Đề tài Nâng cao năng lực của nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứng khoán Việt Nam

Nâng cao năng lực của nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứng khoán Việt NamLỜI MỞ ĐẦU Lý do chọn đề tài Cùng với quá trình đổi mới nền kinh tế của đất nước, nước ta đã đạt được những thành tựu thành quả to lớn: các ngành công nghiệp có tốc độ tăng trưởng cao như công nghệ thông tin, chế tạo máy; ngành nông nghiệp từng bước máy móc hoá đã làm cho năng suất lao động cải thiện rõ rệt đưa nước ta xuất khẩu gạo đứng thứ 2 thế giới, hàng hoá trên thị trường ngày càng phong phú và đa dạng, nhiều doanh nghiệp mới thành lập và nhiều tập đoàn đầu tư lớn đã xuất hiện tại Việt Nam, đời sống dân ta ngày càng nâng cao. Sự tăng trưởng kinh tế đòi hỏi ngày càng nhiều vốn đầu tư. Một trong những kênh huy động vốn đầu tư thông dụng trên thế giới là thị trường chứng khoán. Nhận thức được tầm quan trọng của thị trường chứng khoán, với nhiều nổ lực, ngày 20/07/2000 thị trường chứng khoán Việt Nam ra đời. Từ ngày thành lập đến nay, thị trường chứng khoán Việt Nam đã có 11 năm hoạt động và phát triển. Tuy nhiên đó không phải là thời gian dài đủ để cho các yếu tố thị trường và nhà đầu tư hoàn thiện. Xét riêng về nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứng khoán Việt Nam còn nhiều vấn đề cần khắc phục để nâng cao năng lực đầu tư, giảm thiểu rủi ro không đáng có trong quá trình đầu tư chứng khoán. Vì lý do đó, tôi chọn đề tài “Nâng cao năng lực của nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứng khoán Việt Nam”, đề tài này đặt ra 3 mục tiêu nghiên cứu: Một, nghiên cứu một cách có hệ thống thị trường chứng khoán và nhà đầu tư chứng khoán cá nhân tại Việt Nam, Hai, đánh giá hiện trạng nhà đầu tư chứng khoán Việt Nam và đối tượng trọng điểm quan tâm là nhà đầu tư cá nhân, Ba, đề xuất các giải pháp nâng cao năng lực của nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứng khoán Việt Nam, Đối tượng, phạm vi nghiên cứu: Đối tượng được nghiên cứu trong đề tài này là năng lực của nhà đầu tư cá nhân trong phạm vi thị trường chứng khoán Việt Nam. 3. Phương pháp nghiên cứu: dùng phương pháp khảo sát, phương pháp hệ thống, phương pháp lịch sử, phương pháp biện chứng 4. Kết cấu của đề tài: Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và phần phụ lục, đề tài được xây dựng theo kết cấu truyền thống 3 chương: Chương 1. Tổng quan về nhà đầu tư chứng khoán cá n

doc57 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1675 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nâng cao năng lực của nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hay nhỏ. Và một lợi ích khác, dĩ nhiên đi cùng với rủi ro, là “mình hiểu mình hơn ai hết”, quyết định mua được xây dựng trên cơ sở đánh giá cơ hội ở thị trường với thực tế sức khỏe của doanh nghiệp (cũng không loại trừ những trường hợp mua vào vì mục đích khác mà xa rời yếu tố nội tại đó). Khi giá cổ phiếu giảm sâu, thấp, doanh nghiệp mua lại đồng nghĩa với việc tạo tiền để cho khả năng sinh lời từ chính khoản đầu tư đó trong tương lai. Với nhà đầu tư, phản ứng thường thấy là suy tính chung: khi doanh nghiệp mua vào thì ắt đã phải đánh giá những rủi ro, yếu tố cơ hội giữa thực tế với sức khỏe "bản thân". Nên những thông tin loại này thường tạo tâm lý tích cực cho cổ đông và nhà đầu tư. Dĩ nhiên, có những lý do khách quan để có thể khẳng định rằng hoạt động mua vào đó khó đảm bảm 100% kết quả như kỳ vọng. Với những giao dịch thành công và trọn vẹn đã đành. Vấn đề là thời gian gần đây, thông tin kiểm chứng lại những giao dịch đó có thể gây thất vọng với nhà đầu tư. Mới đây, theo thông tin công bố, một lãnh đạo của một doanh nghiệp lớn trên HOSE đăng ký mua vào 2 triệu cổ phiếu. Nếu chỉ gói gọn ở giao dịch này thì rõ ràng là có nhiều ý nghĩa trong bối cảnh thị trường “lao dốc không phanh”. Thế nhưng, tra cứu lại thì đây là giao dịch “chuyển tiếp”, khi giao dịch đăng ký mua vào trước đó không thực hiện được. Chuyện này không phải là cá biệt. Đọc thông tin công bố giao dịch nội bộ một tuần trở lại đây trên cả Hose và Hnx, dễ nhận thấy nhiều trường hợp chốt lại giao dịch đăng ký mua vào trước đó nhưng không trọn vẹn. Như đề cập ở trên, hẳn có những lý do khách quan. Thế nhưng, không loại trừ khả năng có “dị ứng” khi thông tin giải thích na ná nhau, như “giá không được như mong muốn” (ngại bắt đáy?), hay như “không chuẩn bị đủ tài chính” (liệu có thụ động khi đưa ra thông tin đăng ký mua vào?)…Ví như, Công ty Cổ phần Thuốc sát trùng Cần Thơ (CPC) vừa công bố thông tin mua vào 200.000 cổ phiếu làm cổ phiếu quỹ với nguyên tắc xác định giá là dự kiến mua không cao hơn 25.000 đồng/cổ phiếu. Hay với Công ty Cổ phần Phát triển Hạ tầng Vĩnh Phúc (IDV), thông tin đăng ký mua 135.000 cổ phiếu làm cổ phiếu quỹ cũng xác định giá không quá 30.000 đồng/cổ phiếu… Chuyện thâu tóm công ty, điển hình là DCC Descon xây dựng công trình, một nhóm tổ chức thu mua rất nhiều cổ phiếu công ty từ các nhân viên trong công ty để tham gia vào hội đồng quản trị, nhưng hoàn toàn không công bố bất cứ thông tin nào lên truyền thông đại chúng, đến khi đại hội cổ đông thì nhóm này tung chiêu bài hủy bỏ quyền chủ tịch hội đồng quản trị công ty vào đòi lập ra người khác đứng lên làm quản trị. Vụ việc gây xôn xao trong giới đầu tư và xãy ra nhiều vụ kiện tụng nhau nhưng chưa đến hồi kết. Không hiểu nhiều về những rủi ro về lãi suất, lạm phát, tỷ giá…các rủi ro này đều có tác động trực tiếp đến hoạt động thị trường chứng khoán. Việc am hiểu nhiều về chính sách tiền tệ, chính sách tài chính, chính sách tỷ giá là việc khó. Thông thường, chỉ có các chuyên gia kinh tế mới hiểu và phân tích được những ảnh hưởng của các rủi ro trong các chính sách đó. Tuy nhiên, khi nhà đầu tư bỏ ra một số lượng tiền khá lớn thì cần phải quan tâm đến các rủi ro này vì nó sẽ chỉ ra xu hướng lên hoặc xuống của thị trường chứng khoán, từ đó nhà đầu tư sẽ có những quyết định chính xác hơn. Các rủi ro thường thấy trong bối cảnh thị trường chứng khoán hiện nay như: Đầu tiên, đó là lãi suất ngân hàng có diễn biến cho thấy có xu hướng đi lên. Khi lãi suất tăng lên, lượng vốn nhà rỗi có xu hướng tìm về nơi an toàn để “trú ngụ”, cung tiền bị hạn chế… kéo theo việc sản xuất kinh doanh cũng phải được thu hẹp lại bởi vì những doanh nghiệp sử dụng vốn vay rất khó vay vốn của ngân hàng hoặc vay được nhưng lãi suất quá cao làm cho lợi nhuận doanh nghiệp sẽ giảm => Giá cổ phiếu đi xuống, thị trường chứng khoán đi xuống. Khi chính sách thắt chặt tiền tệ dần siết lại kể từ khi Thông tư 13/2010/TT- NHNN có hiệu lực (các ngân hàng thương mại phải có vốn điều lệ 3000 tỷ đồng). Một yếu tố cần xét song song với trên, đó là lạm phát, tình hình lạm phát đã kéo TTCK Việt Nam trở lại với những con số thực của nó. Ngay sau khi lộ ra tin chỉ số tiêu dùng CPI tăng lên so với dự báo của các chuyên gia kinh tế, nhiều NĐT đã bắt đầu quay lại kiểu tâm lý lo sợ cho những phiên giảm điểm sắp tới, bởi vì sắp tới sẽ là hạn chế lượng tiền lưu thông trên thị trường, một khi tiền lưu thông bị rút về, thông thường thì Ngân hàng nhà nước sử dụng biện pháp hành chính bằng cách tăng lãi suất để kiềm chế lạm phát (lãi suất cho vay hiện nay rất cao khoảng 18% - 20% một năm), hạn chế cho vay đầu tư chứng khoán, tính thanh khoản lại càng giảm sút, những khoản nợ vay lại sắp đến hạn sẽ làm cho thị trường vào tình thế “hiểm nghèo” hơn nữa. Xét Cp Vinamilk Ngày 19/1/2006, cổ phiếu Công ty sữa VN Vinamilk (mã chứng khoán VNM) chính thức được niêm yết trên sàn giao dịch của Trung tâm Chứng khoán TP. HCM với giá khớp lệnh trong phiên giao dịch đầu tiên là 53.000 đồng/cổ phiếu.. Số lượng cổ phiếu đưa vào giao dịch là 159 triệu, mệnh giá 10.000 đồng/cổ phiếu. Như vậy, tổng giá trị cổ phiếu niêm yết theo mệnh giá là 1.590 tỷ đồng. Tình hình cố phiếu trước lạm phát: Bắt đầu ở mức 53.000đ, VNM nhanh chóng tăng giá giai đoạn sau đó. Và đến ngày 14/04/2006 giá Cp VNM đã là 102.000đ. 4 tháng sau đó, với sự thử thách của thị trường, VNM giảm nhẹ. Nhưng từ tháng 8, VNM bắt đầu bình ổn và tăng nhẹ. Giai đoạn cao nhất mà VNM đạt được là ngày 27/02/2007 với giá 212.000đ. So với nhiều “ông lớn” khác thì VNM vẫn duy trì được giá khá ổn định trong năm 2007. Đó là do liên tiếp những báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh thành công. Tình hình cổ phiếu sau lạm phát: Không tránh khỏi số phận như những cổ phiếu khác, mặc dù bắt đầu năm 2008 với mức giá 166.000 đ, nhưng ngay sau đó VNM tiếp tục giảm. và cụ thể là tháng 6/2008, giá VNM chỉ còn 93.400đ. biến động thất thường của VNM thực tế bắt đầu từ tháng 3 (tức là cũng từ sau chỉ thị 03). Giai đoạn sau đó tăng giảm rất thất thường, nhưng không vượt qua mức 120.000đ. Trong tháng 9/2008, khi những tin tức xấu từ thị trường sữa, cổ phiếu VNM tiếp tục giao động mạnh. Nhưng sau khi chứng minh được sự an toàn thì giá VNM bình ổn, thậm chí còn tăng trong những ngày qua. Giá và khối lượng giao dịch cổ phiếu VNM trong 3 tháng cũng như 1 năm qua: Biểu đồ 2.7 – Cổ phiếu VNM từ cuối tháng 7 đến tháng 10/2008 Biểu đồ 2.8 – Cổ phiếu VNM từ cuối tháng 10/2007 đến 10/2008 Nhận xét: Thống lĩnh trong ngành kinh doanh sữa, mặt khác lại là mặt hàng thiết yếu, có mức tăng trưởng tốt, VNM chỉ chịu tác động chung của toàn thị trường. Giá CP chỉ bị sụt giảm gần một nửa trong giai đoạn khủng hoảng tiền tệ cho thấy VNM có một vị trí khá tốt trong tâm lý nhà đầu tư. Trong giai đoạn tháng 8/2008, trước cơn bão Melamin trong sữa thì VNM vẫn dao động rất ít. Hiện nay giá Cp VNM vẫn xoay quanh 86.000đ Nhận xét: Bối cảnh thị trường chứng khoán tiếp tục ảm đạm và cung cổ phiếu áp đảo cầu, lượng tiền mặt của nhà đầu tư khan hiếm, van tín dụng cầm cố chứng khoán hạn chế => Tính thanh khoản giảm sút đáng kể gây cho nhà đầu tư chán nản. Kế đến là biến động về tỷ giá ngoại tệ. Việc điều chỉnh tỷ giá sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến các doanh nghiệp có các khoản nợ nước ngoài khi phải thực hiện trích lập dự phòng rủi ro tỷ giá cuối năm, trong đó có các doanh nghiệp ngành dịch vụ công cộng, xi măng, vận tải biển và dầu khí. Tuy nhiên, đối với các doanh nghiệp ngành dầu khí và vận tải biển, có nguồn thu ngoại tệ trực tiếp từ việc bán sản phẩm, cung cấp dịch vụ đầu ra thì cũng đồng thời được hưởng lợi từ việc thay đổi tỷ giá. Nói đến tác động của việc tăng tỷ giá, thời điểm này giá cổ phiếu của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu trên 2 sàn hiện đều xuống thấp. Lý do dễ nhìn thấy nhất đó là thị trường vẫn đang nằm trong xu hướng giảm và điều đó có nghĩa là trên 90% giá các cổ phiếu niêm yết đều chịu chung xu hướng này. Nhưng nếu so sánh với mức độ sụt giảm chung của thị trường thì tôi thấy cổ phiếu của các doanh nghiệp xuất khẩu ở một số ngành như cao su, thủy sản vẫn giữ giá khá tốt, hay nói cách khác sụt giảm với biên độ thấp hơn các ngành khác. Ngoài ra, diễn biến giá cổ phiếu của các doanh nghiệp xuất khẩu còn phụ thuộc vào nhiều các yếu tố khác liên quan đến triển vọng của từng ngành chứ không riêng vấn đề tỷ giá... Về nguyên tắc, khi đồng nội tệ giảm giá, sẽ thu hút dòng vốn đầu tư nước ngoài cả trực tiếp lẫn gián tiếp. Các chuyên gia cho rằng trong ngắn hạn, ngay sau mỗi lần điều chỉnh giảm giá VND, sẽ có tác động tích cực đến việc thu hút dòng vốn đầu tư quốc tế cả trực tiếp lẫn gián tiếp nếu những lần điều chỉnh đó mang tính chủ động và trong tầm kiểm soát của NHNN. Các nhà đầu tư nước ngoài sẽ được hưởng lợi khi hiệu quả đầu tư tăng lên và họ cũng sẽ phần nào yên tâm ít nhất là trong khoảng thời gian kế tiếp trước khi đợt điều chỉnh tiếp theo diễn ra. Tuy nhiên, nếu việc điều chỉnh tỷ giá mang tính bị động, thì các nhà đầu tư nước ngoài sẽ lo ngại nhiều hơn về những bất ổn kinh tế vĩ mô, nhất là đối với các khoản đầu tư trung và dài hạn. Đơn giản là bởi vì ở vị trí của một nhà đầu tư, họ sẽ phải tính đến cả thời điểm rút vốn khỏi Việt Nam để hoàn tất từng chu kỳ đầu tư. Khi đó, nếu VND bị giảm giá thì họ là những người chịu thiệt hại => Tỷ giá tiếp tục là một trong những rủi ro tiềm ẩn đối triển vọng với kinh tế Việt Nam nhưng yếu tố này cũng ít được quan tâm đến. 2.2.2 Không xem xét diễn biến thị trường, giao dịch vội vàng, tiếc của nên ôm lỗ, mua cổ phiếu giá rẻ, sử dụng công cụ phái sinh tràn lan Lịch sử đã cho thấy, lòng tham khiến thị trường bị đẩy lên quá cao, còn nỗi sợ hãi kéo thị trường xuống quá thấp. Nhiều nhà đầu tư nhanh chân đi trước, biết dừng đúng lúc thì thu được lợi, còn kẻ chậm chân phải chịu nhiều thua thiệt. Hệ quả trong những trường hợp như vậy thường là sự suy giảm niềm tin, sự hạn chế đầu tư hay rời bỏ thị trường. Đó là chưa kể những tác động xấu khác, ví dụ như hạnh phúc, chất lượng sống của những nhà đầu tư thua lỗ giảm sút… Nhà đầu tư lúc thị trường có xu hướng giảm, lại ít chịu xem xét diễn biến của thị trường nên tìm cách “bắt đáy” vội vàng. đồng thời đến khi thời điểm T + 4 chứng khoán về thì lại bán tháo cổ phiếu bằng mọi giá”. Đơn cử như xét thời kỳ huy hoàng chứng khoán Việt Nam cuối năm 2007 đầu năm 2008 thì sau đợt tăng nóng dài thì đã xuất hiện tình trạng giảm liên tục, VN – Index từ 1200 xuống còn 600, trong khoảng thời gian này, các nhà đầu tư cũ đạt được lợi nhuận thì bán ra ngồi chờ nhưng khi thấy thị trường xanh lại thì lại nhảy vào mua, nhà đầu tư vào sau cũng tranh thủ bắt đáy thị trường, nhưng càng lúc càng thua lỗ thêm, tiếp tục găm giữ cổ phiếu đang trên đà rớt giá vì về mặt tâm lý thì rất khó bán những cổ phiếu thua lỗ, đến lúc không thể chịu đựng được nữa thì cũng tranh nhau bán, càng làm cho chứng khoán biến thành “đám mây vẫn đục” trong đầu tư, gợi lên những ý không tốt về chứng khoán, coi nó như trò chơi đánh bạc của nhà nước… Vào đầu năm 2009 cũng xãy ra tình trạng giảm thê thảm, các cổ phiếu về giá thấp hơn giá phát hành, thị trường hoảng loạn theo ảnh hưởng của thế giới, nhà đầu tư cá nhân ào ào bán ra, nhưng sau đó thì chứng khoán tăng lại mang khoản lợi nhuận kếch sù cho người tham gia bắt đáy cuối cùng, nhiều người kẻ cười người khóc cũng chỉ vì thiếu hiểu biết của mình đã làm mất đi cơ hội lợi nhuận, quá vội mua vào và cũng vội bán ra, chỉ làm giàu thêm cho nhà đầu tư tổ chức và tổ chức nước ngoài…. Bán cổ phiếu là một bước đi bắt buộc trong quy trình đầu tư để thu lợi nhuận. Thật đáng tiếc, chúng ta không phải là những chiếc máy tính và khả năng tư duy phân tích của chúng ta có thể làm cho kết quả bán cổ phiếu tốt đẹp hơn hay tồi tệ hơn mức trung bình. Sẽ có không ít lần bạn bán cổ phiếu quá sớm hay bán quá muộn vì chờ giá lên. Điều này cũng là bình thường khi các quyết định của bạn dựa trên kinh nghiệm hay cảm tính. Thậm chí không ít trường hợp mọi thứ sẽ tồi tệ hơn rất nhiều nếu các quyết định bán cổ phiếu bị nỗi sợ hãi của bạn ảnh hưởng. Trên thực tế, rất nhiều nhà đầu tư đã bán cổ phiếu dựa nhiều trên yếu tố cảm xúc và do vậy đã mắc các sai lầm đáng tiếc. Phần lớn các nhà đầu tư mới tham gia thường có những quan niệm và suy nghĩ sai lầm. Giá thấp đồng nghĩa với rẻ. Đây là quan niệm mà hầu hết nhà đầu tư mới tham gia thị trường đều có. Tại sao những nhà đầu tư mới lại thích chọn những cổ phiếu giá rẻ? Nguyên nhân nằm ở tâm lý thích nhiều, với cùng một khoản tiền, họ thích mua những cổ phiếu giá thấp để có số lượng cổ phiếu nhiều trong tài khoản. Kể cả nhà đầu tư có kiến thức nhưng chưa có kinh nghiệm, đôi khi cũng vẫn mắc phải những suy nghĩ này. Thực tế, lợi nhuận thu được khi so sánh đánh giá hiệu quả của một khoản đầu tư được tính theo tỉ lệ phần trăm giữa phần lợi nhuận với số đầu tư ban đầu và so sánh với nhau. Ngoài ra, suy nghĩ phổ biến là cho rằng cổ phiếu giá thấp có cơ hội tăng giá nhiều hơn, và có có khả năng mang lại lợi nhuận lớn nếu tăng bằng hay gần bằng những cổ phiếu có thị giá cao. Thực tế, cổ phiếu có thị giá cao thường là cổ phiếu của các công ty có tình trạng sản xuất kinh doanh tốt, mang lại nhiều lợi nhuận cho cổ đông và có sự tăng trưởng mạnh, hay trong các ngành nghề có tốc độ tăng trưởng cao, nên được nhiều nhà đầu tư quan tâm và chấp nhận với thị giá cao đúng như câu "tiền nào của nấy". Tiếc nên ôm lỗ là tâm trạng mà hầu hết nhà đầu tư mới không quen với suy nghĩ phải thực hiện giảm những khoản đầu tư thua lỗ và tăng khoản đầu tư mang lại lợi nhuận. Khi đầu tư vào một danh mục cổ phiếu, nhà đầu tư mới thường có xu hướng bán những cổ phiếu vừa bắt đầu tăng giá, nhưng lại không chịu bán những cổ phiếu xuống giá do tiếc khoản bị lỗ. Sử dụng công cụ phái sinh tràn lan. Mặt trái cơ bản nhất của các công cụ phái sinh trong giao dịch chứng khoán “được GS.TS Stanley Pliska miêu tả” giống như việc đặt cược về tương lai của một cổ phiếu. Nếu diễn biến thị trường của cổ phiếu giống kỳ vọng của bạn, dĩ nhiên bạn được lợi, nếu cổ phiếu không giống kỳ vọng của bạn, bạn sẽ mất phần đặt cược. Ngoài ra, với thị trường chứng khoán non trẻ như Việt Nam, khi có một công cụ mới trên “sân chơi”, vấn đề được lưu tâm nhất vẫn là mức độ “sẵn sàng” của thị trường.GS. Stanley Pliska chia sẻ: “Tôi không phải là một chuyên gia về thị trường Việt Nam, nhưng kinh nghiệm của tôi cho thấy việc áp dụng một hình thức giao dịch tương tự vào một thị trường mới cũng cần nghiên cứu rất kỹ lưỡng và cần xây dựng những khuôn khổ pháp lý chuẩn mực cho các hoạt động này. Các bạn cũng có thể nghiên cứu để áp dụng từng bước. Khi các thành viên đã sẵn sàng thì thị trường mới vận hành tốt được”. Rõ ràng là, bên cạnh những mặt tích cực của các công cụ phái sinh, cũng cần chú ý rủi ro có thể có của những công cụ này. Theo ông Thanh Hải, các công cụ tài chính đều có hai mặt, một mặt các nhà đầu tư có thể phòng vệ rủi ro, chẳng hạn mua một hợp đồng tương lai để bảo vệ hàng hóa đang mua, tuy nhiên, nhà đầu tư có thể gặp rủi ro lớn nếu không biết cách đặt lệnh, giới hạn được tổn thất nếu có. 2.2.3 Chưa quan tâm nghiên cứu những cổ phiếu thân quen như có người thân làm trong công ty làm ăn tốt, có hiệu quả được khẳng định bằng những khoản lợi nhuận thuần hằng năm kinh doanh thuần chất, thay vào đó là chơi chứng khoán theo dạng đầu cơ hoàn toàn theo nhóm đội lái. Mang theo quan niệm đầu tư rủi ro cao thì mang lại lợi nhuận nhiều, đơn cử là AGC là một trong những ví dụ tốt về một cổ phiếu có sự hỗ trợ về mặt cơ bản trong quý 2 vừa qua. Trong tháng 7, AGC tăng khoảng 136,7% sau khi tích lũy gần 2 tháng quanh giá 14.000 đồng/cổ phiếu. AGC bắt đầu bị phân phối mạnh từ 25.000 đồng đến khoảng trên 30.000 đồng. Kết quả kinh doanh quý 1/2010 của AGC không có gì ấn tượng với mức lãi sau thuế 0,5 tỷ đồng. Tuy nhiên, nếu xét kỹ hơn về cơ cấu tài chính, AGC có một lượng hàng tồn kho khổng lồ trị giá tới 318,4 tỷ đồng sau khi đã trừ đi các trích lập dự phòng. Đây là khoản tiền lớn nếu so với mức vốn góp 83 tỷ đồng. AAA là ví dụ kế tiếp. Nhóm đầu cơ có tổ chức đã tung tin Công ty cổ phần An Phát trúng được thầu có giá trị lớn, sau đó cổ phiếu này tăng trần liên tục trong hai tháng từ giá 40.000 lên 92.000 – 94.000 đồng, Sau khi “của thiên trả địa” hết, cổ phiếu nay rơi về giá 52.000 đồng – 54.000 đồng, tương đương điểm xuất phát ban đầu và hiện tượng bắt đáy diễn ra. Tuy nhiên khối lượng kẹp lại quanh đỉnh 90.000 đồng quá lớn và lực bắt đáy không đủ để cản đà rơi. Không ít nhà đầu tư liều mạng đã “chảy máu” khi bắt “con dao” này và giá hiện khoảng 30.000 đồng/cổ phiếu. LTC thậm chí còn “hoàn hảo” hơn: cổ phiếu này tăng 88% trong 17 phiên đầu tháng 9 và rơi sàn liên tục 8 phiên, trả lại khoảng 37% giá tính từ đỉnh. Về ngang điểm xuất phát 60.000 đồng/cổ phiếu LTC được bắt “dao” và trụ được 3 phiên. Hành trình lao dốc lại tiếp tục với 7 phiên sàn nữa và giá còn 35.700 đồng với dư bán sàn gần 200.000 đơn vị mỗi ngày. LTC đã làm “đứt tay” nhiều người với khoảng 522.000 cổ phiếu => Đây là dạng đầu tư rất nguy hiểm, bán không được, thanh khoản mất. 2.2.4 Rất nhiều nhà đầu tư nghe theo lời tư vấn như câu nói “đừng nên bỏ trứng vào một rổ” hay như câu “đa dạng hóa danh mục đầu tư”. Theo các chuyên gia thì khả năng và sự tập trung của mỗi nhà đầu tư là có giới hạn, không thể một lúc theo sát nhiều mã chứng khoán, việc này sẽ làm cho hao tổn tâm trí mà lại không đạt được lợi nhuận như mong muốn. Nhưng lại có rất nhiều nhà đầu tư nghe theo tư vấn của môi giới mà quên mất chính kiến của bản thân, đầu tư tràn lan, không theo một mục tiêu cụ thể nào với quan niệm “mua rải ra càng nhiều càng tốt, tránh được rủi ro khi giảm, khi cổ phiếu này giảm thì cổ phiếu khác tăng” Trong một danh mục có dãy nhiều mã cổ phiếu thì khi thị trường có biến động thì rất khó để kiểm soát và rất khó để ra quyết định giao dịch hoặc là không kịp thời gian giao dịch => Mất công sức nhiều nhưng lợi nhuận không cao. 2.2.5 Quan tâm đến nền kinh tế thế giới chưa sát sao, không thường xuyên cập nhật tin tức thế giới Đó là các yếu tố tin tức kinh tế quốc tế, nó cũng có ảnh hưởng đến TTCK, các tin xấu và tin tốt về vĩ mô quốc tế xuất hiện đan xen nhau, những vấn đề biến động kinh tế thế giới dù có ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán Việt Nam nhưng việc cập nhật và hiểu những thông tin này trên thực tế không phải nhà đầu tư nào cũng làm được. Tuy vậy, một số thông tin cơ bản được đăng tải phổ biến trên các phương tiện truyền thông đại chúng như tivi, báo chí, internet, tạp chí kinh tế … để nhà đầu tư theo dõi và dự đoán xu hướng tăng giảm của TTCK. Ví dụ như khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 có thể làm kim ngạch xuất khẩu giữa Việt Nam và các nước quốc tế giảm đi thấy rõ, điều đó có nghĩa là cổ phiếu của các công ty xuất khẩu sẽ giảm. Các chuyên gia kinh tế hàng đầu thế giới cũng có nhiều nhận định và dự đoán trái chiều. Tình hình kinh tế quốc tế chưa thực sự rõ ràng xu hướng. Hiện nay, những tin tức quốc tế đáng chú ý có thể ảnh hưởng tới chứng khoán: - Tình hình nợ công tăng cao tại một số nước trong liên minh Châu Âu dẫn tới chính sách tiền tệ thắt chặt của các nước khá nhiều nước thuộc liên minh, cùng với nỗi lo về nợ khổng lồ sắp đến ngày đáo hạn phải trả nhưng vẫn chưa tìm ra lối thoát, việc này có thể gây ra mất cân đối tài chính sẽ kéo thị trường chứng khoán thế giới giảm. - Tăng trưởng kinh tế tại một số quốc gia như Mỹ và Đức, Trung Quốc làm cho giới các nhà đầu tư an tâm và nghĩ tới sự phục hồi của nền kinh tế thế giới sau cuộc khủng hoảng tài chính thế giới. - Một số nước lớn đã tiến hành tái cơ cấu nền kinh tế, cắt giảm chi tiêu công, thực thi các chính sách kinh tế hợp lý hơn cũng đã thu được kết quả bước đầu như Hy Lạp giảm tỷ lệ thâm hụt ngân sách quốc gia, Anh giảm bớt ngân sách quốc gia, Trung Quốc thay đổi chiến lược đầu tư ra nước ngoài tận dụng nguồn thặng dư thương mại dồi dào của mình, Mỹ theo đuổi chính sách phát triển năng lượng sạch. . CHƯƠNG 3 NÂNG CAO NĂNG LỰC CỦA NHÀ ĐẦU TƯ CÁ NHÂN TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM Năm 2010 và đầu năm 2011, chỉ số chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt Nam biến động có xu thế bất lợi làm nhiều nhà đầu tư chán nản, số NĐT rời bỏ thị trường có xu hướng tăng lên. Tuy nhiên, đầu tư trên thị trường chứng khoán vẫn là một trong những kênh đầu tư phổ biến trên thế giới. Đặc biệt là ở các nước đang phát triển như Việt Nam, thị trường chứng khoán vẫn còn mới mẻ, tạo ra nhiều cơ hội tốt cho các nhà đầu tư. Không vì sự biến động không thuận lợi mà chán nản rời bỏ thị trường. Khó khăn nguy cơ của người này nhưng lại là thuận lợi cơ hội của người khác. Song, việc nâng cao năng lực đầu tư không phải là việc dễ dàng, có thể mất nhiều thời gian nhưng không thể không làm. Trước mắt, các NĐT cần chú ý một số vấn đề sau: 3.1. Đầu tiên là, trang bị cho bản thân những kiến thức cơ bản không thể thiếu khi đầu tư chứng khoán, đó là: 3.1.1. Kiến thức về chỉ số VN – index, nắm chắc cách thức giao dịch trên thị trường chứng khoán cũng như đăng ký tài khoản giao dịch cùng với thanh toán bù trừ chứng khoán và tiền vốn, hiểu thành gian thanh toán T+4 như thế nào? Thanh toán ra làm sao?.... 3.1.2. Bổ sung kiến thức, thông tin các mã chứng khoán bằng cách đọc thêm trên các phương tiện thông tin đại chúng như truyền hình, báo đài, internet, báo cáo thường niên. Xem thông tin thị trường, nghiên cứu báo cáo tài chính, bản cáo bạch của công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán mà bản thân ưu tiên, xem công bố thông tin về báo cáo tài chính năm và công bố thông tin bất thường khi lâm vào tình trạng phá sản; có quyết định giải thể; Quyết định hợp nhất, sáp nhập, chia, tách, góp vốn liên doanh, chuyển đổi công ty; Quyết định sửa đổi, bổ sung điều lệ công ty; thay đổi tên công ty; tăng hoặc giảm vốn điều lệ; các thông tin bất thường của công ty niêm yết, thông tin trong giờ giao dịch; các thông tin định kỳ trong ngày giao dịch, Tỷ lệ nắm giữ chứng khoán của người nước ngoài và giới hạn còn được mua đối với từng loại chứng khoán; Giao dịch của 05 cổ phiếu có giá trị niêm yết lớn nhất và 05 cổ phiếu có giá thị trường lớn nhất. Nếu có điều kiện ngoại giao tốt thì nên nắm bắt những thành viên chủ chốt của công ty để đưa ra những quyết định đúng và kịp thời nhất... chẳng hạn như là Khi thấy một cổ đông nội bộ đặt cược lớn cho cổ phiếu của mình, bạn cần phải chú ý và đặt câu hỏi tại sao? Vì cổ đông nội bộ mua vào bởi một lý do duy nhất: họ nghĩ rằng cổ phiếu sắp theo chiều hướng tốt. Trong khi đó, động thái bán cổ phiếu của cổ đông nội bộ thì có nhiều lý do, chẳng hạn như đa dạng hóa danh mục đầu tư. Thông thường thì cổ đông nội bộ bán nhiều hơn mua. Tuy nhiên, cần chú ý những hoạt động mua bán “đặc biệt”, không nên chú ý những hoạt động mua bán bình thường. Ví dụ như xem báo cáo Công ty Cổ phần Cơ điện lạnh (REE) thông báo kết quả kinh doanh hợp nhất năm 2010. Doanh thu từ hoạt động kinh doanh chính quý IV/2010 của REE tăng 50,55% so với cùng kỳ năm 2009. Nhờ giá vốn hang bán thấp Lợi nhuận gộp đạt 188,5 tỷ đồng, tăng 121,56% so với cùng kỳ năm 2009. LNST quý IV/2010 đạt 120,19 tỷ đồng, tăng 27,33% so với cùng kỳ năm 2009. Lũy kế cả năm 2010, REE đạt 343,03 tỷ đồng LNST, giảm 20,92% so với cùng kỳ năm 2009. Tổng LNTT cả năm 2010 đạt 451,73 tỷ đồng, hoàn thành 88,57% so với kế hoạch 510 tỷ đã được ĐHCĐ thông qua. Chỉ tiêu Q4/2010 Q4/2009 2010 2009 Doanh thu bán hàng 626.83 416.35 1827.78 1182.01 Giá vốn 438.27 329.93 1264.4 765.33 LN gộp 188.5 85.08 562.98 408.88 DT tài chính 67.56 123.6 157.39 212.9 CP tài chính 2.5 99.98 48.34 4.09 CP bán hàng 23.75 19.8 57.65 48.98 CP Quản lý 70.54 -10.43 172.62 90.07 LNST 120.19 94.39 343.03 433.8 Xem phần báo cáo tài chính web: www.reecorp.com.vn ta cần quan tâm đến các chỉ số như doanh thu thuần, lợi nhuận thuần, các nguồn chi hiện tại và tương lai sử dụng vốn, chia cổ tức, hoạch định tương lai …. Một quyết định thiếu thông tin có thể làm bạn phải trả giá đắt. Bởi vậy, bạn nên đọc Bản cáo bạch một cách kỹ lưỡng và tìm hiểu rõ những may rủi thực sự của công ty trước khi ra quyết định đầu tư. Bạn nên đánh giá cẩn thận những yếu tố cơ bản của công ty đăng ký niêm yết thông qua nghiên cứu các thông tin trong Bản cáo bạch. Mặc dù những đợt chào bán lần đầu ra công chúng thường là cơ hội đầu tư tốt vì chúng thường mang lại lợi nhuận ban đầu cao, do cổ phiếu tăng giá, nhưng rủi ro vẫn tồn tại. Những thông tin cần chú trọng xem như: - Tóm tắt về vốn cổ phần, thống kê sô liệu phát hành / chào bán, số nợ và phương án sử dụng tiền thu được từ đợt phát hành; - Chứng khoán phát hành; - Thông tin về ngành kinh doanh; - Thông tin tài chính; - Thông tin về cổ đông, Hội đồng quản trị và Ban giám đốc; - Các đối tác liên quan tới đợt phát hành; - Các nhân tố rủi ro; Các chỉ số ROA, ROE EPS, P/E luôn dễ dàng được tìm thấy trong các Bản tin chứng khoán lưu hành hằng ngày. Việc còn lại là nhà đầu tư chỉ tính toán và ra quyết định đầu tư khi đã có được những số liệu về các chỉ số đánh giá này. Ngoài ra, ta phải theo kịp tình hình nền kinh tế của các nước phát triển trên thế giới, bởi vì chúng ta không hề đi riêng rẻ, bởi vì các nền kinh tế luôn có ảnh hưởng tương hỗ với nhau, một nước mà có nền kinh tế không ổn định thì sẽ ảnh hưởng dây chuyền với các nền kinh tế xung quanh… 3.1.3. Nắm rõ biểu phí giao dịch của từng công ty chứng khoán và thuế thu nhập cá nhân, trong thời điểm hiện nay, các công ty chứng khoán nhiều nên việc chọn một nơi tin cậy để giao dịch cũng khá dễ dàng, thông thường các công ty có các biểu phí gần gần giống nhau, chi khác nhau ở các công cụ phái sinh như vay ứng trước, sử dụng đòn bẩy, …tuy nhiên chọn sàn cũng như để thuận tiện công việc và trao đổi thông tin với nhà đầu tư khác rất quan trọng, nó góp phần quyết định sự đầu tư thắng lợi, Ví dụ như: Cty chứng khoán Thăng Long thì 0.15% - 0.35%, giao dịch càng nhiều phí càng giảm, giao dịch qua Net thì 0.22%, được sử dụng phái sinh Cty chứng khoán Bảo Việt thì phí 0.25% - 0.4%, ít cho sử dụng phái sinh, khách vip thì 0.2% và sử dụng phái sinh Cty chứng khoán KimEng thì phí đồng nhất 0.15%, sử dụng phái sinh… Về thuế chứng khoán thì việc lựa chọn phương pháp kê khai, nộp theo thuế suất toàn phần 20% là thuận tiện cho các nhà đầu tư có danh mục đầu tư gồm nhiều cổ phiếu, giao dịch nhiều lần trong năm, vì chỉ phải tính toán lãi lỗ và quyết toán một lần cho toàn bộ các giao dịch trong cả năm. Trường hợp năm đầu tư bị lỗ hoặc số thuế phải nộp lớn hơn phần kê khai tạm nộp theo mức ấn định 0,1% theo từng lần giao dịch trong suốt cả năm, thì nhà đầu tư có thể thực hiện các thủ tục xin hoàn số thuế đã nộp thừa trong năm. Theo dự án cải cách thủ tục hành chính trong công tác thuế, hồ sơ, thủ tục và thời gian kiểm tra hoàn thuế đang và sẽ được đơn giản hóa hơn rất nhiều, nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người nộp thuế được hoàn thuế. Theo nguyên tắc, cổ phiếu thưởng, cổ phiếu nhận thay cổ tức và cổ phiếu khác cùng loại mà nhà đầu tư hiện có, xét về khối lượng trong danh mục đầu tư, là không khác nhau và tương tự như quản lý hàng tồn kho với nhiều lần nhập và giá nhập khác nhau. Tuy nhiên, có lẽ nhằm đạt mục đích tận thu, khi cho rằng cổ phiếu thưởng hoặc cổ phiếu nhận thay cổ tức thường được tính với giá gốc hoặc giá ưu đãi nên chắc chắn khi chuyển nhượng sẽ phát sinh lãi, nên cơ quan thuế muốn tính thuế thu nhập cá nhân trên số cổ phiếu này trước. 3.1.4. Nghiên cứu luật chứng khoán rõ ràng, cổ đông ít vốn nên học luật chơi, trong đó lưu ý 2 điểm chính: cổ đông nhỏ được luật pháp trao cho quyền nhất định để tự bảo vệ mình nhưng cũng đừng quên quyền chỉ giới hạn trong số vốn góp, cổ đông ít vốn chiếm tỷ trọng lớn về số lượng nhưng chỉ nắm giữ khoảng 20 - 30% vốn, trong khi một vài cổ đông nắm giữ vốn lớn, gọi là cổ đông lớn có thể nắm giữ 70 - 80% vốn của công ty. Vì thế, quyền quyết định trong công ty thực chất thuộc về một vài cổ đông lớn. Nhà đầu tư nhỏ trước khi quyết định đầu tư vào công ty nào nên đọc kỹ bản điều lệ của công ty đó để biết rõ về quyền lợi của mình, nên chọn mặt gửi vàng, tránh tình trạng đến khi thua thiệt mới tìm hiểu luật chơi, cổ đông nhỏ phải biết liên kết lại để thực hiện quyền mà luật pháp đã trao cho họ. Chẳng hạn, Luật Doanh nghiệp đã quy định số phiếu đồng ý phải đạt 75% trong đại hội cổ đông, quyền bầu dồn phiếu cử người đại diện vào HĐQT. Khi có người đại diện trong HĐQT, thông tin về hành vi của các thành viên HĐQT có thể ảnh hưởng đến giá cổ phiếu như mua bán, cho tặng cổ phiếu, góp vốn đầu tư, thành lập công ty con sẽ được tăng cường minh bạch, công khai. Nhà đầu tư cần biết các hành vi bị cấm như: - Trực tiếp hoặc gián tiếp thực hiện các hành vi gian lận, lừa đảo, tạo dựng thông tin sai sự thật hoặc bỏ sót thông tin cần thiết gây hiểu nhầm nghiêm trọng làm ảnh hưởng đến hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng, niêm yết, giao dịch, kinh doanh, đầu tư chứng khoán, dịch vụ về chứng khoán và thị trường chứng khoán. - Công bố thông tin sai lệch nhằm lôi kéo, xúi giục mua, bán chứng khoán hoặc công bố thông tin không kịp thời, đầy đủ về các sự việc xảy ra có ảnh hưởng lớn đến giá chứng khoán trên thị trường. - Sử dụng thông tin nội bộ để mua, bán chứng khoán cho chính mình hoặc cho người khác; tiết lộ, cung cấp thông tin nội bộ hoặc tư vấn cho người khác mua, bán chứng khoán trên cơ sở thông tin nội bộ. - Thông đồng để thực hiện việc mua, bán chứng khoán nhằm tạo ra cung, cầu giả tạo; giao dịch chứng khoán bằng hình thức cấu kết, lôi kéo người khác liên tục mua, bán để thao túng giá chứng khoán; kết hợp hoặc sử dụng các phương pháp giao dịch khác để thao túng giá chứng khoán. 3.1.5. Cần đọc hiểu các phân tích về những rủi ro có thể ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán và các rủi ro khi tham gia thị trường chứng khoán như: rủi ro thị trường (lãi suất, lạm phát, tỷ giá…), rủi ro cụt vốn khi thị trường giảm, rủi ro thanh khoản, rủi ro thời thế….Hầu hết các loại rủi ro này được các chuyên gia kinh tế phân tích rộng rãi trên các phương tiện truyền thông đại chúng, sách báo - tạp chí, internet, báo cáo phân tích…..nên việc tìm tòi và tham khảo tài liệu hiện nay rất dễ dàng. 3.2. Cần phải biết học cách hạn chế cảm xúc đầu tư EQ. Thời gian qua, cái sự điên rồ của công chúng đã khiến nhiều nhà đầu tư Việt Nam trở thành triệu phú nhờ vào việc dám mạo hiểm đầu tư, gần đây nhất là đầu tư vào “dòng họ Sông Đà” trên sàn Hà Nội khi giá tăng gấp đôi, thậm chí gấp 3 - 4 lần. Trong số những người này, dám chắc rằng những ai không ưa mạo hiểm hay quá chú ý đến phân tích cơ bản chỉ đếm trên đầu ngón tay. Dường như nhà đầu tư thất bại thường phạm những sai lầm giống nhau, đó là học đầu tư cổ phiếu nhưng không biết điều khiển cảm xúc, không biết nâng cao EQ bằng những bài học thực tế mà lại quá chú trọng đến việc bổ sung kiến thức, kỹ xảo đầu tư. Bởi khi đó, bạn sẽ có hàng tá lý do để cân nhắc, sau đó là băn khoăn giữa việc bán ra hay mua vào, vì có hàng tá ưu điểm và nhược điểm của cổ phiếu đã được bạn tìm ra. Điều này sẽ ảnh hưởng đến cảm xúc của bạn, khiến bạn không thể suy nghĩ rõ ràng và khó thể ra quyết định một cách chính xác và dứt khoát. Ví dụ, khi giá cổ phiếu liên tục tăng cao, suy nghĩ lý tính nói với bạn rằng, giá cổ phiếu đã quá cao, khả năng thu lợi sẽ thấp trong khi rủi ro gia tăng, do đó, tốt nhất là không mua cổ phiếu này, và ngược lại. Nếu thực hiện đúng điều này thì khi giá lên cao, nhu cầu giảm bớt (khiến giá hạ), còn khi giá xuống thấp, nhu cầu sẽ gia tăng (khiến giá tăng). Còn một biện pháp trong lúc thị trường lình xình đó là “sống chung với lũ” trong một thế giới mà tính liên thông ngày càng cao giữa các thị trường, dòng vốn quốc tế ngày càng được khơi thông thì chúng ta, những thị trường nhỏ,  không thể nghĩ tới chuyện "đèn nhà ai nấy sáng", "sống chết mặc bay", mà hiệu ứng lan truyền (spill-over effect) sẽ đổ lên chúng ta bất cứ khi nào. Nguy hiểm hơn, bây giờ tâm lý hoảng loạn có tính lan truyền toàn cầu, hoảng loạn tại thị trường Mỹ sẽ có thể nhanh chóng lan sang nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, rồi lan sang nhà đầu tư người Việt, chính vì thế để tránh gặp tình trạng dây chuyền và nghĩ đến lợi ích chung của thị trường chứng khoán ta cần sử dụng biện pháp trên việc này, tất nhiên biện pháp này cần được sự đồng lòng của tất cả các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam. 3.3 Kế đến là thực hiện những nguyên tắc đầu tư có thể như 3.3.1 Tâm lý cho bản thân khi đầu tư chứng khoán như là: -Tự mình nghiên cứu thị trường, không nên hoàn toàn nghe theo lời khuyên hay quan điểm của người khác vì mỗi người đều có một ý kiến riêng về loại CP nào đó và biết một số tin nóng, bạn nên kiểm tra lại những thông tin này. - Giữ bí mật về những lần giao dịch, đây là những khoản đầu tư của mình nên bạn không thể tiết lộ cho người khác biết. - Không ngừng phân tích thị trường khi tạm rút lui, lúc nào cũng giao dịch trên thị trường không phải là chiến lược khôn ngoan. Rút khỏi thị trường nghĩa là nhà giao dịch đứng ngoài thị trường, họ sẽ giao dịch trở lại khi có cơ hội tốt hơn. Thời gian yên tĩnh khi rút lui khỏi thị trường sẽ giúp họ có thêm cơ hội phân tích thị trường và xu hướng giá. Nguyên tắc phân tích không ngừng trong khi rút lui khỏi thị trường cũng giống như việc luyện tập của những vận động viên hàng đầu trong những kỳ nghỉ. Bạn vẫn đạt phong độ đỉnh cao và chắc chắn rằng mình sẵn sàng chuẩn bị khi thời cơ giao dịch đến. - Không nên đa dạng hóa danh mục mà nên tập trung vào một số cổ phiếu trọng tâm. Tôi tin rằng việc kiếm được nhiều lợi nhuận nhất lại phụ thuộc vào việc bạn giao dịch càng ít loại cổ phiếu càng tốt. Nguyên tắc này nghĩa là tập trung giao dịch một số loại cổ phiếu hàng đầu - những cổ phiếu có nhu cầu lớn nhất tại thời điểm đó và không đầu tư vào những loại cổ phiếu mà bạn không hiểu nhiều về lĩnh vực đó, nguyên tắc này sẽ giúp bạn trở thành người cực kỳ giàu có. Như Gerald Loeb đã từng nói rằng: “An toàn nhất là để tất cả số trứng của bạn vào một cái rổ và quan sát rổ đó”. - Tránh đầu tư vào những công ty được đồn là “sao sáng”, nên đầu tư vào công ty đơn giản càng tốt, Điều quan trọng nhất để đầu tư vào một công ty là tài sản và khả năng tạo ra lợi nhuận của nó. Trước khi đầu tư vào cổ phiếu của bất kỳ công ty nào, hãy tự hỏi và tự đối thoại với bản thân mình trong hai phút: cái gì tạo ra giá trị cho công ty này, và công ty có thể thành công không? Ngoài những nguyên tắc cơ bản như giá trị tài sản, doanh số bán hàng, tỷ số tiềm năng của lợi nhuận trên thị giá, khả năng thanh khoản, quan sát một số dấu hiệu khác để tìm ra những cổ phiếu tốt: người trong công ty có mua cổ phiếu đó không? Công ty có đang mua lại cổ phiếu của mình không? 3.3.2. Nghiên cứu tâm lý thị trường chứng khoán kỹ, điều này khá là khó khăn bởi vì tâm lý thị trường là tâm lý của đám đông, câu “hãy tham lam khi người khác sợ hãi” và “hãy sợ hãi khi người khác tham lam” cho thấy lúc nào cũng đúng, thị trường luôn có những cái lý của nó, không nên ép nó vào suy nghĩ của bản thân, tuy nhiên vẫn có cách để nắm bắt được các diễn biến tâm lý trên thị trường, đó là sử dụng đồ thị phân tích kỹ thuật, bất cứ trang web của công ty chứng khoán nào cũng có. Đơn cử www.fpts.com.vn; www.thanglongsc.com.vn; www.ssi.com.vn; www.dvsc.com.vn; www.vdsc.com.vn; Hình 3.1 Đồ thị kỹ thuật VN – index Chỉ số VN – index là một đường màu xanh, cho thấy xu hướng tăng hoặc giảm, đường màu đỏ và mảng màu xanh là các tiệm cận, khi đường màu xanh lọt nhiều ra ngoài tiệm cận thì nó sẽ quay lại, số liệu cột bên phải là chỉ số VN – index hoặc giá cổ phiếu, số liệu cột bên trái là khối lượng giao dịch. Money flow index là đồ thị cho thấy lưu lượng dòng tiền vào thi trường, nhìn vào đây thấy ngay dòng tiền mạnh hay yếu, điều tiên quyết cho tính thanh khoản của thị trường chúng khoán khi sôi động lúc trầm lắng. Momenturn là đồ thị chỉ tâm lý, tương tự như Money. Chỉ số RSI cho biết xu hướng biến động của cổ phiếu hay chỉ số index, khi xuất hiện các đỉnh màu đỏ nghĩa là thị trường đang nóng, ngược lại là các đáy màu xanh thị trường đang hốt hoảng. Các số liệu cột bên phải là con số kỹ thuật quy ước. Khi đồ thị RSI phân kì so với đồ thị giá cả, sẽ có nhiều khả năng là thị trường sẽ sớm tuân theo đồ thị RSI. Điều này xảy ra khi một điểm phân kì xuất hiện trên đồ thị (phân kì âm, khi chỉ số RSI đi xuống nhưng giá cả lại tăng lên). Khi một loại chứng khoán, hay thường xuyên hơn là một loại hàng hóa chạm đáy mới và bắt đầu đảo chiều đi lên, chỉ sau một giai đoạn tăng ngắn ngủi, động lực đẩy giá đi lên thông thường sẽ mất đi và giá cả sụt giảm trở lại. Nếu giá cả chạm tới một đáy mới mà RSI không vượt qua mức cực tiểu trước đó, lúc này điểm phân kì xuất hiện trên biểu đồ. Nếu giá lại tăng lên và RSI nằm sát trên mức cực đại được hình thành giữa hai điểm cực tiếu, khi đó phân kì sẽ xảy ra và đây cũng chính là dấu hiệu để bắt đầu mua vào. Thông thường RSI sẽ định hướng giá cả đến mức các cổ phần sẽ được giao dịch mua bán tại mức giá gần với đáy hoặc đỉnh của đường xu thế. Khoảng thời gian để phân tích tốt nhất là 21 tuần. Phần lớn những người sử dụng chỉ số RSI đều có xét tới thêm một vài chỉ số nữa. Điều này đặc biệt đúng khi RSI cho thấy các dấu hiệu về sự thay đổi trong xu thế thị trường. Sử dụng đa dạng các chỉ số bên cạnh RSI sẽ khiến cho các dấu hiệu được khẳng định một cách chắc chắn hơn. Không chỉ có RSI mà không có chỉ số nào đơn lẻ được coi là chân lý cho mọi quyết định. Cũng như các chỉ số, các công cụ dự báo khác được sử dụng trong thị trường chứng khoán, RSI cũng chỉ đơn thuần là một công cụ. 3.4. Tiếp tục là, cần phải học tập trau dồi kinh nghiệm đầu tư thường xuyên, kinh nghiệm đầu tư rất quan trọng, các nhà đầu tư cần phải ghi nhớ những kinh nghiệm mình đã tích lũy được khi đối mặt với khó khăn để khi gặp những tình huống tương tự có thể nhanh chóng giải quyết. Điều này đặc biệt đúng trên thị trường chứng khoán vì mô hình cổ phiếu và xu hướng thị trường thường lặp đi lặp lại từ năm này sang năm khác và từ chu kỳ này sang chu kỳ khác. Kinh nghiệm có thể có được bằng cách: 3.4.1. Nghiên cứu cổ phiếu và nhóm cổ phiếu cùng nghành (Bluechip, mid cap – pennychip) Giá nhiều cổ phiếu thời gian qua đã trở về mức của tháng 2-2009, khi VN-Index ở đáy 234 điểm. Nhưng nhà đầu tư vẫn đứng ngoài cuộc. Điều này phản ánh qua sự sụt giảm tính thanh khoản trên thị trường chứng khoán suốt mấy tháng qua. Giới phân tích cho rằng đây chính là thời điểm cần sự đầu tư thông minh. Nếu chạy theo số đông mà bán tháo cổ phiếu, hay mua bất cứ cổ phiếu nào theo tâm lý thị trường thì dễ “mẻ đầu, sứt trán”. Chẳng hạn như: Phân tích trong nhóm cổ phiếu ngân hàng, VCB, CTG, EIB là các cổ phiếu cần quan tâm, trong đó CTG và VCB có thể được hỗ trợ từ lực cầu ngoại. Lợi nhuận ngân hàng dựa trên các yếu tố sau: khả năng huy động vốn là yếu tố then chốt, nguồn vốn giá rẻ từ thị trường mở có thể bị hạn chế, vay chứng khoán và bất động sản (có lãi suất cao) bị hạn chế, việc tăng cường sử dụng vốn cấp 2 có thể cải thiện chỉ số CAR và ROE của các ngân hàng lớn, cổ phiếu ngành ngân hàng tuy không trở lại vai trò dẫn dắt thị trường nhưng sẽ từng bước hồi phục khi lãi suất giảm và các ngân hàng nhỏ góp đủ vốn điều lệ 3.000 tỷ đồng. Nếu như năm 2010 là năm niêm yết của các DN ngành chứng khoán thì năm 2011 sẽ là năm niêm yết của các DN ngành ngân hàng. Trong ngành dầu khí, chất lượng cổ phiếu ngành dầu khí không đồng đều. Nguồn cung cổ phiếu ngành dầu khí có thể tăng cao do Tập đoàn Dầu khí huy động vốn từ cổ phần hóa công ty con để đáp ứng nhu cầu vốn cho kế hoạch mở rộng kinh doanh lớn. Riêng phân ngành dầu khí và chế biến dầu khí có tiềm năng tăng trưởng mạnh. Các cổ phiếu bất động sản, thép, xi măng, điện (REE, SAM, DXG, VHG, VNE, PPC..) chưa phù hợp để đầu tư hiện tại. Các doanh nghiệp bất động sản có thể gặp khó khăn mở rộng đầu tư với mức lãi suất cao và ngân hàng hạn chế cho vay bất động sản. Tuy nhiên, cổ phiếu ngành bất động sản tiếp tục có nhiều đợt sóng trong năm cùng với sự hồi phục của thị trường bất động sản và các chỉ số chứng khoán. Ngành xi măng và ngành vận tải biển (GMD, HTV, HT1), bị ảnh hưởng lớn bởi biến động tỷ giá do phần lớn nguyên liệu phải nhập khẩu và sử dụng vốn vay lớn. Tuy nhiên, lợi thế sẽ thuộc về doanh nghiệp lớn có đầu tư luyện phôi và khai khoáng như HPG, POM và HSG. 3.4.2 Nhà đầu tư có thể ủy thác cho các công ty quản lý quỹ đầu tư, trường hợp một số nhà đầu tư còn phải tập trung vào công việc hằng ngày của họ, không thể suốt ngày cứ bám sàn và chúi mũi vào tìm kiếm thông tin để ra quyết định mua, bán. Do đó, nên ủy thác cho công ty quản lý quỹ, chí ít cũng nhận được lợi nhuận bằng lãi suất tiết kiệm. Tuy nhiên, ta cũng phải xét việc chọn mặt gửi vàng. Đơn cử: Công ty Chứng khoán Sài Gòn (SSI) cũng được biết đến là một trong những đơn vị nhận ủy thác đầu tư lớn nhất thị trường. Ông Nguyễn Hồng Nam, Phó tổng giám đốc SSI, cho biết phần lớn các nhà đầu tư ủy thác tại SSI là các tổ chức, có đơn vị ủy thác đến 100 tỉ đồng. Hầu hết các hợp đồng hiện tại đang được chuyển sang Công ty quản lý quĩ SSI. Sản phẩm ủy thác đầu tư cũng đang được các công ty tài chính tham gia cung ứng. Tại Công ty Tài chính dầu khí (PVFC), khách hàng có thể lựa chọn một hoặc một nhóm các cơ hội đầu tư do PVFC giới thiệu với thời hạn ủy thác tối thiểu là 12 tháng. Các nhà đầu tư được chọn hình thức đầu tư "tự chịu hoàn toàn rủi ro" hoặc "cùng PVFC chia sẻ rủi ro", được chuyển nhượng vốn cho bên thứ ba hoặc PVFC, được cầm cố hợp đồng ủy thác để vay vốn tại PVFC, thậm chí còn được phép góp chậm khoản vốn đầu tư với mức lãi suất ưu đãi. Tuy nhiên, nếu tham gia ủy thác vốn tại các công ty tài chính, các nhà đầu tư sẽ không có nhiều sự chọn lựa do đa số các công ty tài chính đều tập trung vào lĩnh vực mà công ty mẹ đang hoạt động. Chẳng hạn ở PVFC, chỉ tập trung nhận ủy thác đầu tư cổ phiếu của một số công ty thủy điện, nhiệt điện, dầu khí. Trong khi đó, nếu ủy thác ở các công ty quản lý quĩ, sự chọn lựa sẽ đa dạng hơn, vì các công ty này có đội ngũ chuyên viên phân tích phụ trách theo ngành nghề và luôn bám sát hoạt động của những công ty hàng đầu trong từng lĩnh vực. 3.4.3. Kế tiếp, có thể sử dụng Margin, đòn bẩy tài chính nhưng phải hiệu quả đúng lúc kịp thời, điều này có nghĩa là ta phải sử dụng những tài liệu để so sánh giá trị theo những mốc thời gian quan trọng đáng nhớ. Ví dụ như sau: khảo sát thị trường hiện nay cho thấy *Hàng loạt cổ phiếu về dưới mệnh giá và giá trị sổ sách P/E của thị trường đang ở mức thấp 8.33 lần, P/B 1.49 lần. Thống kê của các chuyên gia cho thấy, tại ngày 04/03/2011 đã có tới 172 cổ phiếu và 4 chứng chỉ quỹ, chiếm 27% số chứng khoán niêm yết, đang giao dịch dưới mệnh giá. Đối với nhóm cổ phiếu từng được coi là “thời thượng” là chứng khoán và ngân hàng thì có tới 12/25 cổ phiếu của công ty chứng khoán và 2/8 cổ phiếu ngân hàng có thị giá dưới mệnh giá. Thống kê 615 doanh nghiệp đang niêm yết đã công bố kết quả kinh doanh năm 2010 thì có tới 370 cổ phiếu (63%) đang có thị giá thấp hơn giá trị sổ sách. Trong đó, đáng chú ý như FPC, HAP có thị giá chưa bằng 1/3 giá trị sổ sách. Ngoài những doanh nghiệp thua lỗ hoặc có lợi nhuận thấp, có rất nhiều doanh nghiệp có tỷ lệ lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) rất cao nhưng giá cổ phiếu vẫn đang giao dịch dưới giá trị sổ sách. Thống kê của các chuyên gia còn cho thấy có tới gần 50 công ty có P/B nhỏ hơn 1 lần và ROE lớn hơn 20%. Số doanh nghiệp không thua lỗ và có P/E nhỏ hơn 5 lần lên tới 116 doanh nghiệp. Tính toán từ kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp niêm yết đã công bố kết quả kinh doanh năm 2010 và dựa trên giá cổ phiếu ngày 04/03/2011, P/E trailing của thị trường chứng khoán Việt Nam hiện chỉ ở mức 8.33 lần, trong đó P/E của HoSE là 8.31 lần và HNX là 8.43 lần. Đây là mức rất thấp so với hầu hết các thị trường chứng khoán trên thế giới. Hình 3.2 Bảng so sánh các chỉ tiêu giữa năm 2009 và 2011 EPS năm 2010 bình quân của toàn thị trường đạt ở mức khá cao 2,829 đồng. Trong đó, EPS của các doanh nghiệp niêm yết trên HoSE đạt 3,200 đồng, tại sàn HNX chỉ đạt 1,925 đồng. Sở dĩ EPS trên HNX thấp là do chịu ảnh hưởng lớn từ kết quả kinh doanh không thuận lợi của các công ty chứng khoán và ngân hàng đang niêm yết trên sàn này. Nếu loại trừ công ty chứng khoán và ngân hàng thì EPS trung bình trên HNX đạt 2,400 đồng, và P/E của sàn này chỉ là 7.25 lần. Chỉ số P/B của thị trường hiện nay cũng ở mức khá thấp 1.49 lần, trong đó trên HoSE là 1.59 lần và trên HNX chỉ là 1.19 lần. Điều này đồng nghĩa với giá trung bình của cổ phiếu trên HNX đang khá gần với giá trị sổ sách. *So sánh với đáy của thị trường vào cuối tháng 02/2009 Đợt sụt giảm mạnh của thị trường chứng khoán trong năm 2008 và đầu năm 2009 làm cho VN-Index giảm về vùng đáy 235.5 điểm, HNX-Index giảm về mức 78.06 điểm vào ngày 24/02/2009. Thị trường sụt giảm mạnh trong gần 2 tháng đầu năm 2009 xuất phát từ việc rất nhiều doanh nghiệp thua lỗ trong quý 4/2008 và triển vọng bi quan của nền kinh tế trước cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Thị giá và Mệnh giá: Thống kê của các chuyên gia cho thấy vào ngày 24/02/2009, có tới 117/354 cổ phiếu, tương đương 33% cổ phiếu niêm yết, có thị giá thấp hơn mệnh giá, cao hơn tỷ lệ này vào ngày 04/03/2011 (27%). Thị giá và Giá trị sổ sách: Cũng vào thời điểm đó, có tới 257/354 cổ phiếu có thị giá thấp hơn giá trị sổ sách, chiếm 75% số cổ phiếu trên sàn, cao hơn mức 63% của ngày 04/03/2010. Định giá: Xét trên chỉ số định giá P/E, so với thời điểm đáy của thị trường vào năm 2009 thì P/E hiện tại của thị trường thấp hơn khá nhiều. Năm 2008, nhiều doanh nghiệp rơi vào tình trạng thua lỗ mạnh khiến P/E thị trường vào ngày 24/02/2009 lên tới 11.46 lần. Nếu loại bỏ các doanh nghiệp thua lỗ thì P/E của thị trường khoảng 8.32 lần. Năm 2010, hoạt động kinh doanh của nhiều doanh nghiệp được cải thiện nhờ gói kích cầu của Chính phủ và tránh được thua lỗ. Nhờ vậy, EPS của thị trường đã cao hơn nhiều, ở mức 2,829 đồng so với 1,737 đồng nếu tính dựa trên số liệu tháng 2/2009. P/E hiện tại của thị trường vì vậy vẫn đang ở mức thấp 8.33 lần. Xét theo chỉ số định giá P/B thì P/B hiện tại đang ở mức 1.49 lần, cao hơn mức 1.19 lần của đáy năm 2009. Điều này là có thể hiểu được vì thông thường trong bối cảnh hoảng loạn, giá trị thị trường thường có xu hướng tìm về giá trị sổ sách. Từ những giá trị so sánh ở trên ta có thể xem xét việc sử dụng Margin, đòn bẩy tài chính là công việc khá quan trọng vì nó cho khả năng mang lại lợi nhuận mong muốn trong tức thời. Hơn nữa để quyết định mua bán trong lúc này thường còn phải xem xét khả năng của thị trường, nguồn vốn của bản thân, và tùy theo những công cụ phái sinh tại nơi đăng ký tài khoản giao dịch… 3.4.4. Học tập mô hình nhà đầu tư chứng khoán nước ngoài tại các nền kinh tế phát triển Thường xuyên quan sát thị trường chứng khoán thế giới, nơi mà nhà đầu tư tài năng kiếm được lợi nhuận bậc thầy như Warrant Buffet (đầu tư về giá trị cổ phiếu, mua toàn bộ cổ phiếu công ty có tiềm năng, mua cổ phiếu ngành nghề trọng điểm của quốc gia,…); William O’Neil luôn tự mình nghiên cứu những tài liệu có liên quan đến công ty niêm yết, it khi quan tâm đến những bài viết tư vấn bên ngoài để không bị chi phối tư duy… Hơn nữa, ở nước ngoài luôn có rất nhiều sự góp mặt của các tổ chức quỹ, công ty quản lý quỹ, đây là nơi các quyền lợi cổ đông góp vốn đặt lên hàng đầu. Chính các quỹ này đại diện cho các cổ đông để đàm phán, biểu quyết các quyền, luôn tìm kiếm những khoản đầu tư lợi nhuận khả thi nhất qua các kiểm tra khảo sát và được trình duyệt thông qua hội đồng quản trị của công ty quản lý quỹ …. KẾT LUẬN Thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn là thị trường mới nổi nên vẫn có những hạn chế, những thông tin lũng đoạn, tâm lý đầu tư vẫn còn mang tính đám đông… bởi vì thế nên việc Ủy ban chứng khoán Việt Nam hạn chế các công cụ phái sinh chỉ nhằm mục đích giúp công chúng quen dần với thị trường chứng khoán, những khái niệm về lĩnh vực chứng khoán, những tài liệu liên quan về lĩnh vực tài chính chứng khoán…. nhưng với thị trường đầy tiềm năng như nước ta thì đây là lúc bắt đầu cuộc chơi thật sự, khoảng thời gian chín muồi để có những giải pháp lớn cho sự phát triển bền lâu của Thị trường chứng khoán và quan trọng hơn là đầu tư chứng khoán được coi là một nghề thực sự, một công việc kinh doanh chân chính. Để được như vậy, nhà đầu tư cá nhân phải đầu tư một cách bài bản chuyên nghiệp hơn nữa, thêm nhiều công sức và thời gian vào việc học chứng khoán, luật chứng khoán, đọc bảng điện tử giao dịch, các dấu hiệu của tâm lý thị trường, nghiên cứu nắm bắt tình hình kinh tế trong nước và các yếu tố rủi ro tác động trên thị trường chứng khoán, phải có mục tiêu rõ ràng trong đầu tư chứng khoán, nghiên cứu động thái chính sách nền kinh tế thế giới…Khi đó, bản thân nhà đầu tư sẽ tự mình đánh giá thị trường, phân tích và sàng lọc cổ phiếu, nhờ đó sẽ hạn chế những rủi ro có thể gặp phải, tránh những cổ phiếu không tốt hoặc bị “làm giá” của “các đội lái”, nhận diện được những mánh khóe có tính lừa đảo trên thị trường chứng khoán, tránh những thông tin “mù” nhằm trục lợi của một số đối tượng…Ngoài ra, nhà đầu tư còn phải chủ động thường xuyên nâng cấp kiến thức về phân tích tài chính, báo cáo tài chính….Tất cả những công việc đó chỉ nhằm nâng cao năng lực, khả năng đầu tư an toàn chứng khoán của nhà đầu tư cá nhân cũng như tự bảo vệ những mục tiêu chiến lược đầu tư của mình, phát huy những hiệu quả trong lĩnh vực đầu tư của bản thân. Hơn nữa, nếu quan sát kỹ, thị trường chứng khoán đã mở ra rất nhiều cơ hội cho các nhà đầu tư bởi vì những thông tin như lãi suất tăng, thay đổi tỷ giá ngoại tệ, chỉ số CPI,… mà thoạt đầu chúng ta cho là xấu thì rất có thể sẽ hoàn toàn ngược lại. Những phiên giảm điểm mang tính kỹ thuật, điều chỉnh vẫn sẽ luôn luôn tồn tại và tất nhiên, sẽ là hão huyền nếu chúng ta hy vọng thị trường chứng khoán sẽ tăng nóng như trước kia, nhưng theo ý kiến của người viết, thị trường sẽ hồi phục theo kiểu lùi lại 1 bước để tiến lên 2 bước, chậm nhưng chắc. Nhà đầu tư cũng vậy, phải trải qua những thăng trầm khi đầu tư thì từ đó mới có những bài học quý báu, kinh nghiệm về đầu tư chứng khoán, tương tự như việc nâng cấp kiến thức, giúp nhà đầu tư hoàn thiện hơn nữa trong khả năng đầu tư chứng khoán của bản thân, để đưa ra những quyết sách kịp thời hợp lý, tránh những tổn thất do đã dự báo trước, bảo toàn được tài sản đầu tư.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNOP Bao cao nang cao hieu qua dau tu chung khoan Viet Nam.doc
  • docLỜI CAM ĐOAN+cam on+nhan xet cua GVHD.doc
  • docMỤC LỤC, danh muc danh muc viet tat.doc
  • docTrang ba tot nghiep.doc
Tài liệu liên quan