Đề tài Nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại Việt Nam trong quá trình hội nhập

MỤC LỤC Mở đầu 1 Chương I. Những vấn đề chung về cạnh tranh và hội nhập của NHTM 2 I. Khái quát về cạnh tranh trong ngành ngân hàng 2 I.1. Quy luật về hợp tác kinh tế và xu hướng toàn cầu hóa 2 I.2. Vai trò của ngành ngân hàng trong hội nhập 2 I.3. Xu thế cạnh tranh giữa NHTM nước ngoài và NHTM Việt Nam 3 II. Cơ hội và thách thức đối với ngân hàng thương mại Việt Nam trong quá trình hội nhập 4 II.1. Những cơ hội mở ra cho ngành ngân hàng trong quá trình hội nhập 4 II.2. Những thách thức đối với NHTM Việt Nam 6 II.2.1. Những thách thức đối với khách hàng của ngân hàng 6 II.2.2. Thách thức trực tiếp đối với ngân hàng 7 Chương II. Thực trạng năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam 9 I. Thực trạng về năng lực cạnh tranh của các NHTM Việt Nam 9 I.1. Về quy mô và vốn tự có 9 I.2. Về chất lượng hoạt động 10 I.3. Về chất lượng phục vụ 10 II. Tình hình hoạt động của khối ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam thời gian qua 11 II.1. Về huy động vốn 12 II.2. Cho vay 13 II.3. Hoạt động ngân hàng quốc tế 13 Chương III. Các giải pháp cơ bản nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của NHTM Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế 14 I. Cần phải xây dựng hoàn thiện và sửa đổi hệ thống luật ngân hàng cho thống nhất và phù hợp với yêu cầu thực tiễn và lộ trình hội nhập 14 II. Nâng cao vai trò quản lý và điều tiết của ngân hàng nhà nước 15 II.1. Thực hiện chính sách tài chính tiền tệ linh hoạt, nâng cao vai trò điều tiết, kiểm soát tiền tệ của ngân hàng nhà nước 15 II.2. Tăng cường vai trò thanh tra, giám sát của ngân hàng trung ương 17 II.3. Cải tổ, cơ cấu lại ngân hàng nhà nước nhằm nâng cao hơn nữa vai trò và chức năng quản lý điều tiết của ngân hàng nhà nước 18 III. Nâng cao khả năng tài chính, tăng vốn tự có cho các NHTM 18 III.1. Phát triển vốn từ bên trong 18 III.2. Gia tăng vốn từ nguồn bên ngoài 20 IV. Nguồn nhân lực 21 V. Nâng cao sức cạnh tranh bằng hiện đại hóa công nghệ ngân hàng 24 VI. Giải pháp hình thành liên minh chiến lược NHTM 26 Kết luận 28 Tài liệu tham khảo

doc44 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1622 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại Việt Nam trong quá trình hội nhập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
là chủ yếu, trong đó hoạt động tín dụng chiếm 70 dến 80% ( trừ ngân hàng Ngoại thương Việt Nam thì các hoạt động tín dụng của các ngân hàng khác là tương đương nhau). Các nghiệp vụ kinh doanh còn nghèo nàn. Đây là hạn chế khả năng cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài (ngay cả các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam hiện nay). Nợ quá hạn và nợ xấu (nợ xấu theo quy định hiện hành bao gồm: nợ hạch toán trên tài khoản nợ quá hạn và nợ xấu khác) tuy đã giảm mạnh so với trước đây những vẫn còn cao, tỷ lệ nợ quá hạn lên tới 7% (năm1998 là 13%), có NHTM còn cao hơn. theo số liệu thống kê tính đến thời điểm cuối năm 2000 tổng số nợ tồn đọng của hệ thống NHTM Việt Nam là 23.575 tỷ đồng và đến ngày 31/12/2003, tỷ lệ nợ quá hạn của tất cả các TCTD so với tổng dư nợ là 6,4%, riêng các TCTD trong nước là 6,8%, trong đó nợ quá hạn khó đòi chiếm 50% so với tổng số nợ quá hạn; nợ chờ xử lý và nợ xấu khác chiếm 57% tổng số nợ xấu. Nguyên nhân chính của nợ xấu còn cao thì nhiều nhưng có một nguyên nhân rất quan trọng là do xử lý nợ tồn đọng chậm. Tuy nợ xấu của các TCTD ở mức 6,4% nhưng một số ngân hàng còn cao hơn nhiều trong đó có cả NHTM Nhà nước và NHTM cổ phần. I.3. Về chất lượng phục vụ. Một là, cạnh tranh về mở rộng mạng lưới, chức năng hoạt động: nhằm tạo điều kiện cho khách hàng có thể tiếp cận thuận lợi các dịch vụ ngân hàng một cách nhanh nhất và thuận lợi nhất. Hiện nay các NHTM nhà nước đã có chi nhánh ở hầu hết các tỉnh và thành phố trong cả nước, ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn đã mở rộng mạng lưới về đến tận vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa. Tuy nhiên việc mở rộng mạng lưới phục vụ của các ngân hàng thương mại cổ phần còn hạn chế, chỉ ở phạm vi các thành phố lớn, các trung tâm. Hai là, hoạt động cạnh tranh về ứng dụng công nghệ thông tin: hầu hết các tổ chức tài chính rất chú trọng đến ứng dụng công nghệ thông tin, một số ngân hàng đã và đang trong giai đoạn cuối tiếp nhận dự án hiện đại hoá ngân hàng và công nghệ thanh toán...Việc triển khai ứng dụng công nghệ thông tin là cơ sở quan trọng để các tổ chức này nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ, đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ nhằm đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng. Tuy nhiên mức độ đâu tư còn hạn chế, phần lớn công việc vẫn đang làm thủ công, mức độ được tin học hoá chưa cao, so với các nước trên thế giới và ngay cả trong khu vực vần tồn tại một khoảng cách không nhỏ. Ba là, hoạt động cạnh tranh về đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ tài chính, từ đầu năm 2003 có rất nhiều sản phẩm mới được ra đời trong hệ thống NHTM trong nước như chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn, dài hạn, tiết kiệm trúng thưởng ôtô; tiết kiệm tích lũy, tiết kiệm phát lộc, trái phiếu, phát hành thẻ ATM, thẻ tín dụng, cho vay mua ôtô, cho vay mua nhà trả góp, ngân hàng trực tiếp...Các NHTM đã rất coi trọng đến công tác marketing, lắng nghe ý kiến khách hàng, bằng việc giảm thiểu các thủ tục không cần thiết, xử lý nhanh gọn các yêu cầu của khách hàng, thu tiền tại nhà...NHĐT&PTVN là hệ thống ngân hàng đầu tiên áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001,2000, liên tục đổi mới việc cung cấp sản phẩm, dịch vụ ngân hàng nhằm thỏa mãn tốt nhất sự hài lòng của khách hàng, và đây cũng là ngân hàng duy nhất của Việt Nam được công nhận là Ngân hàng có hệ thống thanh toán tốt nhất thế giới hiện nay. NHNo&PTNTVN đã là ngân hàng tài trợ chính thức cho Seagame22… Mặc dù đã có nhiều sự mở rộng và nâng cao chất lượng dịch vụ như vậy nhưng nhìn chung sản phẩm dịch vụ ngân hàng chưa đầy đủ, chưa hình thành được hệ thống thanh toán liên ngân hàng giữa các ngân hàng trong nước gây bất tiện cho khách hàng, số lượng ngân hàng được hiện đại hoá không nhiều. Bốn là, cạnh tranh về chiến lược kinh doanh: chất lượng cạnh tranh của các tổ chức tài chính cũng đi đến yêu cầu, đòi hỏi trình độ cao và tinh xảo hơn. Đầu năm 2003, NHĐT&PTVN đã đưa ra sản phẩm huy động vốn rất độc đáo là chứng chỉ tiền gửi cả ngắn hạn và dài hạn. Đây là sản phẩm lần đầu tiên áp dụng tại Việt Nam thu hút được nhiều khách hàng quan tâm, đầu tư tiền gửi chỉ trong thời gian ngắn, ngân hàng này đã thu hút được lượng vốn theo nhu cầu, kế hoạch của mình, đáp ứng tốt cho các dự án mà ngân hàng này đã cam kết cấp tín dụng. NHNTVN đưa ra chương trình huy động vốn ngắn hạn với sự kiện Seagame22. Các ngân hàng Việt Nam vẫn chủ yếu chiếm giữ thị phần trong nước là chủ yếu chưa có chiến lược vươn ra xa vượt biên giới. TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA KHỐI NGÂN HÀNG LIÊN DOANH VÀ CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM THỜI GIAN QUA. Từ năm 1990, khi Việt Nam thực hiện mở cửa kinh tế, khu vực ngân hàng cũng đã được mở cửa cho các ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam dưới hai hình thức là liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Số lượng các chi nhánh ngân hàng nước ngoài liên tục tăng từ năm 1990 đến 1997 và từ 1998 đến nay có khuynh hướng chững lại về số lượng ngân hàng cũng như thị phần hoạt động. Về mặt tín dụng, các ngân hàng nước ngoài hoạt động cho vay chủ yếu là các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam. Theo số liệu đầu năm 2003 của ngân hàng Nhà nước, tổng tài sản Có của khối ngân hàng nước ngoài và ngân hàng liên doanh chiếm 10,42% tổng tài sản Có của cả hệ thống; thị phần cho vay chiếm khoảng 8,4% thị phần tín dụng; huy động của khối ngân hàng nước ngoài chiếm 8,8% thị phần huy động trong nước. Thị phần cho vay và huy động vốn của NHTM Việt Nam (31/12/2001) Khối ngân hàng Số lượng (ngân hàng/định chế) Tín dụng/ cho vay (%) Huy động (%) Tài sản Có so với tài sản Có của cả hệ thống (%) NHTMNN NH Liên doanh CN-NH nước ngoài NH TMCP Quỹ tín dụng ND Tổng cộng 4 4 26 39 887 79.50 1.10 9.06 9.12 9.47 100 78.51 1.13 10.01 9.47 0.88 100 77.31 1.45 1.97 9.86 0.41 100 Nguồn: TC Nghiên cứu kinh tế 306- Tháng 11 năm 2003 Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ tín dụng trong các năm của các ngân hàng nước ngoài là khá thấp chưa tới 1%. Điều này cho thấy khả năng quản lý của ngân hàng nước ngoài khá tốt. Tuy nhiên có một số ý kiến cho rằng các ngân hàng nước ngoài chỉ "chọn miếng ngon", chọn những khách hàng làm ăn có lãi, rủi ro thấp nhất và đẩy các doanh nghiệp còn lại với rủi ro nhiều hơn cho ngân hàng trong nước phục vụ. Thực tế có thời kỳ các ngân hàng nước ngoài đã cố gắng giành lấy các tổng công ty nhà nước có doanh số xuất nhập khẩu lớn. II.1. Về huy động vốn Đến nay, trên lãnh thổ Việt Nam có gần 100 định chế tài chính nhận tiền gửi. Trong nhiều năm qua, các NHTM Nhà nước vẫn chiếm gần 80% thị phần huy động trong nước; các ngân hàng thương mại cổ phần có thị phần huy động chiếm khoảng 10%; khối ngân hàng nước ngoài chiếm thị phần khoảng 11%. Điều đáng chú ý là từ năm 2002 thị phần của khối chi nhánh ngân hàng nước ngoài có xu hướng giảm đi cùng với giảm quy mô về tài sản Có so với tổng tài sản Có của cả hệ thống. Về thị phần của khối ngân hàng trên cho thấy, các NHTM Nhà nước vẫn là nhóm ngân hàng chi phối thị trường. Các chi nhánh ngân hàng nước ngoài sẽ trở thành đối thủ cạnh tranh về huy động vốn đối với các NHTM trong nước khi Việt Nam bỏ các hạn chế huy động VND. II.2. Cho vay. Nếu so sánh giữa các nhóm ngân hàng thì NHTM Nhà nước vẫn đóng vai trò chủ đạo trong việc cung vốn cho nền kinh tế. Trong những năm qua, các NHTM Nhà nước thường chiếm gần 80% thị phần tín dụng và thị phần của khối ngân hàng nước ngoài có chiều hướng thu hẹp lại. Vào thời điểm tháng 12/2002 thị phần cho vay của khối ngân hàng nước ngoài và liên doanh là 8,9%. II.3. Hoạt động ngân hàng quốc tế. Trong hai năm 2000 và 2001, lượng tiền gửi nước ngoài của các NHTM Việt Nam đã tăng liên tục và đạt khoảng 20% tổng tài sản Có của cả hệ thống. Khối ngân hàng nước ngoài có tỷ trọng tiền gửi nước ngoài trên dưới 30% tài sản Có trong khi khối NHTM Nhà nước là 20%. Tiền gửi ở nước ngoài tăng lên phản ánh quan hệ mở cửa nhiều hơn với bên ngoài. Tuy nhiên, nếu so sánh tỷ lệ tiền gửi tiền ở nước ngoài giữa hai nhóm NHTM Nhà nước và nhóm ngân hàng nước ngoài ta thấy còn một khoảng cách khá xa. Sự khác biệt này cũng có thể dựa trên nhận xét rằng các NHTM trong nước còn thua kém nhiều so với các ngân hàng nước ngoài trên phương diện quản lý danh mục đầu tư ở phạm vi toàn cầu hoặc về hoạt động ngân hàng quốc tế. CHƯƠNG III CÁC GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA NHTM VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Toàn cầu hóa đã trở thành xu thế tất yếu trong tiến trình phát triển kinh tế thế giới. Để giành thế chủ động trong tiến trình hội nhập, Việt Nam cần xây dựng hệ thống ngân hàng có uy tín, có khả năng cạnh tranh, họat động hiệu quả, an toàn, có khả năng huy động tốt hơn các nguồn vốn trong xã hội và mở rộng đầu tư đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Để đạt được những mục tiêu trên cần thực hiện những giải pháp sau I. CẦN PHẢI XÂY DỰNG HOÀN THIỆN VÀ SỬA ĐỔI HỆ THỐNG LUẬT NGÂN HÀNG CHO THỐNG NHẤT VÀ PHÙ HỢP VỚI YÊU CẦU THỰC TIỄN VÀ LỘ TRÌNH HỘI NHẬP Hiện nay, Nhà nước ta đã ban hành luật ngân hàng để toàn bộ hệ thống ngân hàng đang hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam phải tuân theo. Nhưng hệ thống pháp luật trong nước, thể chế thị trường còn chưa đầy đủ, chưa đồng bộ và chưa nhất quán còn quá nhiều bất cập so với yêu cầu hội nhập quốc tế . Hơn nữa, trong hệ thống luật ngân hàng trong nước còn nhiều điều chưa phù hợp với luật pháp quốc tế: nội dung của GAST(WTO), hiệp định thương mại Việt-Mỹ... Do đó, cần phải tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm tạo hành lang pháp lý có hiệu lực, đảm bảo sự bình đẳng, an toàn cho mọi tổ chức họat động dịch vụ ngân hàng và tài chính trên lãnh thổ Việt Nam. Nghiên cứu, rà soát lại hệ thống luật của ta để tìm ra những điểm bất cập trong luật pháp và những điểm không phù hợp với luật pháp quốc tế để sửa đổi bổ sung, sửa đổi lại hệ thống luật ngân hàng của ta sao cho phù hợp với luật quốc tế. Tránh tình trạng NHTM Việt Nam họat động theo luật ngân hàng Việt Nam nhưng lại vi phạm luật phát quốc tế đem lại nhiều bất lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam khi làm ăn, hợp tác với các đối tác nước ngoài. Bên cạnh đó, luật ngân hàng cần quy định cụ thể, rõ ràng các điều khoản về việc thu hồi và xử lý nợ. Một thực trạng hiện nay làm những người thu hồi nợ rất vất vả là cơ chế pháp lý cho việc thu hồi nợ vừa thiếu vừa mâu thuẫn; vừa không nghiêm trong việc chấp hành, vừa kéo dài trong thi hành án, vừa vướng mắc ngay từ văn bản luật, pháp lệnh... đến các văn bản khác thấp hơn. Do đó, cần phải thiết lập một cơ chế pháp lý khắc phục những bất cập này sao cho phù hợp với các đặc trưng yêu cầu của họat động tín dụng. Một điều đáng lưu ý trong cơ chế pháp lý có hiệu quả là phải có các biện pháp thích hợp và xử lý nợ có hiệu quả, tránh tình trạng thủ tục rườm rà kéo dài qua nhiều tầng nấc. Nên áp dụng biện pháp cho vay "để đương" đối với tài sản đảm bảo có giá trị lâu dài hoặc mất ít giá trị sử dụng (như đất đai, nhà cửa ..) tức người vay cần phải làm giấy tờ chuyển giao quyền sở hữu tài sản cho bên vay với điều kiện bên vay không được trả nợ. Điều quan trọng không kém là trong quá trình thi hành án cũng nên hạn chế sự can thiệp của các cơ quan thẩm quyền phải ngưng lại việc xử lý nợ, gây thiệt hại cho ngân hàng. Còn nếu sau khi kiểm tra mà có kết quả không thay đổi thì thiệt hại cho ngân hàng trong thời gian ngưng phải được bồi thường từ cơ quan chức năng đó. Hơn nữa, trong luật ngân hàng sửa đổi nên quy định việc lương bậc và quyền lợi của cán bộ, công nhân viên của các ngân hàng thương mại quốc doanh phụ thuộc vào kết quả họat động của doanh nghiệp mà họ đang làm việc. Điều này sẽ huy động được tối đa khả năng công tác của cán bộ, công nhân viên, và tinh thần trách nhiệm của họ trong công việc. Tránh tình trạng ỷ lại, đùn đẩy nhau trong công việc, làm việc vô trách nhiệm, cứ làm cứ hưởng, lỗ nhà nước chịu ở một số ngân hàng thương mại quốc doanh hiện nay. Trong luật ngân hàng cũng cần phải có các điều khỏan quy định chặt chẽ về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và phạm vi họat động của lực lượng kiểm toán. Để lực lượng kiểm toán có cơ sở pháp lý vững chắc nhằm giúp họat động kiểm toán họat động hiệu quả hơn. Kiểm toán nội bộ là một hoạt động nội kiểm có tính độc lập trong các cơ quan, đơn vị kinh tế thực hiện với chức năng chính là kiểm tra, đánh giá các họat động tài chính và phi tài chính nhằm bảo vệ tài sản của doanh nghiệp cũng như bảo đảm được sự chính xác và độ tin cậy của các sổ sách kế toán, nâng cao hiệu quả họat động trong doanh nghiệp và góp phần hoàn thiện hệ thống quản lý tại các đơn vị kinh tế cơ sở. Thực hiện tốt công tác kiểm toán sẽ giảm được độ rủi ro và tăng thêm hiệu quả của hoạt động kinh doanh ngân hàng. Tăng cường khuôn khổ pháp lý cho hoạt động của các tổ chức tín dụng, thiết lập hệ thống đánh giá, phân loại các tổ chức tín dụng theo tiêu chuẩn quốc tế đảm bảo Việt Nam có thể tham gia đầy đủ vào các tổ chức kinh tế khu vực và quốc tế trong lĩnh vực tài chính ngân hàng. Xây dựng cơ chế quản lý ngoại hối theo hướng tự do hóa các giao dịch vãng lai, kiểm soát có chọn lựa các giao dịch tài khoản vốn. Xây dựng hệ thống các biện pháp kiểm soát chu chuyển vốn quốc tế đặc biệt là vốn ngắn hạn, kiểm soát nợ nước ngoài, kiểm soát và hạn chế tối đa việc sử dụng ngoại tệ trên lãnh thổ Việt Nam. II. NÂNG CAO VAI TRÒ QUẢN LÝ VÀ ĐIỀU TIẾT CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC II.1. Thực hiện chính sách tài chính tiền tệ linh họat, nâng cao vai trò điều tiết, kiểm soát tiền tệ của ngân hàng nhà nước Các NHTM muốn họat động tốt yêu cầu phải có một chính sách tiền tệ linh họat, nâng cao vai trò điều tiết, kiểm sóat tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước nhằm ổn định sức mua của đồng tiền, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện và có sự phối kết hợp linh hoạt trong điều hành các công cụ chính sách tiền tệ. Triển khai các giải pháp phát triển thị trường tiền tệ theo Đề án hoàn thiện và phát triển thị trường tài chính Việt Nam. Đổi mới chính sách tiền tệ theo hướng vận dụng các công cụ chính sách gián tiếp, hoàn thiện thị trường mở; Nâng cao chất lượng phân tích, dự báo kinh tế phục vụ cho việc hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ của ngân hàng Trung ương. Phối hợp với các bộ, các ngành để có sự phối hợp nhịp nhàng hơn giữa các chính sách kinh tế vĩ mô ( chính sách tiền tệ với quản lý nợ của chính phủ, chính sách tài khóa..). Hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất đồng nội tệ và ngoại tệ theo hướng tự do hóa có sự điều tiết gián tiết có hiệu quả của Nhà nước. Bổ sung, sửa đổi hoặc trình Chính phủ sửa đổi các quy định về ngoại hối cho phù hợp với yêu cầu quản lý và phát triển của nền kinh tế trong xu thế hội nhập. Thực hiện việc phân cấp, uỷ quyền về quản lý ngoại hối cho các chi nhánh ngân hàng nhà nước tỉnh, thành phố và tăng cường công tác ngiên cứu họach định chính sách tại ngân hàng Trung ương. Xây dựng hệ thống cơ quản lý ngọai tệ theo hướng tự do hóa có kiểm sóat bằng pháp luật. Nghiêm cấm mọi hành vi thanh toán bằng tiền mặt ngoại tệ trong lãnh thổ Việt Nam. Thực hiện triệt để phương châm "trên lãnh thổ Việt Nam chỉ tiêu tiền Việt Nam". Thực hiện thống nhất một đầu mối quản lý ngoại tệ quốc gia là ngân hàng Trung ương. Phát triển mạnh thị trường ngoại hối làm cơ sở để hạn chế người cư trú mở tài khỏan ngoại tệ tại ngân hàng và tiến tới chấm dứt tín dụng ngoại tệ. Cải cách mệnh giá đồng tiền và có chính sách kích thích cho đồng tiền Việt Nam nhanh chóng được tự do chuyển đổi, trước hết là chuyển đổi trong các cân vãng lai. Xây dựng và hoàn thiện thị trường tài chính, đặc biệt là thị trường tiền tệ ngắn hạn, tạo môi trường để áp dụng phổ biến các công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ. Đồng thời nhanh chóng thành lập trung tâm thanh toán quốc gia do ngân hàng Trung ương vận hành để hiện đại hóa nền văn minh ngân hàng Việt Nam và là một phương tiện hữu hiệu để ngân hàng Trung ương kiểm soát mọi kênh dẫn vốn trong thanh toán nội địa và thanh toán quốc tế, đảm bảo an toàn, nhanh chóng, chính xác và thuận lợi cho họat động thanh toán của kho bạc Nhà nước và của bất cứ ngân hàng nào trên lãnh thổ Việt Nam. Xây dựng hệ thống thông tin tài chính hiện đại, đảm bảo cho hệ thống tài chính hoạt động hiệu quả, dễ giám sát theo họat động quốc tế. Tập trung triển khai các nhiệm vụ của Ngân hàng Nhà nước tại chỉ thị số 27/2003/CT- TTg của Thủ tướng Chính phủ về tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện luật doanh nghiệp khuyến khích phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Cụ thể trong 6 tháng đầu năm 2004, tập trung rà soát, sửa đổi , bổ sung các quy định về thanh tóan hàng hóa, dịch vụ xuất nhập khẩu với các nước có chung biên giới để thúc đẩy việc trao đổi hàng hóa qua biên giới. II.2. Tăng cường vai trò thanh tra, giám sát của ngân hàng Trung ương Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện công tác thanh tra cả về nghiệp vụ và đội ngũ cán bộ nhằm tạo chuyển biến mạnh về chất trong hoạt động thanh tra. Bám sát thực tiễn hoạt động của các tổ chức tín dụng để sớm phát hiện và ngăn chặn kịp thời các sai phạm. Tập trung, chú trọng thanh tra chất lượng hoạt động tín dụng của các NHTM nhà nước và công tác kiểm tra, kiểm toán nội bộ của các TCTD nhằm quản lý tốt chất lượng tín dụng; phát hiện và cảnh báo kịp thời những khoản vay có rủi ro; xử lý nghiêm các tổ chức và cá nhân sai phạm theo đúng quy định của pháp luật. Thiết lập hệ thống cảnh báo sớm và cơ chế phân loại nợ theo mức độ rủi ro để phản ánh chính xác chất lượng tín dụng, ngăn chặn sự gia tăng nợ xấu và tổng mức rủi ro đối với mỗi ngân hàng và toàn bộ hệ thống. Xây dựng các chỉ tiêu giám sát và đổi mới các chỉ tiêu giám sát từ xa theo tiêu chuẩn quốc tế. Đổi mới và nâng cao chất lượng công tác thanh tra, đặc biệt là chất lượng của các cuộc thanh tra tại chỗ. Chấm dứt hiện tượng kết luận thanh tra không rõ ràng, không quy trách nhiệm cụ thể cho tổ chức cá nhân vi phạm. Các đoàn thanh tra, kiểm tra chịu trách nhiệm trước tránh thanh tra, thống đốc ngân hàng nhà nước và trước pháp luật về kết quả thanh ta kiểm tra đối với các tổ chức tín dụng. Thanh tra ngân hàng nhà nước cần tăng cường các thiết chế an toàn kết hợp với nâng cao năng lực điều hành, chỉ đạo thống nhất hệ thống thanh tra ngân hàng và chịu trách nhiệm về việc theo dõi, tổng hợp, phân tích, đánh giá tình hình về chất lượng tín dụng, kết quả xử lý nợ xấu (bao gồm cả nợ quá hạn , nợ khoanh, nợ chờ xử lý), nợ tồn đọng của toàn hệ thống TCTD để kịp thời đề xuất với thống đốc ngân hàng nhà nước biện pháp xử lý, cảnh báo các tổ chức tín dụng biểu hiện rủi ro, thiếu an tòan. Thông qua thanh tra, giám sát nhằm tăng cường tính công khai, minh bạch trong hoạt động ngân hàng để củng cố lòng tin của nhân dân vào hệ thống ngân hàng Việt Nam. Các đơn vị từ Trung ương tới các chi nhánh tỉnh, thành phố, các TCTD cần coi đây là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt trong quá trình hội nhập và phải tập trung chỉ đạo, triển khai kiên quyết, nghiêm túc nhằm tạo sự chuyển biến thật sự về hiệu quả trong họat động thanh tra, giám sát của Ngân hàng Nhà nước và toàn bộ hệ thống NHTM. Trong điều kiện hiện nay, Ngân hàng Nhà nước cần phải có biện pháp kiểm tra, giám sát hoạt động cho vay của các NHTM trong nước, đảm bảo chất lượng tín dụng. Nếu không có các biện pháp thích hợp mà chạy theo lợi nhuận, các NHTM có thể lơi lỏng việc thẩm định lại dự án gây hậu quả xấu đến toàn hệ thống. Ngoài ra cần có biện pháp loại bỏ hiện tượng cò tín dụng, giảm bớt chi phí cho các doanh nghiệp, cũng như nâng cao khả năng tiếp cận của các doanh nghiệp đối với hệ thống ngân hàng. II.3. Cải tổ, cơ cấu lại Ngân hàng Nhà nước nhằm nâng cao hơn nữa vai trò và chức năng quản lý điều tiết của ngân hàng nhà nước Cần phải cải tổ lại ngân hàng nhà nước theo hướng nâng cao năng lực quản lý, khả năng phân tích tài chính, phân tích kinh tế vĩ mô, cần tách biệt rõ ràng những họat động mang tính chuyên môn, nghiệp vụ - những họat động thuộc phạm vi chức năng ngân hàng mẹ - quản lý điều hành họat động về tiền tệ, tín dụng ngân hàng của toàn nền kinh tế. Không để lẫn lộn hoạt động chuyên môn nghiệp vụ với hoạt động mang tính chất hành chính-hoạt động nhằm duy trì sự tồn tại của một tổ chức-nhằm giảm bớt các thủ tục rườm rà, không cần thiết, đồng thời tăng thêm tính linh hoạt, nhạy bén khi xử lý các tình huống về tiền tệ trong nền kinh tế. Xây dựng mô hình Ngân hàng Nhà nước phù hợp với chức năng ngân hàng Trung ương với những nghiệp vụ cơ bản: hoạch định và giám sát thực hiện chiến lược; hoạch định và điều hành chính sách tài chính tiền tệ; thanh tra theo tiêu chuẩn quốc tế; vận hành hệ thống thanh toán quốc gia và nghiệp vụ phát hành, kho quỹ hiện đại. Trên cơ sở đó cần có một lộ trình cấu trúc lại tổ chức của Ngân hàng Nhà nước từ Trung ương đến hệ thống chi nhánh theo hướng tập trung tinh gọn, hiện đại. III. NÂNG CAO KHẢ NĂNG TÀI CHÍNH, TĂNG VỐN TỰ CÓ CHO CÁC NHTM Vấn đề tăng vốn tự có và phát triển hệ thống luôn là những vấn đề hàng đầu của các NHTM Việt Nam trong quá trình đổi mới và phát triển. Quy mô về vốn tự có của một ngân hàng là một trong những tiêu chí đánh giá về năng lực tài chính và khả năng đảm bảo tỷ lệ an toàn của ngân hàng. Quy mô quá nhỏ bé về vốn là một trong những yếu điểm lớn, đang cản trở sự phát triển của các NHTM Việt Nam. Tuy nhiên, để khắc phục yếu điểm trên trong điều kiện cạnh tranh và hội nhập quốc tế ngày càng gia tăng áp lực, các NHTM Việt Nam cần phải tiếp tục đẩy nhanh tiến trình cơ cấu lại hệ thống ngân hàng: sát nhập hoặc giải thể các ngân hàng có mức vốn quá nhỏ, không đủ sức cạnh tranh. Mặt khác bắt buộc các ngân hàng không đủ vốn phải có biện pháp bổ sung trong một thời gian nhất định sao cho ngang bằng với mức trung bình của khu vực và đạt được mức tối thiểu 8%. Khuyến khích các ngân hàng sử dụng nhiều biện pháp khác nhau để tăng vốn từ bên ngoài kết hợp với phát triển vốn từ bên trong. III.1. Phát triển vốn từ bên trong Nếu như lợi nhuận của ngân hàng để lại có thể đáp ứng được nhu cầu gia tăng vốn của mình thì thông thường đây chính là nguồn vốn bổ sung tốt nhất. Khi ngân hàng có thể bổ sung vốn mà không làm tổn hại đến họat động kinh doanh, đến các chủ sở hữu cũng như ngân sách nhà nước thì đó là việc nên làm. Muốn vậy thì các NHTM phải nâng cao chất lượng tín dụng và hiệu quả đầu tư để nâng cao chất lượng và giá trị tài sản Có. Do đó, các NHTM phải tách hoàn toàn hoạt động cho vay chính sách ra khỏi hoạt động kinh doanh thương mại để các NHTM thực hiện tốt chức năng kinh doanh theo nguyên tắc thị trường. Hoạt động cho vay chính sách là một nghiệp vụ không mang lại lợi nhuận, nên cần phải tách hoàn toàn hoạt động này và chuyển hoạt động này sang cho Ngân hàng chính sách. Giảm dần bảo hộ các NHTM trong nước, đặc biệt về hoạt động tín dụng và cơ chế tái cấp vốn, tăng cường quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của NHTM trong kinh doanh, giảm dần bao cấp đối với các NHTM nhà nước, áp dụng đầy đủ hơn các quy chế và chuẩn mực quốc tế về an toàn trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng. Đồng thời, tự thân các NHTM phải xây dựng cho mình một chiến lược kinh doanh có hiệu quả và phù hợp với từng thời kỳ kinh doanh. Phát huy tốt nguồn vốn tự có. Nhất là chú trọng việc mở rộng quy mô họat động, hiện đại hóa công nghệ, đa dạng hóa và nâng cao tiện ích các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng hiện đại dựa trên công nghệ kỹ thuật tiên tiến; cải cách bộ máy quản lý điều hành theo tư duy kinh doanh mới; xây dựng, chuẩn hóa và văn bản hóa toàn bộ các quy trình nghiệp vụ, các họat dộng chủ yếu của các NHTM; thực hiện cải cách hành chính doanh nghiệp; xác định trách nhiệm rõ ràng, tuân thủ triệt để các quy trình và văn bản đã được xây dựng. Hơn nữa, việc mở rộng mạng lưới các chi nhánh cũng là vấn đề cần được quan tâm giải quyết hợp lý. Hiện nay, nhiều ngân hàng đang mở thêm các chi nhánh và xu hướng này có khả năng còn tiếp tục. Để làm lành mạnh hóa tài chính của các NHTM thì một yêu cầu cấp bách hiện nay đối với các NHTM Việt Nam hiện nay là phải giải quyết tốt nợ xấu, thu hồi vốn tiếp tục đầu tư kinh doanh. Nợ xấu làm cho một bộ phận tài sản Có bị đông cứng trong tài khoản thế chấp không sinh lời sẽ làm cho vốn không luân chuyển được, ngân hàng bị ảnh hưởng đến kết quả họat động kinh doanh, thậm chí còn thua lỗ, huy động vốn và cho vay, đầu tư bị thu hẹp. Trước hết, các ngân hàng phải rà soát lại các khoản nợ một cách cụ thể và chính xác, thực hiện phân loại nợ ( hoàn toàn có khả năng thu hồi, có khả năng thu hồi với những điều kiện nào hoặc thu hồi ở mức độ nào ...) để từ đó có biện pháp xử lý thích hợp đạt hiệu quả, nhưng phải quyết tâm cao, tháo gỡ từng bước với nhiều biện pháp khác nhau. Từng ngân hàng phải nỗ lực, quan tâm đến nợ xấu để tập trung giải quyết như ban hành quy chế về tổ chức hoạt động của ban xử lý nợ sao cho hoạt động có hiệu quả; tái thẩm định và phân tích nguyên nhân, tìm biện pháp xử lý tương thích... Cần phải thành lập một tổ chức mua bán nợ với nhiệm vụ mua lại nợ của các ngân hàng đang bị tồn đọng để xử lý, bán ra để thu hồi cho ngân hàng. Các NHTM cần phải xác định rõ mục tiêu tăng trưởng tài sản hàng năm và mức vốn cần đạt được để quyết định tỷ lệ lợi nhuận giữ lại sau khi tính toán các nguồn bổ sung khác. Để có căn cứ quản lý, phải thiết lập một cơ chế phù hợp buộc các NHTM phải tự tích lũy vốn; bên cạnh các quy chế về mức vốn tối thiểu và tỉ lệ an toàn vốn, nhất thiết phải đặt ra một chỉ tiêu về tỉ lệ số nhân đòn bẩy tối đa để ràng buộc các ngân hàng muốn mở rộng quy mô hoạt động phải tích lũy một lượng vốn tương ứng.Trước mắt có thể cho phép các ngân hàng sử dụng nguồn từ quỹ đầu tư phát triển và dự phòng tài chính trích lập hàng năm chưa sử dụng đến, số lợi nhuận chưa phân phối để bổ sung vốn. Tiếp đến đưa ra quy định về thời gian tối đa cho mỗi ngân hàng phải bổ sung vốn đủ mức an toàn tối thiểu, trong thời gian chưa bổ sung đủ vốn các ngân hàng không được mở rộng quy mô hoạt động. Đối với các NHTM cổ phần, khi hết thời hạn quy định nếu không đáp ứng được yêu cầu về vốn sẽ buộc phải đóng cửa hoặc sát nhập với ngân hàng khác. Mỗi ngân hàng phải xây dựng kế hoạch phát triển hàng năm và xác định tỷ lệ tích lũy từ lợi nhuận để tự bổ sung vốn sao cho phù hợp với nhu cầu mở rộng hoạt động của mình. Đồng thời, phải có chính sách khuyến khích các ngân hàng tích lũy vốn nhanh sẽ được hưởng những ưu đãi nhất định về thuế thu nhập, phí bảo hiểm tiền gửi và sự hỗ trợ của ngân hàng nhà nước khi gặp tình huống bất trắc. Trong báo cáo tài chính hàng năm của các ngân hàng nhất thiết phải bao gồm phần báo cáo tình hình tăng giảm nguồn vốn chủ sở hữu để làm căn cứ cho quá trình giám sát của cơ quan chức năng và ngân hàng nhà nước về vấn đề này. III.2. Gia tăng vốn từ nguồn bên ngoài Các nguồn bên ngoài có thể giúp ngân hàng gia tăng vốn bao gồm: Vốn từ ngân sách cấp bổ sung; nguồn vay cho mục đích cơ cấu lại NHTM WB và IMF, vốn do phát hành cổ phiếu, hoặc chứng khoán cấp cao. Cho đến nay, các NHTM nhà nước chủ yếu vẫn dựa vào nguồn ngân sách cấp bổ sung, việc phát hành cổ phiếu để tăng vốn bổ sung của các NHTM bị ràng buộc bởi nhiều chế định pháp lý và những hạn chế của thị trường chứng khoán. Trong điều kiện nguồn vốn ngân sách nhà nước còn gặp nhiều khó khăn thì yêu cầu tăng vốn cho các ngân hàng sẽ trở thành một vấn đề vô cùng nan giải và khó có thể đáp ứng được trong thời gian ngắn. ở các nước, việc phát hành cổ phiếu hay chứng khoán cấp cao để gia tăng nguồn vốn chủ sở hữu là một biện phát phổ biến được nhiều ngân hàng áp dụng. Hịên tại ở nước ta lượng vốn trong dân còn rất nhiều, nhưng các ngân hàng mới thu hút được băng các hình thức huy động tiền gửi, phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi. Với các hình thức huy động này đã không tạo nền tảng vốn vững chắc cho các ngân hàng, đồng thời còn luôn đe dọa đến khả năng chi trả đối với ngân hàng khi thị trường biến động. Từ đó, vấn đề này đặt ra là các ngân hàng phải làm sao thu hút được nguồn vốn này dưới dạng phát hành cổ phiếu hoặc chứng khoán cấp cao nhằm bổ sung cho vốn chủ sở hữu đang rất eo hẹp hiện nay. Để có thể áp dụng biện pháp này, Việt Nam phải phát triển nhanh chóng thị trường chứng khoán, từng bước cổ phần hóa các NHTM, nhà nước cho phép các NHTM phát hành cổ phiếu để giao dịch trên thị trường. Khi các ngân hàng được niêm yết cổ phiếu trên thị trường ngoài tác dụng tạo vốn còn phát huy được vai trò của các nhân tố thị trường trong điều tiết hoạt động ngân hàng. Để tránh những tác động tiêu cực khi áp dụng giải pháp này, Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước cần quy định một tỷ lệ khống chế đối với số lượng cổ phiếu phát hành, quy định về tỷ lệ sở hữu nước ngoài, áp dụng các biện pháp hạn chế khác về giao dịch những cổ phiếu ngân hàng trên thị trường nhằm thực hiện mục tiêu tự do hóa thận trọng. Khi quyết định việc phát hành cổ phiếu dưới hình thức phổ thông hoặc sử dụng cổ phiếu ưu đãi (chứng khoán cấp cao) đòi hỏi phải đánh giá các yếu tố: mức độ sẵn có của các nguồn vốn bên ngoài, nhu cầu phát triển của các ngân hàng, tâm lý của công chúng và những hiệu ứng tài chính dài hạn. Với người dân Việt Nam bước đầu họ sẽ cân nhắc giữa mua cổ phiếu với các hình thức tiền gửi, kỳ phiếu, trái phiếu lâu nay, nhưng nếu có một cơ chế sử dụng linh hoạt và an toàn chắc chắn họ sẽ mua cổ phiếu ngân hàng. Đối với các NHTM nhà nước do có được một lợi thế rất lớn là niềm tin của công chúng thì khả năng tạo vốn dưới hình thức phát hành cổ phiếu sẽ không phải là vấn đề khó khăn. Các yếu tố khác chủ yếu phụ thuộc vào quy mô hoạt động, nhu cầu tăng trưởng của các ngân hàng, các quy định pháp luật và yêu cầu quản lý hệ thống tài chính, tiền tệ . Để có thể sử dụng các giải pháp trên, tất yếu cần phải giải quyết một lọat các vấn đề từ cơ chế, chính sách đến phát triển thị trường vốn .. là những yếu tố vựơt quá phạm vi của hệ thống ngân hàng. Chính vì vậy, Nhà nước cần có sự quan tâm đúng mức tới việc tạo ra những yếu nền tảng thì mới có thể giúp cho hệ thống ngân hàng nhanh chóng giải quyết được vấn đề cấp bách này. Thời hạn thực hiện các cam kết quốc tế và khu vực về thương mại, dịch vụ đã đến gần, chúng ta không thể chậm trễ hoặc trì hoãn được nữa. Nâng cao năng lực tài chính cho ngân hàng là một giải pháp chủ yếu để các ngân hàng có thể mở rộng quy mô và tăng cường sức cạnh tranh để sẵn sàng hội nhập vững chắc vào cộng đồng ngân hàng thế giới. IV. NGUỒN NHÂN LỰC Từ những thực trạng được trình bày ở chương II, yêu cầu đối với phát triển nguồn nhân lực của NHTM Việt Nam trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh trong quá trình hội nhập quốc tế cần thực hiện những biện pháp sau: Thứ nhất, cần xuất phát từ các mục tiêu kinh doanh trong những năm tới cũng như dài hạn để xác định chiến lược phát triển nguồn nhân lực, nhằm mục đích thúc đẩy các mục tiêu kinh doanh. Có kế hoạch giáo dục đào tạo cụ thể từng bước, từng đối tượng thích hợp cho cán bộ nhân viên (CBNV) đáp ứng được yêu cầu của hôm nay và trong tương lai lâu dài, đào tạo cho CBNV tinh thông cả quản trị điều hành và tác nghiệp đồng thời bồi dưỡng cán bộ nguồn trước khi đề bạt, bổ nhiệm. Thứ hai, trong kế hoạch chiến lựơc phát triển nguồn nhân lực, nên đánh gia đúng hơn thực trạng đội ngũ CBNV, phân loại theo nhiều cấp độ khác nhau theo trình độ và nghiệp vụ, kể cả cán bộ quản trị điều hành phải đào tạo có lựa chọn. Nên có những hệ thống gồm nhiều chỉ tiêu để đánh giá đúng trình độ năng lực của CBNV ở mỗi vị trí công tác khác nhau, kết quả tham gia các khóa đào tạo, hoặc tự đào tạo tại chỗ. Việc đánh giá này đúng đắn, khách quan sẽ giúp việc đào tạo sát đối tượng, với trình độ mỗi nghiệp vụ và có hiệu quả hơn. Thứ ba, trong quá trình giáo dục đào tạo trước hết làm cho CBNV thấy rõ được sứ mệnh của mỗi NHTM trước xã hội và góp phần thúc đây kinh tế đất nước phát triển, làm cho dân giàu, nước mạnh...Lợi ích của mỗi người lao động cũng như của mỗi NHTM luôn gắn với sự thành đạt của khách hàng. Trong đào tạo bao gồm kỹ năng quản trị điều hành, kỹ năng tác nghiệp hiện đại, văn hóa của mỗi ngân hàng nói chung và phong cách giao tiếp nói riêng, văn minh lịch sự "vui lòng khách đến vừa lòng khách đi". Phát triển hoạt động đào tạo có hiệu quả là nội dung cơ bản của phát triển nguồn nhân lực là một trong những động lực quan trọng và là điều kiện để phát huy, động viên tối đa các nguồn nhân lực. Đồng thời trước việc yêu cầu hội nhập về lĩnh vực ngân hàng, ngày nay không chỉ đào tạo, đào tạo lại, cập nhật những kiến thức kỹ năng mới hiện đại mà còn phải có những chiến lược để đào tạo nhiều nguồn nhân lực có trình độ cao, có những chuyên gia ngân hàng có tầm cỡ quốc tế, thực hiện phương châm "Đi trước đón đầu", nghĩa là đào tạo không chỉ cho hôm nay mà còn cho ngày mai và lâu dài. Thứ tư, thực tế hiện nay lực lượng lao động giản đơn của các NHTM Việt Nam chiếm tỷ trọng khá cao (đó là đội ngũ nhân viên kiểm ngân, tiết kiệm, kế toán). Đối với ngân hàng hiện đại, khối lượng giao dịch tiền mặt số lượng chứng từ ghi chép bằng tay giảm dần, trong khi yêu cầu công nghệ, dịch vụ ngân hàng hiện đại đòi hỏi những nhân viên có kỹ năng nghiệp vụ phù hợp để vận hành các thiết bị cần thiết ứng dụng khoa học công nghệ. Do đó, cần lựa chọn những nhân viên trẻ đã có kiến thức cơ bản, năng lực để đào tạo đón đầu nhằm chuyển dần lao động giản đơn sang lao động có trình độ kỹ năng cao đáp ứng yêu cầu đa dạng dịch vụ ngân hàng tiên tiến, và giảm bớt việc tuyển chọn nhân viên mới. Mặt khác cần quan tâm đến việc đào tạo sau tuyển dụng giúp cho CBNV tiếp cận với công việc nhanh và có hiệu quả. Thứ năm, hoạt động đào tạo được tiến hành bằng nhiều hình thức, và là một quá trình đòi hỏi tham gia tích cực của tất cả các cấp lãnh đạo, CBNV trong hệ thống mỗi NHTM đồng thời đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ và chia sẻ trách nhiệm giữa các tổ chức các cấp lãnh đạo, các đơn vị thành viên. Mỗi tổ chức trong một NHTM, tổ chức đều đặn thường xuyên các buổi học nghiệp vụ định kỳ, tạo điều kiện cho người được học trước truyền đạt lại kỹ năng cho người học sau hoặc củng cố lại những kiến thức đã học và trao đổi những bài học kinh nghiệm trong thực tế sinh động. Việc mỗi cán bộ công nhân viên tự học và mỗi cơ sở tổ chức học tập có vai trò rất quan trọng bởi hiện thân của kinh nghiệm học tập không chỉ giới hạn trong các khóa học được hội sở chính, trung tâm đào tạo của mỗi NHTM, tổ chức, và ở cấp trung ương cũng không thể nào trực tiếp đào tạo cho tất cả cán bộ nhân viên ở mỗi ngân hàng. Mỗi hội sở chính, trung tâm đào tạo, điều quan trọng hơn hết là ở chỗ cung cấp những kiến thức, kỹ năng mới tiên tiến đào tạo nguồn hạt nhân cho cơ sở với những giảng viên cán bộ quản lý biết cầm tay chỉ việc cho nhân viên thuộc quyền có kiến thức kỹ năng thành thạo để làm tốt hơn công việc được giao. Các khóa học do trung tâm đào tạo, các phòng, các ban nghiệp vụ ở hội sở chính ở mỗi ngân hàng tổ chức cần được đổi mới phương pháp dậy và học coi trọng chất lượng là chính ,vì các khóa học này tạo ra những hạt nhân cơ bản, cho cơ sở như trên đã trình bày. Thứ sáu, đào tạo ở trong nước hay tranh thủ sự tài trợ của các ngân hàng nước ngoài, các tổ chức quốc tế và thông qua việc triển khai các dự án hiện đại hóa ngân hàng: tự đào tạo và hợp tác đào tạo đều gắn bó với nhau không thể tách dời. Tự đào tạo tốt thì hợp tác đào tạo, hoặc tranh thủ tài trợ mới đạt kết quả cao, tăng cường hợp tác đào tạo tốt sẽ tạo nguồn giảng viên có chất lượng nhân tố chủ yếu trong việc tự đào tạo. Toàn cầu hóa tọa ra những cơ hội lớn trong việc đào tạo và sử dụng ngồn nhân lực có hiệu quả hơn với nhiều hình thức khác nhau. Đây cũng là thời cơ to lớn cần phát huy có hiệu quả trong việc hợp tác đào tạo. Có tăng cưòng hợp tác đào tạo chúng ta mới có thể tiếp cận được với công nghệ tiên tiến, hiện đại hóa vè những kiến thức kỹ năng nghiệp vụ quản trị điều hành ngân hàng nhận rõ được những yếu kém của mình, đồng thời học hỏi được những kinh nghiệm đã qua nhanh chóng rút ngắn khoảng cách phát triển và hội nhập, nâng cao sức cạnh tranh. Hợp tác đào tạo để nhanh chóng cập nhập kiến thức kỹ năng quản trị điều hành, tác nghiệp hiện đại, chủ yếu là đào tạo được nguồn nhân lực có trình độ cao, có những chuyên gia ngân hàng có tầm cỡ quốc tế, họ trở thành những hạt nhân những giảng viên thực thụ trong mỗi lĩnh vực nghiệp vụ chuyên môn nhất định để đào tạo lại cho đại bộ phận cán bộ công nhân viên mỗi ngân hàng. Thứ bảy, có chính sách khuyến học, tạo niềm đam mê học tập cho cán bộ công nhân viên, còn làm việc còn phải học tập, vừa bắt buộc vừa có những phần thưởng khuyến khích thỏa đáng cho những ai học tập xuất sắc và ứng dụng vào thực tế có hiệu quả, đặc biệt là thế hệ trẻ còn phải biết mình đang gánh trên vai niềm hy vọng lớn của mỗi NHTM trong tương lai nên phải nỗ lực học tập thật cao. Quý trọng nhân tài, đãi ngộ thỏa đáng cho chất xám là vấn đề đáng quan tâm hơn nữa để động viên khuyến khích cho cán bộ công nhân viên có năng lực tâm huyết với NHTM, ra sức học tập để trở thành những chuyên gia có trình độ cao, những nhân viên kiêm chức có chất lượng để giúp cho hoạt động đào tạo đạt hiệu quả cao hơn, những sinh viên đại học được mỗi ngân hàng tài trợ học bổng nên tiếp tục động viên họ giữ vững vị trí hàng đầu trong những năm học tiếp theo: tiếp nhận họ về thực tập, kèm cặp, giúp đỡ họ đi thị sát thực tế, củng cố kiến thức đã học để đặt cơ sở cho việc tuyển chọn được những sinh viên giỏi vào làm việc ở ngân hàng, bởi chính họ sẽ là nguồn nhân lực trẻ cho tương lai. Thứ tám. có kế hoạch cụ thể và tổng kết đánh giá, rút kinh nghiệm về công tác phát triển nguồn nhân lực theo từng định kỳ, đều đặn, cũng hết sức cần thiết để thúc đẩy chiến lược phát triển nguồn nhân lực một cách liên tục và đạt hiệu quả cao. Thứ chín, phát huy mạnh mẽ hơn vai trò của bộ máy tổ chức cán bộ- đào tạo, tổ chức đào tạo đúng với ý nghĩa của nó. Các cán bộ công nhân viên, chuyên trách công tác cán bộ đào tạo cũng cần đào tạo nghiệp vụ chuyên môn đầy đủ ngang tầm và hơn các lĩnh vực chuyên môn khác để đủ khả năng tham mưu, giúp việc cho các cấp lãnh đạo về phát triển nguồn nhân lực. Trong những năm tới cần thực hiện gấp một số điểm cơ bản : -cần thống nhất cao về các mặt nhận thức cũng như sự nhất quán trong việc thực sự coi ngồn nhân lực chất lượng cao là yếu tố cạnh tranh và hội nhập quốc tế . -Thực sự đổi mới tư duy và cách thức thực hiện công tác đào tạo theo hướng xuất phát từ nhu cầu và yêu cầu thị trường lao động ngân hàng nhằm mục đích đáp ứng trực tiếp và cao nhất các nhu cầu và yêu cầu của thị trường này. - Gắn kết công tác đào tạo và lấy việc đáp ứng mục đích sử dụng làm mục đích cuối cùng và thước đo hiệu quả công tác đào tạo -Các ngân hàng cần xây dựng và thực hiện một chiến lược đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực với tầm nhìn dài hạn. -Củng cố và tăng cường thêm hệ thống tổ chức hợp lý và thực hiện công tác đào tặo ở mỗi ngân hàng. -Tranh thủ sự giúp đỡ thông qua hợp tác quốc tế. Bên cạnh những cố gắng bản thân mỗi ngân hàng để nâng cao hiệu quả của công tác đào tạo, cần tranh thủ tối đa các trợ giúp quốc tế thông qua các chương trình hợp tác. V. NÂNG CAO SỨC CẠNH TRANH BẰNG HIỆN ĐẠI HÓA CÔNG NGHỆ NGÂN HÀNG Một trong những nội dung của chương trình cơ cấu lại NHTM đó là nâng cao sức cạnh tranh trong xu hướng hội nhập vấn đề đầu tiên là hiện đại hoá công nghệ ngân hàng và đa dạng hoá dịch vụ ngân hàng, nhiều NHTM luôn coi trọng đầu tư công nghệ coi đây là nền tảng quan trọng để đẩy mạnh hoạt động tạo thêm nhiều sản phẩm và dịch vụ mới như các ngân hàng tiên tiến trên thế giới. Đầu tháng 5 năm 2002 ngân hàng nhà nước đã chính thức khai trương và đưa vào sử dụng hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng . Theo thông báo mới nhất của cục công nghệ tin học ngân hàng tính đến nay có 71 đơn vị thuộc các tổ chức tín dụng và thuộc ngân hàng nhà nước tham gia hệ thống thanh toán điện tử này. Điển hình đi đầu trong việc hiện đại hoá công nghệ ngân hàng là ngân hàng ngoại thương: nhờ đổi mới công nghệ bằng việc ứng dụng công nghệ thông tin, internet ngân hàng đã có rất nhiều dịch vụ, sản phẩm hiện đại phục vụ cho việc đáp ứng nhu cầu hoà nhập với thị trường thế giới... Các ngân hàng khác như ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, ngân hàng công thương Việt Nam, NHTM cổ phần kỹ thương, Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam ....cũng đang dần dần từng bước ứng dụng công nghệ hiện đại vào hoạt động ngân hàng . Trong lựa chọn là ứng dụng công nghệ hiện đại các ngân hàng cần tính đến và tạo lập các điều kiện cần và để có thể sử dụng tối đa khả năng của các công nghệ mới phục vụ cho việc phát triển các dịch vụ mới với chất lượng cao và giá cả hợp lý. Khó khăn ở đây là đòi hỏi vốn đầu tư lớn các ngân hàng nhỏ khó có thể thực hiện. Tuy nhiên, để có thể vượt qua khó khăn này nếu các tổ chức tín dụng thay đổi cách thức tư duy và hành động. Thay vì chờ đến khi tích luỹ đủ số vốn cần thiết, các tổ chức tín dụng cần lập kế hoạch và phương pháp huy động vốn một cách tích cực, thí dụ lập dự án kêu gọi cổ động, vận động nguồn hỗ trợ của các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế, vay vốn nước ngoài...Mặt khác bên cạnh sự đánh giá đúng những khó khăn, mỗi NHTM cần nhận thức đầy đủ và hành động kịp thời để sử dụng tối đa các cơ hội mới do những đổi mới về công nghệ của cả hệ thống ngân hàng đã tạo ra: -Thứ nhất, môi trường và hành lang pháp lý cho việc áp dụng công nghệ mới đã được cải thiện đáng kể. Các quy chế, cơ chế thực hiện giao dịch và cung cấp dịch vụ ngân hàng điện tử đã được ban hành như quy chế về chữ ký điện tử, bảo mật... -Thứ hai về mặt kỹ thuật, hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng đã được hình thành và vận hành từ tháng 5 năm 2002 và đang được tiếp tục mở rộng tới khoảng 50 ngân hàng thành viên và trên 200 chi nhánh của các ngân hàng này. từ tháng 1 năm 2003 hệ thống thanh toán bù trừ điện tử cũng đã được đưa vào sử dụng tạo điều kiện để sử dụng dịch vụ nhanh chóng thuận tiện cho các doanh nghiệp và nền kinh tế. Vấn đề đặt ra là mỗi ngân hàng cần tính toán kỹ lưỡng và mạnh dạn đầu tư công sức và tiền bạc để áp dụng các công nghệ ngân hàng hiện đại, mở ra nhiều dịch vụ mới nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh và hiệu quả hoạt động của mình. Mặt khác cần tăng cường áp dụng công nghệ thông tin nhằm nâng cao hiệu quả quản trị và điều hành hàng ngày, trước mắt trong công tác xử lý văn phòng, xử lý thông tin, lưu trữ, quản lý cán bộ ... Đi đôi với việc đổi mới công nghệ ngân hàng con điều hết sưc lưu ý khi thực hiện việc hiện đại hoá không chỉ gồm các trang thiết bị kỹ thuật hiện đại công nghệ thông tin mà còn gắn với mô hình tổ chức và qui trình nghiệp vụ hiện đại từ đó chúng ta có thể có giải pháp cho vấn đề công nghệ ngành ngân hàng : - Các ngân hàng cần có một chiến lược phù hợp để phát triển một nền tảng công nghệ tiên tiến. -Tích cực ứng dụng thành tựu khoa học dựa trên những phát minh khoa học của thế giới ,biết vận dụng tốt vào điều kiện của việt nam. -Học tập các nước đã thành công trong viêc ứng dụng công nghệ vào ngân hàng. -Cần có sự hợp tác giữa các ngân hàng trong việc cùng nhau thống nhất áp dụng công nghệ mới nhằm tạo ra một bộ mặt chung cho các NHTM cùng nhau phát triển và có khả năng cạnh tranh cao trong quá trình hội nhập khi chúng ta bắt đầu mở cửa thị trường ngân hàng vào năm 2008. -Nhà nước đóng một vai trò quan trọng cùng với các tổ chức tài chính hỗ trợ về vốn và xây dựng khung pháp lí thích hợp nhằm tạo điều kiện cho các ngân hàng có thể thực hiện tốt việc phát triển công nghệ ngân hàng. -Phát triển công nghệ thông tin là một yếu tố vô cùng quan trọng của việc phát triển công nghệ ngân hàng, cần thiết phải tin học hoá ngành ngân hàng đồng thời nhà nước cũng cần có biện phát khuyến khích phát triển và phổ cập đến tận mọi người dân đều biết sử dụng mạng thông tin đến mức cần thiết gắn liền với cuộc sống của con người. VI. GIẢI PHÁP HÌNH THÀNH LIÊN MINH CHIẾN LƯỢC NHTM Hiện nay trên thế giới tồn tại rất nhiều ngân hàng với sự liên hợp của nhiều ngân hàng nhỏ thành ngân hàng lớn, sự hình thành các ngân hàng này được thực hiện bằng nhiều hình thức khác nhau như mua lại, sát nhập do phá sản, thực hiện qua con đường cạnh tranh cá lớn nuốt cá bé… tạo ra những ngân hàng khổng lồ có vốn chủ sở hữu rất lớn và do đó mà năng lực cạnh tranh cũng tăng theo nó. Ở Việt Nam thì trong những năm qua Chính phủ, Ngân hàng nhà nước và Hiệp hội Ngân hàng can thiệp vào quá trình cải tổ lại hệ thống ngân hàng trong nước như giải tán các ngân hàng không đủ khả năng cạnh tranh, làm ăn thua lỗ. Cải tổ lại khối ngân hàng cổ phần trong đó có sát nhập các ngân hàng nhỏ vào các ngân hàng lớn để tăng khả năng cạnh tranh và nâng cao hoạt động. Tuy nhiên sự sát nhập này có nâng cao năng lực hoạt động của các ngân hàng nhưng chưa đáng kể khi mà các chi nhánh của các ngân hàng quốc tế tham gia vào thị trường TCTD Việt Nam. Do đó cần thiết phải thực hiện liên minh chiến lược, liên minh chiến lược là một quan hệ hợp tác giữa các ngân hàng với nhau nhằm thống nhất được với nhau về mục đích, và ít nhất một trong số các đối tác lây những mục tiêu lớn và lâu dài làm động lực. Có 5 lý do chính điển hình để các liên minh chiến lược được hình thành: Giảm chi phí đối với việc tham gia vào một thị trường mới. Được tiếp cận với thị trường và Ngân hàng hoặc nguồn lực mới. Chia sẻ chi phí cho công tác nghiên cứu và triển khai. Được lợi do chuyển giao và tiếp nhận công nghệ. Giảm hoặc xoá bỏ cạnh tranh thông qua hợp tác. Vấn để thành lập liên minh chiến lược phải được thực hiện đi đầu phải là các NHTM nhà nước, bởi lẽ hiện nay các ngân hàng thương mại nhà nước được chia ra theo các nhiệm vụ khác nhau nhưng cạnh tranh giữa các ngân hàng này tương đối gay gắt dẫn tới hiện tượng không tìm hiểu được khách hàng, cho vay chồng chéo làm tăng khả năng rủi ro thanh khoản của khách hàng. Tiếp đến là các ngân hàng thương mại khác tiến hành lập liên minh chiến lược. Có như thế mới đủ sức mạnh để cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài trên thị trường TCTD trong nước và mở rộng thị trường ra nước ngoài. KẾT LUẬN Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đang gặp phải một số khó khăn trong nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế nói chung và ngành ngân hàng nói riêng, trong nội dung đề tài này, nhóm sinh viên đã cố gắng đưa đầy đủ thực trạng hoạt động của ngân hàng thương mại Việt Nam trong quá trình cải thiện khả năng cạnh tranh trước các đối thủ hiện tại là các ngân hàng nước ngoài và liên doanh và các đối thủ tiềm ẩn trong tương lai không xa. Việc xác định đúng quan điểm chỉ đạo điều hành để đi đúng hướng phù hợp với lộ trình hội nhập đã được ký kết và chủ trương của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế là vô cùng quan trọng. Đối với NHTM Việt Nam trong một vài năm tới chưa có chiến lược thâm nhập thị trường tài chính thế giới mà chỉ nâng cao năng lực cạnh tranh thu hút khách hàng và hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam để nhằm mục đích kinh doanh chiếm giữ thị phần, hạn chế khả năng kiểm soát thị trường tài chính trong nước của các ngân hàng nước ngoài như bài học đã xảy ra đối với các nước Mỹ Latinh và các nước Đông Âu. Do đó cần phải xác đinh rõ các giải pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh của NHTM Việt Nam trong quá trình hội nhập. Các giải pháp trên được trình bày phù hợp với thực trạng của nền kinh tế Việt Nam và ngành ngân hàng nhằm giải quyết tốt các vấn đề yếu kém làm hạn chế khả năng cạnh tranh của ngành ngân hàng. Khi ngành ngân hàng thực hiện đầy đủ và có hiệu quả các giải pháp đó thì chắc chắn năng lực cạnh tranh của NHTM Việt Nam sẽ không chỉ dừng ở chống lại sức mạnh của ngân hàng nước ngoài trên thị trường tài chính trong nước mà còn vươn xa hơn tham gia vào thị trường tài chính thế giới một cách chủ động, không lo ngại các rào cản cạnh tranh. Do khả năng có hạn, nhóm sinh viên khó có thể tránh khỏi thiếu sót trong quá trình nghiên cứu, rất mong được sự đóng góp ý kiến của thầy cô giáo và các bạn để đề tài này được hoàn chỉnh hơn. Tập thể nhóm sinh viên NC xin chân thành cảm ơn cô giáo hướng dẫn và bạn bè đã đóng góp ý kiến để chúng tôi hoàn thành đề tài này. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Chiến lược cạnh tranh trên thị trương quốc tế- 1995-viện Ngiên cứu kinh tế Trung ương Ngân hàng Việt Nam quá trình xây dựng và phát triển- NXB chính trị quốc gia- Hà Nội 1996. Tạp chí Công báo Tạp chí Ngân hàng Tạp chí Tài chính và Tiền tệ Tạp chí Nghiên cứu kinh tế Một số tài liệu khác MỤC LỤC Mở đầu 1 Chương I. Những vấn đề chung về cạnh tranh và hội nhập của NHTM 2 I. Khái quát về cạnh tranh trong ngành ngân hàng 2 I.1. Quy luật về hợp tác kinh tế và xu hướng toàn cầu hóa 2 I.2. Vai trò của ngành ngân hàng trong hội nhập 2 I.3. Xu thế cạnh tranh giữa NHTM nước ngoài và NHTM Việt Nam 3 II. Cơ hội và thách thức đối với ngân hàng thương mại Việt Nam trong quá trình hội nhập 4 II.1. Những cơ hội mở ra cho ngành ngân hàng trong quá trình hội nhập 4 II.2. Những thách thức đối với NHTM Việt Nam 6 II.2.1. Những thách thức đối với khách hàng của ngân hàng 6 II.2.2. Thách thức trực tiếp đối với ngân hàng 7 Chương II. Thực trạng năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam 9 I. Thực trạng về năng lực cạnh tranh của các NHTM Việt Nam 9 I.1. Về quy mô và vốn tự có 9 I.2. Về chất lượng hoạt động 10 I.3. Về chất lượng phục vụ 10 II. Tình hình hoạt động của khối ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam thời gian qua 11 II.1. Về huy động vốn 12 II.2. Cho vay 13 II.3. Hoạt động ngân hàng quốc tế 13 Chương III. Các giải pháp cơ bản nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của NHTM Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế 14 I. Cần phải xây dựng hoàn thiện và sửa đổi hệ thống luật ngân hàng cho thống nhất và phù hợp với yêu cầu thực tiễn và lộ trình hội nhập 14 II. Nâng cao vai trò quản lý và điều tiết của ngân hàng nhà nước 15 II.1. Thực hiện chính sách tài chính tiền tệ linh hoạt, nâng cao vai trò điều tiết, kiểm soát tiền tệ của ngân hàng nhà nước 15 II.2. Tăng cường vai trò thanh tra, giám sát của ngân hàng trung ương 17 II.3. Cải tổ, cơ cấu lại ngân hàng nhà nước nhằm nâng cao hơn nữa vai trò và chức năng quản lý điều tiết của ngân hàng nhà nước 18 III. Nâng cao khả năng tài chính, tăng vốn tự có cho các NHTM 18 III.1. Phát triển vốn từ bên trong 18 III.2. Gia tăng vốn từ nguồn bên ngoài 20 IV. Nguồn nhân lực 21 V. Nâng cao sức cạnh tranh bằng hiện đại hóa công nghệ ngân hàng 24 VI. Giải pháp hình thành liên minh chiến lược NHTM 26 Kết luận 28 Tài liệu tham khảo 29

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBC1135.doc
Tài liệu liên quan