Đề tài Nghiên cứu chủ trương xây dựng hậu phương của Đảng

MỞ ĐẦU Trong chiến tranh, bên nào có sức mạnh áp đảo thì bên đó giành thắng lợi. Muốn có sức mạnh thì ngoài yếu tố binh khí, kĩ thuật, tư tưởng, con người . còn phải kể đến một nhân tố có vai trò hết sức quan trọng là hậu phương của cuộc chiến tranh. Sự chi viện của hậu phương cho tiền tuyến là một yếu tố thường xuyên quyết định thắng lợi của cuộc chiến tranh, vì hậu phương là nơi xây dựng và dự trữ tiềm lực của chiến tranh về cả mặt chính trị, kinh tế, quân sự, văn hoá và khoa học kĩ thuật, là nơi chi viện nhân lực, vật lực, là chỗ dựa tinh thần cho tiền tuyến. Muốn đánh thắng địch ở tuyền tuyến thì phải có hậu phương vững mạnh về mọi mặt. Việc xây dựng hậu phương là một vấn đề có tính chất chiến lược và quyết định sống còn đối với thắng lợi của toàn bộ cuộc chiến. Đó là qui luật của các loại chiến tranh từ xưa đến nay. Nắm vững qui luật đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tranh thủ mọi thời gian, điều kiện vật chất để chuẩn bị hậu phương cho chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ tổ quốc. Vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, vừa đánh giặc, vừa xây dựng chế độ mới, xây dựng căn cứ địa hậu phương là một chủ trương chiến lược đúng đắn, sáng tạo của Đảng, phản ánh một trong những đặc trưng của cách mạng Việt Nam. Việc xây dựng, củng cố hậu phương trong hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ luôn luôn được Đảng nhìn nhận một cách đúng đắn và đặt lên hàng đầu. Đảng đã xây dựng, củng cố hậu phương trong mọi tình huống của cuộc chiến, làm cho hậu phương có sức sống và phát triển trong hoàn cảnh gay go, khó khăn nhất, trong khi chính nó cũng phải trực tiếp chiến đấu quyết liệt với kẻ thù. Dân tộc ta thắng những kẻ thù mạnh hơn gấp nhiều lần bởi vì chúng ta có nhân dân anh hùng, có sự lao động sáng tạo, tài năng và trí tuệ của Đảng, có hậu phương lớn tập trung sức người, sức của, động viên tinh thần tuyến tuyến lớn đánh thắng kẻ thù. Do vậy, việc nghiên cứu chủ trương xây dựng hậu phương của Đảng, để qua đó rút ra những bài học kinh nghiệm, phục vụ cho công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước hiện nay dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong bối cảnh quốc tế và trong nước có nhiều thuận lợi cũng như khó khăn mới, sẽ góp phần đắc lực vào nhiệm vụ bảo vệ và xây dựng tổ quốc Việt Nam XHCN. NỘI DUNG I. VỊ TRÍ, VAI TRÒ VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA HẬU PHƯƠNG TRONG CHIẾN TRANH. Hậu phương hiểu theo nghĩa nghĩa hẹp: “là nơi đối xứng với tiền tuyến, có sự phân biệt rạch ròi bằng yếu tố không gian, là lãnh thổ ngoài vùng chiến sự, phía sau chiến tuyến, có dân cư và tiềm lực mọi mặt, nhất là về nhân lực, vật lực. Là nơi xây dựng và huy động sức người, sức của, đáp ứng nhu cầu của lực lượng vũ trang ngoài tiền tuyến” {14.Tr. 231}. Theo nghĩa rộng, đây là chỗ dựa để tiến hành chiến tranh, nơi cung cấp sức người, sức của cho chiến tranh, không phân biệt rạch ròi với tuyền tuyến về mặt không gian. Như vậy, có thể thấy ngay rằng trong các cuộc chiến tranh, hậu phương là một trong những điều kiện cơ bản quyết định thắng bại, được thua của hai bên tham chiến. Chiến tranh phải dựa vào hậu phương hùng mạnh. Quân đội nào tách khỏi hậu phương thì không thể giành thắng lợi trong chiến tranh, không thể tồn tại được. Trong lịch sử quân sự, các nhà quân sự lỗi lạc và những người thầy vĩ đại của cách mạng vô sản – Mác, Ăng ghen, Lê-nin đều nhấn mạnh đến vai trò của hậu phương vững chắc, có tổ chức. Ăng ghen đã viết: “Toàn bộ việc tổ chức và phương thức chiến đấu của quân đội và do đó thắng lợi, thất bại đều tỏ ra là phụ thuộc vào những điều kiện vật chất, nghĩa là điều kiện kinh tế, vào chất liệu của con người và của vũ khí, nghĩa là vào chất lượng và số lượng của cư dân và của cả kĩ thuật” {6.Tr. 242} Còn Lê-nin thì cho rằng: “ Trong chiến tranh, ai có nhiều lực lượng hậu bị hơn, ai có nhiều nguồn lực, ai kiên trì đi sâu vào quần chúng nhân dân hơn, thì người đó thu được thắng lợi”{1.Tr.84} Và: “ Muốn tiến hành chiến tranh một cách thực sự, phải có một hậu phương có tổ chức vững chắc, một đội quân giỏi nhất, những người trung thành nhất với sự nghiệp cách mạng cũng đều lập tức bị kẻ thù tiêu diệt, nếu họ không được vũ trang, tiếp tế lương thực và huấn luyện đầy đủ” {2.Tr. 497}. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng cho rằng: “khi có chiến tranh, phải huy động và tổ chức tất cả các lực lượng trong nước để chống giặc” {4.Tr. 474}. Ngoài ra, đề cập đến những yếu tố cụ thể quyết định sức mạnh của hậu phương, Mác và Ăngghen, Lê-nin, đều đã đánh giá cao nhân tố chính trị-tinh thần, đồng thời cũng nhấn mạnh đến yếu tố trang bị vũ khí. Xtalin khi bàn đến sự thử thách khắc nghiệt của chiến tranh đã nói: “lịch sử chiến tranh dạy rằng, chỉ có những nước nào mạnh hơn đối phương của mình về mặt phát triển và tổ chức kinh tế, về kinh nghiệm, tài nghệ và tinh thần chiến đấu của quân đội, về tinh thần kiên cường và đoàn kết của nhân dân trong suốt cả quá trình chiến tranh thì mới chịu đựng được sự thử thách đó” {17.Tr. 113}. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Lênin toàn tập- tập 30, Nxb Sự thật, Hà Nội. 2. Lênin toàn tập- tập 35. NXB Sự thật, Hà Nội. 3. Lênin toàn tập- tập 36. NXB Sự thật, Hà Nội. 4. Hồ Chí Minh toàn tập (1996), Nxb CTQG, Hà Nội. 5. Văn kiện Đảng tập 1(1960) Nxb Sự thật, Hà Nội. 6. Mác-Ănghen (1977), Về mối quan hệ giữa kinh tế hậu phương, chiến tranh và quân đội, Nxb QĐND. Hà Nội. 7. Lênin- Xtalin (1966), Tầm quan trọng của hậu phương trong chiến tranh cách mạng, Nxb Sự thật. Hà Nội. 8. Lê Duẩn (1965), Ta nhất định thắng, định nhất định thua, Nxb Sự thật, Hà Nội. 9. Trường Chinh (1966), Bàn về chiến tranh nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân, Nxb QĐND, Hà Nội. 10. Võ Nguyên Giáp (1994), Những chặng đường lịch sử, Nxb CTQG, Hà Nội. 11. Nghị quyết BCH TW Đảng khoá II-tháng 1/1959 (1959), Nxb Sự thật, Hà Nội. 12. Nghị quyết Hội nghị TW lần thứ 7, Văn kiện Đảng, tập 9. 13. Báo cáo chính trị BCH TW Đảng tại Đại hội ĐB toàn quốc lần thứ IV (1997), Nxb CTQG, Hà Nội. 14. Từ điển Bách khoa Việt Nam (1998), tập 1, Nxb Từ điển. Hà Nội. 15. Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam tập 1 (1995), Nxb CTQG. Hà Nội. 16. Niên giám thống kê (1975), Nxb Thống kê. Hà Nội. 17. Về cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của nhân dân Liên Xô (1965), Nxb QĐND. Hà Nội. 18. Trường Chinh (1964), Kháng chiến nhất định thắng lợi, Nxb Sự thật, Hà Nội. Luận văn chia làm 3 chương

doc25 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2956 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu chủ trương xây dựng hậu phương của Đảng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU Trong chiến tranh, bên nào có sức mạnh áp đảo thì bên đó giành thắng lợi. Muốn có sức mạnh thì ngoài yếu tố binh khí, kĩ thuật, tư tưởng, con người... còn phải kể đến một nhân tố có vai trò hết sức quan trọng là hậu phương của cuộc chiến tranh. Sự chi viện của hậu phương cho tiền tuyến là một yếu tố thường xuyên quyết định thắng lợi của cuộc chiến tranh, vì hậu phương là nơi xây dựng và dự trữ tiềm lực của chiến tranh về cả mặt chính trị, kinh tế, quân sự, văn hoá và khoa học kĩ thuật, là nơi chi viện nhân lực, vật lực, là chỗ dựa tinh thần cho tiền tuyến. Muốn đánh thắng địch ở tuyền tuyến thì phải có hậu phương vững mạnh về mọi mặt. Việc xây dựng hậu phương là một vấn đề có tính chất chiến lược và quyết định sống còn đối với thắng lợi của toàn bộ cuộc chiến. Đó là qui luật của các loại chiến tranh từ xưa đến nay. Nắm vững qui luật đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tranh thủ mọi thời gian, điều kiện vật chất để chuẩn bị hậu phương cho chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ tổ quốc. Vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, vừa đánh giặc, vừa xây dựng chế độ mới, xây dựng căn cứ địa hậu phương là một chủ trương chiến lược đúng đắn, sáng tạo của Đảng, phản ánh một trong những đặc trưng của cách mạng Việt Nam. Việc xây dựng, củng cố hậu phương trong hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ luôn luôn được Đảng nhìn nhận một cách đúng đắn và đặt lên hàng đầu. Đảng đã xây dựng, củng cố hậu phương trong mọi tình huống của cuộc chiến, làm cho hậu phương có sức sống và phát triển trong hoàn cảnh gay go, khó khăn nhất, trong khi chính nó cũng phải trực tiếp chiến đấu quyết liệt với kẻ thù. Dân tộc ta thắng những kẻ thù mạnh hơn gấp nhiều lần bởi vì chúng ta có nhân dân anh hùng, có sự lao động sáng tạo, tài năng và trí tuệ của Đảng, có hậu phương lớn tập trung sức người, sức của, động viên tinh thần tuyến tuyến lớn đánh thắng kẻ thù. Do vậy, việc nghiên cứu chủ trương xây dựng hậu phương của Đảng, để qua đó rút ra những bài học kinh nghiệm, phục vụ cho công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước hiện nay dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong bối cảnh quốc tế và trong nước có nhiều thuận lợi cũng như khó khăn mới, sẽ góp phần đắc lực vào nhiệm vụ bảo vệ và xây dựng tổ quốc Việt Nam XHCN. NỘI DUNG I. VỊ TRÍ, VAI TRÒ VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA HẬU PHƯƠNG TRONG CHIẾN TRANH. Hậu phương hiểu theo nghĩa nghĩa hẹp: “là nơi đối xứng với tiền tuyến, có sự phân biệt rạch ròi bằng yếu tố không gian, là lãnh thổ ngoài vùng chiến sự, phía sau chiến tuyến, có dân cư và tiềm lực mọi mặt, nhất là về nhân lực, vật lực. Là nơi xây dựng và huy động sức người, sức của, đáp ứng nhu cầu của lực lượng vũ trang ngoài tiền tuyến” {14.Tr. 231}. Theo nghĩa rộng, đây là chỗ dựa để tiến hành chiến tranh, nơi cung cấp sức người, sức của cho chiến tranh, không phân biệt rạch ròi với tuyền tuyến về mặt không gian. Như vậy, có thể thấy ngay rằng trong các cuộc chiến tranh, hậu phương là một trong những điều kiện cơ bản quyết định thắng bại, được thua của hai bên tham chiến. Chiến tranh phải dựa vào hậu phương hùng mạnh. Quân đội nào tách khỏi hậu phương thì không thể giành thắng lợi trong chiến tranh, không thể tồn tại được. Trong lịch sử quân sự, các nhà quân sự lỗi lạc và những người thầy vĩ đại của cách mạng vô sản – Mác, Ăng ghen, Lê-nin đều nhấn mạnh đến vai trò của hậu phương vững chắc, có tổ chức. Ăng ghen đã viết: “Toàn bộ việc tổ chức và phương thức chiến đấu của quân đội và do đó thắng lợi, thất bại đều tỏ ra là phụ thuộc vào những điều kiện vật chất, nghĩa là điều kiện kinh tế, vào chất liệu của con người và của vũ khí, nghĩa là vào chất lượng và số lượng của cư dân và của cả kĩ thuật” {6.Tr. 242} Còn Lê-nin thì cho rằng: “ Trong chiến tranh, ai có nhiều lực lượng hậu bị hơn, ai có nhiều nguồn lực, ai kiên trì đi sâu vào quần chúng nhân dân hơn, thì người đó thu được thắng lợi”{1.Tr.84} Và: “ Muốn tiến hành chiến tranh một cách thực sự, phải có một hậu phương có tổ chức vững chắc, một đội quân giỏi nhất, những người trung thành nhất với sự nghiệp cách mạng cũng đều lập tức bị kẻ thù tiêu diệt, nếu họ không được vũ trang, tiếp tế lương thực và huấn luyện đầy đủ” {2.Tr. 497}. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng cho rằng: “khi có chiến tranh, phải huy động và tổ chức tất cả các lực lượng trong nước để chống giặc” {4.Tr. 474}. Ngoài ra, đề cập đến những yếu tố cụ thể quyết định sức mạnh của hậu phương, Mác và Ăngghen, Lê-nin, đều đã đánh giá cao nhân tố chính trị-tinh thần, đồng thời cũng nhấn mạnh đến yếu tố trang bị vũ khí. Xtalin khi bàn đến sự thử thách khắc nghiệt của chiến tranh đã nói: “lịch sử chiến tranh dạy rằng, chỉ có những nước nào mạnh hơn đối phương của mình về mặt phát triển và tổ chức kinh tế, về kinh nghiệm, tài nghệ và tinh thần chiến đấu của quân đội, về tinh thần kiên cường và đoàn kết của nhân dân trong suốt cả quá trình chiến tranh thì mới chịu đựng được sự thử thách đó” {17.Tr. 113}. Một tiêu chuẩn quan trọng nữa quyết định sự vững mạnh của hậu phương, đó là yếu tố kinh tế. Theo đồng chí Lê Duẩn, “một hậu phương vững mạnh là một hậu phương có tiềm lực kinh tế và quốc phòng hùng hậu, có nguồn dự trữ dồi dào để cung cấp lương thực, súng đạn, sức người, sức của đầy đủ cho tiền tuyến”{8.Tr.28}. Đồng chí Trường Chinh cũng coi một trong những nhân tố thường xuyên của thắng lợi trong một cuộc chiến tranh nhân dân ở thời đại của chúng ta là “hậu phương chiến tranh nhân dân được củng cố, nguồn cung cấp nhân tài, vật lực cho chiến tranh dồi dào, chỗ dựa của các lực lượng vũ trang vững mạnh” {9. Tr. 54} Nhìn chung, vai trò của hậu phương đều được các nhà chiến lược, các nhà quân sự đánh giá cao và yêu cầu những người lãnh đạo quốc gia, những người cầm quân phải quan tâm thường xuyên trong thời chiến cũng như thời bình. Bởi lẽ, chiến tranh là sự thử thách toàn diện đối với mỗi bên tham chiến, trong đó hết thảy lực lượng đều bị thử thách, bị tiêu hao, nên đòi hỏi phải được bổ sung, phát triển, nhằm đè bẹp đối phương để chiến thắng. Cơ sở vật chất của đất nước mạnh hay yếu, dồi dào hay thiếu thốn là một điều kiện quan trọng, quyết định và có tác động rất lớn đến thắng hay bại của chiến tranh. Tuy nhiên, sức mạnh của hậu phương không chỉ dựa trên những chỉ số kinh tế, trên mức sống, trình độ hiểu biết khoa học kĩ thuật của con người, cũng như vũ khí và trang bị kĩ thuật của quân đội, mà còn dựa trên nhiều yếu tố khác nhau nữa. Bởi vì, mặc dù hậu phương có một vai trò quan trọng trong việc quyết định thắng lợi hay thất bại của chiến tranh, song so sánh lực lượng hậu phương của hai bên, giải quyết vấn đề hậu phương, xây dựng và phát huy sức mạnh của hậu phương như thế nào, lại không phải là một vấn đề đơn thuần của số học. Hậu phương có thể chuyển hoá từ yếu sang mạnh, hoặc ngược lại. Cách huy động lực lượng của hậu phương là một vấn đề quan trọng. Nó phụ thuộc vào những yếu tố như: tính chất của chiến tranh, trình độ giác ngộ của con người, năng lực xử lý các vấn đề liên quan đến chiến tranh... Muốn để hậu phương động viên được sức người, sức của cho kháng chiến, đồng thời là nguồn cổ vũ mạnh mẽ về chính trị, tinh thần cho các lực lượng chiến đấu trên chiến trường, phải trải qua một quá trình xây dựng, từng bước phát triển và củng cố hậu phương từ yếu thành mạnh. Trong quá trình đó, hậu phương phải thường xuyên tái tạo ra tiềm lực mới cả về vật chất lẫn tinh thần, để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của cuộc kháng chiến. II. NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG VỀ VAI TRÒ HẬU PHƯƠNG TRONG CHIẾN TRANH NHÂN DÂN VIỆT NAM. Hậu phương của chiến tranh có những cấp độ và hình thức khác nhau. Có hậu phương chiến lược, có hậu phương tại chỗ, có những căn cứ du kích, lại còn có khái niệm hậu phương lòng dân. Dân bao bọc che trở, tạo điều kiện cho cách mạng xây dựng căn cứ của mình. Nhưng xét trên phương diện tổng quát nhất, thì lực lượng cách mạng muốn chiến thắng kẻ thù nhất định phải có hậu phương chiến lược, vì “không có một đội quân nào trên thế giới không có hậu phương vững chắc lại có thể chiến thắng được” {7.Tr.13}. Điều đó đã trở thành qui luật. Quan điểm trên của chủ nghĩa Mác-Lênin về vai trò của hậu phương trong chiến tranh đã khẳng định tầm quan trọng chiến lược của hậu phương. Thực tiễn đẫ chứng minh điều đó một cách hùng hồn. Trong chiến tranh thế giới thứ hai, Hồng quân Liên Xô chiến thắng Phát-xít Đức- Nhật trong một điều kiện vô cùng khó khăn vì họ có hậu phương chiến lược bao gồm các nước cộng hoà trong Liên bang rộng lớn, được củng cố và xây dựng để đủ sức đáp ứng mọi yêu cầu của chiến trường. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã hết sức coi trọng việc xây dựng hậu phương, xem đó là nhân tố hết sức quan trọng, quyết định thắng lợi của cách mạng. Trong những ngày đầu trứng nước vận động thành lập Đảng, Nguyễn Ái Quốc đã chú trọng xây dựng cơ sở trong dân- xây dựng cơ sở cách mạng trong cộng đồng những người Việt Nam ở Pháp, Thái Lan, đặc biệt là ở Trung Quốc. Những cơ sở bước đầu này thực sự là hậu phương của cách mạng, là chỗ dựa, sức mạnh giúp Đảng vượt qua khủng bố của kẻ thù, đứng vững, phát triển và hoàn thành xuất sắc sứ mạng lịch sử của mình. Đầu năm 1941, khi về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã bắt tay xây dựng Cao Bằng thành căn cứ địa của cách mạng Việt Nam. Người nói: “Căn cứ địa Cao Bằng sẽ mở ra triển vọng lớn cho cách mạng nước ta. Cao Bằng có phong trào tốt từ trước, lại kề sát biên giới, lấy đó làm cơ sở liên lạc quốc tế rất thuận lợi. Nhưng từ Cao Bằng còn phải phát triển về Thái Nguyên và thông xuống nữa mới có thể tiếp xúc với toàn quốc được. Có nối được phong trào với Thái Nguyên, với toàn quốc thì khi phát động đấu tranh vũ trang, lúc thuận lợi có thế tiến công, lúc khó khăn có thể giữ” {10.Tr. 38-39}. Thực hiện theo tư tưởng đó của Hồ Chí Minh, căn cứ địa cách mạng được mở rộng và phát triển thành khu giải phóng rộng lớn gồm 6 tỉnh thuộc Việt Bắc. Đây là nơi Đảng và Quốc dân Đại hội quyết định những vấn đề chiến lược của cách mạng, mà bước đi quan trọng, quyết định nhất là phát động Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám một phần lớn là nhờ có căn cứ địa vững chắc, bao gồm: căn cứ Việt Bắc, các căn cứ ở các khu, các tỉnh, các cơ sở ở các địa phương trong toàn quốc. Khi kháng chiến chống Pháp bùng nổ, Việt Bắc lại trở thành căn cứ địa. Ngoài ra, ta còn có một hậu phương rộng lớn, bao gồm các khu du kích, các vùng tự do ở khu III, khu IV, khu V, Nam Bộ...tạo thành thế liên hoàn, vừa bao vây kẻ thù, vừa cung cấp sức người, sức của cho tuyền tuyến, động viên ý chí niềm tin cho những người lính trên chiến trường. Trong kháng chiến chống Mỹ, chúng ta đã có thể kế thừa những kinh nghiệm xây dựng hậu phương trong Cách mạng Tháng Tám và kháng chiến chống Pháp. Hơn bao giờ hết, trong cuộc kháng chiến lần này, Đảng đã đặc biệt chú ý đến vai trò quan trọng của hậu phương, bởi vì với một cuộc chiến không cân sức, phải đối đầu với một kẻ thù nguy hiểm, có tiềm lực kinh tế, quân sự, quốc phòng mạnh hơn ta gấp nhiều lần, thì việc tổ chức, huy động sức mạnh của toàn dân tộc và “phải có một hậu phương vững chắc” như Lênin đã từng nói, là hoàn toàn cần thiết. Hậu phương đó là miền Bắc XHCN. Tuy nhiên, xây dựng hậu phương trong kháng chiến chống Mỹ có sự phát triển về chất so với xây dựng hậu phương trong kháng chiến chống Pháp. Bởi vì, lúc đó chúng ta đã có một nửa nước hoà bình đi lên CNXH, có khả năng dốc toàn bộ sức mạnh của mình cho chiến tranh. Đồng thời, ta cũng có hậu phương tại chỗ ở miền Nam là những căn cứ du kích hoặc vùng tự do trong kháng chiến chống Pháp. Hơn nữa, bên cạnh ta lại có các nước XHCN anh em và lực lượng hoà bình tiến bộ trên thế giới ủng hộ, chia sẻ. Tuân thủ những quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về tầm quan trọng của hậu phương trong chiến tranh cách mạng, vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, kế thừa và phát huy kinh nghiệm xây dựng hậu phương trong kháng chiến chống Pháp, Đảng đã tập trung xây dựng miền Bắc thành hậu phương lớn cho tuyền tuyến lớn miền Nam, “Tiến hành cách mạng XHCN ở miền Bắc tức là xây dựng cuộc sống mới, tự do, hạnh phúc cho nhân dân miền Bắc, đồng thời là củng cố miền Bắc thành cơ sở vững chắc về mọi mặt cho việc hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, thực hiện thống nhất nước nhà” {11.Tr. 5} Những tư tưởng của Hồ Chí Minh và Đảng ta về xây dựng hậu phương đã thực sự có ý nghĩa trong quá trình xây dựng miền Bắc theo hướng xây dựng hậu phương chiến lược trong cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam. Xây dựng CNXH ở miền Bắc cũng chính là xây dựng hậu phương cho chiến tranh giải phóng. Mọi hoạt động của miền Bắc cũng chính là hoạt động của hậu phương cho tuyền tuyến lớn đánh Mỹ. Thắng lợi của chúng ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cũng nhờ một phần lớn vào sự nhận thức đúng đắn của Đảng về vấn đề hậu phương và xây dựng hậu phương miền Bắc. III. QUÁ TRÌNH ĐẢNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG HẬU PHƯƠNG LỚN MIỀN BẮC TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ (1954-1965) 3.1. Khái quát tình hình miền Bắc sau kháng chiến chống Pháp. Với âm mưu thâm độc, nhằm ngăn chặn ảnh hưởng của phe xã hội chủ nghĩa xuống khu vực Đông Nam Á, trong Hội nghị Giơnevơ, đế quốc Mỹ không kí vào Bản tuyên bố cuối cùng, nhanh chóng gạt Pháp, âm mưu biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ, chia cắt lâu dài đất nước ta. Sau cuộc kháng chiến 9 năm gian khổ, đất nước ta bị chia thành hai miền với hai chế độ chính trị đối lập. Sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước chưa hoàn thành. Một chặng đường gian khổ còn ở trước mắt- chặng đường kháng chiến giải phóng miền Nam, hoàn thành thống nhất nước nhà. Tình hình, điều kiện trong nước và thế giới đã có nhiều điểm khác trước. Miền Bắc nước ta đã được hoàn toàn giải phóng. Hệ thống xã hội chủ nghĩa đã hình thành, ngày càng lớn mạnh. Phong trào độc lập dân tộc và hoà bình trên thế giới phát triển sôi động. Trên trường quốc tế, vị trí, uy tín của nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà không ngừng nâng cao. Tuy nhiên, đất nước bị chia cắt thành hai miền. Cách mạng Việt Nam đứng trước những nhiệm vụ mới. Miền Bắc đã hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và đi vào xây dựng chủ nghĩa xã hội. Song hậu quả của chiến tranh hết sức nặng nề trong tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Năm 1954, giá trị tổng sản lượng công nghiệp chỉ chiếm 1,5 % giá trị tổng sản lượng công nông nghiệp. Kinh tế nông nghiệp đóng vai trò chủ yếu, song sản xuất nông nghiệp cũng gặp nhiều khó khăn. Nông nghiệp vốn lạc hậu lại bị tàn phá nặng nề bởi chiến tranh. Thiếu sức kéo, máy móc, công cụ, đê điều hư hại nhiều, kĩ thuật canh tác lại lạc hậu. Ruộng đất bị bỏ hoang bởi số lượng đồng bào công giáo di cư vào Nam. Các tệ nạn xã hội, tàn dư của chế độ phong kiến, đế quốc chưa được xoá bỏ. Trình độ dân trí thấp, nạn mù chữ còn phổ biến. Hệ thống y tế lạc hậu. Năm 1955, ở miền Bắc mới có 78 cơ sở điều trị với 115 bác sĩ, 3.786 y sĩ và y tá{15.Tr. 56}. Miền Bắc đang đứng trước những khó khăn tưởng chừng như không thể vượt qua. Trong khi đó, ở miền Nam, Mỹ dốc sức, huy động phương tiện cho chiến tranh, thi hành luật 10/59, thẳng tay đàn áp những người cộng sản và người dân yêu nước. Đứng trước tình hình cách mạng miền Nam như vậy, miền Bắc đã vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa tích cực chi viện, ủng hộ cho cách mạng miền Nam trong suốt 21 năm đánh Mỹ. Đây cũng là nét đặc thù của cách mạng miền Bắc trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, mà giai đoạn này là những bước đi đầu tiên. Từ đặc điểm đặc biệt này, nhằm phục vụ cho mục tiêu chung của cách mạng cả nước và mục tiêu cụ thể của từng miền trong mỗi giai đoạn kháng chiến, phục vụ trực tiếp cho công cuộc giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà, Đảng ta xác định: “ Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc thời kì này (54-75), trước hết và chủ yếu nhằm biến miền Bắc thành căn cứ địa chiến lược của cách mạng cả nước, thành hậu phương chiến lược của tuyền tuyến miền Nam”. Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 (khoá II- 5/1955) khẳng định: “Miền Bắc là chỗ đứng của ta. Bất kể trong tình hình nào miền Bắc cũng phải được củng cố”. Tại Đại hội Mặt trận dân tộc thống nhất toàn quốc (9/1955), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Miền Bắc là nền tảng, là gốc rễ lực lượng đấu tranh của nhân dân ta, nền có vững, nhà mới chắc. Gốc có mạnh, cây mới tốt”. Để củng cố miền Bắc thành hậu phương chiến lược của cách mạng miền Nam, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (1960) đã chủ trương tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc gắn chặt với cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của cách mạng cả nước và sự nghiệp thống nhất đất nước. Tại Đại hội III của Đảng đã chỉ rõ: miền Bắc có vị trí quyết định nhất đối với sự phát triển của cách mạng cả nước, đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà. “Miền Bắc càng tiến mạnh lên chủ nghĩa xã hội, lực lượng mọi mặt của miền Bắc càng được tăng cường thì càng có lợi cho cách mạng giải phóng miền Nam, cho sự phát triển của cách mạng cả nước, cho việc giữ gìn hoà bình ở Đông Dương và trên thế giới”{5.Tr. 32} Như vậy, việc củng cố, xây dựng miền Bắc thành hậu phương lớn cho tuyền tuyến lớn miền Nam đã được Đảng ta xác định rõ ràng. Miền Bắc đã được xây dựng vững mạnh về mọi mặt, đứng vững trước thử thách ác liệt của chiến tranh, đủ sức đánh thắng hai cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. Miền Bắc đã dốc vào chiến tranh giải phóng và chiến tranh giữ nước toàn bộ sức mạnh vật chất, tinh thần, xứng đáng là pháo đài vô địch của chủ nghĩa xã hội, xứng đáng với vị trí quyết định nhất trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước. 3.2. Đảng lãnh đạo xây dựng hậu phương Miền Bắc về mọi mặt trong thời kì đầu của kháng chiến chống Mỹ. 3.2.1. Xây dựng chế độ chính trị-xã hội Lênin đã viết: “ Tính chất của một cuộc chiến tranh và thắng lợi của nó đều phụ thuộc chủ yếu vào chế độ bên trong của các nước tham chiến {2.Tr. 479}. Do vậy, công việc quan trọng mà Đảng quan tâm trước hết đó là củng cố và xây dựng bộ máy chính quyền. Sau khi đánh thắng thực dân Pháp, miền Bắc được giải phóng, bước vào thời kì quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Hệ thống chính quyền từ Trung ương đến địa phương được kiện toàn và Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà chuyển sang làm chức năng lịch sử của chuyên chính vô sản, tiến hành cải tạo XHCN đối với nền kinh tế quốc dân, xây dựng từng bước cơ sở vật chất- kĩ thuật của CNXH. Từ cuộc Tổng tuyển cử năm 1946, hệ thống chính quyền nhà nước ta về cơ bản đã được định hình, từng bước được củng cố, xây dựng, nhưng do điều kiện lúc bấy giờ tổ chức, hoạt động còn nặng về hành chính và kháng chiến. Nên Đảng chủ trương: “củng cố chính quyền nhân dân là công tác cần thiết để củng cố miền Bắc” {12.Tr. 46}. Nhằm đáp ứng được tầm đòi hỏi của hai chiến lược cách mạng, các cơ quan chính quyền đều được kiện toàn một bước để đảm đương nhiệm vụ xây dựng miền Bắc. Tính giai cấp, tính nhân dân của Nhà nước được khẳng định mạnh mẽ, nhằm củng cố hơn nữa nền tảng liên minh công nông do giai cấp công nhân lãnh đạo. Các thiết chế dân chủ cũng được xây dựng, hoàn thiện hơn, nhằm bảo đảm cho Nhà nước thể hiện được nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân. Nhằm đẩy mạnh việc dân chủ hóa cơ quan tư pháp, Quốc hội quyết định thành lập Toà án nhân dân tối cao và Viện công tố nhân dân, tách toà án nhân dân và hệ thống công tố khỏi Bộ tư pháp, chuyển thành hai cơ quan thuộc Hội đồng chính phủ. Đồng thời, các cơ quan bảo vệ pháp luật cũng được chấn chỉnh. Pháp chế XHCN bước đầu cũng được tăng cường nhằm đề cao kỉ cương, phép nước. Trong việc xây dựng, củng cố hệ thống chính trị-xã hội, thì củng cố khối đại đoàn kết toàn dân là một công việc có tính cấp bách đối với sự vững mạnh của hậu phương. Bởi vì, khối đại đoàn kết toàn dân là nguồn sức mạnh của chính quyền dân chủ nhân dân, nên việc củng cố là hết sức cần thiết. Đảng và Nhà nước thường xuyên tuyên truyền giáo dục cho toàn Đảng, toàn quân, nêu cao ý thức cảnh giác, củng cố niềm tin và quyết tâm kháng chiến chống Mỹ, tăng cường khả năng định hướng chính trị cho người dân. Trên cơ sở nhất trí về chính trị, sự ổn định xã hội ở miền Bắc được tăng cường, khối đoàn kết toàn dân ngày càng vững mạnh. Tháng 9/1955, Đại hội Mặt trận dân tộc thống nhất toàn quốc đã họp tại Hà Nội và quyết định thành lập Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thay cho Mặt trận Liên Việt trước đây. Tuyên ngôn và Cương lĩnh của Mặt trận thể hiện nguyện vọng, ý chí của mọi người dân Việt Nam yêu nước là đại đoàn kết để hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất nước. Trong Mặt trận, Đảng ta hết sức quan tâm đến thành phần các dân tộc ít người, các tôn giáo. Đảng, Nhà nước đã ban hành và thực hiện phát triển kinh tế, văn hoá-xã hội ở miền núi, thành lập khu tự trị, thực hiện chính sách tôn trọng tự do tín ngưỡng, giáo dục đồng bào theo đạo tích cực tham gia vào sự nghiệp chung của dân tộc. Trong khi đó ở miền Nam, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời, đóng vai trò người điều hành hoạt động của chính quyền tự quản trong các căn cứ kháng chiến, các vùng do dân làm chủ. Về sau, chức năng này được trao cho Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam đảm nhiệm. Hai cơ quan quyền lực này là những nhân tố quan trọng tạo nên thế và lực mới của cuộc kháng chiến chống Mỹ ở miền Nam, góp phần vào sự nghiệp thống nhất nước nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước. Như vậy, trong chiến tranh chống Mỹ (và cả chống Pháp), các đoàn thể cứu quốc, các đoàn thể giải phóng, thành viên của Mặt trận Việt Minh, Liên việt, của Mặt trận tổ quốc Việt Nam và Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam đã đóng một vai trò cực kì quan trọng, đặc biệt trong công tác tuyên truyền giáo dục sâu rộng trong các ngành, các giới, động viên tập hợp được đa số nhân dân vào tổ chức. Tóm lại, chính quyền nhà nước từ Trung ương đến địa phương cùng với các cấp bộ Đảng cộng sản Việt Nam, các cấp Uỷ ban mặt trận dân tộc thống nhất và các đoàn thể nhân dân đã hợp thành hệ thống chính trị của chế độ ta, vận hành theo cơ chế: “Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, nhà nước quản lý”. Hệ thống chính trị đó có nhiệm vụ bảo đảm cho chế độ ta thật sự là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Đòi hỏi nghiêm khắc nhất đối với một Đảng cầm quyền là cán bộ phải có trình độ nghiệp vụ, đồng thời có đạo đức tốt và giác ngộ lý luận cao vì cán bộ quyết định tất cả. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 (khoá II) chỉ rõ: “Phải mạnh dạn cân nhắc cán bộ, nhất là cán bộ công nông”. Đảng đã bố trí nhiều đảng viên có thành tích và năng lực công tác vào bộ máy Nhà nước và các cấp chính quyền. Trong 30 năm chiến tranh, Đảng đã đào tạo được một đội ngũ cán bộ tốt, nhờ đó Đảng thực sự gắn bó với nhân dân và xây dựng được một chế độ thực sự là của nhân dân, được dân tin tưởng, bảo vệ. Đảng còn chú trọng công tác tư tưởng và tổ chức, xây dựng công tác lý luận, kiện toàn bộ máy lãnh đạo, tích cực sửa đổi lề lối làm việc, phương pháp lãnh đạo, đẩy mạnh phê bình và tự phê, gắn bó với quần chúng nhân dân, thực hiện dân chủ nội bộ. 3.2.2. Xây dựng nền kinh tế. Trong quá trình chiến tranh, việc xây dựng, phát triển kinh tế và cải thiện từng bước đời sống nhân dân được coi là vấn đề cốt lõi, nền tảng sức mạnh của căn cứ địa hậu phương để kháng chiến lâu dài. Một nền tảng kinh tế phát triển vững mạnh, cân đối là cơ sở và điều kiện cho sự vững mạnh về chính trị. Do vậy, Đảng, Nhà nước đã đề ra và tổ chức thực hiện các kế hoạch kinh tế, văn hoá, xã hội ngắn hạn, nhằm biến đổi sâu rộng nền kinh tế miền Bắc. Sau khi tiếp quản những vùng giặc Pháp rút đi, miền Bắc bắt tay thực hiện kế hoạch ba năm khôi phục kinh tế (55-57), đồng thời hoàn thành cải cách ruộng đất, với nhiệm vụ then chốt là phục hồi và phát triển nông nghiệp, đưa sản lương thực vượt mức trước chiến tranh (năm 1939). Cuộc cách mạng ruộng đất được tiếp tục hoàn thành, đem lại quyền lợi thiết thực và niềm tin cho đại đa số nhân dân lao động (nông dân). Nhưng trong quá trình tiến hành, Đảng ta đã mắc sai lầm nghiêm trọng. Kịp thời phát hiện sai lầm, Đảng đã tự phê bình nghiêm khắc. Đích thân Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng ra nhận sai lầm trước toàn Đảng, toàn dân. Sự kiện đó đã khôi phục, củng cố được lòng tin đối với nhân dân. Hoàn thành cải cách ruộng đất, tiến hành sửa chữa sai lầm đã đưa lại những chuyển biến lớn trong nông thôn và nông dân miền Bắc. Thế lực kinh tế của địa chủ bị đánh đổ, chế độ phong kiến bị xoá bỏ. Người nông dân thực sự được giải phóng, trở thành người chủ nông thôn. Nhìn toàn thể quá trình thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, việc thực hiện chính sách ruộng đất đã đem lại thành quả quan trọng. Kế hoạch ba năm đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đề ra. Đến cuối năm 1956, miền Bắc đã sản xuất được 4 triệu tấn lương thực, vượt sản lượng năm 39 là năm đạt cao nhất trước chiến tranh. Nhờ đó đã giải quyết được nạn đói kinh niên. Đồng thời, đã khôi phục, xây dựng mới được một số nhà máy qui mô nhỏ và vừa, chủ yếu sản xuất hàng tiêu dùng, đáp ứng được nhu cầu sinh hoạt của nhân dân. Hệ thống giao thông đường bộ, đường thuỷ, phần lớn đường sắt đã được khôi phục, làm dễ dàng cho việc giao lưu hàng hóa và đi lại của nhân dân. Với những thành tích trên, Hội nghị BCH Trung ương Đảng lần thứ 13 (khoá II- tháng 12/57) đánh giá miền Bắc nước ta đã căn bản hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ khôi phục kinh tế. Trên cơ sở những thành tựu đó, Đảng và Nhà nước đề ra kế hoạch 3 năm (58-60), phát triển kinh tế, văn hoá, đồng thời tiến hành cải tạo nền kinh tế theo chủ nghĩa xã hội, coi cải tạo XHCN là nhiệm vụ trọng tâm. Công cuộc cải tạo XHCN đã được tiến hành đối với kinh tế cá thể của nông dân, thợ thủ công, người buôn bán nhỏ, kinh tế tư bản tư doanh, trong đó khâu chính là cải tạo nông nghiệp. Đến hết năm 1960, công cuộc hợp tác hoá nông nghiệp đã căn bản hoàn thành. 41.000 HTX nông nghiệp đã được thành lập, thu hút 85 % tổng số hộ nông dân và 76 % tổng diện tích canh tác. Mặc dù có không ít khuyết điểm, nhược điểm, hợp tác hóa nông nghiệp kết hợp với thuỷ lợi hoá và cải tiến kĩ thuật canh tác, đã tạo điều kiện cho nông nghiệp phát triển, đạt mức tăng trưởng 4,4 %/năm. Thủ công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp cũng đã căn bản được cải tạo. Công thương nghiệp tư bản tư doanh được cải tạo theo phương thức nhà nước. Như vậy, sau kế hoạch ba năm (1958-1960), nghĩa là sau 6 năm miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, nền kinh tế bị tàn phá trong chiến tranh chống Pháp đã được khôi phục, những nhiệm vụ còn lại của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đã hoàn thành, công cuộc cải tạo kinh tế theo CNXH XHXH đã được thực hiện. Kinh tế, văn hoá tiếp tục tăng trưởng và phát triển dựa trên quan hệ sản xuất XHCN, dưới hai hình thức sở hữu toàn dân và tập thể. Kinh tế quốc doanh có bước phát triển đáng kể, phát huy tác dụng chủ đạo đối với nền kinh tế quốc dân. Từ năm 1958-1960, giá trị sản lượng công nghiệp tăng bình quân 22,6 %/năm. Kinh tế HTX trở thành phổ biến, cùng với kinh tế quốc doanh hợp thành nền tảng của nền kinh tế miền Bắc. Căn cứ vào những biến đổi quan trọng trên, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng quyết định đưa miền Bắc tiến lên một thời kì phát triển mới, lấy xây dựng CNXH làm trọng tâm, bắt đầu bằng kế hoạch năm năm lần thứ nhất (1961-1965), nhằm bước đầu xây dựng cơ sở vật chất của CNXH, đồng thời tiếp tục hoàn thành cải tạo XHCN, củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới. Kế hoạch này thực tế chỉ thực hiện có 4 năm. Tuy sự tăng trưởng của miền Bắc trong kế hoạch 5 năm đầu tiên còn thấp so với nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội, nhưng đây là thời kì các nhu cầu về lương thực, thực phẩm, về hàng tiêu dùng thiết yếu của nhân dân được đáp ứng một phần quan trọng, đời sống của nhân dân được nâng lên một bước. Đó là một thành tựu rất đáng tự hào. Từ đầu năm 1965, cả nước bước vào chiến tranh. Để phù hợp với tình hình mới, Đảng, Nhà nước quyết định chuyển hướng kinh tế và mọi mặt của đời sống miền Bắc sang thời chiến, tiếp tục xây dựng miền Bắc theo hướng XHCN, kết hợp chặt chẽ hơn nữa xây dựng kinh tế với tăng cường quốc phòng. Chỉ có tiếp tục xây dựng miền Bắc theo con đường XHCN thì mới tạo nên sức mạnh tổng hợp để đánh thắng quân xâm lược. Nhờ có những chủ trương kịp thời, bất chấp những khó khăn do chiến tranh phá hoại gây nên, sản xuất nông nghiệp vẫn ổn định. Sản xuất lương thực vẫn đủ cung ứng cho nhân dân và quân đội. HTX nông nghiệp vừa đảm bảo đủ lương thực, thực phẩm cho thời chiến, vừa tổ chức tốt tại chỗ nhiệm vụ bảo vệ xóm làng. HTX nông nghiệp thực sự trở thành “pháo đài kháng chiến” ở nông thôn miền Bắc. Công nghiệp và giao thông vận tải cũng đặc biệt được chú trọng, hoàn thành tốt nhiệm vụ hậu cần tại chỗ cho các địa phương, đảm bảo giao thông thông suốt ra tiền tuyến. Những thành tựu to lớn đó đã góp phần không nhỏ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Tuy nhiên, vào những năm cuối của cuộc kháng chiến đã bộc lộ những mâu thuẫn, khó khăn gay gắt giữa sản xuất và phân phối, giữa cung và cầu trong khi dân số tăng nhanh. Trong hoàn cảnh đó, nhân dân miền Bắc thắt lưng buộc bụng để giành tất cả cho cuộc kháng chiến. Đồng thời, miền Bắc còn nhận được sự chi viện quí báu của các nước XHCN. Điều này có ý nghĩa không nhỏ đối với cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ của chúng ta. Tóm lại, hơn 10 năm sau ngày giải phóng, từ đổ nát của chiến tranh, nhân dân miền Bắc khắc phục nhiều trở ngại khó khăn, lao động xây dựng một chế độ mới ưu việt, với nền kinh tế có bước tiến vững chắc về cơ cấu và thành phần, về năng xuất. Nền kinh tế đó đi dần vào thế ổn định với hai ngành sản xuất chính- công nghiệp và nông nghiệp, với hai hình thức sở hữu bao trùm: quốc doanh và tập thể. Trên nền tảng chính trị, kinh tế đó, sức mạnh quân sự của miền Bắc cũng được tăng cường. 3.2.3. Phát triển mạng lưới y tế, văn hoá nhằm nâng cao dân trí, xây dựng con người mới. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi nâng cao dân trí, xây dựng con người mới của nước Việt Nam độc lập thành một vấn đề cơ bản trong chiến lược bồi dưỡng, phát huy yếu tố con người của cách mạng nước ta, Người nói: “ Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Trong và sau giai đoạn kháng chiến chống Pháp, nền giáo dục ở miền Bắc đã phát triển nhanh chóng theo hướng XHCN. Hệ thống giáo dục đã được chấn chỉnh lại. Hai hệ thống giáo dục ở vùng tự do và tạm chiếm trước đây bây giờ được thống nhất thành hệ thống giáo dục phổ thông 10 năm. Các địa phương mở nhiều trường cấp I,II,III. Năm học 1956-1957, 65 vạn học sinh miền Bắc cắp sách tới trường. Cùng với giáo dục phổ thông, các lớp bình dân học vụ được mở ra ở mọi địa phương, mọi công trường, xí nghiệp. Lần thứ hai trong lịch sử của chế độ dân chủ cộng hoà, diệt dốt trở thành phong trào quần chúng, biểu hiện ý chí của một dân tộc không cam chịu thất học. Ngoài ra, việc nâng cao trình độ văn hoá cho đội ngũ cán bộ và công nhân viên, nhân dân lao động là vô cùng cần thiết. Do vậy, một hệ thống các trường đại học, trung học chuyên nghiệp, bổ túc văn hoá... được tổ chức. Số học sinh theo học các trường chiếm tới 1.4 dân số{16.Tr. 51}. Trong những năm cả nước bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, với hoàn cảnh chiến tranh vô cùng ác liệt, nền giáo dục miền Bắc vẫn giữ vững nhịp độ phát triển. Chúng ta không chỉ đào tạo ở trong nước, mà còn gửi học sinh ra nước ngoài học tập, chuẩn bị cán bộ cho công cuộc xây dựng tương lai. Nhìn chung, chúng ta đã gặt hái được những thành tựu rất quan trọng trong nền giáo dục cách mạng. Trình độ dân trí được nâng lên rõ rệt. Trong nhữg năm chống Mỹ, hệ thống giáo dục các bậc đã đào tạo cho đất nước một thế hệ chiến sĩ và đội ngũ cán bộ trẻ có học vấn, có đủ trình độ tiếp thu, vận dụng những kiến thức khoa học kĩ thuật hiện đại vào công cuộc chiến đấu và sản xuất. Cùng với giáo dục, trong kháng chiến chống Mỹ, sự nghiệp y tế ở miền Bắc có điều kiện thuận lợi nên phát triển khá nhanh. Năm 1974 so với năm 1955: số bệnh viện tăng 7,7 lần; Số bác sĩ và dược sĩ cao cấp tăng 4,7 lần; số trạm y tế và nhà hộ sinh tăng 28 lần {16.Tr. 432-433}. Đặc biệt trong chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, ngành y tế đã góp phần tổ chức tốt việc phòng tránh, cứu chữa kịp thời cho đồng bào, chiến sĩ. Song song với việc phát triển giáo dục và mạng lưới y tế, Đảng luôn coi trọng mặt trận tư tưởng và văn hoá. Nền văn hoá kháng chiến đã góp phần mở mang dân trí, thúc đẩy tiềm năng sáng tạo trong mọi tầng lớp nhân dân và các dân tộc. Đảng, Nhà nước còn coi nhiệm vụ trọng tâm của công tác văn hoá là xây dựng những con người mới. Trong sự nghiệp xây dựng CNXH, Đảng coi trọng cách mạng tư tưởng văn hoá, nhấn mạnh vấn đề xây dựng con người mới XHCN. Đó là những con người giác ngộ CNXH, có ý thức trách nhiệm, là những con người yêu nước, yêu CNXH, có ý thức và năng lực làm chủ xã hội. Công tác tuyên truyền giáo dục được tiến hành thường xuyên, liên tục bằng mọi hình thức từ thấp đến cao, ở tất cả các cấp. Đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước đã thực sự đi vào các tầng lớp nhân dân, góp phần nâng cao giác ngộ chính trị, xây dựng cho họ lòng tin vững chắc ở sức mạnh chiến đấu và khả năng chiến thắng của dân tộc dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng. 3.2.4. Tăng cường và xây dựng quân sự. Sau hiệp định Giơnevơ, việc tăng cưòng quân đội nhân dân là nhiệm vụ quan trọng của Đảng, Chính phủ và toàn thể nhân dân. Hội nghị BCH Trung ương Đảng lần thứ 12 đã quyết nghị các vấn đề về xây dựng quân đội nhân dân, củng cố quốc phòng trong giai đoạn mới. Hội nghị đã thông qua kế hoạch 5 năm xây dựng quân đội chính qui và tương đối hiện đại. Ngoài ra, việc xây dựng lực lượng hậu bị cũng được quan tâm. Đồng thời với đường lối chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện và việc xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân làm nòng cốt, thì việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân cũng được chú trọng. Đảng ta thường xuyên chăm lo, giáo dục, nâng cao trình độ giác ngộ chính trị, ý thức quốc phòng trong mọi tầng lớp nhân dân. IV. NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM QUA QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG HẬU PHƯƠNG CHIẾN LƯỢC MIỀN BẮC. 4.1. Đảng xác định đúng vị trí của miền Bắc với ý nghĩa là hậu phương chiến lược trong cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước, từ đó xây dựng miền Bắc vững mạnh về mọi mặt. Sau hiệp định Giơnevơ, đất nước đứng trước tình trạng bị chia cắt thành hai miền. Các Hội nghị Trung ương 6 (7/1954), Hội nghị Bộ chính trị (9/54), Hội nghị Trung ương 7 (3/55), Hội nghị Trung ương 8 (8/55), đã phân tích tình hình và khẳng định kẻ thù trực tiếp, nguy hiểm của chúng ta lúc này là đế quốc Mỹ, đồng thời nhấn mạnh: để thực hiện điều cốt yếu trong sự nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà là phải ra sức củng cố miền Bắc, xây dựng miền Bắc thành chỗ dựa cho cách mạng, “ củng cố miền Bắc tức là bồi dưỡng lực lượng cơ bản của ta, xây dựng chỗ dựa vững chắc cho nhân dân toàn quốc giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất nước nhà”. Có thể thấy, ngay từ đầu, vị trí chiến lược, vai trò của hậu phương lớn miền Bắc đã được xác định rõ ràng. Sau đó đến Đại hội III của Đảng, vai trò, vị trí của miền Bắc lại được tiếp tục khẳng định và thực hiện xây dựng. Như vậy, với việc sớm xác định được vai trò của miền Bắc là hậu phương lớn, Đảng đã đặt tiền đề đầu tiên cho thắng lợi của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất tổ quốc. 4.2. Đảng giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, phát huy cao nhất sức mạnh của miền Bắc đối với tuyền tuyến lớn miền Nam. Đảng ta khẳng định: xây dựng miền Bắc tiến lên CHXH là xây dựng căn cứ địa cách mạng cho cả nước. Xây dựng CNXH cũng chính là xây dựng hậu phương miền Bắc vững mạnh về mọi mặt. Đây là con đường đi đúng đắn, hợp với qui luật phát triển của cách mạng Việt Nam, đáp ứng được nguyện vọng thiết tha của nhân dân, phù hợp với xu thế thời đại, khi CNXH đã trở thành hệ thống thế giới. Sự nghiệp xây dựng miền Bắc XHCN thành hậu phương lớn của miền Nam và của cách mạng cả nước là sự chọn lựa hết sức khoa học của Đảng ta về con đường phát triển của cách mạng Việt Nam. Một hậu phương tiến bộ, ưu việt sẽ là chỗ dựa vững chắc cho cuộc chiến tranh. Với đường lối đúng dắn, với quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân, sự nghiệp xây dựng CNXH trên miền Bắc đã tận dụng được tất cả các cơ hội để phát triển và có nhiều thành tựu nổi bật thể hiện ở sự ổn định tuyệt đối về chính trị, sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế, văn hoá, giáo dục. Tập trung cho cuộc chiến tranh ở miền Nam, Đảng đã đồng thời dốc sức cho việc xây dựng hậu phương. Đây là một kinh nghiệm quí báu trong việc kết hợp những nhiệm vụ quan trọng trong một giai đoạn phát triển, để những nhiệm vụ đó cùng phục vụ đắc lực cho mục đích cuối cùng của cách mạng là hướng tới thống nhất nước nhà. 4.3. Xây dựng và củng cố hậu phương chiến lược miền Bắc đồng nghĩa với việc biểu dương sức sống mãnh liệt và tính ưu việt của chế độ xã hội mới. Trong kháng chiến chống Mỹ, với việc phát triển vững mạnh về mọi mặt từ kinh tế, xã hội đến tiềm lực quân sự, quốc phòng, khoa học kĩ thuật, tư tưởng, văn hoá... miền Bắc đã trở thành chỗ dựa về vật chất, tinh thần cho tuyền tuyến lớn miền Nam. Sự chi viện kịp thời, toàn diện cả về sức người, sức của từ miền Bắc vào miền Nam đã làm cho nhân dân miền Nam đặt niềm tin sắt đá vào miền Bắc XHCN, vào tương lai của dân tộc. Miền Bắc là tấm gương, thể hiện sự ưu việt, thể hiện sức sống mạnh mẽ của chế độ xã hội mới, tiến bộ, để nhân dân miền Nam noi theo và chiến đấu. Cuộc sống xã hội của nhân dân miền Bắc thực sự là vùng sáng lấp lánh cho nhân dân miền Nam hướng tới. Đó là một xã hội dẫu còn nhiều thiếu thốn, gian khổ nhưng “người yêu người, sống để yêu nhau”. Hình ảnh của hậu phương miền Bắc đã thúc đẩy cuộc kháng chiến của nhân dân miền Nam, bởi vì: “hậu phương không những tiếp viện cho tuyền tuyến bằng lương thực và trang bị, mà còn bằng người, bằng chiến sĩ, bằng tinh thần, bằng tư tưởng”{18.tr. 119}. Sức mạnh toàn diện của miền Bắc đã tạo nên sự so sánh lực lượng hơn hẳn, vượt trội đối với kẻ thù. Đó là lợi thế để nhân dân ta tin tưởng và làm nên chiến thắng vĩ đại Mùa xuân 1975, thống nhất nước nhà. KẾT LUẬN Thắng lợi oanh liệt của nhân dân ta trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ đã khẳng định vị trí to lớn của hậu phương chiến tranh nhân dân. Đó là hậu phương được tổ chức chặt chẽ theo đường lối đúng đắn, sáng tạo và bằng những biện pháp có hiệu quả. Vì thế, trước thử thách ác liệt của chiến tranh, hậu phương kháng chiến của ta đã phát huy mạnh mẽ vai trò, tác dụng to lớn, toàn diện, góp phần quyết định vào thắng lợi chung của toàn dân tộc. Vào những thời điểm mang tính bước ngoặt trong cuộc chiến tranh, sự vững mạnh, ổn định của hậu phương chiến lược là một trong những nhân tố vô cùng quan trọng để Đảng ta hạ quyết tâm chiến lược kịp thời, chính xác. Tại hậu phương, lực lượng dự bị được xây dựng và tăng cường, sẵn sàng cơ động ra chiến trường, thực hiện các đòn đánh lớn, có tác dụng làm xoay chuyển cục diện chiến tranh có lợi cho ta và bất lợi cho đối phương. Tại các giai đoạn quyết định của các cuộc chiến tranh, hậu phương đã dốc toàn bộ sức mạnh tiềm tàng cho những cuộc quyết chiến chiến lược, kết thúc vẻ vang sự nghiệp kháng chiến của toàn dân tộc. Việc giải quyết thành công vấn đề hậu phương đã giải thích tại sao dân tộc ta đã đánh thắng những đế quốc to lớn, có tiềm lực kinh tế, quân sự, khoa học- công nghệ mạnh hơn ta rất nhiều. Đặc biệt, việc xây dựng miền Bắc trong những năm ác liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ là một minh chứng hùng hồn cho đường lối đúng đắn của Đảng trong việc xác định hậu phương chiến lược. Những năm cả đất nước có chiến tranh cũng là những năm miền Bắc làm tròn nhiệm vụ của hậu phương lớn đối với tiền tuyến miền Nam chống Mỹ, cứu nước. Khát vọng độc lập, tự do của cả một dân tộc không mệt mỏi, không nao núng trước những hi sinh mát mát trong suốt hơn 30 năm trời đã đưa cả dân tộc đi đến thắng lợi vẻ vang vào mùa xuân năm 75. Đây cũng là biểu hiện cao nhất của tinh thần độc lập dân tộc, thống nhất tổ quốc dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong thắng lợi vẻ vang, những thành công trong quá trình xây dựng hậu phương miền Bắc là một trong những nhân tố góp phần quyết định. Đồng thời, nó khẳng định chủ trương của Đảng trong việc đặt vấn đề xây dựng hậu phương là một trong những nhiệm vụ quan trọng là hoàn toàn đúng đắn. Mặc dù trong quá trình xây dựng CHXN ở miền Bắc chúng ta còn có những hạn chế nhất định, do điều kiện chiến tranh chi phối. CNXH mà chúng ta xây dựng là CNXH thời chiến. Nhưng điều căn bản là hậu phương miền Bắc đã giữ được sự ổn định vững chắc về tất cả mọi mặt và phát triển trong điều kiện chiến tranh khốc liệt. Vượt lên trên những khó khăn thử thách, miền Bắc đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ là hậu phương của cuộc chiến tranh. Nhân dân miền Nam được tiếp thêm sức mạnh, nhận được sự chi viện tối đa về người và của từ miền Bắc. “Không thể nào có thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nếu không miền Bắc XHCN, suốt 16 năm qua luôn cùng một lúc phải làm hai nhiệm vụ chiến lược. Đặc biệt từ năm 1965, miền Bắc đã dốc vào chiến tranh cứu nước và giữ nước toàn bộ sức mạnh của chế độ XHCN và đã làm tròn một cách xuất sắc nghĩa vụ căn cứ cách mạng của các nước ”{13.Tr.28-29}. Như vậy, để trả lời cho câu hỏi “phải dựa vào đâu và lấy sức đâu đánh giặc?”, Đảng đã phát huy cao độ tính chất chính nghĩa của chiến tranh nhân dân Việt Nam, phát huy truyền thống yêu nước chống ngoại xâm của dân tộc, phát động những cuộc chiến tranh nhân dân rộng lớn, dựa vào lực lượng đoàn kết toàn dân để xây dựng hậu phương. Ở đâu có nhân dân Việt Nam yêu nước, ở đó có sẵn nhân tố của hậu phương. Phương thức xây dựng hậu phương chiến tranh của Đảng làm cho tuyền tuyến cũng là hậu phương, hậu phương cũng là tiền tuyến, làm cho hậu phương của chiến tranh nhân dân Việt Nam không còn đối xứng với tiền tuyến theo cách hiểu cổ điển thông thường, không thể xác định rạch ròi, rõ rệt chỉ bằng yếu tố không gian. Đó cũng chính là sự đóng góp to lớn vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin về chiến tranh cách mạng . DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Lênin toàn tập- tập 30, Nxb Sự thật, Hà Nội. Lênin toàn tập- tập 35. NXB Sự thật, Hà Nội. Lênin toàn tập- tập 36. NXB Sự thật, Hà Nội. Hồ Chí Minh toàn tập (1996), Nxb CTQG, Hà Nội. Văn kiện Đảng tập 1(1960) Nxb Sự thật, Hà Nội. Mác-Ănghen (1977), Về mối quan hệ giữa kinh tế hậu phương, chiến tranh và quân đội, Nxb QĐND. Hà Nội. Lênin- Xtalin (1966), Tầm quan trọng của hậu phương trong chiến tranh cách mạng, Nxb Sự thật. Hà Nội. Lê Duẩn (1965), Ta nhất định thắng, định nhất định thua, Nxb Sự thật, Hà Nội. Trường Chinh (1966), Bàn về chiến tranh nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân, Nxb QĐND, Hà Nội. Võ Nguyên Giáp (1994), Những chặng đường lịch sử, Nxb CTQG, Hà Nội. Nghị quyết BCH TW Đảng khoá II-tháng 1/1959 (1959), Nxb Sự thật, Hà Nội. Nghị quyết Hội nghị TW lần thứ 7, Văn kiện Đảng, tập 9. Báo cáo chính trị BCH TW Đảng tại Đại hội ĐB toàn quốc lần thứ IV (1997), Nxb CTQG, Hà Nội. Từ điển Bách khoa Việt Nam (1998), tập 1, Nxb Từ điển. Hà Nội. Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam tập 1 (1995), Nxb CTQG. Hà Nội. Niên giám thống kê (1975), Nxb Thống kê. Hà Nội. Về cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của nhân dân Liên Xô (1965), Nxb QĐND. Hà Nội. Trường Chinh (1964), Kháng chiến nhất định thắng lợi, Nxb Sự thật, Hà Nội.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • dochau_phuong_5675.doc