Đề tài Nâng cao hiệu quả công tác lập kế hoạch sản xuất thức ăn chăn nuôi của công ty TNHH Thương mại Quang Việt

Hiện tại công ty đang sản xuất và cung ứng các sản phẩm thức ăn chăn nuôi gia súc, gia cầm và thuỷ sản, cung cấp thực phẩm đà điểu và các sản phẩm chế biến từ đà điểu, thuỷ sản xuất khẩu. 1.3.2.1. Với thức ăn chăn nuôi gia súc gia cầm (lợn, gà, vịt, ngan ) công ty đã sản xuất các loại thức ăn hỗn hợp dạng bột, dạng viên, dạng mảnh có hàm lượng dĩnh dưỡng cao, thành phần dinh dưỡng trong thức ăn được điều chỉnh

doc59 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 895 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nâng cao hiệu quả công tác lập kế hoạch sản xuất thức ăn chăn nuôi của công ty TNHH Thương mại Quang Việt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rộng quy mô sản xuất công ty đã thiết lập mối quan hệ với các ngân hàng ngoài quốc doanh, kêu gọi liên doanh, liên kết để huy động vốn nâng cao năng lực tài chính, và trong thời gian tới công ty sẽ có chủ trương thay đổi hình thức pháp lý của doanh nghiệp từ mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn sang mô hình công ty cổ phần nhằm dễ huy động vốn. Với nguồn tài chính hiện tại chỉ đáp ứng được 20% nhu cầu, doanh nghiệp sẽ cần 80% vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh. Với hệ số nợ(Nợ vay/ Tổng nguồn vốn) quá cao sẽ tạo nên sự thiếu tự chủ về tài chính, khả năng rủi ro lớn khi môi trường kinh doanh không thuận lợi. Vả lại việc tiếp cận với các nguồn tài chính được tài trợ bằng vốn vay ngân hàng là một điều không mấy khả thi bởi vì với các chính sách tín dụng hiện tại, các ngân hàng tỏ ra khá dè dặt, và thường có những điều kiện khắt khe, chặt chẽ hơn so với các doanh nghiệp khối tư nhân vừa và nhỏ như Công ty. Nguồn lao động tại địa phương là một nguồn lực quan trọng, ổn định và sẵn có là một lợi thế lớn của công ty. Số lao động trung bình của nhà máy thức ăn chăn nuôi trong 4 năm vừa qua vào khoảng 35 công nhân. Sau khi xây dựng cơ sở hạ tầng sản xuất, mở rộng quy mô sản xuất nhu cầu về lao động tại nhà máy của công ty sẽ lên tới 135 công nhân. Hệ thống kho chứa nguyên liệu có diện tích 1.500m2 sẽ dự trữ được khoảng 1000 tấn nguyên vật liệu đủ cung ứng nguyên liệu cho các nhà máy sản xuất trong một tuần liên tục 2 ca/ ngày, giúp cho doanh nghiệp chủ động trong kế hoạch sử dụng nguyên liệu. Với năng lực sản xuất và điều kiện môi trường kinh doanh hiện tại năng suất của công ty là 14.400 tấn sản phẩm/ năm và sản xuất với nhiều mục đích: sản xuất thức ăn cho đà điểu, nuôi tôm của trang trại; gia công cho đơn vị khác; sản xuất để tiêu thụ và hình thức gia công vẫn chiếm tỷ lệ lớn trong cơ cấu sản xuất của nhà máy. Đây là kế hoạch mang tính chất là “giải pháp tình thế”ứng phó với môi trường kinh doanh bất lợi. Tỷ lệ % phân bổ vốn cho mở rộng sản xuất Sơ đồ 9: Phân bổ vốn cho mở rộng quy mô sản xuất. đv: triệu đồng Sơ đồ 10: Số lượng vốn cho mở rộng quy mô sản xuất 2.3.1.2.Kế hoạch phát triển sản phẩm Với tầm nhìn dài hạn về sự phát triển của nghành chăn nuôi đà điểu tại Việt nam trong vòng 10- 15 năm tới, công ty đã tăng cường nghiên cứu thành phần dinh dưỡng trong thức ăn, nắm bắt công nghệ sản xuất thức ăn cho đà điểu ở những độ tuổi khác nhau. Về chu kỳ của sản phẩm đà điểu thì ban lãnh đạo công ty nhận định, hiện tại sản phẩm thức ăn chăn nuôi đang ở giai đoạn tiền thâm nhập thị trường do với điều kiện chăn nuôi hiện nay số trang trại chăn nuôi đà điểu trên phạm vi cả nước là rất ít (hiện tại cả nước có 6 trang trại chăn nuôi đà điểu ở Hà Tây, Nghệ An, Khánh Hoà, Bến Tre, Đà Nẵng và trang trại của công ty ) trong khi đó cục chăn nuôi nhận định nước ta có đủ điều kiện chăn nuôi đà điểu. Sản phẩm thức ăn chăn nuôi đà điểu của công ty cung ứng cho trang trại chăn nuôi của công ty và sản xuất theo đơn hàng từ các trang trại chăn nuôi khác trong cả nước. Việc cung ứng thức ăn cho đà điểu trong trang trại của công ty là một mô hình thí điểm về chất lượng của thức ăn chăn nuôi dành cho đà điểu. Tất cả kết quả của những nghiên cứu, những thông tin về thức ăn cho đà điểu được phòng kỹ thuật phân tích và thông tin cho cấp trên. Trong trang trại chăn nuôi đà điểu của công ty có một chuồng đà điểu 8 con ở các giai đoạn sinh trưởng khác nhau nuôi tách biệt với những chuồng nuôi khác để phục vụ cho quá trình nghiên cứu sản phẩm thức ăn cho đà điểu. Nếu tính trung bình mỗi con đà điểu giá 3,5 triệu đồng thì nguồn lực của công ty đầu tư vào trang trại chăn nuôi phục vụ nghiên cứu sản phẩm mới là 30 triệu đồng; bên cạnh đó còn chi phí cho việc sản xuất thử nghiệm (nguyên liệu, khấu hao, tiền lương công nhân, chi phí khác) có thể lên tới 40 triệu đồng/ năm. Trong hai năm 2006- 2007, tổng sản lượng sản xuất thức ăn thử nghiệm là 8 tấn ( huy động 1/5 công suất máy móc ); với trung bình đơn giá mỗi bao là 120.750 đồng/bao 25kg thì chi phí cho sản xuất thử là 38.640.000 đồng. Tuy nhiên chi phí cho nghiên cứu và phát triển sản phẩm hầu hết là loại chi phí chìm (mặc dù công ty không thực hiện nghiên cứu sản phẩm thức ăn chăn nuôi đà điểu thì công ty vẫn phải tổ chức chăn nuôi đối với trại thử nghiệm và vẫn phải sản xuất sản phẩm thử nghiệm) nên công ty cũng có những lợi thế nhất định. Với điều kiện kinh doanh khó khăn ở thời điểm này thì nguồn lực của công ty nên tập trung phát triển sản xuất theo chiều sâu, kế hoạch phát triển sản phẩm có thể hoãn lại đến khi môi trường kinh doanh thuận lợi hơn. 1. Thảo luận 4. Báo cáo Giám đốc Phó giám đốc 5. Điều chỉnh Trưởng trại chăn nuôi Trưởng phòng kỹ thuật 2. Giao nhiệm vụ 3.Thảo luận Sơ đồ11 : Quy trình nghiên cứu – phát triển sản phẩm. 2.3.2.Kế hoạch sản xuất trung hạn 2.3.2.1.Kế hoạch dự trữ nguyên liệu Thành phần nguyên liệu sản xuất thức ăn chăn nuôi gồm: Ngô, sắn, khô đậu, bột cá, khô cọ, cám gạo, lysin, mix khoáng, mix vitamin, methorin, cholin và các phụ gia chống mốc. Với năng lực tài chính nhỏ công ty chỉ có thể tổ chức lưu kho nguyên liệu cho nhu cầu sản xuất tối đa là 3 ngày mặc dù năng lực kho chứa chỉ mới phát huy 20%. Các nguyên liệu lưu kho chủ yếu là các sản phẩm nông nghiệp: ngô, khô đậu, sắn lát, cám gạo và thường chiếm tới 85-90% diện tích chứa nguyên liệu, còn lại là các chất khoáng: lysin, chorin, các vitamin. Nguyên nhân là do giá thành của các nguyên liệu là sản phẩm của nông nghiệp rẻ hơn nhiều so với các chất khoáng hữu cơ. Nguồn nguyên liệu được cung cấp bởi các nhà buôn thuộc các tỉnh miền núi nơi có nhiều diện tích trồng ngô, sắn như: Tuyên Quang, Lai Châu, Yên BáiVới thời gian lưu kho nguyên liệu ngắn nên các loại ngô, sắn, khô đậu, cám gạo không đòi hỏi về bảo quản cao, chỉ cần không gian kho chứa khô, thoáng là đạt yêu cầu do vậy chi phí lưu kho của các loại nguyên liệu này thấp. Trái lại, đối với các chất hữu cơ, chất khoáng dù chiếm tỷ trọng ít nhưng có thể quyết định đến chất lượng của thức ăn chăn nuôi do vậy đòi hỏi yêu cầu về lưu kho cao. Đối với những loại này công ty đã bố trí một kho riêng biệt có diện tích 40m2, có các thiết bị điện phục vụ cho việc bảo quản. Thông thường cứ sau 2 ngày sản xuất công ty lại phải nhập thêm lô nguyên liệu mới để đáp ứng nhu cầu của sản xuất trong ngày tiếp theo. Nguyên liệu Đơn giá Tỷ trọng trong TĂCN Tỷ lệ % nguyên liệu tích luỹ Tỷ lệ % giá nguyên liệu tích luỹ Phân loại Methorin 80.000đ/kg 0,1% 0,1% 22,5% A Lysin 75.000đ/kg 0,1% 0,2% 43,6% Cholin 50.000đ/kg 0,1% 0,3% 57,7% Mix khoáng 40.000đ/kg 0,2% 0,5% 69% Mix Vitamin 40.000đ/kg 0,2% 0,7% 80,3% Chống mốc 30.000đ/kg 0,1% 0,8% 88,7% Bột cá 10.000đ/kg 0,2% 1,0% 91,5% B Khô cọ 9.200 đ/kg 12% 13% 94,1% Khô đậu 8.100đ/kg 15% 28% 96,4% Ngô 5.200 đ/kg 30% 58% 97,9% C Sắn 3.000 đ/kg 25% 83% 98,7% Cám gạo 2.700đ/kg 15% 98% 99,3% Chất độn khác 2.200đ/kg 2% 100% 100% Tổng 355.400 đ 100% 100% 100% Bảng số 8: Phân tích giá trị và sản lượng của nguyên liệu theo phương pháp phân loại ABC Theo kỹ thuật phân tích ABC về giá trị và số lượng nguyên liệu lưu kho thì nguyên liệu nhóm A chiếm 0,8% về số lượng nhưng lại chiếm tới 88,7% tổng giá trị nguyên vật liệu lưu kho, nhóm B chiếm 27,2% về số lượng nhưng chiếm 7,7% về giá trị và nguyên liệu nhóm C chiếm 72% về số lượng nhưng chỉ chiếm 3,6% về giá trị. Nhưng hiện tại công ty chưa thực sự để ý đến điều này trong quá trình lập kế hoạch quản trị nguyên vật liệu. 2.3.2.2.Phân bổ tốc độ sản xuất Năm 2006 là năm dây truyền ép viên hoạt động nhiều nhất trong giai đoạn 2003- 2007. Từ tháng 4 đến tháng 10 năm 2006 công ty nhận được hai đơn hàng- một của hãng Proconco, một của hãng Vina với tổng mức sản lượng gia công là 1000 tấn/tháng. Sản phẩm gia công gồm cám cá cho hãng Vina và gia công thức ăn viên cho Proconco. Với mức công suất 5 tấn/ giờ công ty có khả năng đáp ứng đầy đủ các đơn hàng từ phía đối tác và hầu như vẫn còn dư khoảng 200 tấn thức ăn, nguyên liệu thô lưu kho. Trong 6 tháng liên tục công ty đã phải tăng cường thêm ca sản xuất, tăng cường thêm lao động. E ngại trước năng lực công nghệ của công ty nên công ty chủ trương tăng ca xen kẽ cứ ngày đầu một ca và ngày sau đó lại là 3 ca để chủ động sửa chữa, bảo dưỡng máy móc. Đặc biệt trong khoảng thời gian cuối tháng 9 đầu tháng 10 năm 2006 công suất máy móc công nghệ được huy động để hoàn thành đơn hàng sản xuất lên tới 80%. Tuy nhiên do những giới hạn về năng lực công nghệ nên việc huy động quá công suất cũng gây ra cho công ty nhiều thiệt hại trong dài hạn như chi phí sửa chữa, hoàn thành không đúng tiến độ đơn hàng sau này. Trong khoảng thời gian nửa cuối năm 2007, khi đáp ứng đầy đủ các đơn hàng gia công cho đối tác kinh doanh công ty chỉ sản xuất một ngày một ca với mức sản lượng 40 tấn/ca mặc dù năng lực sản xuất của công ty vẫn có thể đạt tới 120 tấn/ngày/3 ca do gặp vấn đề về tiêu thụ khi môi trường kinh doanh khó khăn. Với mục đích sản xuất chủ yếu là cung cấp thức ăn cho trang trại chăn nuôi đà điểu, thức ăn cho đầm tôm của công ty nên với mức sản lượng như trên công ty sản xuất dưới mức năng lực công nghệ cho phép. Trong quý I năm 2008, công ty lại nhận đơn hàng gia công của hai doanh nghiệp sản xuất thức ăn cho lợn, gà ở Hải Dương là Công ty TNHH Tân Mỹ (ở thị trấn Phú Thái), và CTCP T&Q (ở huyện Nam Sách). Do gặp những trục trặc về vấn đề kỹ thuật của máy móc nên công ty chỉ sản xuất với mức sản lượng 80 tấn/ngày/2 ca. đv: tấn Sơ đồ12 : Tình hình sản xuất của công ty giai đoạn 2006-2007 2.3.2.3.Kế hoạch cung ứng nguyên liệu Hiện nay tất cả các doanh nghiệp trong nghành sản xuất thức ăn chăn nuôi đều đang phải đối mặt với vấn đề nguyên liệu cho sản xuất. Vấn đề giá cả là nỗi lo của hầu hết các doanh nghiệp trong nghành nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ khi giá cả của các nguyên liệu nông sản đang ngày một tăng. Trước bối cảnh đó công ty đã hạn chế việc nhập khẩu nguyên liệu mà thay vào đó là tìm kiếm các đối tác thương mại trong nước làm nhà cung ứng cho công ty. Các nhà cung cấp của công ty chủ yếu ở các tỉnh vùng cao như Yên Bái, Tuyên Quang, Sơn La nơi có nhiều diện tích trồng ngô, sắn, đỗ tương nên nguồn cung ổn định. Công ty đã duy trì mối quan hệ với các nhà cung ứng này được hai năm rưỡi. Mức sản lượng cung ứng mỗi năm ước đạt 10.000 tấn, trong đó chủ yếu là các loại nguyên liệu nông sản rẻ tiền như ngô, sắn lát, đỗ tương. Còn đối với các sản phẩm nguyên liệu hữu cơ thì công ty buộc phải nhập từ nước Trung Quốc và các nước Đông Nam á như Indonesia, Philippin do nguồn cung trong nước rất ít và công ty chưa thiết lập được mối quan hệ với các nhà cung ứng trong nước. Gần đây do thiên tai, hạn hán làm giảm năng suất nghành nông nghiệp nên giảm nguồn cung nguyên liệu cho nhà máy nên mối quan hệ với các nhà cung ứng miền Bắc suy giảm, công ty phải mở rộng quan hệ cung ứng với các tỉnh Quảng Ngãi, Thanh Hoá và một số nhà cung cấp Trung Quốc thuộc các tỉnh giáp biên giới với Việt nam. Tuy nhiên mức sản lượng cung ứng chỉ mới đáp ứng được 75- 80% nguyên liệu cho nhà máy. Sơ đồ 14: Nguồn cung nguyên liệu của công ty giai đoạn 2007-2008 Sơ đồ 13: Nguồn cung nguyên liệu của công ty giai đoạn2004-2005 2.3.2.4.Kế hoạch sử dụng lao động Trong giai đoạn vừa qua số công nhân được sử dụng nhiều nhất là khoảng thời gian từ tháng 4 đến tháng 10 năm 2006. Đây là khoảng thời gian mà doanh nghiệp đã huy động tối đa các nguồn lực cho sản xuất để gấp rút hoàn thành các đơn hàng gia công cho các đối tác kinh doanh. Số lao động mà công ty sử dụng trong giai đoạn này lên tới 105 người trong đó số lao động ký hợp đồng dài hạn là 45 người, số lao động ngắn hạn là 60 người. Do nhu cầu về nguồn lao động lớn để hoàn thành đơn hàng gia công nên trong thời gian đó công ty phải tổ chức sản xuất 3 ca, trung bình mỗi ca có khoảng 40 công nhân và được bố trí luân phiên. Việc tuyển nguồn lao động sản xuất tại địa bàn nhà máy là một lợi thế của công ty trong việc linh hoạt sử dụng nguồn lao động. Phần lớn nguồn lao động mà công ty sử dụng không đòi hỏi kỹ năng cao nên nguồn tuyển dụng là rất sẵn có, công ty cũng tốn kém ít chi phí hơn trong việc đào tạo việc cho công nhân. Vào khoảng thời gian cuối năm 2007, đầu 2008 công ty duy trì mức sản lượng 40 tấn/ ngày nên đã phải cắt giảm lao động và duy trì ở mức 15- 20 người với hình thức cho công nhân tạm nghỉ. Tuy nhiên có một vấn đề khó khăn phát sinh trong sản xuất đó là tình trạng nợ lương người lao động của công ty trong thời gian qua ngày một tăng, đây là một điều bất lợi có thể làm giảm động lực lao động của công nhân sản xuất. Từ năm 2005- 2007, số tiền lương mà công ty nợ người lao động đã tăng lên 25% ( quỹ lương công nhân sản xuất mà doanh nghiệp còn phải trả cuối năm 2005 là 23.040.000 đồng, quỹ lương công nhân sản xuất phải trả quý 3 năm 2007 là 28.800.000 đồng), công ty chỉ thanh toán 70% lương cho người lao động. Sơ đồ 15: Tình hình sử dụng lao động phân theo thời gian đv: người Sơ đồ số 16: Tình hình sử dụng lao động giai đoạn 2006- 2007 2.3.2.5.Kế hoạch sửa chữa, bảo dưỡng máy móc Kế hoạch bảo dưỡng máy móc thuộc nhóm hoạt động phụ trợ trong chuỗi hoạt động của quá trình sản xuất. Dù hoạt động này không trực tiếp tạo ra giá trị gia tăng cho công ty nhưng nó lại rất quan trọng trong việc duy trì công suất của máy móc ở mức bình thường khi thời gian hoạt động kéo dài. Xuất phát từ quan điểm đó công ty đã chủ trương bảo dưỡng định kỳ. Trong thời gian vừa qua được sự hỗ trợ kỹ thuật của các chuyên gia công nghệ Trung Quốc, sự trợ giúp kỹ thuật của các cán bộ giảng dạy tại trường Đại học công nghiệp Hà nội, cuối tháng 12 năm 2006 công ty đã tổ chức bảo dưỡng máy móc trong một tuần lễ. Đây là đợt bảo dưỡng đầu tiên từ khi nhập công nghệ về sau khi hoàn thành 2 đơn hàng gia công và gặp sự cố kỹ thuật. Ngân sách dành cho việc bảo dưỡng công nghệ được trích từ quỹ đầu tư phát triển của công ty với số tiền là 30 triệu đồng bao gồm các khoản mục chi phí: Thay thế thiết bị, chi phí chạy thử, chi phí đi lại cho cán bộ, chi phí tiếp khách, tiền công. Dự kiến đến năm 2010 công ty sẽ có tổ chức một đợt bảo dưỡng nữa nhằm đồng bộ với các dự án mở rộng nhà máy sản xuất. 2.3.3.Kế hoạch sản xuất ngắn hạn 2.3.3.1.Bố trí lao động Như đã đề cập ở trên, là một doanh nghiệp chế biến sử dụng công nghệ bán tự động nên việc bố trí lao động trong nhà máy là tương đối đơn giản. Công nhân được bố trí ở hai giai đoạn là cân đong nguyên liệu và giai đoạn đóng bao ngoài ra còn lực lượng công nhân vận chuyển nguyên liệu, thành phẩm nhập kho. Để hạn chế sự chán nản trong lao động do làm đi làm lại một công việc, công nhân được thay đổi vị trí thường xuyên sau mỗi ca. Tại khâu cân đong nguyên liệu trước khi cho vào giai đoạn đầu của quy trình sẽ có 8 công nhân đảm nhiệm. Tại khâu đóng bao, cân thành phẩm sẽ do 6 công nhân tham gia đóng bao. Còn lại vận chuyển, và các hoạt động khác sẽ do 5-8 công nhân tham gia vận chuyển. Ngoài ra còn 2 công nhân theo dõi tình hình cung cấp điện cho nhà máy, kiểm tra mạng điện trước khi máy móc bắt đầu làm việc. Thông thường công nhân sẽ có một khoảng thời gian rảnh rỗi vào giờ đầu của ca sản xuất do khoảng thời gian từ khi mẻ nguyên liệu đầu tiên vào công đoạn chế biến đầu tiên đến khi đóng bao phải mất khoảng thời gian từ 45- 50 phút. Do vậy bộ phận công nhân cân đong nguyên liệu trước khi sản xuất sẽ được bố trí trước. 2.3.3.2.Kế hoạch xuất dùng nguyên liệu, lưu kho thành phẩm Quản đốc phân xưởng dựa vào nhiệm vụ sản xuất trong ngày sẽ phân tích nhu cầu nguyên liệu cần để phục vụ cho sản xuất. Sau khi xác định được số lượng, chủng loại từng loại nguyên liệu cần cho sản xuất quản đốc sẽ thông báo cho thủ kho, thủ kho có nhiệm vụ sẵn sàng cho việc xuất kho và phải lên phòng kế toán thông báo cho trưởng phòng kế toán biết. Quá trình xuất kho nguyên liệu cho sản xuất phải được trưởng phòng kế toán lập hoá đơn xuất kho và đến trực tiếp kho chứa để kiểm kê nguyên liệu tồn kho, xuất kho. Khi kế toán phát hiện sự thiếu hụt nguyên liệu tại kho so với sổ sách kế toán thì thủ kho là người đứng ra chịu trách nhiệm đối với giá trị nguyên liệu bị thiếu hụt. Phương pháp xuất dùng nguyên vật liệu mà công ty lựa chọn là phương pháp nhập trước- xuất trước nhằm tránh sự giảm chất lượng nguyên liệu do lưu kho quá lâu. Nguyên liệu sau mỗi ngày xuất dùng đều được đối chiếu so sánh giữa số liệu tồn kho thực tế và giá trị nguyên liệu trên sổ sách. Sau khi kết thúc ca sản xuất bộ phận lưu kho sẽ đi kiểm kê giá trị, sản lượng sản phẩm sau đó sản phẩm được nhập kho và đánh dấu, phân loại lô hàng theo thứ tự thời gian, theo chủng loại. Đối với mỗi lần xuất kho đều có biên bản xuất kho về các nội dung: số lượng, chủng loại nguyên liệu xuất kho, những người có liên quan đến quá trình xuất kho. Thủ kho sẽ có một cuốn nhật ký hàng ngày để quản lý việc xuất dùng nguyên vật liệu ghi chép số lượng, chủng loại, mục đích xuất để bộ phận kiểm tra có cơ sở đối chiếu số liệu giữa các bộ phận. Về quá trình lưu kho thành phẩm thì thành phẩm sau khi kết thúc ngày sản xuất, kế toán trưởng sẽ có mặt để kiểm kê lượng thành phẩm nhập kho và thực hiện các bút toán của kế toán, phản ánh vào tài khoản. Sau đó thủ kho tiến hành phân loại sản phẩm và được công nhân vận chuyển, xếp chúng vào những khu đã được xác định trước nhằm dễ dàng cho việc xuất kho thành phẩm để tiêu thụ. Đối với một số đơn hàng gia công gần đây thì sau khi kết thúc ngày sản xuất đơn vị bạn điều động phương tiện vận tải đến và vận chuyển đi. 5. Xuất thẻ kho 1. Phân tích nhu cầu nguyên liệu 3.Thông báo Quản đốc phân xưởng 2. Thông báo Phòng kế toán 4. Lập hoá đơn, chứng từ, kiểm kê nguyên liệu tồn kho Thủ kho Xuất dùng 6 Nguyên liệu 7. Nhập lô nguyên liệu mới Sản xuất Sơ đồ17 : Trình tự xuất kho nguyên liệu của công ty. CHƯƠNG III: Các giải pháp nâng cao chất lượng công tác lập kế hoạch sản xuất thức ăn chăn nuôI của công ty 3.1. Nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu nhu cầu thị trường và môi trường kinh doanh 3.1.1.Cơ sở lý luận của giải pháp Thông tin trong việc lập kế hoạch sản xuất là rất quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến việc lập các kế hoạch sản xuất, kế hoạch kinh doanh. Thông tin môi trường kinh doanh gồm thông tin về nhu cầu sản phẩm (số lượng, chủng loại, mẫu mã, chất lượng) mà người tiêu dùng đang cần; thông tin về thị trường nguyên vật liệu (sự biến động giá cả, chất lượng, số lượng nhà cung ứng); thông tin về hệ thống kênh phân phối; thông tin về các rủi ro (dịch bệnh, tác động của khí hậu, yếu tố tăng giá nguyên liệu, sự khan hiếm nguyên liệu), thông tin về các đối thủ cạnh tranh (số lượng đối thủ, thị phần của đối thủ cạnh tranh, năng lực tài chính); thông tin từ nội bộ công ty (năng lực công nghệ, năng lực về vốn, năng lực kho bãi, nguyên liệu, thành phẩm tồn kho), thông tin từ phía pháp luật (luật lao động, luật môi trường); thông tin về các dịch vụ thuê ngoài (vận tải, điện, nước) Việc nắm bắt đươc những thông tin về môi trường kinh doanh sẽ giúp doanh nghiệp huy động, dự trù được các nguồn lực để huy động cho quá trình sản xuất, giúp quá trình sản xuất diễn ra liên tục. Hơn nữa việc lường trước được các vấn đề phát sinh dựa vào việc phân tích thông tin thu thập được sẽ giúp công ty chuẩn bị được các phương án thay thế khi những tình huống có tác động xấu đến quy trình sản xuất mà doanh nghiệp có thể tính được xác suất xảy ra. Bản kế hoạch sản xuất là cách thức diễn đạt những công việc phải làm trong tương lai và có ảnh hưởng rất mạnh đến quá trình sản xuất trong thực tế. Khi lập kế hoạch sản xuất thì tính cập nhật của thông tin là rất quan trọng và quyết định đến chất lượng của bản kế hoạch sản xuất. Một bản kế hoạch sản xuất có chất lượng thì thông tin liên quan đến quá trình sản xuất phải đầy đủ, chính xác và phải đảm bảo tính khả thi khi thực hiện. Hiện nay với nguồn thông tin đa dạng do thành tựu của công nghệ thông tin mang lại thì việc cập nhật thông tin tương đối dễ dàng song cũng cần phải lựa chọn một cách thận trọng. Thông tin trong quá khứ càng xa thời điểm lập kế hoạch thì càng ít có tác động đến tình hình sản xuất kinh doanh hiện tại và thường mang tính chất tham khảo hơn là phục vụ cho việc lập kế hoạch kinh doanh. Trái lại thông tin càng gần thời điểm lập kế hoạch thì càng tác động mạnh đến quá trình sản xuất kinh doanh hiện tại do vậy đây mới thực sự là nguồn thông tin phục vụ cho quá trình lập kế hoạch. Một điều đáng lưu ý nữa là thông tin trên từng thị trường, từng khu vực địa lý cũng có phần khác nhau do điều kiện, tính chất của từng thị trường là khác nhau. Chẳng hạn thông tin về nhu cầu thức ăn chăn nuôi tại Hoa Kỳ khác với nhu cầu thức ăn chăn nuôi tại thị trường Việt nam hay thị trường Trung Quốc; nhu cầu về thức ăn chăn nuôi ở thị trường miền Bắc khác với nhu cầu thị trường miền Nam do trình độ chăn nuôi, quy mô chăn nuôi tại mỗi khu vực là khác nhau. Trái lại các thông tin bên trong doanh nghiệp, cán bộ lập kế hoạch có thể nắm vững và phân loại dễ dàng hơn để huy động thông tin lập kế hoạch sản xuất như thông tin được cung cấp bởi các kế hoạch sản xuất, thông tin về thông số kỹ thuật của máy móc, thông tin từ bảng báo cáo tài chính của doanh nghiệp... 3.1.2.Cơ sở thực tiễn của giải pháp Nền kinh tế thế giới hiện nay mang tính chất là một nền kinh tế tri thức- kinh doanh hiệu quả nhờ vào việc nắm bắt và xử lý tốt thông tin. Với ý nghĩa ấy, doanh nghiệp nào nắm bắt thông tin tốt, trước đối thủ khác sẽ có lợi thế tuyệt đối trong cạnh tranh. Nền kinh tế mở cửa hội nhập của chúng ta đang dần dần tiếp thu những tư tưởng kinh doanh tiến bộ của các nước phương Tây. Đối với các nước phát triển, đặc biệt là Hoa Kỳ, các doanh nghiệp nước này đã phát triển hệ thống thu thập và xử lý thông tin ở trình độ cao ở mức “tình báo thông tin”. Các doanh nghiệp Việt nam trong môi trường kinh doanh hiện đại ngày nay cũng đã nhận thức được tầm quan trọng của thông tin trong kinh doanh nhưng vẫn còn nhiều yếu kém và thiếu chuyên nghiệp trong thu thập và xử lý thông tin. Nói về tầm quan trọng của sự nắm bắt thông tin trong việc lập kế hoạch sản xuất thì vấn đề này đã xảy ra thường xuyên đối với các doanh nghiệp Việt nam trong thực tiễn. Chẳng hạn, nắm được tình hình tiêu thụ sản phẩm thức ăn chăn nuôi sẽ giúp doanh nghiệp xác định được số lượng bao tồn kho và điều chỉnh số lượng bao trong quá trình sản xuất ở giai đoạn sau, từ đó có kế hoạch huy động lao động, nguyên vật liệu, nguồn vốnViệc thiếu điện trong mùa hè tới chắc chắn sẽ làm gián đoạn quá trình sản xuất và ảnh hưởng đến tiến độ sản xuất đơn hàng của công ty. Giải pháp dự phòng là thuê, mua sắm máy phát điện phục vụ sản xuất hay tăng ca, thuê thêm lao động, mua sắm thêm nguyên vật liệu, huy động máy móc, vốn để sản xuất gấp rút trong những tháng này. Hay nắm bắt được những thông tin trong Bộ luật lao động sẽ giúp doanh nghiệp sử dụng nguồn lao động trong sản xuất mà không bị vi phạm luật lao động mà nhà nước ban hành. Việc cập nhật tình hình dịch bệnh ở gia súc, gia cầm sẽ giúp công ty theo dõi tình hình tiêu thụ sản phẩm và có kế hoạch sản xuất tăng hay giảm mức sản lượng, tránh lưu kho làm ứ đọng vốn, giảm chất lượng do dự trữ quá hạnĐã có rất nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt nam, đặc biệt là doanh nghiệp khối tư nhân luôn ở thế bị động, kinh doanh kém hiệu quả thậm chí có thể bị thiệt hại lớn do thiếu thông tin và chưa có kế hoạch sản xuất cụ thể. Hiện nay có nhiều phương pháp nghiên cứu kinh doanh hiệu quả như việc điều tra thị trường trực tiếp (thông tin sơ cấp thu thập được thông qua các đại lý hay qua nhân viên của công ty trực tiếp đến cơ sở chăn nuôi), thông tin thứ cấp tham khảo từ các sở, bộ, nghành; thông tin từ báo, đàiTuy nhiên việc thu thập và xử lý thông tin cũng rất là tốn kém doanh nghiệp cần phải có kế hoạch chi tiêu cho hoạt động này tuỳ theo điều kiện tài chính của minh để thu thập và sử dụng thông tin một cách hiệu quả. Đối với công ty Quang Việt, sản phẩm của công ty không liên quan đến nhiều đến các đối tượng khách hàng như trẻ em, phụ nữ, hộ gia đình (những khách hàng trực tiếp tiêu dùng sản phẩm của công ty) mà đối tượng sử dụng ở đây là các loại vật nuôi nên việc nghiên cứu nhu cầu thị trường sẽ ít tốn kém hơn. Phương pháp nghiên cứu thông tin thị trường mà nhiều doanh nghiệp đã từng sử dụng là dùng các công cụ thống kê nghiên cứu một nhóm nhỏ (mẫu nghiên cứu) từ đó suy ra đặc tính của nhu cầu tổng thể với mức tin cậy nhất định. Kết quả của nghiên cứu cần phải được so sánh với các số liệu trong quá khứ và tình hình hiện tại của ngành chăn nuôi để ước lượng độ tin cậy của nghiên cứu. Nguồn thông tin sơ cấp có thể được nghiên cứu qua việc thu thập ý kiến khách hàng thông qua một nhóm nhân viên đến tận các hộ chăn nuôi để điều tra. Hiện tại công ty chỉ nên nghiên cứu trên một số thị trường điển hình của khu vực, cụ thể là nên nghiên cứu trên 4 thị trường chính là Hải Dương, Hải Phòng, Bắc Giang, Hà Nội nơi có điều kiện chăn nuôi gia súc gia cầm ổn định và mỗi khu vực do một nhân viên đảm nhiệm. Quá trình nghiên cứu phải được diễn ra thường xuyên, toàn bộ chi phí đi lại, ăn ở, phí giao dịch, tiền lương cho nhân viên nghiên cứu công ty có nhiệm vụ phải thanh toán cho nhân viên và tất nhiên là phải lựa chọn nhân viên có tư cách tốt, nhiệt tình, hăng hái với công việc. Nội dung của các thông tin nghiên cứu gồm: số lượng gia súc tại mỗi hộ gia đình, thời gian nuôi gia súc từ lúc mua giống đến khi xuất chuồng, mối quan tâm của các hộ gia đình đối với sản phẩm thức ăn chăn nuôi (giá cả, khuyến mại, chất lượng), thu nhập hàng tháng của hộ gia đình, lợi nhuận thu được sau một đợt gia súc xuất chuồngĐối với các nguồn dữ liệu thứ cấp thường mang tính dự báo vĩ mô như tình hình chăn nuôi, tình hình dịch bệnh, quy hoạch phát triển ngành công ty có thể thu thập từ các bài báo tạp chí, các ấn phẩm định kỳ từ cục chăn nuôi, cục thống kê bằng việc duy trì đặt hàng thường xuyên các ấn phẩm này. Ngoài ra còn một nguồn thông tin lớn nữa là nguồn thông tin từ Internet, đây là nguồn thông tin lớn, đầy đủ nhất trên mọi lĩnh vực sản xuất, thị trường, sản phẩm, tri thức quản lýTuy nhiên sử dụng nguồn thông tin này công ty cần phải lưu ý tính thời sự của thông tin, tính tin cậy của thông tin ( do ai, cơ quan nào phát hành), nội dung của thông tin Tất cả các nguồn thông tin thứ cấp đều phải qua quá trình xử lý mới sử dụng được. Việc thu thập thông tin nói chung là khá tốn kém, công ty cần phải thu thập thông tin một cách hiệu quả, phải quán triệt tư tưởng làm đúng ngay từ đầu để tránh lãng phí do việc thu thập lại nguồn thông tin là khá phức tạp và tốn kém. Hàng năm công ty nên trích 0,5% lợi nhuận cho việc nghiên cứu nhu cầu thị trường và môi trường kinh doanh của công ty. 3.1.3.Kết quả đạt được từ giải pháp Nắm bắt được nguồn thông tin đầy đủ sẽ giúp công ty có một cái nhìn đầy đủ về diễn biến thị trường thức ăn chăn nuôi qua đó tạo tiền đề quan trọng cho việc lập kế hoạch sản xuất. Trong những năm vừa qua công ty Quang Việt chưa thực sự nắm bắt tốt thông tin, đội ngũ cán bộ chuyên môn hoá trong việc thu thập thông tin chưa cao. Đây là một trong những yếu tố gây ra việc lập kế hoạch sản xuất thức ăn chăn nuôi của công ty chưa bám sát tình hình thực tiễn điều kiện kinh doanh hiện tại dẫn đến việc huy động, sử dụng các nguồn lực cho sản xuất chưa hiệu quả. Nâng cao vai trò của thông tin, cập nhật thông tin liên tục, tổ chức thu thập thông tin theo kiểu chuyên môn hoá sẽ góp phần nâng cao chất lượng công tác lập kế hoạch tại công ty TNHH Thương mại Quang Việt. Cập nhật được nhu cầu của thị trường, những biến động của môi trường kinh doanh sẽ giúp công ty có kế hoạch huy động tất cả những nguồn lực của mình trong điều kiện cho phép để đáp ứng đầy đủ nhu cầu của khách hàng. Quan trọng hơn là công ty có thể dự đoán những khả năng có thể xảy ra trong điều kiện kinh doanh đã được dự báo, công ty có thể chủ động điều tiết sản xuất, chuẩn bị các phương án thay thế để tránh rơi vào thế bị động làm gián đoạn quá trình sản xuất trong khi đó đơn hàng cần thực hiện gấp rút. Đây là một điều thực sự có ý nghĩa đối với bản kế hoạch kinh doanh. 3.2.Gắn chặt kế hoạch sản xuất với năng lực sản xuất hiện tại 3.2.1. Cơ sở lý luận của giải pháp Năng lực sản xuất của một doanh nghiệp là tổng hợp cơ sở hạ tầng sản xuất ( kho chứa, công nghệ sản xuất, mặt bằng sản xuất ), tính sẵn có của các yếu tố sản xuất (vốn, lao động, nguyên liệu) và mối quan hệ hữu cơ giữa các yếu tố sản xuất. Năng lực sản xuất luôn luôn là một trong những vấn đề quan trọng nhất ảnh hưởng đến kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Đặc biệt vấn đề công suất, vấn đề hoạch định công suất dựa vào năng lực sản xuất hiện có luôn được đặt vào trung tâm sự chú ý của cán bộ quản trị sản xuất. Năng lực sản xuất của doanh nghiệp có ảnh hưởng tiềm ẩn đến khả năng đáp ứng của doanh nghiệp đối với cầu về sản phẩm và dịch vụ. Hơn nữa nó còn có tác động trực tiếp đến khả năng duy trì hoạt động sản xuất của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp tận dụng được các cơ hội kinh doanh trên thị trường bằng việc hoàn thành các đơn hàng sản xuất nhờ năng lực sản xuất ổn định. Chính vì vậy năng lực sản xuất được coi là trung tâm của bản kế hoạch sản xuất. Tình trạng năng lực sản xuất hiện tại sẽ trả lời cho doanh nghiệp câu hỏi: sản xuất như thế nào để đáp ứng nhu cầu của thị trường. Đây là một nội dung quan trọng có tính chất quyết định mà bảng kế hoạch sản xuất cần phải trả lời. Việc bám sát vào năng lực sản xuất để lập kế hoạch sẽ giúp việc kiểm soát chi phí sản xuất tốt hơn và sử dụng hiệu quả các nguôn lực cho sản xuất. Xét trong dài hạn, nắm được năng lực sản xuất sẽ giúp doanh nghiệp điều độ, phân bổ tốc độ sản xuất để khắc phục được những giới hạn về năng lực máy móc công nghệ; đảm bảo năng lực sản xuất ổn định khi hoạt động trong dài hạn. Mô hình SWOT trong kinh doanh hiện đại với tư tưởng dùng những điểm mạnh, những lợi thế của mình để tận dụng cơ hội trên thị trường và biết những điểm yếu kém của mình để tránh những khó khăn mà thị trường đem lại. Mô hình này thực sự có ý nghĩa trong việc lập kế hoạch sản xuất. Biết được điểm mạnh của năng lực sản xuất, biết được những hạn chế, yếu kém hay những giới hạn về năng lực sản xuất là một điều đảm bảo việc phác họa lộ trình để đáp ứng nhu cầu thị trường một cách hiệu quả nhất. 3.2.2.Cơ sở thực tiễn của giải pháp Vấn đề công nghệ là một phạm trù kinh tế rộng mà so với các doanh nghiệp trên thế giới, hiện nay các doanh nghiệp của chúng ta còn đang chưa nhận thức đầy đủ về vấn đề này. Điều này đã dẫn đến việc lập kế hoạch sản xuất mà không nắm được năng lực công nghệ sẽ dễ dàng dẫn đến những thiệt hại không nhỏ trong quá trình thực thi kế hoạch do huy động công suất chưa phù hợp. Việc khai thác năng lực sản xuất của máy móc, con người, tài chính, cơ sở hạ tầng sao cho hiệu quả nhất đang là một mối quan tâm lớn của các nhà hoạch định sản xuất. Muốn nắm được năng lực sản xuất của công ty đòi hỏi có đội ngũ kỹ thuật am hiểu chuyên môn, kỹ năng phân tích công nghệ tốt. Đặc biệt trong điều kiện công nghệ của công ty là công nghệ được nhập khẩu từ Trung Quốc có hiệu quả sử dụng thấp nên việc xác định được năng lực sản xuất của mình là một yếu tố rất quan trọng quyết định đến sự phát triển bền vững của công ty. Binh pháp tôn tử đã từng dạy : " Biết người biết ta thì trăm trận trăm thắng". Thực tế đã kiểm chứng nhiều doanh nghiệp đã từng thành công trên thương trường là nhờ vào việc biết được năng lực của mình, nắm được những mặt mạnh, mặt yếu mà đưa ra những chính sách phù hợp. Nhân tố bên trong của công ty- năng lực sản xuất mới là yếu tố cốt lõi trong sự phát triển của doanh nghiệp khi nó được xác định một cách đúng đắn. Việc đòi hỏi có một đội ngũ kỹ thuật am hiểu chuyên sâu về công nghệ tại công ty hiện nay chưa được đáp ứng. Chính vì vậy công ty cần có chiến lược đào tạo đội ngũ này trong dài hạn chẳng hạn như tham gia các khoá đào tạo ngắn hạn, các buổi tập huấn kỹ năng phân tích... Cán bộ quản lý sẽ được đào tạo một cách bài bản và đầy đủ hơn về công nghệ khi mà công nghệ đang được coi như là xương sống để nâng đỡ doanh nghiệp. Bên cạnh đó cần tích cực liên hệ hợp tác với các chuyên gia công nghệ, các kỹ sư, các cán bộ giảng dạy tại các trường đại học khối kỹ thuật để cùng phân tích năng lực công nghệ, quy trình hoạt động, các yếu tố ảnh hưởng tới năng suấtqua đó cải thiện vốn tri thức công nghệ của cán bộ quản lý sản xuất. Về việc nắm bắt công nghệ sản xuất công ty cần có một chiến lược đào tạo dài hạn để dần dần trở nên tự chủ về công nghệ; tự bản thân doanh nghiệp có thể phân tích được năng lực công nghệ của mình. Đặc biệt về năng lực tài chính cho sản xuất, lập kế hoạch sản xuất phải dựa trên nền tảng nguồn tài chính hiện có. Trong quá trình lập kế hoạch cán bộ cần phải đưa ra nhiều phương án thay thế (nguyên liệu thay thế, gia công, tự sản xuất) và từ những phương án này sẽ chọn ra những phương án có thể đáp ứng nhiệm vụ sản xuất với chi phí nhỏ nhất. Phương án cuối cùng được lựa chọn sẽ được đưa vào bản kế hoạch kinh doanh. 3.2.3. Kết quả thu được từ giải pháp Một trong những nội dung không thể thiếu trong mọi bản kế hoạch sản xuất đó là bảng kế hoạch sản xuất phải trả lời được câu hỏi phải sản xuất như thế nào. Việc lập kế hoạch sản xuất bám sát vào năng lực sản xuất của công ty sẽ trả lời được câu hỏi quan trọng này để hoàn thành đơn hàng để cung cấp cho thị trường. Bám sát năng lực sản xuất của mình công ty sẽ biết cách huy động, phân bổ nguồn lực cho sản xuất một cách tối ưu nhất và thực sự có ý nghĩa trong việc hạ giá thành sản phẩm và nâng cao chất lượng sản phẩm. Bên cạnh đó sẽ tăng tính chủ động của công ty trong việc đưa ra các giải pháp phù hợp hơn với những phương án tối ưu nhất trong giới hạn về điều kiện sản xuất cho phép. Đối với giải pháp đào tạo đội ngũ cán bộ sẽ là hoạt động khá tốn kém so với hoàn cảnh hiện tại của công ty. Giải pháp này có thể được thực hiện khi điều kiện kinh doanh thuận lợi, thu nhập của công ty được cải thiện. 3.3. Phân bổ cân đối các nguồn lực sản xuất cho các kế hoạch dài hạn, trung hạn và ngắn hạn 3.3.1. Cơ sở lý luận của giải pháp Nguồn lực cho sản xuất gồm vốn, lao động, công nghệ, cơ sở hạ tầng sản xuất. Việc phân bổ nguồn lực sản xuất cho các kế hoạch dài hạn, ngắn hạn có ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả của quá trình sản xuất. Nguồn lực sản xuất dài hạn thực chất là sự chia nhỏ nguồn lực cho kế hoạch ngắn hạn do vậy nguồn lực ngắn hạn là những đơn vị cơ sở để hình thành nguồn lực cho dài hạn. Việc sử dụng đúng mục đích, đúng nguyên tắc của các nguồn lực sẽ giúp công ty phát huy được tính hiệu quả của các nguồn lực cũng như tránh được các rủi ro khi sử dụng sai mục đích, sai nguyên tắc. Trong điều kiện nguồn lực sản xuất của các công ty đều có hạn thì việc phân bổ nguồn lực hợp lý lại càng trở nên quan trọng. Mỗi nguồn lực khi vận động đều có vòng quay, sau một thời gian nhất định nó sẽ trở về trạng thái ban đầu (chẳng hạn như vòng quay vốn, vòng quay hàng tồn kho). Do vậy việc phân bổ nguồn lực sản xuất cho dài hạn và ngắn hạn không cân đối sẽ là điều rất nguy hiểm bởi vì có thể làm gián đoạn việc cung ứng các nguồn lực và như thế quá trình sản xuất khó có thể hoàn thành đúng tiến độ. Một số nguồn lực lại có thể cung ứng ổn định thuộc về các kết cấu hạ tầng như nhà xưởng, kho bãi thì thông qua việc tính toán khấu hao thì việc phân bổ trở nên đơn giản hơn nhiều. 3.3.2. Cơ sở thực tiễn của giải pháp Trong các nguồn lực cho sản xuất kinh doanh thì nguồn tài chính là quan trọng nhất nó được các chủ doanh nghiệp xem như là những mạch máu của doanh nghiệp. Việc cân đối nguồn tài chính để tính toán ngân sách cho các kế hoạch là rất quan trọng. Nguyên tắc của việc sử dụng tài chính là nguồn vốn dài hạn sẽ tài trợ cho các hoạt động dài hạn, nguồn vốn ngắn hạn sẽ tài trợ cho các hoạt động ngắn hạn nhằm đảm bảo nguồn tài trợ liên tục. Đây là nguyên tắc bất biến trong quản lý tài chính. Đặc biệt lĩnh vực sản xuất lại liên quan nhiều đến việc lưu kho nguyên liệu, thành phẩm nên sẽ kéo dài vòng quay của vốn, thời gian thu hồi vốn sẽ bị kéo dài. Tư tưởng quản trị hiện đại coi tất cả những thiệt hại, hao phí trong quá trình sản xuất đều là chi phí (chi phí cơ hội) chẳng hạn như : chi phí ngưng máy, chi phí vốn do lưu kho quá lâu...Do vậy việc sử dụng vốn đúng nguồn, đúng mục đích sẽ là một nguyên tắc quản lý khoa học và hiệu quả. Sức lao động của người công nhân là có hạn, chủ doanh nghiệp chỉ có thể tăng cường độ lao động trong vài ngày và không thể tăng cường độ trong cả một năm trời. Nếu vi phạm nguyên tắc này thì chắc chắn năng suất lao động sẽ giảm do người lao động bị chi phối bởi áp lực tâm sinh lý, thể chất của mình. Hơn nữa việc tăng cường độ lao động doanh nghiệp sẽ phải tốn thêm nhiều chi phí tiền lương hơn so với mức cường độ lao động bình thường. Do vậy cần phải cân đối trong việc phân bổ lao động một cách hợp lý. Về máy móc, công nghệ cũng vậy, việc sử dụng quá công suất cho phép trong ngắn hạn sẽ làm giảm dần tuổi thọ của công nghệ, tăng chi phí sửa chữa, bảo dưỡng. Và như thế sẽ khó hoàn thành các kế hoạch dài hạn của doanh nghiệp. Đặc biệt đối với tình hình tài chính, tình hình công nghệ của công ty thì sự phân bổ hài hoà các nguồn lực này cho các kế hoạch sản xuất ngắn hạn và dài hạn lại càng rất quan trọng trong việc sử dụng hiệu quả nguồn lực cho sản xuất. Trong thời gian qua khoản nợ người lao động đã ngày một tăng là một điều không tốt trong dài hạn. Việc nợ lương người lao động quá lâu (5- 6 tháng) sẽ làm giảm niềm tin vào lãnh đạo, giảm thu nhập thực tế trong kỳ của công nhân trong khi đó công nhân phải trang trải nhiều chi phí trong đời sống hàng ngày như tiền ăn, đi lại, chi phí cho giáo dụcđã có thời điểm có một số công nhân xin nghỉ vì lý do chậm lương. Với những tình trạng như trên thì không thể tăng năng suất lao động được. Do vậy trong thời gian tới công ty nên khắc phục tình trạng này. Nợ lương người lao động chỉ nên là giải pháp chiếm dụng vốn tạm thời, không nên vượt quá 3 tháng, và công ty không nên lạm dụng nguồn lực này quá lâu. Nguồn vốn chiếm dụng từ các đối tượng khác bằng hình thức trả chậm như các khoản phải trả người bán, phải nộp thuế ngân sách là các nguồn tài chính tài trợ trong ngắn hạn công ty có thể dùng để chi trả cho các khoản chi ngắn hạn như mua nguyên liệu, trả lương công nhân. Khấu hao máy móc thiết bị cũng là một hình thức mà công ty tự cung ứng tài chính do đầu tư vào tài sản cố định. Doanh nghiệp có thể thay đổi tốc độ tự cung ứng tài chính của máy móc thiết bị trong từng thời kỳ( 5 năm) thông qua việc thay đổi phương pháp khấu hao (đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước). Hiện tại có các phương pháp khấu hao đều, khấu hao giảm dần, khấu hao theo kết quả thực tế. Mỗi phương pháp khấu hao đều có ưu, nhược điểm khác nhau về độ phức tạp, lượng khấu hao lớn hay nhỏ sẽ làm tăng hay giảm giá thành sản xuất. Do vậy với mỗi giai đoạn tuỳ theo tình hình thị truờng, tuỳ theo năng lực của cán bộ quản lý mà chọn một phương pháp khấu hao phù hợp. Đặc biệt trong giai đoạn vài năm tới thị trường khó khăn cần giảm giá thành sản phẩm do vậy cần lựa chọn phương pháp khấu hao theo kết quả thực tế sử dụng máy móc nhằm giảm chi phí khấu hao trong thời gian không sử dụng thay vì dùng phương pháp khấu hao đều như hiện tại. Công ty cần lưu ý vấn đề đầu tư thêm vào chi phí cố định trong sản xuất cũng có thể phát huy tác dụng của đòn bẩy tổng hợp (nếu hệ số đòn bẩy kinh doanh tổng hợp là A thì khi doanh thu tăng thêm b% thì EBIT sẽ tăng thêm A x b%) qua đó tăng thêm thu nhập cho công ty; công ty sẽ có nguồn tài chính để trang trải cho các hoạt động sản xuất. Tuy nhiên vấn đề này sẽ có tác dụng ngược lại khi doanh thu giảm (môi trường kinh doanh khó khăn ) sẽ làm EBIT giảm tương ứng. Đây chỉ là một gợi ý, việc xác định cụ thể xem đầu tư vào chi phí cố định với tỷ lệ so với tổng chi phí là bao nhiêu thì vừa còn tuỳ thuộc vào thái độ của cán bộ quản trị đối với rủi ro bởi vì điều kiện tiêu thụ trong thời gian tới không thể dự đoán trước được. 3.3.3. Kết quả thu được từ giải pháp Việc phân bổ các nguồn lực đúng nguồn, đúng mục đích sẽ tăng hiệu quả hoạt động của sản xuất, giúp quá trình sản xuất diễn ra bình thường. Đặc biệt việc sử dụng các nguồn lực đúng nguyên tắc nói trên sẽ làm lành mạnh hoá tình hình tài chính của công ty, tránh được những rủi ro tiềm ẩn do việc ứ đọng vốn (do lưu kho thành phẩm, đầu tư vào chi phí cố định) mà chưa thu hồi được trong khi đó áp lực thu hồi từ các nguồn tài trợ đã đến hạn thanh toán. Bộ phận sản xuất của công ty là bộ phận dễ dẫn đến tình trạng ứ đọng vốn nhất. Việc phân bổ nguồn lực sản xuất cân đối sẽ là một điều đảm bảo các hoạt động sản xuất luôn luôn nằm trong tầm kiểm soát của công ty. 3.4. Thực hiện tuyển cán bộ lập kế hoạch có trình độ chuyên môn sâu và có đạo đức nghề nghiệp cao 3.4.1. Cơ sở lý luận của giải pháp Con người là yếu tố quyết định đến các hoạt động quản trị. Cán bộ có trình độ chuyên môn tốt, có tầm quản trị tốt sẽ là cơ sở đảm bảo sự thành công cho bản kế hoạch kinh doanh. Cán bộ lập kế hoạch sản xuất trực tiếp diễn đạt những gì mà công ty cần phải làm để hoàn thành kế hoạch sản xuất. Để có một bản kế hoạch khả thi, dễ năm bắt được những ý tưởng khi đưa vào triển khai kế hoạch đòi hỏi phải có đội ngũ lập kế hoạch nắm vững được tình hình công ty và có tầm quản lý tốt. Hơn nữa, trong quá trình lập kế hoạch họ phải ý thức cao về những gì mình làm, có tinh thần trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp cao. 3.4.2. Cơ sở thực tiễn của giải pháp Nhóm kỹ năng của cán bộ quản lý khi lập kế hoạch sản xuất gồm kỹ năng phân tích thông tin, kỹ năng giải quyết những vấn đề của quản trị doanh nghiệp và kỹ năng trình bày ý tưởng. Hiện nay nhiều doanh nghiệp trong nước và trên thế giới rất coi trọng tinh thần làm việc tập thể và trong giai đoạn lập kế hoạch thường do một nhóm cán bộ quản trị đảm nhiệm. Mô hình làm việc theo tập thể sẽ đảm bảo nguyên tắc chuyên môn hoá trong việc phân tích, xử lý thông tin và bù trừ những khuyết điểm do cán bộ lập kế hoạch bị thiếu sót trong lĩnh vực nào đó của quản trị sản xuất. Vì vậy, xây dựng kế hoạch còn cần sự đóng góp của các nhân viên, chứ không nên dừng lại ở các nhà lãnh đạo cấp cao, cấp trung gian, bởi vì họ là những người có thể hiểu được công việc ở mức chi tiết hơn cả so với các trưởng phòng hay giám đốc. Hiện nay nhiều doanh nghiệp nhỏ ở Việt nam chưa thực sự coi trọng đến việc lập kế hoạch sản xuất nên việc lập kế hoạch sản xuất chưa được chi tiết mà yêu cầu của bản kế hoạch kinh doanh là càng chi tiết thì càng tốt cho việc thực thi sau này. Nguyên nhân của tình trạng này là do chọn cán bộ lập kế hoạch không đủ năng lực và lựa chọn dựa vào sự ưu ái, thiên vị và không tin tưởng cán bộ cấp dưới khi giao nhiệm vụ hoặc tình trạng cấp trên ôm đồm quá nhiều nhiều công việc cũng trở nên có tác dụng ngược lại. Tại công ty Quang Việt trong khi lập kế hoạch cấp trên đã ôm đồm quá nhiều lĩnh vực và hạn chế sự tham gia của cấp dưới. Các trưởng phòng có thể trực tiếp tham gia lập kế hoạch trong lĩnh vực mình quản lý trên cơ sở mục tiêu của công ty thay vì họ chỉ lập kế hoạch một cách gián tiếp thông qua hình thức tư vấn. Việc mời cấp dưới tham gia lập kế hoạch sẽ tạo nên một êkip làm việc hiệu quả, gắn kết các cá nhân trong công ty thành một khối vững chắc. Đặc biệt trong vấn đề lập kế hoạch đòi hỏi tính trách nhiệm cao: trách nhiệm về những phương án gây thiệt hại cho công ty, trách nhiệm về tính cập nhật của thông tin trong việc lập kế hoạch sản xuấttính minh bạch trong trách nhiệm của cán bộ lập kế hoạch sản xuất phải được đặt lên hàng đầu. Để có được đội ngũ cán bộ lập kế hoạch tốt cần phải có một quy trình tuyển chọn khoa học. Việc đưa ra được những tiêu chuẩn làm việc minh bạch, linh hoạt của bộ máy lãnh đạo cũng sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của quá trình lập kế hoạch sản xuất của doanh nghiệp. Muốn vậy, công ty lại rất cần những người có tinh thần tự giác, thích sự công khai và có thái độ làm việc chuyên nghiệp. Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Hải Dương hay các tỉnh lẻ khác trong cả nước sẽ không mấy hấp dẫn đối với các nhân tài như ở các vùng đô thị- nơi mà họ có nhiều điều kiện để phát triển kỹ năng nghề nghiệp. Vì vậy, để phát huy chất xám của nguồn nhân lực thì công ty cần phải có chế độ đãi ngộ xứng đáng, giám đốc công ty cần phải thấu hiểu tâm lý người lao động hơn và ghi nhận sự đóng góp của họ vào sự phát triển của công ty. Trong thời gian qua do điều kiện kinh doanh khó khăn của công ty mà đã có nhiều nhân viên phải từ bỏ công ty, chỉ có các lãnh đạo chủ chốt và một số nhân viên còn ở lại cho đến thời điểm này. Công ty nên trích lập quỹ khen thưởng để thưởng cho người lao động, cho cán bộ hoàn thành nhiệm vụ mặc dù là rất ít (vì công ty đang gặp khó khăn) nhưng người lao động sẽ thấy mình được tôn trọng và có giá trị tại công ty. Hơn nữa, việc trả lương chậm cũng nên có biện pháp trả lãi suất cho người lao động. Bên cạnh đó có thưởng nhưng cũng cần phải có phạt, giám đốc công ty thiết kế hệ thống làm việc của các cán bộ quản trị phải đảm bảo nguyên tắc kiểm soát được để dễ dàng phát hiện ra bộ phận có sai sót để quy kết trách nhiệm cho bộ phận đó. Có như vậy công ty mới duy trì được đội ngũ cán bộ, đội ngũ nhân viên làm việc nhiệt tình, gắn bó, làm việc với tinh thần trách nhiệm cao. 3.4.3. Kết quả thu được từ giải pháp Việc lựa chọn được cán bộ lập có đủ đức đủ tài để lập kế hoạch sản xuất sẽ tạo ra cho công ty một đội ngũ cán bộ năng động, nhạy cảm với sự thay đổi của môi trường kinh doanh. Trước hết sản phẩm của quá trình tuyển chọn đội ngũ cán bộ lập kế hoạch có năng lực là cho ra những bản kế hoạch sản xuất mạch lạc, lôgic giúp cho các đối tượng sử dụng dễ dàng nắm bắt được những ý tưởng, những nội dung mà bản kế hoạch sản xuất đề cập qua đó tăng thêm sự tin tưởng của đối tác kinh doanh. Quan trọng hơn cả đối với bản thân doanh nghiệp là nó còn đảm bảo tính khả thi cao trong quá trình thực thi kế hoạch bởi lẽ đã không ít doanh nghiệp Việt nam trong quá khứ đã đặt chỉ tiêu quá cao hay quá thấp cho bộ phận sản xuất nên đã không hoàn thành kế hoạch, hay tận dụng chưa hết năng lực của mình. Cán bộ có đủ đức sẽ giúp cho công ty tránh được xu hướng chủ nghĩa cá nhân khi có cán bộ vì tư tưởng cá nhân dẫn đến sự bất hợp tác trong khi lập kế hoạch mặc dù có đủ tài để đảm nhận một lĩnh vực nào đó trong kế hoạch sản xuất như tài chính, marketing, sản xuấtKhắc phục được điều này sẽ giúp công ty tạo thành một mô hình làm việc theo nhóm hiệu quả, một ekip làm việc nhịp nhàng, chuyên nghiệp để giải quyết không những bản kế hoạch sản xuất mà hơn thế nữa còn cùng nhau xử lý những vấn đề phát sinh trong quá trình thực thi kế hoạch. Xét trên phương diện hiệu quả thì sự lựa chọn đúng đắn đội ngũ cán bộ còn giúp cho công ty sử dụng có hiệu quả tri thức của nguồn nhân lực vào các hoạt động của công ty- đây là điều mà bất cứ một doanh nghiệp nào đều mong muốn trong suốt quá trình tồn tại và phát triển. Kết luận Công tác lập kế hoạch sản xuất là một khâu rất quan trọng trong hoạt động quản trị sản xuất đặc biệt là trong điều kiện nền kinh tế thị trường của nước ta đã và đang hội nhập sâu hơn, rộng hơn với các nền kinh tế khác trên thế giới. Trong những năm vừa qua do đặc điểm về các nguồn lực của công ty, do những biến động của thị trường thức ăn chăn nuôi nên công tác lập kế hoạch sản xuất dù đã khá chi tiết song không thể tránh khỏi những tác động xấu của môi otrường kinh doanh bên ngoài trong khi đó công ty mới thành lập kinh nghiệm kinh doanh trên lĩnh vực thức ăn chăn nuôi so với các doanh nghiệp cùng nghành còn nhiều hạn chế. Xuất phát từ tầm quan trọng của quá trình lập kế hoạch, trong thời gian tới công ty TNHH Thương mại Quang Việt cần phải hoàn thiện hơn công tác hoạch định sản xuất nhằm huy động và sử dụng các nguồn lực đầu vào một cách hiệu quả hơn. Trong quá trình thực tập tại công ty, dựa trên sự quan sát những vấn đề phát sinh trong quá trình sản xuất, dựa vào kiến thức quản lý được đào tạo trên giảng đường đại học em xin phép đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác lập kế hoạch sản xuất tại công ty TNHH Thương mại Quang Việt. Hy vọng rằng với sự đóng góp của ý kiến của em sẽ phần nào cải thiện hiệu quả công tác lập kế hoạch sản xuất thức ăn chăn nuôi trong thời gian tới. Em xin chân thành cảm ơn các chú, các bác tại Công ty đã tạo mọi điều kiện cho em trong suốt thời gian thực tập tại Công ty; các thầy cô trong Khoa quản trị kinh doanh- Trường ĐH Kinh tế quốc dân, đặc biệt là cô Trần Thị Phương Hiền đã tận tình chỉ bảo giúp em hoàn thành chuyên đề thực tập này. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Giáo trình Quản trị sản xuất và tác nghiệp- NXB Giáo dục, Thạc sĩ Trương Đoàn Thể. 2. Giáo trình Quản trị kinh doanh- NXB lao động-xã hội, chủ biên GS.TS Nguyễn Thành Độ, TS. Nguyễn Ngọc Huyền. 3. Giáo trình Quản lý công nghệ- NXB Thống kê, chủ biên Nguyễn Đăng Dậu, Nguyễn Xuân Tài. 4. Quản trị chi phí kinh doanh- NXB Thống kê, chủ biên TS. Nguyễn Ngọc Huyền. 5. Đạo đức kinh doanh và văn hoá doanh nghiệp- NXB Lao động xã hội, chủ biên TS. Nguyễn Mạnh Quân. 6. Kế toán quản trị và phân tích kinhh doanh- NXB Thống kê, biên soạn Phạm Văn Dược 7. Giáo trình Quản trị tài chính doanh nghiệp- chủ biên PGS.TS. Lưu Thị Hương, PGS.TS. Vũ Duy Hào. 8. The principles of macro economics- Professor Mankiw, Harvard University- USA. 9. Tư tưởng Hồ Chí Minh về gắn lý luận với thực tiễn- NXB Chính trị quốc gia. 10. Tình hình sản xuất thức ăn chăn nuôi tại Việt nam- cục chăn nuôi, www.cucchannuoi.gov.vn/. 11. Diễn biến giá cả nguyên liệu nông sản- tác giả Ngọc Tiến, báo nông nghiệp số 164 ra ngày 16/8/2007. 12. Chiến lược phát triển nghành chăn nuôi năm 2010- Bộ kế hoạch và đầu tư, www.mpi.gov.vn. 13. Kinh tế trang trại- Động lực chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, theo Thông tấn xã Việt nam. 14. Giới thiệu về Lean Manufacturing cho các doanh nghiệp Việt nam- Mekong Capital (4/6/2004). 15. Nội dung cuộc trao đổi của đài RFA và chủ tịch hiệp hội thức ăn chăn nuôi Việt nam- ông Lê Bá Lịch- www.rfanews.org/vietnamese/. 16.Dự báo tình hình lương thực thế giới- Theo Food Outlook, tháng 12/2004 của FAO. 17. Dự báo giá ngũ cốc năm 2008- Trung tâm thông tin thương mại, bộ Công Thương 21/9/2007. 18. Cung – cầu lương thực thế giới 2004, 2005- Trung tâm thông tin khoa học công nghệ quốc gia. Nhận xét của cán bộ tại cơ sở thực tập

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc7801.doc
Tài liệu liên quan