Đề tài Ngoại hối và đổi mới chính sách quản lý ngoại hối ở Việt Nam hiện nay

Bước phát triển của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng tiến tới một thị trường hối đoái ở Việt Nam trong thời gian tới là phù hợp với xu thế phát triển và sự đổi mới nhanh chóng trong lĩnh vực tài chính tiền tệ và nền kinh tế nói chung. Thị trường hối đoái ra đời và phát triển sẽ có ý nghĩa quan trọng lớn lao mang tính lịch sử thể hiện sự phát triển không chỉ trong phạm vi tài chính tiền tệ mà còn mở rộng phạm vi toàn bộ nền kinh tế, góp phần quan trọng đưa đất nước phát triển, giành một vị thế xứng đáng trong khu vực và trên thế giới.

doc61 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1439 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Ngoại hối và đổi mới chính sách quản lý ngoại hối ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
khách hàng tăng mạnh tương ứng là 22.36% và 42.65%. 3Những hạn chế của hoạt động kinh doanh ngoại tệ của HTNHTM cổ phần Hà Nội : Bên cạnh những thành công đã đạt được, trong các năm đã hoạt động, Phòng Ngoại hối Ngân hàng TMCP Hà nội nói chung cũng gặp phải không ít những khó khăn. Thứ nhất, khó khăn về mặt trang thiết bị, kỹ thuật trong Phòng. Mặc dù, Ban lãnh đạo các Ngân hàng đã có sự đầu tư lớn cho Phòng song hoạt động kinh doanh ngoại tệ là một nghiệp vụ luôn có những sự thay đổi nhanh chóng về cả mặt kỹ thuật và công nghệ, chính điều này đòi hỏi các thiết bị làm việc trong Phòng cũng phải luôn được đổi mới và hiện đại hoá. Trong bối cảnh hiện nay, khi mà hầu hết các Ngân hàng nước ngoài đã bắt đầu triển khai nghiệp vụ kinh doanh qua mạng Internet thì việc đầu tư các trang thiết bị, phần mềm để tham gia vào thị trường ngoại hối “điện tử” này là một xu thế không thể tránh khỏi. Thứ hai, khó khăn về chiến lược kinh doanh ngoại hối. Do mới được thành lập ,hệ thống ngan hàng còn non trẻ,do đó các Phòng Ngoại hối không tránh khỏi những bỡ ngỡ ban đầu về cả mặt định hướng lẫn tổ chức hoạt động của Phòng. Hiện tại, hoạt động của các Phòng vẫn chủ yếu dựa trên những kinh nghiệm đúc kết, học hỏi được từ các đồng nghiệp tại các ngân hàng nước ngoài ở Hà nội. Tuy quy chế hoạt động của các Phòng đã được Ban giám đốc thông qua song nó vẫn chưa theo kịp được những thay đổi của thị trường ngoại hối quốc tế và những nhu cầu ngày càng cao của khách hàng. Bên cạnh đó, mối quan hệ của các Phòng với các Ngân hàng đại lý vẫn còn rất khiêm tốn. Hiện tại, đa số các Phòng mới chỉ có tài khoản Nostro tại của một số ngoại tệ chính như USD, EUR, JPY còn các ngoại tệ khác thì chỉ có một phần ít có tài khoản tại Vietcombank HO.Các Phòng có quan hệ đại lý với một số ngân hàng nước ngoài và một số các ngân hàng trong nước. Trong tương lai, Phòng sẽ tiếp tục mở rộng mối quan hệ với các Ngân hàng đại lý, đồng thời đa dạng hoá nghiệp vụ kinh doanh, nâng doanh số của các nghiệp vụ như: kỳ hạn (forward), hoán đổi (swap), quyền chọn (option). Thứ ba, khó khăn về mặt con người. Tuy hầu hết các cán bộ trong các Phòng đều có trình độ Đại học và đang theo học các khoá nâng cao song với những thay đổi nhanh chóng của thị trường cùng với sự phát triển mạnh mẽ của thương mại điện tử đã khiến cho các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ ngày càng trở nên phức tạp. Điều này đòi hỏi mỗi một cán bộ trong Phòng phải không ngừng nâng cao trình độ về ngoại ngữ, vi tính, nghiệp vụ, kỹ năng giao tiếp… luôn trau dổi kiến thức về cả mặt lý luận lẫn thực tiễn để có thể thực hiện thành thạo các nghiệp vụ khác nhau, làm chủ những máy móc, trang thiết bị hiện đại. Tuy vậy, Phòng vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn trong việc đào tạo cán bộ, đặc biệt là đào tạo trong lĩnh vực ngoại hối. Hầu hết các cán bộ chưa được Ngân hàng bố trí đi học tại nước ngoài, kinh phí dành cho Phòng Ngoại hối nhằm phục vụ việc đào tạo còn hết sức hạn chế. Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện và phát triển hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại các ngân hàng thương mại cổ phần hà nội I. Định hướng năm 2005: Năm 2005 môi trường hoạt động kinh doanh sẽ còn gặp nhiều khó khăn và diễn biến phức tạp , thách thức và cạnh tranh mạnh mẽ , đòi hỏi hệ thống ngân hàng TM phải nỗ lực vượt bậc phát huy cao độ nội lực và những kinh nghiệm cũng như cơ sở vật chất tiếp tục phương hướng đổi mới mạnh mẽ toàn diện . Dự kiến kế hoạch năm 2005 của các ngân hàng thương mại nói chung như sau : Về cơ bản phương hướng hoạt động kinh doanh tín dụng của các Ngân hàng trong năm 2005 và một số năm tiếp vẫn là phải tập trung đạt cho được các mục tiêu nhiệm vụ lớn là : - Nâng vốn điều lệ lên khoảng 400 tỷ VND cho các ngân hàng thương mại cổ phần Hà Nội, đồng thời mở rộng mạng lưới hoạt động bằng việc thành lập các chi nhánh tại các tỉnh và thành phố khác trong cả nước. - Đẩy mạnh huy động vốn đáp ứng cho được nhu cầu mở rộng quy mô hoạt động của các Ngân hàng - Tăng nhanh khối lượng cho vay vốn . - Cơ cấu lại nguồn vốn cho vay hợp lý , phù hợp với tính chất , đặc điểm diễn biễn chung của nền kinh tế và thị trưòng tài chính tiền tệ . - Chấn chỉnh hoạt động tín dụng , phấn đấu đạt cho được chỉ tiêu theo quy định chung của Ngân hàng Nhà nước . 1. Huy động vốn : - Tổng nguồn vốn huy động thường xuyên : 4000-5000 tỷ VND - Hệ số huy động vốn : 10 - 15 lần vốn tự có - Cơ cấu nguồn vốn huy động : chủ yếu huy động tiền gửi của dân cư và các tổ chức kinh tế , khi có nhu cầu chủ động huy động từ các nguồn khác . 2. Sử dụng vốn : - Đưa mức dư nợ thường xuyên : 4500-6000 tỷ VND - Cho vay ngắn hạn : 70 - 80% nguồn vốn - Cho vay trung và dài hạn : 20 - 30% nguồn vốn - Thu nhập : Chiếm tỷ trọng 70 - 80% nguồn thu Những biện pháp cơ bản để thực hiện chỉ tiêu cho vay nêu trên là đẩy mạnh tiếp thị một cách có tổ chức , lập kế hoạch , giao chỉ tiêu cho các đầu mối , định hướng ưu tiên các dự án phát triển sản xuất , kinh doanh có hiệu quả . Đặc biệt coi trọng chất lượng dịch vụ hỗ trợ trực tiếp cho khách hàng về chuyên môn nghiệp vụ trong giao dịch với Ngân hàng để cạnh tranh thu hút với khách hàng . 3. Hoạt động kinh doanh dịch vụ năm 2005 : 3.1 Tiếp tục mở rộng đa dạng hoá các dịch vụ ngân hàng và các dịch vụ được phép, đẩy mạnh hoạt động kinh doanh dịch vụ đưa dịch vụ thành một mặt hoạt động kinh doanh chính của các Ngân hàng , chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong nguồn thu của các Ngân hàng . Năm 2005 phấn đấu đạt 30 - 40% nguồn thu của Ngân hàng . 3.2 Tiếp tục thực hiện chủ trương cạnh tranh trong kinh doanh dịch vụ , mở các dịch vụ mới mà khách hàng có nhu cầu , cải tiến nâng cao chất lượng dịch vụ hiện có để cạnh tranh và thu hút khách hàng . 3.3 Gắn liền kinh doanh dịch vụ với kinh doanh tín dụng . Những dịch vụ chính ngân hàng dự kiến kinh doanh năm 2005 Dịch vụ thanh toán gồm : + Thanh toán quốc tế ( Mở L/C xuất nhập khẩu , chuyển tiền thanh toán ...) + Thanh toán và chuyển tiền trong nước + Thanh toán các phương tiện tiền điện tử và các loại thanh toán không dùng tiền mặt khác Kinh doanh ngoại tệ Tiếp tục đầu tư , đào tạo để nâng cao năng lực kinh doanh buôn bán ngoại tệ giao ngay tại các thị trường hối đoái quốc tế . Nâng cấp chuyển bộ phận kinh doanh ngoại tệ thành phòng kinh doanh ngoại tệ Chú trọng mua bán ngoại tệ phục vụ các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu . Tiếp tục thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh , tư vấn , tài trợ dự án , rút kinh nghiệm để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh hỗ trợ giao dịch mua bán bất động sản, nhà cửa và các tài sản khác của Ngân hàng . II, một số giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện và phát triển hoạt động kinh doanh ngoại tệ đối với ngân hàng thương mại cổ phần nói chung Chúng ta phải khẳng định lại rằng: Hoạt động kinh doanh ngoại tệ là một hoạt động hết sức tinh vi, phức tạp và phải chịu sự ảnh hưởng của rất nhiều các biến động về kinh tê, chính trị, xã hội. Chính vì vậy nó đòi hỏi các ngân hàng thương mại với chức năng là tài chính trung gian, hỗ trợ cho sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế nói chung và lĩnh vực kinh doanh ngoại tệ nói riêng phải có được các chiến lược, giải pháp kinh doanh hợp lý, thích hợp với từng thời kỳ thì mới mang lại thành công tốt đẹp với hiệu quả kinh tế cao. Ngay từ đầu, chủ trương đưa hoạt động kinh doanh ngoại tệ của các ngân hàng TM cổ phần Hà Nội thành hoạt động kinh doanh chính là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp định hướng đa năng hoá hoạt động kinh doanh ngân hàng, góp phần tăng sức cạnh tranh của các ngân hàng Hà Nội, hoà nhập với hoạt động của các ngân hàng khác trên thế giới. Để mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh doanh trên lĩnh vực này, ngân hàng thương mại cổ phần Hà Nội cần phải thực hiện một số giải pháp sau: 1, Tăng cường đầu tư, hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật và mạng lưới thông tin ngân hàng: Trong những năm qua,các Ngân hàng thương mại cổ phần Hà Nội nói chung đã từng bước cải tiến, hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, đẩy nhanh tốc độ thanh toán, nâng cao hiệu quả của hoạt động kinh doanh ngoại tệ. Hiện tại, cho đến thời điểm cuối tháng 4 năm 1999 việc trao đổi, tiếp nhận các thông tin liên quan đến hoạt động kinh doanh ngoại hối ở các ngân hàng đã phát triển rất nhanh và ở mức hiện đại so với những năm về trước. Ngoài các máy Telerate chuyên cung cấp tỷ giá hối đoái của các đồng tiền chủ yếu trên thế giới như: USD, EURO, JPY... và thông tin được cập nhật 24/24 giờ, Phòng ngoại hối các ngân hàng còn được trang bị mạng Dealing 2000 rất phổ biến trên thế giới của hãng Reuters. Việc mạnh dạn đầu tư một số tiền lớn nhằm hiện đại hoá công nghệ và mạng lưới thông tin của Phòng ngoại hối được coi là một lợi thế rất lớn của các ngân hàng thương mại cổ phần Hà Nội trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ. Hiệu quả của việc ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật là rất cao, điều này được thể hiện qua doanh số lợi nhuận do hoạt động kinh doanh ngoại tệ đem lại cho các ngân hàng không ngừng tăng lên theo từng tháng kể từ khi hoạt động này được đưa vào hoạt động . Để tiếp tục thúc đẩy sự đóng góp của Phòng ngoại hối noi riêng của từng ngân hàng cho sự phát triển của ngân hàng thương mại cổ phàn Hà Nội nói chung, việc cải tiến, nâng cấp công nghệ và mạng lưới thông tin ngân hàng cần phải được tiến hành thường xuyên phù hợp với điều kiện và khả năng của ngân hàng. Do đó cần thiết phải có sự bảo trì, bảo dưỡng các phương tiện hiện có, cập nhật các chương trình phần mềm vi tính thế hệ mới nhất, đầu tư các loại máy Telex, Fax, điện thoại hiện đại, có nhiều chức năng sử dụng nhằm đem lại hiệu quả cao nhất cho hoạt động kinh doanh ngoại tệ của các ngân hàng. 2. Các giải pháp về chiến lược kinh doanh ngoại tệ: 2.1 Tăng cường các mối quan hệ của các ngân hàng thương mại cổ phần với các ngân hàng khác trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng: Mở rộng mạng lưới và có quan hệ tốt với các Ngân hàng đại lý có vai trò rất quan trọng trong việc mở rộng nguồn vốn thanh toán, mở rộng và đẩy mạnh hoạt động thanh toán quốc tế . Để làm được điều đó, trước hết phải củng cố và nâng cao uy tín của các ngân hàng TM trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Điều này không phải do thiện chí, do tình cảm mà có được, mà nó được quyết định bởi khả năng thanh toán, khả năng về vốn, công nghệ của chính bản thân. Các ngân hàng. Muốn vậy, các L\C do các ngân hàng phát hành, các khoản bảo lãnh, các khoản tiền gửi ngoại tệ phải được thanh toán đúng hạn. Do đó cần chú trọng xem xét khả năng thanh toán, sự chặt chẽ trong việc kí hợp đồng, trong việc mở và tu chỉnh L/C trước khi giải quyết yêu cầu của khách hàng. Không mở rộng tràn lan ở những nơi chưa đủ điều kiện, trước hết là cán bộ và công cụ, đồng thời chỉ mở L/C khi bảo đảm nguồn vốn thanh toán chắc chắn 100%, hạn chế tối đa trường hợp đề nghị thanh toán bằng vốn tự có ( yêu cầu tiền gửi kí quĩ ) - có như vậy mới loại bỏ được các trường hợp bảo lãnh thiếu khả năng thanh toán. Đến nay, uy tín của các ngân hàng thương mại cổ phần gày càng được nâng cao, được nhiều Ngân hàng khác, tổ chức tài chính, tín dụng biết đến. Trong bối cảnh thuận lợi đó các ngân hàng thương mại cần nhanh chóng mở thêm các phòng giao dịch tại các tỉnh và thành phố khác, đặc biệt là những khu vực có quan hệ thương mại thường xuyên và lớn với ngân hàng. Đồng thời, mở rộng quan hệ đại lí phải đi liền với nâng cao sự hợp tác song phương. Từ trước tới nay, trong quan hệ với các chi nhánh ngân hàng nước ngoài, chủ yếu là các ngân hàng nay mở tài khoản và gửi tiền ở ngân hàng nước ngoài,(còn gọi là tài khoản NOSTRO), còn các ngân hàng nước ngoài mở tài khoản và gửi tiền ở các ngân hàng nay ( còn gọi là tài khoản VOSTRO ) còn rất hạn chế. Bên cạnh đó, hệ thống ngân hàng cần tiếp tục đẩy mạnh hiện đại hoá thanh toán và công nghệ ngân hàng, triển khai các công cụ thanh toán mới như thẻ điện tử, máy rút tiền tự động (ATM), chuyển bị các bước cần thiết để tham gia vào mạng SWIFT (mạng thanh toán toàn cầu) nhằm phục vụ nhanh chóng, chính xác yêu cầu của khách hàng, góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động thanh toán quốc tế phát triển. 2.2 Đẩy mạnh công tác tiếp thị, quảng cáo: Thực tiễn đã chứng minh rằng: mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng đóng một vai trò quan trọng trọng sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Đối với hoạt động kinh doanh ngoại tệ ở các ngân hàng thương mại cổ phần Hà Nội, do từ lúc mới thành lập, bộ phận này chưa được phép thực hiện đầy đủ một số hoạt động kinh doanh như một số các ngân hàng thương mại khác nên các tổ chức kinh tế quan hệ với ngân hàng có nhu cầu thanh toán bằng ngoại tệ đã phải mở tài khoản tiền gửi ngoại tệ ở các ngân hàng thương mại quốc doanh hoặc các chi nhánh ngân hàng nước ngoài có khả năng đáp ứng nhu cầu giao dịch của họ. Vì thế lượng khách hàng giao dịch với ngân hàng trong lĩnh vực này tới nay vẫn còn nhỏ hẹp. Do vậy, cần tìm giải pháp thông tin tiếp thị có hiệu quả, thông qua nhiều hình thức để duy trì khách hàng cũ và mở rộng khách hàng mới có chọn lọc. Trước hết đối với các doanh nghiệp đang giao dịch nội tệ với các ngân hàng này, nhưng giao dịch ngoại tệ với Ngân hàng ngoại thương hoặc ngân hàng thương mại khác, cần tuyên truyền rộng rãi các hoạt động kinh doanh đối ngoại của các NHTM cổ phần đã và đang làm, khuyến khích các doanh nghiệp mở tài khoản ngoại tệ, thực hiện mua bán, thanh toán quốc tế... thông qua. Các ngân hàng thương mại cổ phần. Sau nữa cần tiếp cận, tuyên truyền, khuyến khích các doanh nghiệp lớn, làm ăn có hiệu quả, tín nhiệm mở quan hệ giao dịch với các NHTM cổ phần với những ưu đãi đặc biệt để tạo mối quan hệ tốt. Công tác tuyên truyền, tiếp thị cần xuất phát từ mỗi cán bộ, nhân viên song song với việc quảng cáo qua các phương tiện thông tin đại chúng như : vô tuyến, đài, báo ... Ngoài ra, ngân hàng có thể tổ chức các hội nghị khách hàng, thông qua các " diễn đàn" trao đổi cởi mở, thẳng thắn và mang tính hợp tác,các ngân hàng thương mại cổ phần và khách hàng sẽ xích lại gần nhau hơn trong nỗ lực đáp ứng tối đa các nhu cầu của khách hàng và tối đa hoá lợi nhuận của ngân hàng. Thông qua các hội nghị khách hàng này, hình ảnh của các ngân hàng thương mại sẽ được mở rộng và nâng cao trong con mắt của các khách hàng - và đây quả là một hình thức quảng cáo thấp về mặt chi phí mà lợi ích thu được là khá lớn. Làm tốt công tác này, phải có nhóm chuyên nghiên cứu, học hỏi về quy trình nghiệp vụ của các ngân hàng thương mại khác và của chính bản thân các ngân hàng thương mại cổ phần, để phân tích những tồn tại, những vướng mắc cũng như những thuận lợi trong quy trình nghiệp vụ của các ngân hàng này. Chỉ sau khi phân tích rõ được những thuận lợi, khó khăn các ngân hàng này mới có thể đáp ứng được nhu cầu của khách hàng một các tốt nhất đồng thời nâng cao uy tín của các ngân hàng thương mại cổ phần trên thương trường. 2.3 Đa dạng hoá các loại hình ngoại tệ trong kinh doanh và dịch vụ: ở nước ta hiện nay, đồng tiền dùng trong giao dịch ngoại thương chủ yếu vẫn là đồng đôla Mỹ, do vậy hầu hết các ngân hàng thương mại và các doanh nghiệp xuất nhập khẩu ở Việt Nam có tập quán sử dụng đồng đôla trong mua bán, huy động, cho vay, dự trữ và thanh toán quốc tế. Hiển nhiên USD là một loại ngoại tệ mạnh, có khả năng chuyển đổi cao - tuy nhiên, đó không phải là ngoại tệ mạnh duy nhất trong hệ thống tiền tệ quốc tế hiện nay. Đặc biệt, bắt đầu từ ngày 1/1/1999, đồng tiền chung Châu Âu ( EURO) đã chính thức ra đời, nó sẽ từng bước cạnh tranh với đồng USD Mĩ trên các thị trường toàn cầu và trở thành một đồng tiền quốc tế tầm cỡ - điều này cũng đồng nghĩa với việc : sức hấp đẫn quốc tế của đồng USD sẽ bị giảm sút. Vì thế, trong điều kiện thương mại quốc tế ngày càng phát triển, việc sử dụng đồng USD trong hầu hết các quan hệ trao đổi thương mại như nước ta hiện nay sẽ ảnh hưởng đến sự mở rộng giao lưu kinh tế hàng hoá với nhiều nước trên thế giới trước mắt cũng như lâu dài. Từ trước tới nay, hoạt động kinh doanh ngoại tệ ây ở các ngân hàng thương mại cổ phần chủ yếu xoay quanh USD và VND - điều này làm hạn chế qui mô giao dịch và tiềm ẩn rất nhiều rủi ro đối với ngân hàng. Kể từ ngày 1/1/1999, khi đồng EURO chính thức ra đời, các ngân hàng này đã có kế hoạch cơ cấu lại dữ trữ ngoại tệ của mình theo hướng đa dạng hoá các loại ngoại tệ, mở tài khoản EURO tại các ngân hàng ở nước ngoài như Berliner Bank, ABN - Armo Bank tại Hà Lan... ,nhằm phân tán rủi ro ; đồng thời, chủ động mở rộng các giao dịch giữa VND với các loại ngoại tệ mạnh khác và giữa các loại ngoại tệ mạnh với nhau, mở rộng danh mục các loại ngoại tệ trong giao dịch hối đoái của ngân hàng. 2.4 Đa dạng hoá các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ: Hoạt động kinh doanh ngoại tệ của các ngân hàng này chủ yếu là dưới hình thức giao dịch giao ngay (Spot), giao dịch kì hạn (Forward), giao dịch hoán đổi ( swap ) và hình thức kinh doanh quyền mua bán lựa chọn ( Options ) chưa được phép thực hiện. Vì thế, hoạt động kinh doanh ngoại tệ còn mang tính sơ khai, đơn giản, không có sự kết hợp chặt chẽ với thị trường tiền tệ ; hoạt động dự trữ, đầu cơ ngoại tệ hầu như chưa được tận dụng. Như đã đề cập ở các phần trước, hoạt động giao dịch hối đoái kỳ hạn có ý nghĩa rất lớn đối với các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu trong việc tránh rủi ro về biến động tỷ giá ngoại tệ và tính toán hiệu quả kinh tế của hoạt động kinh tế đối ngoại. Hoạt động này cũng đem lại lợi nhuận cho ngân hàng thông qua mua bán ngoại tệ và đầu tư vốn trên thị trường tiền tệ. Bởi vậy, để thúc đẩy hoạt động kinh doanh ngoại tệ cả về qui mô và hiệu quả, các ngân hàng nàyđã chủ động tìm khách hàng, đồng thời gửi đơn lên Ngân hàng Nhà nước xin phép thực hiện các giao dịch kì hạn và hoán đổi chứ không chỉ dừng lại ở các giao dịch giao ngay như hiện nay. 3. Giải pháp về nguồn lực con người: Xu thế quốc tế hoá nền kinh tế thế giới hiện nay và sự phát triển nhanh chóng của khoa học ký thuật đòi hỏi mỗi một ngân hàng cần phải có sự bồi dưỡng và đào tạo đội ngũ cán bộ nhân viên ngân hàng để tránh khỏi tình trạng bị lạc hậu về kiến thức so với các ngân hàng khác trên thế giới. Nguồn lực con người ở đây trước hết là nguồn lực cán bộ lãnh đạo ở chính các Hội sở cũng như ở các Phòng giao dịch, họ phải là những người có kỹ năng tổng hợp, phân tích nhìn nhận vấn đề, có bản lĩnh vững vàng cùng với nghiệp vụ thông thạo. Bởi lĩnh vực kinh doanh ngân hàng liên quan đến hoạt động của toàn bộ các thành phần kinh tế trong và ngoài nước, do vậy nếu người lãnh đạo mà không tài năng thì sự thất bại của ngân hàng là điều khó tránh khỏi. Bên cạnh đó không thể không kể tới đội ngũ nhân viên ngân hàng, có thể nói đây là “ bộ mặt “ đại diện cho ngân hàng đóng một vai trò quyết định đến hoạt động kinh doanh của các ngân hàng. Trong tương lai những nhân viên của các ngân hàng thương mai cổ phần phải mang đủ những tiêu chuẩn cơ bản sau đây: Phải nắm vững các nghiệp vụ mà mình làm việc một cách tường tận, thấu đáo. Trình độ ngoại ngữ, đặc biệt là tiếng Anh phải ở trình độ có thể làm việc được với các đối tác nước ngoài. Trình độ tin học phải thành thạo các chương trình tin học cơ bản, biết sử dụng, khai thác thông tin trên mạng Internet, Dow Jones, Reuters và dần dần tiến tới có khả năng lập trình các chương trình cơ bản của các ngân hàng. Phải có kiến thức về xã hội, phải có một thái độ văn minh, lịch sự đối với khách hàng, phải chứng tỏ được khả năng của mình đối với khách hàng để dần dần tạo dựng được lòng tin từ phía khách hàng. Các ngân hàng thương mại cổ phần phấn đấu sẽ trở thành những ngân hàng thương mại đa năng. Để thực hiện được định hướng đó đồng thời đưa Các ngân hàng thương mại cổ phần hoà nhập với cộng đồng ngân hàng quốc tế, thì một yếu tố không thể thiếu được đó là yếu tố con người để tổ chức, vận hành quản lý các nghiệp vụ của ngân hàng. Một ngân hàng có thể trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật, trang thiết bị hiện đại trong một thời gian rất ngắn, nhưng không thể có ngay một đội ngũ cán bộ có trình độ tương xứng trong một thời gian ngắn được. Vì vậy, cần phải có chương trình, kế hoạch, đào tạo bồi dưỡng rút một đội ngũ cán bộ cho hiện tại và tương lai. II, một số kiến nghị để thực hiện các giải pháp trên: Các giải pháp trên được đưa ra nhằm củng cố và nâng cao hoạt động của ngân hàng nói chung và hoạt động kinh doanh ngoại tệ nói riêng. Tuy nhiên để các giải pháp này có thể trở thành hiện thực và phát huy được tính tích cực của nó thì phải có sự phối hợp đồng bộ của các cơ quan chức năng có thẩm quyền và của bản thân ngân hàng Nhà Hà Nội. Trong phần II này em xin phép được đưa ra một số kiến nghị với Chính Phủ, NHNN và Hội sở Ngân hàng thương mại cổ phần Hà Nội. 1. Đối với Chính Phủ: 1.1 Chính phủ nên tạo một môi trường kinh tế, chính trị, xã hội thuận lợi nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài: Tạo điều kiện môi trường pháp lý thuận lợi cho hoạt động đầu tư nước ngoài, đặc biệt là đầu tư trực tiếp. Vấn đề nổi cộm gây nhiều vướng mắc cho các nhà đầu tư nước ngoài là thủ tục hành chính có liên quan đến việc cấp giấy phép và triển khai thực hiện còn nhiều phiền hà phức tạp. Một số văn bản pháp qui về thủ tục cấp giấy phép, sử dụng đất, tín dụng, thuế ... còn thiếu nhất quán, chưa rõ ràng, ổn định. Vào ngày 15/31999, trong buổi gặp gỡ các doanh nghiệp nước ngoài tại Hà Nội, Phó thủ tướng Nguyễn Mạnh Cầm đã công bố việc xoá bỏ chế độ hai giá, đồng thời cắt giảm giá điện, giá thuê đất, chi phí cấp giấy phép kinh doanh cho các doanh nghiệp nước ngoài. Đây có thể được coi là các bước hết sức cần thiết để làm sống dậy nguồn vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp vào Việt Nam. Trong quý I năm 1999 cả nước chỉ có 57 dự án được cấp giấy phép, với số vốn đầu tư là 358 triệu USD, bằng 32% cùng kỳ năm trước, vốn đầu tư thực hiện chỉ đạt 250 triệu USD, giảm 64% so với cùng kỳ năm 1998.. Nâng cấp, cải tiến cơ sở hạ tầng trên các lĩnh vực : giao thông, y tế, thông tin liên lạc, vui chơi giải trí ... Cần rà soát lại cơ cấu thu hút vốn đầu tư. Việc cấp giấy phép đầu tư nước ngoài phải chú trọng chiến lược kinh tế hướng về xuất khẩu ; cân nhắc kĩ càng việc cấp giấy phép đầu tư vào khu vực bất động sản. Nghiên cứu mở rộng thêm các hình thức đầu tư. Có chính sách khuyến khích hợp lí ( ưu đaĩ về thuế suất, thời gian miễn thuế, bảo đảm cân đối ngoại tệ ... ) đối với các dự án đầu tư ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa và địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn phù hợp với chủ trương thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hoá và hiện đại hoá ; giải quyết việc làm , xoá đói giảm nghèo... Đ ẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn ODA, và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ODA. 1.2 Quản lý có hiệu quả việc sử dụng nguồn vốn nước ngoài: Việc thu hút nguồn vốn ngoại tệ cho nền kinh tế đất nước góp phần ổn định tỷ giá hối đoái trong những tháng đầu năm 1999 ở nước ta gặp rất nhiều khó khăn, song việc quản lý để sử dụng có hiệu quả nguồn vốn nước ngoài còn khó khăn hơn nhiều. Nếu chúng ta sử dụng nguồn vốn này không đúng mục đích, sử dụng sai, không có hiệu quả thì sẽ gây ra tình trạng lãng phí, nợ nước ngoài sẽ thêm chồng chất và sẽ là gánh nặng cho nền kinh tế. Nền kinh tế không những không tăng trưởng mà còn thụt lùi và có khả năng lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế. Do vậy, vấn đề quản lý nguồn vốn nước ngoài phải được Chính Phủ và các cơ quan có liên quan quan tâm hàng đầu vì sự ổn định và tăng trưởng của nền kinh tế. 1.3 Quản lý chặt chẽ hoạt động xuất nhập khẩu, kiên quyết ngăn chặn tình trạng buôn lậu đang có xu hướng gia tăng: Đối với hoạt động xuất khẩu: Đẩy mạnh hoạt động đối ngoại, đặc biệt là hoạt động thương mại đối với những thị trường lớn như Nhật Bản, Mỹ, các nước trong khối ASEAN, các nước EU ... Có đối sách thương mại đúng đắn, khắc phục những yếu điểm, phát huy những lợi thế cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam so với hàng hoá nước ngoài. Tổ chức tốt công tác điều tra, nghiên cứu nhu cầu thị trường các nước để cải tiến các mặt hàng xuất khẩu cho phù hợp với từng thị trường cụ thể. Nâng cao chất lượng các mặt hàng xuất khẩu. Giờ đây rất nhiều các nhà nhập khẩu nước ngoài yêu cầu các công ty xuất khẩu của Việt Nam phải tiêu chuẩn ISO 9000, hoặc ISO 9002, do vậy việc cải tiến công nghệ, hiện đại hoá dây chuyền sản xuất là một vấn đề mang tính sống còn đối các doanh nghiệp xuất khẩu. Song vấn đề này chưa thực sự được các doanh nghiệp ở nước ta coi trọng vì thế chúng ta thua thiệt rất nhiều trên thị trường quốc tế. Không kể có lúc chúng ta phải đổ hàng đi vì hàng đã hư hỏng do không được bảo quản tốt. Do đó, chất lượng sản phẩm phải được coi là tiêu chuẩn hàng đầu. Đồng thời, coi trọng cải tiến vấn đề tiếp thị, dịch vụ chăm sóc khách hàng... Cải tiến cơ cấu hàng xuất khẩu phù hợp với nhu cầu của thị trường thế giới. Những mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam trong nhiều năm nay chủ yếu vẫn là sản phẩm nông thuỷ sản dưới dạng thô hay sơ chế để tạo nguồn nguyên liệu cho các nước khác. Các nước sẽ dùng nguyên liệu nhập từ Việt Nam để chế biến ra các mặt hàng cao cấp xuất rồi lại xuất sang Việt Nam với giá rất cao. Đây quả là một sự thua thiệt. Bởi vậy, cơ cấu hàng xuất khẩu trong thời gian tới sẽ phải cải tiến theo hướng tăng các mặt hàng chế biến tinh, giảm tỷ trọng sản phẩm thô. Do đó, chúng ta cần phải coi trọng việc phát triển công nghiệp chế biến, mở rộng hợp tác và liên doanh với nước ngoài để nâng cao năng lực ngành công nghiệp chế biến hàng xuất khẩu. Nhà nước phải có chính sách khuyến khích sản xuất và chế biến hàng xuất khẩu, sử dụng các công cụ quản lý vĩ mô như miễn thuế, lãi suất cho vay ưu đãI đối với các mặt hàng xuất khẩu, có chính sách thu mua hợp lí đối với các mặt hàng xuất khẩu chiến lược ; tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sản xuất và chế biến hàng xuất khẩu có điều kiện giảm giá thành và nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng Việt Nam trên thị trường thế giới. Các thủ tục về xuất khẩu cũng là vấn đề cần được xem xét một cách nghiêm túc. Mặc dù nhà nước đã có chủ trương đơn giản hoá các thủ tục xuất khẩu, song trên thực tế vấn đề này cũng vẫn gây phiền nhiễu cho các nhà xuất khẩu. Thực tế đó không chỉ gây chậm trễ, mất thời gian, có khi lỡ cả cơ hội kinh doanh mà còn làm tăng chi phí, giảm khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu nước ta. Thực hiện chính sách tỷ giá hối đoái thích hợp, đảm bảo có lợi cho nhà xuất khẩu. Đối với hoạt động nhập khẩu: Có chính sách bảo hộ nền sản xuất trong nước thông qua việc cấp giấy phép nhập khẩu, quản lý bằng hạn ngạch và công cụ thuế nhằm hạn chế nhập khẩu những mặt hàng trong nước đã sản xuất được. Có chính sách nhập khẩu hợp lí các mặt hàng thiết yếu, hạn chế tối đa việc sử dụng ngoại tệ nhập hàng nước ngoài. Có biện pháp kiên quyết ngăn chặn nhập khẩu lậu qua biên giới. Cần bổ sung vào Bộ luật hình sự xử lý hết sức nghiêm minh việc nhập lậu hàng hóa dưới mọi hình thức. Kiểm soát chặt chẽ thị trường nhập khẩu cả hai đầu mối : Nhập khẩu lậu qua biên giới và kiểm soát nghiêm ngặt cả người tiêu thụ hàng ngoại nhập trái phép. Tiếp tục triển khai công tác dán tem các mặt hàng nhập khẩu. Đồng thời kể từ ngày 1/6/1999 các cơ quan có chức năng sẽ tiến hành tịch thu các hàng hoá nhập khẩu bán trên thị trường mà không dán tem theo quy định đồng thời tiến hành sử lý hành chính, nếu vi phạm nghiêm trọng với số lượng lớn thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Bên cạnh đó cơ quan thuế sẽ truy thu, phạt một lần thuế VAT, thuế thu nhập doanh nghiệp tất cả những hàng nhập khẩu không có hoá đơn hợp pháp. Đối với tình trạng buôn lậu: Các số liệu thống kê trong năm qua đã cho thấy một lượng ngoại tệ rất lớn chảy ra nước ngoài qua con đường buôn lậu các mặt hàng như: thuốc lá ngoại, rượu ngoại, các đồ điện tử gia dụng như tivi, cát xét, đầu máy video... Hoạt động buôn lậu gia tăng không những làm khốn đốn các doanh nghiệp sản xuất chân chính trong nước mà còn dẫn tới tình trạng nhu cầu ngoại tệ bất hợp pháp lớn, từ đó sẽ tạo nên sức ép làm biến động tỷ giá hối đoái, làm xáo động các quan hệ kinh tế quốc tế. Vụ án buôn lậu thế kỷ Tân Trường Sanh vừa qua được coi là bài học hết sức quý giá trong công tác phòng chống buôn lậu, 2 mức án tử hình dành cho trùm buôn lậu Trần Đàm và trùm chống buôn lậu thoái hoá Phùng Long Thất là tiếng chuông cảnh tỉnh cho tất cả những kẻ đang có ý đồ phá hoại nền kinh tế đất nước. Qua vụ án trên, thiết nghĩ Chính Phủ cần có chỉ thị cho Bộ quốc phòng, Bộ công an, Tổng cục hải quan và Tổng cục thuế phối hợp chặt chẽ ngăn chặn tận gốc các hoạt động buôn lậu góp phần ổn định thị trường hàng hoá trong nước, ổn định tỷ giá hối đoái tạo đà cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. 2. Đối với NHNN: 2.1 Kiến nghị về đổi mới chính sách quản lý ngoại hối: Việc bổ sung, ban hành các văn bản pháp lý về quản lý ngoại hối trong thời gian vừa qua có ảnh hưởng tích cực đối với sự phát triển của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Các văn bản quản lý ngoại hối đã phát huy tác dụng về các mặt: - Bảo đảm cho Nhà nước quản lý nguồn ngoại tệ của nền kinh tế, tập trung được nguồn ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, đáp ứng đầy đủ và kịp thời nhu cầu ngoại tệ cho việc nhập khẩu vật tư, thiết bị, hàng hoá trong nước chưa sản xuất được, trả nợ nước ngoài ... - Giải toả được tình trạng găm giữ ngoại tệ của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế và các cá nhân đang gây căng thẳng không đáng có về cung cầu ngoại tệ, tạo sức ép đẩy tỷ giá lên cao. - Hạn chế việc buôn bán ngoại tệ trái phép, đầu cơ buôn lậu các loại ngoại tệ mạnh, trên cơ sở đó NHNN có thể kiểm soát được các luồng di chuyển ngoại tệ, thu hút ngoại tệ làm tăng nguồn dự trữ, ổn định tỷ giá hối đoái, thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Tuy nhiên các văn bản pháp lý cần phải tiếp tục được bổ sung và sửa đổi cho phù hợp với điều kiện thực tại của nền kinh tế trên cơ sở bảo vệ đồng tiền Việt Nam, từng bước thu hẹp tình trạng USD hóa, thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam chỉ tiêu tiền Việt Nam, tạo tiền đề để trong tương lai có một đồng tiền Việt Nam chuyển đổi. Một số giải pháp cho vấn đề này là : Thứ nhất, cần ban hành quy chế quản lý ngoại hối mới thay thế cho các quy định quản lý cũ mà nay không còn phù hợp với thực tế nữa, đồng thời tiếp tục nhấn mạnh 2 mục tiêu của Chính Phủ đề ra là tiến tới trên lãnh thổ Việt Nam chỉ tiêu đồng tiền Việt Nam và biến đồng Việt Nam thành đồng tiền có khả năng chuyển đổi. Thực hiện quản lý ngoại hối theo hướng chống hiện tượng đôla hoá, hạn chế tối đa phạm vi sử dụng các loại ngoại tệ nhằm thu hút các nguồn vốn ngoại tệ vào ngân hàng đồng thời kiểm soát một cách có hiệu quả các luồng chu chuyển ngoại tệ tạo cơ sở cho hoạt động của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng trong điều kiện hiện nay cũng như cho việc điều hành những chính sách lớn của Chính Phủ. Thứ hai, cần ban hành các quy chế mới về kinh doanh hối đoái cho phép các NHTM và các doanh nghiệp xuất nhập khẩu được tự do lựa chọn các công cụ giao dịch hối đoái để giúp các doanh nghiệp này tính được rủi ro khi tỷ giá biến động, chủ động trong kinh doanh, kích thích thị trường để hình thành nên một tỷ giá xác thực. Chấn chỉnh thể chế tín dụng ngoại tệ của các ngân hàng thương mại. Về lâu dài, chuyển dần cơ chế tín dụng bằng ngoại tệ (kể cả huy động tiền gửi và cho vay) trong hệ thống ngân hàng sang cơ chế mua bán ngoại tệ theo tỉ giá hối đoái trên thị trường giữa ngân hàng thương mại với các doanh nghiệp và dân cư ( kể cả người nưóc ngoài ) và giữa hệ thống ngân hàng thương mại với ngân hàng nhà nước. Hạn chế việc cho các doanh nghiệp vay vốn bằng ngoại tệ, chuyển sang cho vay bằng VND và mua bán ngoại tệ. Cần tiến tới các doanh nghiệp Việt nam chỉ được phép vay vốn bằng VND, khi cần ngoại tệ thì mua từ ngân hàng và khi có ngoại tệ thì bán cho ngân hàng. Các doanh nghiệp cần phải nắm được các phương pháp bảo đảm tỷ giá hối đoái ( mua bán kỳ hạn ). Có như vậy mới hạn chế sự lên giá quá thực tế của VND so với USD và tiến tới thực hiện mục tiêu trên đất Việt nam chỉ lưu hành đồng Việt Nam. Bên cạnh đó, ngân hàng nhà nước cần nghiên cứu để qui định lại việc cho vay bằng ngoại tệ của các ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, chỉ áp dụng đối với một số doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu, tự cân đối được ngoại tệ. Thứ ba, tăng cường quản lý hoạt động kinh doanh ngoại hối giữa các NHTM nhằm hạn chế tối đa hiện tượng đầu cơ, găm giữ ngoại tệ, tạo cầu ở mức giả tạo gây nên hiện tượng sột ngoại tệ không đáng có. Đặc biệt cần phải trú trọng đến việc duy trì, quản lý trạng thái ngoại hối của các NHTM trong nước và các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra thị trường, phát hiện và xử lý nghiêm theo pháp luật những tổ chức, các nhân cố tình vi phạm chính sách quản lý ngoại hối. Thứ tư, hạn chế các biện pháp hành chính trong điều tiết cung cầu ngoại tệ.Trong thời kì khi nhu cầu ngoại tệ của nền kinh tế lớn nhưng cung ngoại tệ nhỏ, chính sách quản lý ngoại hối của ta đã khuyến khích việc chuyển ngoại tệ vào không hạn chế, còn chuyển ngoại tệ ra chỉ với mục đích hạn chế nhất định thông qua các cơ chế và biện pháp hành chính rất chặt. Hiện nay cung ngoại tệ của nền kinh tế ngày càng lớn, nếu vẫn duy trì theo chính sách cũ tạo nên áp lực trong việc điều hành hình sách tiền tệ, chính sách tỷ giá cũng như chính sách khác liên quan đến ngoại tệ. Trong thời gian tới chúng ta cần từng bước điều chỉnh quan hệ cung cầu thông qua các cơ chế và quy định ngoại tệ cụ thể nhằm nới đều về ngoại tệ, tiến tới quan hệ cung cầu được hình thành một cách khách quan, không bị các biện pháp hành chính hạn chế. Nhà nước chỉ điều hành quan hệ cung cầu thông qua các công cụ điều tiết vĩ mô: Lãi suất, tỷ giá, thuế, xuất nhập khẩu... Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn tồn tại một số vấn đề cần phải giải quyết trước mắt, đó là thị trường vẫn lén lút lưu hành các loại ngoại tệ mạnh như USD, DEM, JPY, ... Gần như hầu hết các cửa hàng kinh doanh vàng bạc tư nhân đều ngang nhiên mua bán ngoại tệ. Một số tổ chức kinh tế mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ không được các cơ quan chức năng cho phép nhưng vẫn ngang nhiên bắt khách hàng thanh toán bằng ngoại tệ. Do vậy, công tác quản lý ngoại hối là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, các cấp các nghành, một mình NHNN không thể thực hiện có hiệu quả được công tác này. Cần có sự chỉ đạo chặt chẽ, cụ thể của Chính Phủ và chính quyền các cấp, có sự phối hợp quản lý của các cơ quan có liên quan. 2.2 Kiến nghị về chính sách tỷ giá: Phải thừa nhận rằng thời gian qua, NHNN Việt Nam đã đưa ra những bước đi thích hợp trong việc điều hành tỷ giá và đã gặt hái được những thành công nhất định, đặc biệt là trong lĩnh vực ổn định thị trường ngoại tệ, góp phần tích cực vào những thành tựu chung của nền kinh tế. Tuy nhiên, trong điều kiện nền kinh tế ngày càng phát triển, các nhân tố thị trường ngày càng phát huy tác dụng, quan hệ hợp tác quốc tế ngày càng mở rộng... thì cơ chế điều hành tỷ giá như vậy vẫn chưa đủ sức thuyết phục. Chính vì vậy mà ngày 25/2/1999, NHNN Việt Nam đã chính thức công bố hai quyết định mới về tỷ giá: Quyết định số 64/1999/QĐ NHNN7 về việc công bố tỷ giá hối đoái của đồng Việt Nam với các ngoại tệ và quyết định số 65/1999/QĐ-NHNN7 về việc quy định nguyên tắc xác định tỷ giá mua bán ngoại tệ của các tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại tệ. Bắt đầu từ ngày 26/2/1999 một cơ chế điều hành tỷ giá mới được hình thành ở Việt Nam: Thay cho việc công bố tỷ giá chính thức, hàng ngày NHNN sẽ công bố tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng của đồng Việt Nam với đồng đôla Mỹ. Căn cứ vào tỷ giá này, Tổng giám đốc, Giám đốc các tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại tệ xác định tỷ giá mua bán ngoại tệ theo nguyên tắc: - Đối với USD, tối đa không được vượt quá 0.1% so với tỷ giá NHNN công bố của ngày giao dịch gần nhất trước đó. - Còn đối với các ngoại tệ khác do Tổng giám đốc, Giám đốc các tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại tệ xác định. Có thể nói rằng, hai quyết định trên đã đánh dấu bước ngoặt trong cơ chế điều hành tỷ giá tại Việt Nam. Tuy nhiên để cơ chế mới về chính sách tỷ giá thực sự có khả năng phát huy tác dụng các thiết phải có các giải pháp kèm theo: NHNN phải có một dự trữ ngoại tệ đủ mạnh. Đây là giải pháp mà từ trước tới nay chúng ta vẫn rất quan tâm. Tuy nhiên mỗi giai đoạn nó mang những ý nghĩa có phần khác nhau. Trước đây, tỷ giá là do NHNN công bố, nó còn mang nặng tính chất hành chính cho nên nó tác động đến cung cầu nhiều hơn so với sự tác động của cung cầu đến với nó. Cung cầu có thể thay đổi, song tỷ giá vẫn có thể giữ nguyên giá trị cũ ( nếu như NHNN thấy như vậy là cần thiết ). Vì thế, có những lúc dự trữ ngoại tệ của ta rất mỏng manh nhưng tỷ giá danh nghĩa vẫn không hề bị biến động. Với cơ chế mới về điều hành tỷ giá thì mọi vấn đề lại không phải như vậy, khi cung cầu ngoại tệ trên thị trường thay đổi thì tỷ giá trên thị trường cũng sẽ thay đổi, nếu NHNN muốn giữ tỷ giá ổn định thì buộc phải can thiệp. Nếu cung lớn hơn cầu, NHNN chỉ việc tung VND ra mua ngoại tệ, làm tăng nguồn dự trữ ngoại tệ của NHNN. Nhưng ngược lại, nhu cầu về ngoại tệ lại cao hơn cung về ngoại tệ ( khả năng này xảy ra nhiều hơn ) thì không còn cách nào khác để giữ tỷ giá ổn định NHNN buộc phải tung ngoại ra để bán. Song không chỉ như vậy, dự trữ ngoại tệ còn phải đủ mạnh để sẵn sàng đối phó với những âm mưu đầu cơ trên thị trường. Bài học của các nước ASEAN vẫn còn đó, một số ngân hàng và công ty tài chính nước ngoài đã lợi dụng sự mất ổn định kinh tế và sự yếu kém của hệ thống ngân hàng trong nước để thực hiện các giao dịch đầu cơ châm ngòi nổ cho cuộc khủng hoảng và làm cho khủng hoảng thêm trầm trọng. Nếu dự trữ ngoại tệ của NHNN không đủ mạnh để can thiệp trong những lúc cần thiết thì lại phải quay lại điểm xuất phát của nó - dùng biện pháp hành chính để giữ tỷ giá, hoặc cho thả nổi tỷ giá tự do trên thị trường. Việc điều chỉnh tỉ giá phải căn cứ vào hàng loạt yếu tố như lạm phát,cung cầu ngoại tệ, yêu cầu về thanh toán quốc tế và dự trữ ngoại tệ quốc gia, xu hướng lãi suất, sự biến động của các tương quan tỉ giá trên thị trường ngoại hối thế giới... Như vậy, NHNN điều hành tỉ giá theo hướng linh hoạt, phù hợp với tình trạng cung cầu ngoại tệ, tỉ lệ lạm phát, biến động tỉ giá của các ngoại tệ mạnh, tham khảo giá thành xuất nhập khẩu nhằm khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu và tăng dự trữ ngoại tệ quốc gia. Chính sách điều hành tỉ giá của NHNN là không áp đặt kiểu hành chính và đáp ứng yêu cầu của cơ chế thị trường, từng bước tự do hoá có điều tiết vĩ mô đối với thị trường ngoại tệ. Thực hiện chính sách tỷ giá linh hoạt nhưng luôn ở mức ổn định tương đối nhằm mục đích ổn định kinh tế vĩ mô, tạo môi trương đầu tư tốt, tiếp tục thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư nước ngoài Xây dựng đề án tính toán tỉ giá trên cơ sở rổ đồng tiền ( theo tỉ trọng đồng tiền sử dụng trong thanh toán đối ngoại ) để xác định một tỉ giá thực tương đối chuẩn xác. Đồng thời,trên cơ sở tỉ giá thực, xây dựng phương án tính toán tỉ giá mục tiêu theo các mục tiêu chính sách từng thời kì. Tiếp tục vận hành cơ chế điều hành tỉ giá như hiện nay theo hướng dần nới rộng kiểm soát, ngày càng cho phép tỉ giá hối đoái được hình thành khách quan hơn, sát thực hơn theo các qui luật của thị trường, hướng tỉ giá chính thức sát với mức tỉ giá giao dịch trung bình trên thị trường liên ngân hàng và thị trường tự do, tạo điều kiện cho cơ chế tỉ giá mới sau này. Tỉ giá hối đoái cần được duy trì ở mức sao cho hàng hoá Việt Nam có sức cạnh tranh cao nhằm thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu. Tuy nhiên khi xác định mức tỷ giá không được phép quên yêu cầu về sự cân bằng tối thiểu của hoạt động xuất nhập khẩu. Bởi nước ta nhập khẩu còn nhiều, xuất khẩu chưa lớn. NHNN không chủ trương phá giá đồng tiền để dẩy mạnh xuất khẩu vì sẽ ảnh hưởng lớn đến nhập khẩu và giá cả trong nước. NHNN chỉ tác động mua ngoại tệ ở mức vừa phải khi cần thiết để đồng Việt Nam không bị lên giá quá lớn ảnh hưởng đến xuất khẩu và sản xuất trong nước. 2.3 Kiến nghị về chính sách lãi suất: Giữa lãi suất và tỷ giá có mối quan hệ ràng buộc khá chặt chẽ, nếu tỷ giá có xu hướng giảm thì người ta bắt đầu quan tâm đến lãi suất, nếu lãi suất giảm thì ngược lại, người ta lại quan tâm đến tỷ giá. Các hành vi mua - bán - gửi - rút ngoại tệ luôn có mối quan hệ mật thiết với nhau và nó sẽ tạo ra dòng lưu chuyển giữa VND và ngoại tệ. Vì vậy, quan tâm đến tỷ giát thì không thể không quan tâm đến lãi suất và ngược lại. Thực tế cũng đã cho chúng ta thấy rõ điều này: Những tháng đầu năm 1997, diễn biễn của lãi suất, của tỷ giá hoàn toàn có lợi cho sự dịch chuyển của đồng VNĐ sang đồng USD. Hay trong năm 1998, việc điều chính tỷ giá lên 16% làm cho lợi tức dự tính của việc giữ ngoại tệ cao hơn lợi tức dự tính của việc giữ VNĐ đã dẫn đến sự chuyển đổi từ VNĐ sang ngoại tệ làm ảnh hưởng nguồn vốn khả dụng VNĐ của các tổ chức tín dụng. Nhu cầu găm giữ ngoại tệ đã tạo ra sức mua giả tạo trên thị trường, cầu ngoại tệ tăng lên và vì vậy tỷ giá có xu hướng bị đẩy lên. Như vậy, tình trạng đó không những làm giảm khả năng mua ngoại tệ của các ngân hàng mà thậm chí còn làm cho NHNN phải tung dự trữ ngoại tệ ra để ổn định tỷ giá. Chính vì vậy, phải quan tâm đến mối quan hệ giữa lãi suất và tỷ giá. Và một câu hỏi đặt ra ở đây là: tỷ giá trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng có thể làm cơ sở xác định giá mua, giá bán ngoại tệ của các NHTM, vậy tại sao lãi suất trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng lại không thể là cơ sở để các NHTM xác định lãi suất cho vay và tiền gửi của mình. Trên cơ sở đó, NHNN cần xây dựng một cơ chế lãi suất cho phép phản ánh thực chất các tín hiệu cung cầu trên thị trường tiền tệ vào giá cả tín dụng tuỳ theo mức độ rủi ro, qui mô hoạt động và thực trạng tài chính, cũng như uy tín của mỗi tổ chức tín dụng, tạo ra một " sân chơi" bình đẳng mang tính công khai cao, trong đó mỗi tổ chức tín dụng phải tự giác, nỗ lực quản lí tiết kiệm, giảm chi phí nhằm cải thiện khả năng cạnh tranh của mình mà không thể trông chờ ỷ lại vào những đặc quyền, ưu đãi; đồng thời NHNN thực hiện được chức năng kiểm soát và điều tiết, ổn định thị trường tiền tệ thông qua vai trò người cho vay cuối cùng theo đúng nghĩa của nó. 2.4 Đầy mạnh hoạt động của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng: Nâng cao vai trò của NHNN: Trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, NHNN Việt Nam vừa đóng vai trò là người tồ chức và điều hành thị trường vừa đóng vai trò là một thành viên trên thị trường. Hoạt động của NHNN nhằm mục tiêu ổn định tỷ giá hối đoái bảo đảm cho nền kinh tế phát huy được những lợi thế so sánh thông qua thương mại quốc tế, đồng thời từng bước xây dựng cơ sở nền tảng tạo điều kiện cho sự ra đời của thị trường hối đoái hoàn chỉnh ở Việt Nam. Bên cạnh mục tiêu quan trọng này, hoạt động của NHNN còn bảo đảm là người mua bán cuối cùng trên thị trường giúp các NHTM cân đối trạng thái ngoại hối, bảo đảm an toàn trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ. Hiện đại hoá kỹ nghệ ngân hàng: Để hoàn thiện thị trường ngoại tệ liên ngân hàng và chuẩn bị cho sự ra đời của một thị trường hối đoái hoàn chỉnh thì trước hết phải bảo đảm những cơ sở vật chất kỹ thuật nền tảng bởi thị trường hối đoái bản thân nó mang những yếu tố hiện đại của nền kinh tế toàn cầu được thể hiện thông qua mối quan hệ giữa thị trường trong nước cũng như các thị trường khác trong khu vực và trên thế giới. Thị trường hối đoái ra đời đòi hỏi những yêu cầu cao về thông tin, về hệ thống thanh toán, về hệ thống giao dịch trên thị trường, về mạng lưới hoạt động của các thành viên, mạng lưới các nhà môi giới cùng với sự phát triển đồng bộ của toàn hệ thống. Có thể nói giải pháp về hiện đại hoá kỹ nghệ ngân hàng là hết sức cần thiết trong điều kiện hiện nay, một trong những tiêu chuẩn để hệ thống ngân hàng hội nhập được với cộng đồng tài chính quốc tế và kỹ nghệ ngân hàng hiện đại. 3. Đối với Hội sở Ngân hàng thương mại cổ phần Hà Nội: 3.1 Hội sở cần theo dõi thường xuyên hoạt động kinh doanh ngoại tệ của Phòng ngoại hối: Do hoạt động kinh doanh ngoại tệ là một hoạt động hết sức phức tạp và tinh vi, liên quan đến các vấn đề về cung cầu ngoại tệ, sự biến động của tỷ giá hối đoái. Nên hàng ngày Hội sở cần theo dõi chặt chẽ các báo cáo về doanh số phát sinh từ hoạt động kinh doanh ngoại tệ để có kế hoạch cân đối trạng thái và kịp thời giải quyết những vấn đề phát sinh trong các quan hệ giao dịch ngoại tệ. 3.2 Hội sở cần tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh ngoại tệ: Như đã trình bày ở chương II, tuy mới được đưa vào hoạt động nhưng doanh thu từ hoạt động kinh doanh ngoại tệ của Phòng ngoại hối không ngừng tăng lên. Để tiếp tục thúc đẩy cho sự phát triển của Phòng, Hội sở các ngân hàng thương mại cổ phần Hà nội cần phải tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các Phòng về trang thiết bị, quy chế hoạt động kinh doanh ngoại tệ, môi trường làm việc... Cụ thể là: Ban hành, chỉnh sửa hệ thống văn bản hướng dẫn qui trình nghiệp vụ phù hợp, tạo hành lang pháp lí cho hoạt động kinh doanh ngoại tệ. Hiện nay, các ngân hàng thương mại cổ phần Hà Nội đã có nhiều văn bản hướng dẫn quy trình nghiệp vụ về tín dụng ngoại tệ, thanh toán quốc tế, bảo lãnh, hối đoái... , đến nay có nhiều điểm không còn phù hợp, nhưng vẫn chưa được chỉnh sửa, hoặc chỉnh sửa không đồng bộ, làm cho người thực hiện khó theo dõi, vận hành, độ an toàn vốn không cao. Bản thân các văn bản đó được xây dựng trên cơ sở tham khảo các ngân hàng thương mại khác, do đó tính khoa học chưa cao, tính pháp lý chưa được chặt chẽ, nhiều điểm không phù hợp trong thực tế.Các ngân hàng thương mại cổ phần Hà Nội nên định kì hằng năm ban hành lại các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ chỉ đạo với các điểm đã được tu chỉnh, bổ sung thống nhất áp dụng cho năm tới ; hoặc tổng hợp các điểm tu chỉnh bổ sung của các văn bản để người sử dụng đính kèm văn bản đó. Nhìn chung, cùng với xu hướng của nền kinh tế, các quan hệ kinh tế ngày càng được các quy phạm pháp luật điều chỉnh chặt chẽ hơn. Vì thế, việc nghiên cứu, ban hành, chỉnh sửa kịp thời hệ thống văn bản về hoạt động đối ngoạiấcccs ngân ahngf thương mại cổ phần Hà Nội theo hướng phù hợp với pháp luật của Việt Nam, văn bản của ngân hàng nhà nước Việt Nam, đồng thời phù hợp với luật pháp, tập quán, thông lệ quốc tế là điều hết sức cần thiết. Trong thời đại ngày nay, tiến bộ khoa học kỹ thuật trên thế giới thay đổi không ngừng, nếu không đổi mới công nghệ ngân hàng và cập nhập mạng lưới thông tin thường xuyên, các ngân hàng thương mại cổ phần sẽ đứng trước nguy cơ tụt hậu về công nghệ và trình độ kỹ thuật, kéo theo hiệu quả kinh doanh thấp. Hiện tại, nhiều ngân hàng thương mại hoạt động trên cùng địa bàn đã áp dụng công nghệ và trình độ tin học trong qui trình nghiệp vụ kinh doanh cao hơn hẳn các ngân hàng thương mại cổ phần Hà Nội. Vì thế, để đạt được mục tiêu kinh doanh tổng thể trong các năm tiếp theo cũng như thúc đẩy hoạt động kinh doanh ngoại tệ lên một bước cao hơn, các ngân hàng thương mại cổ phần Hà Nội phải chú trọng đẩy mạnh công nghệ tin học phục vụ công cuộc hiện đại hoá hoạt động ngân hàng. Cụ thể : Tiếp tục xác định vị trí công nghệ là chìa khoá vàng mở cửa cho hội nhập của các ngân hàng thương mại cổ phần Hà Nội vào cộng đồng ngân hàng quốc tế . Thực hiện chương trình hiện đại hoá, trước hết phải củng cố và tăng cường các cơ sở hạ tầng cho tin học ngân hàng bao gồm thiết bị phần mềm và kĩ năng vận hành theo kịp trình độ thế giới. Coi sự tiến bộ công nghệ là đòn bẩy của sự phát triển, làm tiền đề cho việc hoà nhập với cộng đồng trong khu vực và quốc tế. Cùng với việc đổi mới và tăng cường các phương tiện tính toán, thông tin hiện đại, đồng bộ, ngân hàng cần chú trọng đổi mới các biểu đồ kế toán, thống kê cho phù hợp với quy chế quản lý mới và thông lệ quốc tế. 3.3 Tăng cường công tác đào tạo nhân viên: Các ngân hàng thương mại cổ phần Hà Nội cần phải thường xuyên củng cố trình độ đội ngũ cán bộ và nhân viên ngân hàng thông qua công tác đào tạo và tái đào tạo để phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng. Trong điều kiện hiện nay, nguồn nhân lực con người lại càng đóng một vai trò quan trọng đối với sự phát triển của các ngân hàng thương mại cổ phần Hà Nội. Chỉ có một đội ngũ các cán bộ kinh doanh ngoại hối có năng lực, giỏi về nghề nghiệp thì mới có khả năng nắm bắt được những diễn biến của thị trường, mới có thể làm chủ được các giao dịch Spot, Forward, Option... Chính vì vậy vấn đề đào tạo nhân lực hiện nay của các ngân hàng thương mại cổ phần Hà Nội để đáp ứng yêu cầu cao của thị trường hối đoái hiện đại là rất cần thiết và cần có những giải pháp cụ thể sau: - Xây dựng chiến lược con người cụ thể, có định hướng rõ ràng theo từng bước phù hợp với từng thời kỳ phát triển của thị trường. Phát triển nhân lực trong điều kiện hiện nay là tất yếu để chuẩn bị một đội ngũ có năng lực, phẩm chất đáp ứng được nhu cầu của thị trường hối đoái trong tương lai. - Thực hiện đào tạo nguồn nhân lực phải chú trọng tới quy chế tuyển chọn với chế độ thi cử rõ ràng lựa chọn những con người có trình độ, có tư cách đạo đức, có kỷ luật và năng động, nhiệt tình với công việc. Đồng thời phải sử dụng nguồn nhân lực theo đúng mục đích, phù hợp với sở trường của họ thì mới có thể phát huy hết năng lực của mỗi cá nhân. Vấn đề này cũng gắn liền với chế độ lương bổng hợp lý, khuyến khích vật chất kịp thời. - Phải thường xuyên bồi dưỡng kiến thức, nâng cao trình độ, cập nhật thông tin cho đội ngũ các bộ quản lý và nhân viên. Kết luận: B ước phát triển của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng tiến tới một thị trường hối đoái ở Việt Nam trong thời gian tới là phù hợp với xu thế phát triển và sự đổi mới nhanh chóng trong lĩnh vực tài chính tiền tệ và nền kinh tế nói chung. Thị trường hối đoái ra đời và phát triển sẽ có ý nghĩa quan trọng lớn lao mang tính lịch sử thể hiện sự phát triển không chỉ trong phạm vi tài chính tiền tệ mà còn mở rộng phạm vi toàn bộ nền kinh tế, góp phần quan trọng đưa đất nước phát triển, giành một vị thế xứng đáng trong khu vực và trên thế giới. Do đề tài liên quan đến phạm vi nghiên cứu rộng, thời gian nghiên cứu và trình độ của bản thân còn nhiều hạn chế, hơn nữa vấn đề về thị trường hối đoái ở nước ta vẫn còn mới mẻ nên bản thân đề án không thể tránh khỏi những khuyết điểm, thiếu sót về cả lý luận, thực tiễn lẫn ý kiến đề xuất. Vì vậy em kính mong nhận được sự chỉ bảo, hướng dẫn và góp ý của các thầy cô để đề án được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35269.doc
Tài liệu liên quan