháp với một số nước có nhiều lao động và chuyên gia Việt Nam, để bảo vệ quyền lợi người lao động Việt Nam ở nước ngoài. Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính : Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì phối hợp với các Bộ, ngành hữu quan, nghiên cứu trình Thủ tướng Chính phủ quy trình tuyển dụng lao động, quản lý người lao động và chuyên gia đi làm việc ở nước ngoài. Bảo đảm dân chủ và công khai trong tuyển chọn lao động. Rà soát lại các thủ tục hành chính, đơn giản công khai các thủ tục nhằm giảm phiền hà cho người lao động và doanh nghiệp, đồng thời chống các tiêu cực trong hoạt động xuất khẩu lao động và chuyên gia; giảm đến mức thấp nhất và công khai các khoản người lao động phải đóng góp. Về kinh tế - Tiếp tục ổn định mở rộng các thị trường truyền thống bao gồm Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Malaysia; phát triển thị trường các khu vực vùng Vịnh gồm các Tiểu Vương quốc Ả Rập thống nhất, Quatar, Ả Rập Xê út Xúc tiến đưa lao động sang một số thị trường mới như Australia, Canada, EU, Hoa Kỳ Do đó, cần tổ chức tốt công tác tìm kiếm và khai thác thị trường xuất khẩu lao động. Các cơ quan đại diện ngoại giao của ta ở nước ngoài phải coi đây là một nhiệm vụ quan trọng, cần chủ động và có sự phối hợp với đại diện của các công ty của Việt Nam tại nước ngoài, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài để thực hiện tốt nhiệm vụ này. - Cần đa dạng hóa ngành nghề, nhất là các nghề mà Việt Nam có ưu thế như may mặc, điện tử, xây dựng. Hiện nay ở Hàn Quốc, lao động Việt Nam phần lớn lựa chọn làm việc trong lĩnh vực sản xuất chế tạo nhưng trong thời gian tới các ngành nông, ngư nghiệp, chăn nuôi có nhu cầu tuyển dụng lớn nên cần chuyển hướng đáp ứng. Thị trường Malaysia cũng đưa ra yêu cầu tiếp nhận 2 loại lao động cấp cao và cấp thấp. Đối với những thị trường cao cấp khác lại rất cần những chuyên gia, kỹ sư, y tá,làm việc trong các viện nghiên cứu, ngành công nghệ thông tin, bệnh viện, muốn thâm nhập được thị trường phải hướng theo yêu cầu đó. Về xã hội - Phải nâng cao trình độ chuyên môn, tay nghề và ngoại ngữ cho người lao động. Đây là yêu cầu cho toàn bộ lao động trong nước và càng có ý nghĩa quan trọng đối với lao động xuất khẩu. - Phát triển các hình thức đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài như: doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài, nhận thầu công trình ở nước ngoài, thông qua doanh nghiệp xuất khẩu lao động hoặc cá nhân người lao động tự tìm ký hợp đồng lao động làm việc ở nước ngoài. Bên cạnh đó, cần xây dựng các doanh nghiệp mạnh về xuất khẩu lao động, trong đó có các doanh nghiệp tư nhân. Nhà nước phải thường xuyên kiểm tra giám sát việc thực hiện xuất khẩu lao động để đảm bảo các doanh nghiệp và người lao động thực hiện đúng các hợp đồng ký kết, buộc các công ty phải công khai và minh bạch hóa các thủ tục, chi phí về xuất khẩu lao động. - Các cơ quan thông tin đại chúng cần tăng cường công tác thông tin tuyên truyền để nhân dân hiểu rõ chủ trương, chính sách đẩy mạnh xuất khẩu lao động và chuyên gia của Đảng và Nhà nước, tham gia quảng bá về lao động Việt Nam ra nước ngoài, chống các tiêu cực trong hoạt động xuất khẩu lao động và chuyên gia... nhằm góp phần xây dựng ý thức trách nhiệm của người lao động, bảo đảm thông tin chính xác, không đưa tin bất lợi cho việc mở rộng thị trường lao động, làm lộ bí mật hoặc ảnh hưởng không tốt đến quan hệ đối ngoại. Về công tác quản lý, đào tạo - Tiếp tục nâng cao chất lượng công tác giáo dục định hướng cho người lao động trước khi xuất cảnh, đặc biệt là các thông tin cần thiết về luật, quy định của nước tiếp nhận, tôn giáo, phong tục, tập quán, điều kiện sống và sinh hoạt ở nước tiếp nhận một cách chi tiết, rõ ràng và dễ hiểu qua nhiều hình thức khác nhau. Công tác khám sức khoẻ cũng cần rất chặt chẽ và tỷ mỉ để tránh những trường hợp ra đến nước ngoài lại phải về nước. Nâng cao hơn nữa hiệu quả của Quỹ hỗ trợ xuất khẩu lao động hiện nay, trong đó cần huy động được sự đóng góp đáng kể của doanh nghiệp và người lao động nhằm hỗ trợ người lao động khi ốm đau, tai nạn hoặc bị rủi ro. Theo nhận định của Bộ trưởng Bộ LĐTB&XH Nguyễn Thị Kim Ngân, công tác dạy nghề cần tập trung vào 3 nhiệm vụ trọng tâm: Hoàn thiện, bổ sung, hướng dẫn cơ chế chính sách; quy hoạch và phát triển mạng lưới cơ sở dạy nghề; huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đầu tư cho dạy nghề. Về phía doanh nghiệp: các doanh nghiệp cần phải khảo sát kỹ thị trường đưa lao động sang, phải hiểu rõ hệ thống giáo dục và đào tạo của nước sở tại, hệ thống văn bằng, chứng chỉ và những yêu cầu tiêu chuẩn nghề nghiệp của nước sở tại... Cần phải có sự liên kết hợp tác với trường nghề của nước mà doanh nghiệp định đưa lao động sang làm việc để hợp tác đào tạo lao động, đánh giá và cấp bằng cho mình. Bên cạnh đó cơ quan quản lý cũng phải nghiên cứu xu hướng thị trường lao động nước ngoài trước khi đưa lao động sang, xem họ cần lao động trình độ gì? ngành nghề nào? bao nhiêu? làm ở đâu? cho ai? với giá nào? rủi ro ra sao?... để cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp và người lao động. Một mình doanh nghiệp bươn chải chắc chắn sẽ rất khó khăn, hiệu quả thấp. C – Kết luận Xuất khẩu lao động (XKLĐ) là một chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước, phù hợp với nguyện vọng của người lao động, góp phần giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập và tay nghề cho người lao động, mang lại nguồn thu ngoại tệ cho đất nước Xuất khẩu lao động cần được tăng cường mạnh mẽ trong những năm sắp tới, để trở thành một trong những hướng quan trọng của chương trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đưa đất nước ta phát triển nhanh trong những năm đầu của thế kỷ 21. Yêu cầu về lao động trong xu thế hội nhập không chỉ dừng lại ở chỗ mở rộng thị trường, phát triển số lượng mà song song với việc đó cần quan tâm đến chất lượng lao động xuất khẩu. Do đó cần có sự phối hợp đồng bộ giữa người lao động, doanh nghiệp XKLĐ với các cơ quan chức năng trong việc quản lý và chỉ đạo triển khai thực hiện hoạt động XKLĐ nhằm nâng cao chất lượng XKLĐ, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường, đồng thời góp phần thúc đẩy sự phát triển của đất nước. Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc6013.doc
Tài liệu liên quan