Đề tài Ngoại thương và vai trò của nó đối với phát triển kinh tế

Theo tin mới nhất từ Tổng cục thống kê, dự kiến năm 1999 này tổng KNXNK sẽ đạt con số 22,7 tỷ USD, tốc độ tăng trưởng KNXNK là 20%, trong đó nhập khẩu siêu chỉ khoảng 200USD con số thấp nhất từ trước tới nay. Đây là một tín hiệu đáng mừng cho ngoại thương Việt Nam để vững bước vào một thiên niên kỷ mới.

doc51 trang | Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1345 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Ngoại thương và vai trò của nó đối với phát triển kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng cấp cho bộ máy đàn áp. Về xuất khẩu, chỉ có gạo và cao su (dưới dạng nguyên liệu) là đáng kể , nhưng cũng ngày càng giảm sút. Nhìn chung, do điều kiện chiến tranh chi phối, nê hoạt động ngoại thương Việt Nam thời kỳ này còn hết sức nhỏ bé. Mặc dù ngay từ những năm 1960, đã có 44 nước ký kết quan hệ ngoại thương với Việt Nam nhưng, thực tế cả thời gian dài trước năm 1975 các hoạt động thương mại của Việt Nam với thế giới mới chỉ bó hẹp trong các nước khu vực I (Chính phủ nước XHCH). Xuất khẩu sang các nước này thương xuyên chiếm trên 70% tổng kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu từ các nước này cũng thường xuyên chiếm trên 80% tổng kim ngạch nhập khẩu. 2-/ Ngoại thương thời kỳ sau thống nhất 1976 -1985. Từ những năm 1976, nước Việt Nam được thống nhất đã có thêm nhiều thuận lợi mới để phát triển các quan hệ kinh tế đối ngoại, đặc biệt là ngoại thương với bên ngoài. Nhưng do còn nhiều hạn chế, thậm chí sai lầm nghiêm trọng trong đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, nê hoạt động ngoại thương thời kỳ này vẫn còn yếu kém, chưa bứt lên được. Nhập siêu vẫn là đặc trưng cơ bản của cán cân ngoại thương suốt cả thời kỳ này. Bảng 3: Xuất nhập khẩu theo 2 khu vực thời kỳ 1976 -1985 (đơn vị: triệu rúp - USD) Năm Khu vực I Khu vực II X.khẩu N.khẩu CC NT X.khẩu N.khẩu CC NT 1976 132,9 557,5 -414,6 89,8 446,6 -356,8 1977 221,2 505,5 -284,3 101,3 712,9 -611,8 1978 246,7 518,2 -271,5 80,1 785,0 -704,9 1979 235,0 797,8 -562,8 85,5 728,3 -642,8 1980 225,0 455,1 -529,2 112,7 559,1 -446,4 1981 235,0 947,8 -712,2 164,6 434,4 -268,8 1982 337,1 1087,9 -750,8 189,5 384,3 -194,8 1983 381,3 1140,5 -579,2 235,2 386,2 -151,0 1984 407,9 1232,6 -824,7 241,7 512,4 -270,7 1985 425,8 1408,1 -982,3 272,7 449,3 -176,6 Nguồn: Số liệu thống kê 1976 -1985, Nxb Thống kê, Hà Nội, 1991 Điều đáng kể nhất của ngoại thương Việt Nam thời kỳ này là đã tăng cường quan hệ kinh tế thương mại với các nước thuộc khu vực II (các nước TBCN và các nước đang phát triển) như Nhật Bản, Pháp, CH liên bang Đức, Thuỵ Điển, ấn Độ, Đài Loan.... Nhờ đó, tỷ trọng khu vực II trong tổng số kim ngạch xuất khẩu đã tăng lên 39,1% năm 1985, trong đó nổi bật lên vai trò của Nhật Bản, đã là một trong 5 bạn hàng lớn nhất của Việt Nam ngoài các nước thuộc khu vực I. Đáng lưu ý, mặc dù kim ngạch xuất khẩu sang các nước thuộc khu vực I so với sang khu vực II tiếp tục tăng lên tuyệt đối song do về mặt tăng tương đối thì chênh lệch không đáng kể ( khu vực I tăng 3,2 lần, khu vựcII tăng 3,1 lần). Nguyên nhân gây ra yếu kém của hoạt động ngoại thương nước ta thời kỳ này bao gồm cả chủ quan lẫn khách quan. Chủ quan là do Việt Nam chưa thoát khỏi cung cách làm ăn theo cơ chế cũ, do những hạn chế, những sai lầm của Chính phủ trong việc hoạch định đương lối và chính sách phát triển kinh tế ... dẫn đến giá cả tăng lên, lạm phát có nguy cơ ngày càng trầm trọng, đời sống nhân dân gặp rất nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, Việt Nam còn chịu nhiều bất lợi bởi các yếu tố bên ngoài (nguyên nhân khách quan) tác động, chi phối như: Phải đương đầu với 2 cuộc chiến tranh biên giới phía Tây nam và phía Bắc; Hệ thống XHCN đã và đang bộc lộ những dấu hiệu của sự khủng hoảng kinh tế và chính trị, làm cho việc giúp đỡ của các nước (đặc biệt là Liên Xô) đối với Việt Nam bị hạn chế; thêm vào đó Mỹ vẫn tiếp tục thực hiện chính sách cấm vận kinh tế với nước ta, nên nhìn chung kinh tế đối ngoại, trong đó có ngoại thương vẫn chưa thể vươn mạnh lên được. Sự yếu kém của ngoại thương Việt Nam thời kỳ này thể hiện rõ nhất ở chỗ các sản phẩm xuất khẩu vừa nhỏ bé về số lượng, vừa đơn điệu về cơ cấu chủng loại, chất lượng và bao bì. Chiếm trên 80% trong tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu vẫn là các hàng nông lâm sản, tiểu thủ công, mỹ nghệ và khoáng sản, nghĩa là vẫn chủ yếu là những sản phẩm thô và sơ chế. Các sản phẩm của công nghiệp chế tạo, chế biến còn đơn giản và chiếm tỷ lệ thấp. Qua bảng 3 ta thấy, đặc trưng của thời kỳ 1976 - 1985 là nhập siêu, làm cho cán cân ngoại thương thâm hụt nghiêm trọng. Năm 1976, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam là 1226,8 triệu rúp - USD, thì thâm hụt cán cân ngoại thương lên đến 771,4 Triệu rúp - USD, tỷ lệ thâm hụt so với toàn bộ kim ngạch xuất nhập khẩu là 62,88%; Năm 1985 kim ngạch xuất nhập khẩu 2555,9 triệu rúp - USD, thâm hụt cán cân ngoại thương là 1158, 9 triệu rúp - USD và tỷ lệ thâm hụt trên tổng kim ngạch xuất nhập khẩu là 45,34%. Trong quan hệ xuất - nhập khẩu với 2 khu vực, khu vực I vẫn vhiếm tỷ trọng lớn trong thời kỳ này, tuy nhiên với khu vực II, tuy tỷ trọng còn thấp nhưng phản ánh những tín hiệu tốt hơn cho quan hệ ngoại thương Việt Nam. Với khu vực I, kim ngạch xuất nhập khẩu có gia tăng đều qua các năm nhưng theo chiều hướng xấu, đó là sự gia tăng tuyệt đối của kim ngạch nhập khẩu hơn rất nhiều so với kim ngạch xuất khẩu, còn với khu vực II kim ngạch xuất nhập khẩu cũng gia tăng nhưng phản ánh ở mức tăng lên của kim ngạch xuất khẩu, còng kim ngạch nhập khẩu tương đối ổn định qua các năm; Vì vậy, thâm hụt cán cân ngoại thương của khu vực này ngày càng giảm, từ chỗ thâm hụt 356,8 triệu rúp - USD năm 1976 xuống còn 176,6 triệu rúp - USD năm 1985. Tóm chung lại ta thấy, ngoại thương Việt Nam giai đoạn trước 1986 còn rất nhỏ bé, hạn chế... Mặc dù rằng, những hạn chế này phần nào có cả những nguyên nhân khách quan gây ra, nhưng phần không nhỏ là bởi do đương lối, chính sách của Chính phủ Việt Nam còn nhiều vướng mắc, sai trái. Điều này lý giải tại sao sau 10 năm kể từ khi thống nhất đất nước (1976), mặc dù các điều kiện trong nước cũng như quốc tế đã có nhiều thuận lợi cho Việt Nam phát triển kinh tế đối ngoại đặc biệt là ngoaị thương, nhưng hoạt động ngoại thương của nước ta vẫn còn lần chần, chưa có bước tiến nào đáng kể. Cho đến 1985 năm mà Việt Nam đạt được kim ngạch xuất khẩu cao nhất so với các năm trước đó nhưng cũng chỉ đến con số xấp xỉ 700 triệu rúp - USD. Nếu so với các nước khác, giá trị kim ngạch xuất khẩu tính theo đầu người của Việt Nam năm này là khoảng 12 rúp - USD, thuộc vào loại thấp nhất thế giới. II-/ Hoạt động ngoại thương Việt Nam giai đoạn từ 1986 đến nay. Năm 1986, Đại hội VI của Đảng cộng sản Việt Nam diễn ra và nó được coi là mốc son đánh dấu những đổi mới trong đường lối, chính sách kinh tế, cũng như ngoại thương Việt Nam. Qua ĐH, chúng ta đã đánh giá, nhìn nhận ra những hạn chế của cơ chế cũ, thấy được tính bất hợp lý của nó so với việc phát triển kinh tế của đất nước trong điều kiện hiện tại cũng như tương lai, và tiến tới kiên quyết chuyển đổi cơ chế từ kế hoạch hoá tập trung sang phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN, đặc biệt là đã thực hiện mở cửa rộng rãi nền kinh tế. Với nhận thức đó, kinh tế đối ngoại đã được coi là mũi nhọn của sự đổi mới. Lần đầu tiên các thuật ngữ “mở cửa nền kinh tế”, “đa dạng hoá kinh tế đối ngoại”, “ đa phương hoá thị trường”... không còn xa lạ, nó đã được đề cập đến trong các chủ chương, chính sách phát triển kinh tế đối ngoại. Quan niệm cứng nhắc về “độc quyền ngoại thương” từng bước được xem xét lại. Đáng lưu ý, ngoại thương đặc biệt là các hoạt động sản xuất - kinh doanh, xuất khẩu đã được đề cao, coi đó là một trong 3 chương trình kinh tế trọng điểm của Việt Nam (lương thực, thực phẩm; sản xuất hàng tiêu dung, sản xuất hàng xuất khẩu). Bên cạnh đó, tình hình khu vực và thế giới lại đang có những chuyển biến thuận lợi đối với cơ chế mở của ta, đó là sự bùng nổ của xu hướng toàn cầu hoá và khu vực hóa, đối đầu quân sự đã được thay bằng hợp tác kinh tế, cách mạng khoa học kyc thuật diễn ra mạnh mẽ ở tất cả các lĩnh vực. Với những thuận tiện trên, kinh tế đối ngoại, trong đó có ngoại thương, đã có được động lực, thời cơ để phát huy sức mạnh của mình, làm cho hoạt động ngoại thương Việt Nam giai đoạn này chuyển biến, bước đi quan trọng , góp phần không nhỏ cho tăng trưởng và phát triển kinh tế của đất nước. Ta có thể đi xem xưt tình hình hoạt động ngoại thương qua từng thời kỳ cụ thể . 1-/ Thời kỳ 1986- 1990. Luật đầu tư nước ngoài được Quốc hội nước cộng hoà XHCN Việt Nam thông qua tháng 12/1987 và có hiệu lực từ tháng 1/1988 là văn bản pháp lý đầu tiên đánh dấu sự chuyển hướng thực sự sang chính sách mở cửa theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Nghị định 64/HĐBT ngày 16/6/1989 của Hội đồng Bộ trưởng về chế độ tổ chức , quản lý kinh doanh hoạt động xuất nhập khẩu là cơ sở của chính sách thương mại thời kỳ này, về cơ bản đã thể hiện được bước ngoặt quan trọng đầu tiên của sự lơi lỏng cơ chế quản lý ngoại thương theo tinh thần đã nói trên đây. Ngoài ra, các hoạt động kinh tế đối ngoại khác như: Du lịch, kiều hối, dịch vụ tàu biển, hàng không... đều được Chính phủ Việt Nam coi trọng và tạo điều kiện thuận lợi để phát triển. Điều này đã tác động tích cực tới hoạt động ngoại thương, thể hiện: Bảng 4: Động thái chu chuyển của kim ngạch ngoại thương Việt Nam 1986 - 1990. Năm KNXNK Triệu R-USD KNXK (chia ra) KNNK (chia ra) Triệu R-USD Trong đó : triệu USD Triệu R-USD Trong đó : triệu USD 1986 2944,2 789,1 350,1 2155,1 509,1 1987 3309,3 854,2 363,2 2455,1 523,7 1988 3759,1 1038,4 447,7 2756,7 804,3 1989 4511,8 1946,0 1138,2 2565,8 879,4 1990 5156,4 2404,0 1352,2 2752,4 1372,5 Nguồn: Số liệu 1986 - 1990. Niên giám thống kê 1994, Nxb Thống kê, Hà nội, 1995. Về kim ngạch xuất nhập khẩu dã có sự gia tăng đáng kể, từ 2944,2 triệu R-USD năm 1986, đến năm 1990 con số này là 5156,4 Triệu R-USD, tốc đọ tăng cả thời kỳ 1986 -1990 là 75,14%, trung bình đạt 18,78%/năm. Đây là tốc đọ tăng bình quân cao nhất tính cho đến thời điểm này. Mặt khác, đáng lưu ý là có sự chuyển biến tích cực trong kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, trong khi đó kim ngạch nhập khẩu vẫn giữ ở mức tương đối ổn định. Điều này phản ánh những tác động tích cực từ chính sách của Chính phủ đối với hoạt động xuất khẩu, Đến năm 1986, kim ngạch xuất khẩu mới chỉ đạt 789,1 triệu R-USD thì đến năm 1990 đã len tới 2404 triệu R-USD, tốc đọ tăng cả thời kỳ 1986 - 1990 là 2,05 lần, trung bình hàng năm tăng 51,16% riêng năm 1989 so với năm 1988 tăng 75,3% (gần bằng mức tăng của cả 15 năm từ 1960 đến 1975). Năm 1990, lần đầu tiên kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đạt xấp xỉ 2,5 tỷ R-USD. Chính vì sự tăng đột biến của kim ngạch xuất khẩu và sự ổn định của kim ngạch nhập khẩu nên khoảng cách chênh lệch giữa xuất khẩu và nhập khẩu ngày càng được được rút ngắn lại, từ tỷ lệ 1/7 giai đoạn 1960 - 1975 xuống 1/2,7 năm 1986 và đến năm 1990 chỉ còn chênh lệch với tỷ lệ không đáng kể 1/1,14 (kim ngạch xuất khẩu 2404 triệu R-USD; kim ngạch nhập khẩu 2752,5 triệu R-USD). Trong những năm này, ngoài việc tiếp tục duy trì quan hệ thương mại với các nước khu vực I, quan hệ thương mại giữa Việt Nam với các nước thuộc khu vực II ngày càng được mở rộng. Xuất khẩu sang khu vực này trong 5 năm (1986-1990) đã đạt 3,5 tỷ USD gấp 3,1 lần so với 5 năm trước đó 1981-1985. Số lượng nhập khẩu tương ứng với khoảng thời gian trên cũng diễn biến theo xu hướng ngày càng tăng: Giai đoạn 1986 -1990 là 3,8 tỷ USD gấp 1,6 lần so cới 2,1 tỷ USD của giai đoạn 1981-1985 (xem bảng 5). Trong đó, riêng 2 năm 1989-1990 thể hiện sự đột phá trong quan hệ thương mại với các nước khu vực II này. Bảng 5: Xuất nhập khẩu theo khu vực II thời kỳ 1981 - 1990 Năm Xuất khẩu (triệu USD) Nhập khẩu (triệu USD ) Cán cân ngoại thương 1981 -1985 1104,7 2166,6 -1061,9 1986 -1990 3506,4 3087,0 -300,6 1989 - 1990 2308,3 2081,7 +2266,6 Nguồn: Số liêu thống kê 1981 - 1990, Nxb Thống kê, HN, 1991 Tuy nhiên, trong thời kỳ này, khi công cuộc đổi mới nền kinh tế đã gặt hái được một số thành công bước đầu thì Việt Nam lại phải đương đaàu với những khoa khăn, thử thách mới: - Sự tan rã của Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu trong những năm này đã làm cho Việt Nam không những mất hẳn chỗ dựa về nguồn viện trợ vốn, nguồn cung cấp các vật tư chiến lược,... mà còn gây ra những hẫng hụt do việc đột ngột bị mất đi một thị trường lớn tiêu thụ nhiều loại hàng xuất khẩu truyền thống của Việt Nam. Chỉ riêng việc chấm dứt viện trợ của Liên Xô là hàng năm Việt Nam mất đi gần 1 tỷ USD. Ngoài ra, thị trường Liên Xô tan rã đã gây ra đảo lộn lớn cho hoạt động xuất khẩu của Việt Nam (xuất khẩu sang Liên Xô với các mật hàng truèn thống chiếm hơn 60% tổng kim ngạch xuất khẩu của ta hàng năm) Việc cho phép “bung ra” một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trong điều kiện Việt Nam còn nhiều bỡ ngỡ, thiếu kinh nghiệm quản lý, đã tạo kẽ cho nạn tham nhũng, buôn lậu, trốn thuế, và nhiều tệ nạn khác phát sinh. - Hàng loạt các cơ sở kinh tế làm ăn kém hiệu quả, thua lỗ sau khi xoá bỏ bao cấp đã không còn chỗ dựa, đổ vỡ hàng loạt, từ đó nảy sinh những khó khăn phức tạp, đó là hàng vạn người lao động rơi vào cảnh thất nghiệp, dời sống gặp rất nhiều bấp bênh. - Bên cạnh đó, các thế lực thù địch với nước ta đã lợi dụng tình hình, không ngừng công kích, chống phá công cuộc đổi mới của đất nước 2-/ Thời kỳ từ 1991 đến nay. Tình hình trên đây đòi hỏi đường lối phát triển kinh tế cần tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hơn nữa, sao cho phù hợp với xu thế thời đại, nhưng lại không đi chệch các định hướng XHCN ở Việt Nam. Kế thừa và phát huy các quan điểm đổi mới của đại hội VI, Đại hội VII tháng 6/1991 của Đảng cộng sản Việt Nam đã đề ra “chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000”, trong đó, với tư tưởng chỉ đạo “ Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước” và “mở cửa hoạt động kinh tế đối ngoại đối với tất cả các nước ở tất cả các khu vực trên thế giới”. Chính phủ Việt Nam không ngừng tiếp tục đổi mới, hoàn thiện cơ chế quản lý và chính sách kinh tế đối ngoại theo hướng “ đa dạng hoá và đa phương hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại”. Trong lĩnh vực ngoại thương, để tiến “tới tự do hoá thương mại” , nhiều văn bản, chế độ, chính sách mới nhằm khuyến khích các thành phần kinh tế sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu đã được Chính phủ ban hành. Nghị định 114/HĐBT ngày 7/4/1992 của hội đồng bộ trưởng về quản lí Nhà nước đối với hoạt động xuất - nhập khẩu là một dẫn chững điển hình, đánh dấu bước chuyển từ mô hình Nhà nước độc quyền ngoại thương sang tự do hoá thương mại. Cho đến năm 1994, trước những chuyển biến kinh tế xuất khẩu trong nước và quốc tế, Chính phủ ban hành nghị định 33/CP ngày 19/4/1994 về quản lý Nhà nước đối với hoạt động xuất nhập khẩu nhằm bổ sung, sửa đổi những khiếm khuyết của nghị định 114/HĐBT trước đó. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng có những văn bản, quy định hướng dẫn cụ thể như quy định số 296/TMDL/XNK ngày 9/4/1992 của Bộ Thương mại và Du lịch về cấp giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu,... nhằm nâng cao hơn tính sát thực đối với hoạt động ngoại thương. Nhờ kiên trì sự nghiệp đổi mới theo nhiều giải pháp tích cực khác nhau, Chính phủ đã lái con thuyền kinh tế Việt Nam vượt qua được cơn sóng gió và đi dần vào thế ổn định, đặc biệt là thúc đẩy hoạt động ngoại thương đạt được những bước tiến vượt bậc trong phát triển kinh tế nói chung của đất nước. Bảng 6: Động thái chu chuyển của kim ngạch ngoại thương Việt Nam 1991-1995 Năm KNXNK Triệu R-USD KNXK (chia ra) KNNK (chia ra) Triệu R-USD Trong đó : triệu USD Triệu R-USD Trong đó : triệu USD 1991 4425,2 2087,1 2009,8 2338,1 2049,0 1992 5121,4 2580,7 2552,4 2540,7 2540,3 1993 6909,2 2985,2 2952,0 3924,0 3924,0 1994 8600,0 3600,0 3571,0 5000,0 5000,0 1995 12.800,0 5300,0 5300,0 7500,0 7500,0 Nguồn: - Số liệu 1991- 1994. Niên giám thống kê 1994, NXB Thống kê, HN, 1995 - Số liệu 1995: Báo cáo của Chính phủ tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khoá IX, 3/1996. Qua bảng 6 ta thấy, nhìn chung kế hoạch 5 năm đã được Quốc hội đề ra là 12 - 15 USD, bình quân hàng năm tăng khoảng 18,7%; tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 21,3 tỷ USD, so với chỉ tiêu kế hoạch đề ra của Quốc hội là 12 - 14 tỷ USD thì đã vượt 52%, bình quân hàng năm tăng khoảng 22,3%. Nếu gộp chung lại thì tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của 5 năm 1991 - 1995 là 37,8 tỷ úd, con số này vượt mức 30,3% so với kế hoạch. Như vậy, có thể thấy ngoại thương Việt Nam suốt cả một thời kỳ dài sau đổi mới (từ 1986 đến 1995) đã đạt được tốc độ tăng trưởng cao, ổn định. Trong thời gian này, tốc đọ tăng bình quân hàng năm của xuất khẩu là 24,7%, của nhập khẩu là 15,4%, và mức tăng chung của xuất nhập khẩu hàng năm là 20,1%. Bên cạnh những con số định lượng phản ánh hiệu quả của hoạt động ngoại thương, trên nhiều mặt khác, ngoại thương còn thể hiện sự chuyển biến tích cực về chất như là: về mặt hàng xuất khẩu đã dần có sự chuyển dịch trong cơ cấu, các mặt hàng thô và sơ chế từ chỗ chiếm 80% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu trong giai đoạn trước, đến nay đã giảm xuống còn 65%, và song song với sự giảm tỷ trọng của sản phẩm thô, sơ chế là sự tăng lên của các sản phẩm đã qua chế biến, chế tạo (tuy rằng sự chuyển biến còn diễn ra chậm chạo); Về thị trường, ngày càng được mở rộng không ngừng, từ chỗ thị trường châu á là chủ yếu (chiếm tới 80% tổng kim ngạch xuất khẩu) thf nay đã và đang được mở rộng sang Châu Âu, châu Mỹ; con số bạn hàng xuất khẩu của Việt Nam tăng từ 34 nước năm 1986 lên 51 nước năm 1990, và đến năm 1995 đã là gần 100 nước. Tuy nhiên, trong giai đoạn này ngoại thương Việt Nam không phải là không có hạn cghế yếu kém. Sự yếu kém này được thể hiện chủ yếu qua cơ cấu hàng xuất nhập khẩu. Về cơ cấu hàng xuất khẩu, nó được đánh giá là vẫn còn tỷ trọng cao của sản phẩm dưới dạng thô, sơ chế, số hàng xuất khẩu có hàm lượng chất xám cao còn quá ít; chưa có hàng xuất khẩu chủ lực nào có giá trị lớn hàng tỷ USD; chưa có quy hoạch vùng sản xuất hàng xuất khẩu quy mô lớn và đồng bộ ... vì vậy, các sản phẩm xuất khẩu còn manh mún, chất lượng thấp, sức cạnh tranh không cao. Về cơ cấu hàng nhập khẩu, tuy có nhiều chuyển biến tích cực theo hướng ưu tiên nhập các tư liệu sản xuất và công nghệ mới cho phát triển sản xuất, nhưng thực tế còn nổi cộm lên một số vấn đề cần quan tâm là việc nhập khẩu thiết bị còn nặng về nhập khẩu các coong nghệ trung gian có trình độ trung bình trở xuống, chưa tiến đến công nghệ nguồn gốc và hiện đại; các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu còn tự do, tuỳ tiện, mạnh ai nấy làm, tình trạng nhập lậu trốn thuế dưới mọi hình thức, kể cả hàng quốc cấm vẫn tiếp tục gia tăng mạnh. Thêm vào đó, một khâu yếu kém không thể không kể đến , đó là cơ chế quản lý hoạt động ngoại thương. Mặc dù Nhà nước đã rất chú trọng làm tốt công tác này, nhưng thực tế vẫn còn nhiều kẽ hở cho bọn tham nhũng, buôn lậu lợi dụng để làm ăn phi pháp. Với những vướng mắc trên, Đảng và Nhà nước ta vẫn không ngừng cải cách, hoàn thiện hệ thống quản lý hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu trong những năm tiếp theo để nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của lĩnh vực này. Qua Đại hội VIII của Đảng năm 1996, một lần nữa chúng ta lại khẳng định tính đúng đắn trong việc lựa chọn đường lối, chính sách phát triển kinh tế, nhấn mạnh, đề cao vai trò của hoạt động ngoại thương đối với nền kinh tế mở. Các nghị định, quy định, văn bản hướng dẫn cụ thể cho hoạt động sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu liên tiếp được đưa ra để bổ sung, sửa đổi những yếu kém, vướng mắc trong công tác này, và những cố gắng đó đã được khẳng định qua thực tiễn phát triển của nền ngoại thương Việt Nam. Từ 1996 cho đến nay, hoạt động ngoại thương nước ta vẫn liên tục giữ được nhịp độ tăng trưởng cao, ổn định. Đáng lưu ý nhất là trong 2 năm 1998 -1999, mặc dù cuộc khủng koảng khu vực (năm 1998) đã gây ra các tổn thất nặng nề cho các nước và không ít sóng gió cho nền kinh tế, đặc biệt là ngoại thương nước ta, nhưng thực tế ngoại thương Việt Nam vẫn đứng vững trước khó khăn này. Năm 1998, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu vẫn đạt con số 20.856 triệu USD, không giảm so với năm 1997 ( trước khủng hoảng là 20.777,3 triệu USD), và trong 6 tháng đầu năm 1999 này, kim ngạch xuất khẩu vẫn đạt 5 tỷ USD, bằng 50% kế hoạch cả năm (tăng 8% so với cùng kỳ năm 1998) và kim ngạch nhập khẩu là 3230 triệu USD, bằng 46% kế hoạch cả năm. Tổng quan lại thực trạng hoạt động ngoại thương Việt Nam những năm qua, ta thấy, mặc dù nhìn rộng ra các nước, nó vẫn thể hiện là một nền ngoại thương nhỏ bé, nhưng xét trên điều kiện, tình hình cụ thể của Việt Nam, nó đã khẳng định phần nào sự thành công trên bước đường phát triển. Sự thành công đó trước hết được biểu hiện ở nhịp độ phát triển cao, ổn định qua các năm, ở tính hướng ngoại đang dần được bộc lộ . Và đặc biệt ở kỳ vọng cao trong tương lai để tiến tới một nền ngoại thương linh hoạt, phát triển. Bên cạnh đó, chúng ta cũng khách quan nhìn nhận thấy còn nhiều yếu kém, từ khâu mặt hàng cho đến thị trường, lẫn công tác quản lý xuất nhập khẩu. Trên cơ sở đó, chúng ta có được cái nhìn tổng quát hơn, những nhận xét thực chứng về mặt được cũng như chưa được của hoạt động ngoại thương Việt Nam, từ đó, giúp cho việc lựa chọn chính sách ngoại thương mà ta sẽ đi nghiên cứu ở phần sau có tính khả thi, sát thực hơn. Phần III Lựa chọn chính sách và một số giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động ngoại thương Việt Nam Trên cơ sở lý luận đã ngiên cứu ở phần I, thực trạng hoạt động oẻ phần II, nhiệm vụ ở phần II là lựa chọn ra những chính sách hợp lý cho hoạt động ngoại thương Việt Nam trong trơig gian tới. Tuy nhiên, ngoài những điều kiện cụ thể bên trong quy định, để có thể lựa chọn được những chính sách ngoại thương hợp lý và có tính khoa học , chúng ta cần làm rõ các điều kiện bên ngoài, đó là xu thế phát triển khách quan cà những định hướng lớn cho hoạt động ngoại thương Việt Nam thời gian tới, cụ thể là giai đoạn 2000 - 2010 mà chúng ta sẽ đi khái quát dưới đậy. I-/ Xu thế và định hướng cho hoạt động ngoại thương Việt Nam giai đoạn 2000 - 2010. 1-/ Xu thế phát triển của ngoại thương. Dựa trên đặc điểm, tình hình quốc tế, xu hướng phát triển khách quan của thời đại quy định, chúng ta có thể thấy một số xu hướng phát triển chính của hoạt động ngoại thương thời gian tới sẽ hướng vào các vấn đề sau: * Đồng thời với sự gia tăng mạnh mẽ của các hoạt động xuất khẩu hữu hình (ngoại thương hữu hình), các hoạt động xuất nhập khẩu dịch vụ (ngoại thương vô hình) và các hoạt động chuyển giao công nghệ, bảo vệ hoặc cho thuê hoặc chuyển nhượng các quyền sở hữu trí tuệ sẽ không ngừng tăng về quy mô giá trị trong thương maị thế giới. * Các sản phẩm có hàm lượng chất xám (kỹ thuật - công nghệ cao), có giá trị gia tăng lớn cũng sẽ không ngừng tăng về tốc đọ phát triển, quy mô giá trị và tỷ trọng giá trị trong giá trị thương mại quốc tế. Ngược lại, các sản phẩm sơ cấp, bao gồm các sản phẩm thô và sơ chế sẽ tiếp tục giảm tỷ trọng trong tổng giá trị thương mại thế giới. Trong tiêu dùng, các sản phẩm có kích cỡ nhỏ, gọn nhẹ, hình thức đẹp có xu hướng phát triển mạnh, mặc dù tuổi thọ của chúng có thể giảm hơn trước. * Giá cả của các sản phẩm sơ cấp ngày càng bất lợi so với các sản phẩm đã qua công nghiệp chế tạo, chế biến sâu, đặc biệt là các sản phẩm có hàm lượng chất xám cao. * Cùng với xu thế quốc tế hoá, toàn cấu hoá, quá trình “tự do hoá thương mại”ngày càng gia tăng là yêu cầu phát triển khách quan của ngoại thương quốc tế. Quá trình này sẽ nảy sinh và phức tạp, vừa có lợi vừa không có lợi cho sự nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực của các nước đang phát triển, nhất là đối với các nước có nền kinh tế phát triển chưa cao. 2-/ Định hướng của ngoại thương Việt Nam giai đoạn 2000 - 2010. Qua nội dung và tinh thần chỉ đạo của Đảng và Nhà nước tại các kỳ Đại hội Đảng VI, VII, VIII, ta có thể thấy rõ một số định hướng cho hoạt động ngoại thương Việt Nam giai đoạn 200 - 2010 như sau: - Đảm bảo hiệu quả kinh tế xã hội trong hoạt động ngoại thương. Quan điểm này chỉ rõ, đổi mới và phát triển ngoại thương chỉ thực sự có ý nghĩa tích cực khi đảm bảo được hiệu quả. Hiệu quả của hoạt động ngoại thương không chỉ đơn thuần là xem xét trên mặt hiệu quả kinh doanh mà nó còn phải đảm bảo về mặt kinh tế - xã hội. Hiệu quả kinh doanh thể hiện ở kết quả lợi nhuận thu được và là lý do tồn tại của một tổ chức kinh doanh xuất nhập khẩu. Hiệu quả kinh tế - xã hội là những tác động trực tiếp đối với việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội như: Nâng cao quy mô, tốc độ tăng trưởng của GDP và bình quân GDP đầu người; chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH, mở rộng khả năng tiêu dùng, nâng cao mức sống thực tế, tạo việc làm cho người lao động; phát huy được các lợi thế so sánh, bảo vệ môi trường sinh thái,... Việc kết hợp chặt chẽ hiệu quả kinh tế - xã hội với hiệu quả kinh doanh chính là sự cụ thể hoá quan điểm kết hợp kinh tế với chính trị trong kinh doanh ngoại thương theo định hướng XHCN, trong đó, hiệu quả kinh tế xã hội cần được coi là tiêu chuẩn hàng đầu để đánh giá hiệu quả của hoạt động ngoại thương. - Mở rộng hoạt động ngoại thương phải đặt trong mối quan hệ thống nhất hữu cơ giữa yêu cầu, phát triển kinh tế với yêu cầu bảo vệ độc lập chủ quyền chính trị, an ninh quốc gia, không đi chệch hướng XHCN. Thực chất tư tưởng chỉ đạo của quan điểm này là đổi mới và phát triển ngoại thương, trước hết phải xuất phát từ lợi ích quốc gia, dân tộc bao gồm cả lợi ích chính trị và kinh tế. Mọi hoạt động ngoại thương làm tổn hại đến lơi ích quốc gia đều trái với quan điểm này. - Đổi mới và phát triển mạnh hoạt động ngoại thương theo đường lối mở cửa kinh tế phải hướng tới mục tiêu xoá bỏ tình trạng chia cắt thị trường trong nước và tính chất tự cấp tự túc của nền kinh tế tiểu nông, mở rộng thị trường ngoài nước, từng bước hội nhập và nền kinh tế thế giới và khu vực bằng cách phàt huy có hiệu quả các lợi thế so sánh để tăng của đất nước trưởng nhanh xuất khẩu, góp phần nâng cao đời sống nhân dân và thực hiện công bằng xã hội. Tư tưởng này chỉ rõ, ngoại thương Việt Nam phải phát triển theo hướng mở cửa, phủ nhận hoàn toàn hệ thống kinh tế đóng, tự cấp, tự túc, khép kín trước đây. Tư duy này cũng cho thấy những nhiệm vụ nặng nề mà hoạt động ngoại thương phải đảm nhận, đó là mở cửa theo tinh thần đảm bảo khả năng hoà nhập với nền kinh tế thế giới và không quên mục tiêu tối cao của XHCN, đó là công bằng xã hội. II-/ Lựa chọn chính sách cho hoạt động ngoại thương Việt Nam. 1-/ Chính sách thị trường. Trong quan hệ thương mại quốc tế, thị trường là một lý dfo quan trọng bậc nhất để hoạt động thưong mại một nước tồn tại và phát triển. Vì vậy một chínn sách mở rộng thị trường đúng đắn vf linh hoạt sẽ là cần thiết để thúc đẩy hoạt động ngoại thương Việt Nam phát triển trong thời gian tới, đặc biệt nó sẽ là một hướng quan trọng để gia tăng xuất khẩu, phù hợp với xu thế hướng ngoại. Xem xét đánh giá tình hình quan hệ ngoại thương giữa Việt Nam với các nước và triển vọng thị trường trong tương lai, ta có thể thấy thị trường xuất khẩu chính mà Việt nam cần hướng và trong thời gian tới sẽ là: 1. Châu á -Thái bình dương, trong đó các nước Nhật Bản, NICs, ASEAN, Trung Quốc là trọng điểm. 2. Liên minh châu Âu(EU), trong đó Pháp Đức là trọng điểm. 3. Bắc Mỹ với thị trường trọng điểm là Mỹ. 4. Các nước SNG và Đông âu là thị trường tiềm năng, cần thiết phải có một thời gian nữa khi tình hình khu vực này trở nên ổn địnhhơn sẽ tiến hành phát triển buôn bán với quy mô lớn. Với khu vực Châu á - thái bình dương, ngày nay mọi người đều thừa nhận là khu vực kinh tế phát triển năng động, có triển vọng nhất, và cũng là khu vực kinh tế phát triển nhanh nhất của nền kinh tế thế giới. Mộ thuận lợi lớn cho Việt nam là có vị trí hết sức quan trọng nối liền Nam và Đông nam á với Đông và Bắc á, vì vậy có thể nói tương lai của nền kinh tế Việt Nam phụ thuộc chủ yếu vào thị trường khu vực này. Phương châm “đa dạng hoá thị trường” không nên hiểu theo nghiã phân tán các thị trường buôn bán để tạo ra một thế cân đối nào đó, bất chấp hiệu quả mà phải lấy hiệu quả làm đầu. Trong khu vực Châu á - Thái Bình Dương, một số thị trường trọng điểm cần chú ý khai thác là thị trường các nước ASEAN, Nhật Bản, NICs và Trung quốc. Với thị trường các nước ASEAN và thị trường Nhật Bản đây là những bạn hàng lớn, truyền thống với Việt Nam. Việc gia nhập làm thành viên chính thức của ASEAN và tham gia vào chương trịnh CEPT nhằm tiến tới khu vực mậu dịch tự do AFTA vào năm 2006 làm cho thị trường những nước này ngày càng trở nên quan trọng, tuy nhiên chúng ta sẽ khai thác theo hướng tăng trưởng buôn bán chứ không phải là tăng tỷ trọng. Còn về Nhật Bản, với việc phát triển công nghệ cao và đạt đến trình độ hiện đại, thị trường Nhật bản cần ở Việt Nam chủ yếu là nguyên, nhiên liệu và các hàng hoá tiêu dùng không đòi hỏi công nghệ tinh vi mà Việt Nam có thể đáp ứng đượ, và tiến tới tăng trưởng quan hệ thương mại jhơn nữa. Với thị trờng các nước NICs, hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam phù hợp với nhu cầu nhập khẩu cho tiêu dùng hoặc tái xuất khẩu của họ, mặt khác việc các nước NICs chuyển sang phát triển các ngành đòi hỏi vốn lớn và công nghệ cao đã tạo ra những khoảng trống cho hàng hoá xuất khẩu `của Việt Nam, không chỉ trên thị trường các các nước đó mà còn thông qua đó đến thị trường mà trước đó các nước này đã hướng tới. Một thị trường trở nên thật sự sôi động trong những năm gần đây là thị trường Trung Quốc. Đây là một thị trường rộng lớn và khó khăn hơn cả đối với Việt Nam. Hiện cọn đường để dẫn đến thị trường hơn một tỷ dân bày đang còn là bài toán cho hàng xuất khẩu Việt Nam, nhưng chắc chắn trong tương lại không xa, thị trường Trung Quốc sẽ trở thành quan trọn số một do nó vừa có thuận lợi về quy mô, và thuận lợi về địa lý đối với Việt Nam. Phương hướng cho thị trường Việt Nam trong dài hạn là phải vươn xa tói thị trường của các nước phát triển, vì vậy những thị trường như EU, Bắc Mỹ, SNG và Đông âu cũng cần chú trọng và chiếm lĩnh ngay từ bây giờ. Với EU, Việt Nam tuy có quan hệ buôn bán, trao đổi khá thân thiết từ lâu nhưng sức khai thác chưa cao; thị trường Băc Mỹ thì còn mới mẻ, chủ yếu ta mới quan hệ với Mỹ và Canađa trong vài năm trở lại đây; dung lượng khai thác thị trường các nước Đông au và SNG cũng vẫn còn rất khiêm tốn. Thời gian tới cần thiết Việt Nam phải nâng được tỷ trọng của các thị trường này, cả về quy mô và tỷ phần trong cơ cấu thị trường xuất khẩu. 2-/ Chính sách sản phẩm. Bảng 7. Mười mặt hàng xuất khẩu chính trong 7 tháng đầu năm 1999 Đơn vị: triệu USD STT Mặt hàng KNXK STT Mặt hàng KNXK 1 Dầu thô 8244 6 thuỷ sản 534 2 Gạo 2851 7 Máy tính + điện tử 313 3 Than 1880 8 Cà phê 233.4 4 Dệt may 910 9 Cao su 115.2 5 Giầy da 827 10 Thủ công mỹ nghệ 91.3 Nguồn: Bộ thương mại Qua số liệu mới nhất của Bộ thương mại và mười mặt hàng xuất khẩu chính trong 7 tháng đầu năm 1999, ta thấy còn trên 60% KNXK vẫn là khoáng sản, nông , lâm thuỷ sản chế biến thô. Phương hướng cho cơ cấu mặt hàng xuất khẩu thời gian tới là phải tăng tỷ trọng hàng chế biến và có hàm lượng chất xám cao để phù hợp với xu thế và không gây bất lợi cho Việt Nam cả về thị trường lẫn giá cả. Chiến lược phát triển hàng xuất khẩu cho đến năm 2010 sẽ là: 30-35% là sản phẩm thô, sơ chế và 65-70% là hàng chế biến và chất xám cao, đặc biệt là đi vào chế biến sâu. Tuy nhiên, với các sản phẩm tho và sơ chế trong ngắn hạn ( đến năm 2005) vẫn được đánh giá là cần thiết và vẫn chiếm tỷ trọng cao, sau năm 2005 tỷ trọng của nó được giảm xuống với tốc độ nhanh hơn, cơ cấu những mặt hàng này dành cho xuất kgẩu tho sẽ được lựa chọn khĩ và một phần thích hợp sẽchuyển qua giai đoạn chế biến, kể cả là sẽ chế biến sâu để tạo ra sản phẩm xuất khẩu cuối cùng và tiến tới một tỷ trọng hợp lý vào năm 2010. Với chiến lược hướng ngoại được ưu tiên trong thời gian tới, ngoài một cơ cấu sản phẩm hợp ;ý chúng ta cũng cần xây dựng một cơ cấu mặt hàng mũi nhọn chủ chốt mà những mặt hàng này sẽ dựa trên cơ sở phát triển các ngành cực tăng trưởng. Theo xu hướng phát triển khách quan và thực trạng Việt Nam quy định ccs ngành cực tăng trưởng sẽ phải là những ngành mang dấu hiệu về lợi thế, về tính hướng ngoại cao và dấu hiệu về sự phát triển của kho học công nghệ. Sau năm 2000, các ngành cực tăng trưởng của Việt Nam sẽ là: 1. Khai thác và chế biến thuỷ sản 2. Khai thác và chế biến dầu khí 3. Ngành dệt may 4. Chế biến, lắp ráp các loại linh kiện điện tử, máy móc thiết bị. Và đồng thời cũng sẽ là các cực hướng ngoại, tức là các cực tăng trưởng trên cơ sở tạo ra các sản phẩm xuất khẩu chủ chốt. Về mặt hàng nhập khẩu, hướng ưu tiên và chú ý của Việt Nam trong giai doạn tới vẫn là các loại tư liệu sản xuất, máy mọc thiết bị phục vụ cho quá tình chuyển giao công nghệ, tiến tới một công nghệ phù hợp, hiện đại. Tuy nhiên chúng ta cũng không nhất thiết phải có bước đi tuần tự ở tất cả các ngành các lĩnh vực, tức là đi từ công gnhệ thấp đến công nghệ cao, từ công nghệ sử dụng nhiều lao động đến các công nghệ đòi hỏi cao về vốn và kỹ thuật, mà với mỗi ngành, mỗi lĩnh vực, tuỳ vào năng lực sản xuất và công nghệ hiện thời và hướng phát triển mà sẽ chọn ra được laọi công nghệ chuyển giao cho phù hợp nhất. 3-/ Chính sách thuế xuất nhập khẩu. Việc mở cửa, tự do hoá thương mại đang bùng nổ và phát triển theo xu hướng thời đại ngày nay, chúng ta thấy công cụ thuế xuất nhập khẩu ít nhiều đã bị giảm đi về mức độ cũng như phạm vi tác động, tuy nhiên nó vẫn luôn giữ vai trò quan trọng đôid với việc điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu và không thể xem nhẹ. Tình hình trong nước và quốc tế biến đổi từng ngày, do vậy, chính sách thúe xuất nhập khẩu của Việt Nam cũng phải thường xuyên được sửa đổ, bổ sung để phục vụ tốt hơn nữa cho công tác xuất nhập khẩu. Hiện nay, việc thay đổi hoàn chỉnh hệ thống chính sách thuế xuất nhập khẩu ở nước ta nổi lên hai yêu cầu: Thứ nhất, Việc gia nhập ASEAN và tham gia chương trình cắt giảm thuế có hiệu lực chung (CEPT) đặt ra yêu cầu đối với Việt Nam là đến năm 2006, khi mà thời hạn cắt giảm hết, chúng ta phải đảm bảo đúng lịc trình các sản phẩm trong danh sách cắt giảm thuế quan, đồng thời không gây ra cơn sốc, sự xáo trộn cho thị trường trong nước. Thứ hai, với một nền sản xuất còn nhiều yếu kém, yêu cầu hướng nội còn cần thiết để vực sản xuất trong nước lên thì thuế xuất nhập khẩu cũng phải góp phần không nhỏ trong vấn đề này, tức vẫn phải là một công cụ bảo hộ thích đáng đối với sản xuất trong nước. Trên cơ sở đó ta thấy một số yêu cầu đặt ra với hệ thống chính sách thuế xuất nhập khẩu hiệnnay là: ã Đối với thuế xuất khẩu: Trong việc sửa đổi biểu thuế xuất khẩu hiện hành cần thu hẹp diện các mặt hàng chịu thuế. Vì vậy, chỉ nên thu thuế những mặt hàng là nguyên liệu sản xuất trong nước, những tài nguyên khoáng sản không khuyến khích xuất khẩu, những sản phẩm có thị trường tương đối ổn định. Trong tương lai, cùng với việc đẩy mạnh quá trình hội nhập và phát triể của nền kinh tế Việt Nam thì số lượng mặt hàng phải thu thuế xuất khẩu còn tiếp tục giảm xuống. ã Đối với thuế nhập khẩu, yêu cầu đặt ra là: - Cần xây dựng các mức độ bảo hộ klhác nhau cho các ngành sản xuất, nhằm bảo vệ, hỗ trợ tối đa cho những ngành có khả năng cạnh tranh và xuất khẩu. - Giảm bớt số mức thuế nhập khẩu và mức thuế cao nhất để phù hợp với yêu cầu hội nhập. - Biểu thuế và thuế xuất nhập khẩu phải phù họp với các quy định quốc tế mà nước ta đã và sẽ cam kết thực hiện. - Cần xác định rõ mức thuế xuất nhập khẩu tạm thời cho các loại hàng hoá đặc biệt. 4-/ Chính sách tỷ giá: Kinh tế học vĩ mô đã xác định rằng, tỷ giá hối đoái là loại giá đầy nhạy cảm và uy lực nhất trong chính sách hướng về xuất khẩu. Quan trọng hơn, khi mà tự do hoá thương mại được đè cao và bùng nổ như n=hiện nay, chính sách thuế xuất nhập khẩu bị hạn chế tác dụng đi rất nhiều thì chính sách tỷ giá hối đoái càng lên ngôi, tỏ ra hữu hiệu hơn cả trong vấn đề bảo hộ sản xuất và khuyến khích xuất khẩu. Yêu cầu đặt ra trong việc các định tỷ giá là phải làm sao cho có lợi cho xuất khẩu đồng thời bù đắp được những ảnh hưởng bất lợi của tiến trình tự do hoá thương mại gây ra. Trong bối cảnh đồng tiền các nước chung quanh có xu hướng giảm mạnh và các nước đó đang nỗ lực khôi phục lại nền kinh tế sau khủng hoảng tài chính tiền tệ bằng việc củng cố và đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu.Việt Nam nếu cứ để đồng tiền băng cứng chắc chắn sẽ làm giảm sút sức cạnh trnh của hàng hoá trong nước trên thị trường quốc tế. Giảm giá đồng tiền tất nhiên sẽ gây ra áp lực lạm phát và tăng mắc trả nọ vay nước ngoài nhưng điều này có thể ngăn chặn được nếu nhà nước chủ động đặt ra sự phá giá đó trong sự thành công tạo lập môi trường kinh tế vĩ mô ổn định bằng việc cắt giảm bội chi ngân sách, kiểm soát việc mua bán ngaọi tệ với mục đích đầu cơ, điều chỉnh cân bằng cán cân thanh toán. Bằng chứng thực tế chứng minh cho sự hợp lý của việc giảm giá đồng nội tệ là việc chính phủ Việt Nam đã giảm mức tỷ giá trao đổi giữa đồng Việt Nam và đồng đô la Mỹ xuống còn khoảng 14.000VND=1USD trong thời gian qua đã không những không gây ra xáo trộn, bất lưọi cho thị trường trong nước mà còn khuyến khích được tăng trưởng xuất khẩu. Thời gian tới khi xu thế hướng ngoại các được nhấn mạnh hơn nữa, tỷ giá này cần phải được tiếp tục điều chỉnh giảm xuống trong một tỷ lệ thích hợp theo từng thời kỳ cụ thể . Như vậy, trên đây chúng ta đã nghiên cứu và lựa chọn 4 chính sách cư bản nhất cho hoạt động ngoại thương Việt Nam, đó là các chính sách: chính sách thị trường, chính sách sản phẩm, chính sách thuế xuất nhập khẩu, và chính sách tỷ giá. Việc thực thi và kết hợp hài hoà các chính sách này trong thực tế chắc chắn sẽ nâng cao được hiệu quả của hoạt động ngoại thương nước ta thời gian tới đây. Để nâng cao tính sát thực cho các chính sách, mục cuối cùng của phần này sẽ đi sâu vào một số giải pháp cụ thể đối với các sản phẩm xuất nhập khẩu. III-/ Một số biện pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động ngoại thương Việt Nam. 1-/ Giải pháp cho sản phẩm xuất khẩu. Với việc đề caơu tiên chiến lược hướng về xuất khẩu thì việc xem xét tìm ra những yếu kém và biện pháp tháo gỡ cho các sản phẩm xuất khẩu là hết sức cần thiết. Qua thực trạng hoạt động xuất khẩu hiện nay của Việt Nam, chúng ta thấy còn nhiều vấn đề nổi cộm, cần được khắc phục. Có thể đúc kết trên những mặt sau: 1.1. Yếu kém trong công nghệ chế biến, công nghệ sau thu hoạch Với những yêu cầu tăng lượn sản phẩm chế biến, đặc biệt là chế biến sâu thì những yếu kém trong công nghệ chế biến, công nghệ sau thu hoạch cần phải khắc phục ngay. trong giai đoạn đầu CNH-HĐH đất nước, phương châm hàng đầu của Việt Nam là phát triển mạnh vào các ngành công nghiệp phục vụ trực tiếp cho nông nghiệp, nhưng trên thực tế, việc kết hợp hai lĩnh vực này còn tỏ ra lỏng lẻo. Bằng chứng là công nghệ sau thu hoạch của ta còn quá thiếu và yếu, gây bất lợi cho hàng nông sản xuất khẩu. Cũng là mặt hàng gạo xuất khẩu, nhưng do công nghệ xay xát của ta lạc hậu dẫn đến gạo bị gãy nát, độ bóng không cao, giảm phẩm chất nên giá thành xuất khẩu gạo của Việt Nam thấp hơn nhiều so với Thái lan... Bên cạnh công nghệ sau thu hoạch, công nghệ chế biến vài năm trở lại đây tuy đã được tăng cường nhưng vẫn còn yếu và chưa đồng bộ. Công nghệ chế biến mới chỉ tập chung vào một số ngành, lĩnh vực nhất định với trình độ trung bình và thấp, nhiều ngành đòi hỏi công nghệ chế biến cao hơn, như dầu khí chẳng hạn thì ta chưa đáp ứng được. Trong khi ta xuất khẩu dầu thô thì lại không có công nghệ chế biến, từ đó phải nhập xăng, dầu từ nước ngoài với giá thành rất cao. Vấn đề đặt ra cho Việt Nam là phải tăng cường được công nghệ ở hai khía cạnh này. Điều đó có thể tiến hành song song bằng hai cách sau: - Thứ nhất, với việc phát triển công nghiệp trong nước, cần chú ý tăng cường hơn nữa đến phát triển công nghệ chế biến, công nghệ sau thu hoạch để đẩm bảo tính gắn kết giữa công nghiệp và nông nghiệp - Thứ hai, nếu sức phát triển công nghiệp trong nước chưa đáp ứng đủ và hợp cho yêu cầu này thì cần thiết phải bổ sung bằng công nghệ nhập khẩu của nước ngoài qua việc chuyển giao công nghệ. 1.2. Chưa khai thác được các thị trường cần. Một số quan điểm chỉ đạo của các cấp các ngành hiện nay tập chung vào khẩu hiệu: Phải xuất vào các ngành người ta cần, không chỉ xuất cái ta có. Trên thực tế, xuất khẩu của ta vẫn chạy theo hướng “cái ta có” chứ chưa thực sự đáp ứng được cái “người ta cần”. Để làm được điều này, đòi hỏi cần có trình độ nghiên cứu và phát triển nhất đinh, nhưng đáng tiếc việc đầu tư cho nghiên cứu và phát triển của Việt Nam còn rất hạn chế. Trong những năm tới, việc đầu tư thích đáng cho nghiên cứu và phát triển là rất cần thiết. Không phải ta có gạo là xuất khẩu gạo, mà phải xem thị trường thế giới cần gạo gì, pơhẩm chất ra sao mà hướng thay đổi giống lúa phục vụ xuất khẩu đạt chất lượng cao, hay như cần thiết phải nghiên cứu, chuyển đổi cơ cấu cây trồng gì và cơ cấu ngành công nghiệp chế biến ra sao để tạo ra được đúng sản phẩm xuất khẩu như thị trường thế giớ mong muốn. 1.3. Sự lệ thuộc tương đối voà thị trường trung gian. Nhiều doanh nghiệp xuất khẩu đều thừa nhận trong giai đoạn hiện nay còn phải lệ thuộc tương đối vào những thị trường trung gian nghĩa là không có những thị trường trung gian này, sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam khó có thể đến được thị trường thứ ba và được thị trường này chấp nhận. Nguyên nhân của vấn đề này là do sản phẩm xuất khẩu của ta chưa tạo được uy tín trên thị trường thế giới, đặc biệt là còn thiếu các kênh phân phối và tiêu thụ. Nếu không có một hệ thống kênh phân phối và tiêu thụ trực tiếp đến người tiêu dùng thì đến bao giờ khách hàng quốc tế mới biết được về sản phẩm “made in Việt Nam “ bao giơ sản phẩm của ta mới tạo được lòng tin với khách hàng để họ chấp nhận. Vậy, để giải quyết vấn đề đó đòi hỏi chúng ta phải tiếp cận trực tiếp được với khách hàng qua các kênh phân phối và tiêu thụ. Đây chính là gạch nối quan trọng giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng. Vấn đề đặt ra với các doanh nghiệp Việt Nam là với mỗi mặt hàng cụ thể và thị trường cụ thể và tính chất công việc cụ thể mà cần phải định hướng cho mình đi vào loại kênh phân phối nào? Với chủng loại hàng hoá cao cấp, trung bình hay đại chúng? và bằng con đướng tham gia vào các tổ chức, hiệp hội chuyên ngành, hay liên kết với các nhà sản xuất tại chỗ, hoặc phải tính đến việc liên doanh hình thành những công ty bán lẻ của Việt Nam đóng vai trò cầu nối cho hàng Việt Nam chen chân vào thị trường của hàng này. 1.4. Cần khai thác tối đa cơ hội, giá trị của sản phẩm xuất khẩu. Như đã đề cập ở trên, chúng ta đã không khai thác hết giá trị của sản phẩm xuất khẩu như: yếu kém trong khâu chế biến dẫn đến phải suất các sản phẩm sơ chế với hiệu quả kinh tế thấp; chưa thân nhập vào được các thị trường cuối cùng nên phải chia sẻ giá trị với nước nhập khẩu trung gian. Không chỉ có vậy, nhiều cơ hội cho sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam giành phần thắng nhưng chúng ta vẫn chưa khai thác được tố, vận dụng được tối đa. Có thể nêu một số ví dụ như: - Với ngành dệt may, vấn đề đáp ứng tiêu chuẩn xuất xứ để được hưởng ưu đãi thuế quan của nước nhập khẩu (GSP) là hết sức hấp dân. Ví dụ như tại Nhật bản, mức ưu đãi này cho sản phẩm dệtmay thường bằng 50% mắc thuế chung; tại EU, chênh lệch này từ 7 đến 12%; hay tại Mỹ, các sản phẩm dệt may hưởng ưu đãi GSP không nhiều, nhưng khi đã được thì có thể miễn thuế... Nhưng trên thực tế, chúng ta chưa đáp ứng được tiêu chuẩn xuất sứ để tận dụng được cơ hội hưởng GSP này. Do vậy, cần phải làm gì để được hưởng ưu đãi GSP cho sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam là vấn đề cần được tháo gỡ. - Hay như tại thị trường Mỹ, cũng là hàng may mặc nhập khẩo, nhưng hàng của ta phải chịu thuế nhập khẩu từ 40-90% ( giá nhập ), trong khi hàng may mặc của nhiều nước khác chỉ phải chịu mức thuế 25%. Đó chính là sự phân biệt đối xử. Nguyên nhân của vấn đề này là do chúng ta chưa thực sự tạo ra được mối quan hệ tố với bạn hàng, từ đó dẫn đến sự phân biệt đối xử bất lợi cho ta, làm giảm khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam. Tóm lại phải tìm được chìa khoá tháo gỡ các vấn đề trên đó là cơ hội nếu ta biết nắm bắt và ngược lại nó cũng sẽ là đe doạ nếu không khai thác được. 1.5. Cần có sự gắn kết hơn nữa giữa nhà nước và các doanh nghiệp xuất khẩu. Có một nguyên nhân không kém phần quan trọng khiến cho công tác xuất nhập khẩu của ta hiện nay vẫn còn nhiều yếu kém là sự gắn kết giữa nhà nước và các doanh nghiệp trong nước còn lỏng lẻo, thiếu chặt chẽ. Chúng ta thấy cần thiết phải tạo lập được mối liên hệ này tốt hơn trên cơ sở nhà nước trợ giúp, tạo môi trường thuận lợi để các doanh nghiệp có điều kiện phát huy sức cạnh tranh, ngược lại, các doanh nghiệp nếu làm tốt sẽ tác động trở lại giúp nhà nước ổn định môi trường kinh doanh và thành công trong vấn đề quản lý vĩ mô nền kinh tế. Với hướng làm như trên, thời gian tới chính phủ và các doanh nghiệp Việt Nam cần bắt tay vào làm tốt những mặt sau: - Nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm xuất khẩu: Để mở rộng thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu thì đây là biện pháp hàng đầu nhằm tăng tính cạnh trạnh cho sản phẩm Việt Nam. Đối với các doanh nghiệp Việt Nam, cần thiết phải tăng cường hơn nữa nếu cho đầu tư chiều sâu, tiếp cận công nghệ tiên tiến, củng cố khâu quản lý, tăng năng suất lao động, thực hành tiết kiệm và giữ chữ “tín” với khách hàng. Đặc biệ, cần sớm áp dụngcác hệ thống quản lý chất lượng, năng suất theo tiêu chuẩn quốc tế ISO. - Cung cấp đầy đủ thông tin cho doanh nghiệp xuất khẩu: Đây là điểm yếu của nền kinh tế thị trường còn chậm phát triển như Việt Nam. “đói” thông tin về thị trưòng ngoài nước gây rất nhiều trở ngại cho hướng đi của các doanh nghiệp xuất khẩu. Để giải quyết vấn đề nhà nước cần cung cấp đầy đủ thông tin vè thị trường thế giới cho các doanh nghiệp trong nước, trước mắt là 68 thị trường có quan hệ ưu đãi thưong mại với Việt Nam bằng nhiều cách: thông tin đại chúng, tập san, nói chuyện chuyên đề... - Giảm cước, giúp đỡ các doanh nghiệp có điều kiện sử dụng rộng rãi mạng internet để truy cập thông tin, giao dịch với khách hàng, mở trang Web để giới thiệu về mình. - Dùng mọi biện pháp giúp doanh nghiệp hiểu được thị trường nước ngoài để họ có thể bán những gì mà khách hàng cần chứ không phải những gì họ có. - Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ doanh nhân Việt Nam với nghiệp vụ giỏi, ngoại ngữ thông thạo, có bản lĩnh, giàu nghị lực, tính tiến thủ, sẵn sàng đương đầu với mọi khó khăn. - Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại, cần thành lập cơ quan xúc tiến thương mại quốc gia, có chi nhánh ở các trung tâm thưong mại lớn của đất nước để quản lý và hoạch định cho hoạt động ngoại thương Việt Nam. 2-/ Giải pháp cho sản phẩm nhập khẩu. Song song với công tác k, chúng ta cũng không thể xem nhẹ các hoạt động nhập khẩu. Qua con đường nhập khẩu, chúng ta có thể bổ sung những gì còn thiếu và yếu cho sản xuất trong nước. Hiện nay, vấn đề nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam vẫn còn một số yếu kém cần tháo gỡ ngay, đó là: 2.1. Còn nhập khẩu công nghệ lạc hậu không phù hợp. Thông qua công tác nhập khẩu, vai trò quan trọng nhất của nó là chuyển giao công nghệ cho Việt Nam từ nước có trình độ khoa học, kỹ thuật và công nghệ tiên tiến. Qua việc chuyển giao này, chúng ta có thể bổ sung hoàn thiện hệ thống máy móc, kỹ thuật và công nghệ còn lạc hạu. Đó là lợi thế của nước đi sau. Chính vì vậy mà chính phủ Việt Nam đã rất coi gtrọng, ưu tiên và khuyến khích cho việc nhập khẩu tư liệu sản xuất, máy mọc thiết bị. Tuy nhiên, hoạt động này thực tế vẫn còn nhiều vướng mắc. Vì mục tiêu thu lợi, nhiều công nghệ đã được nhập về không bảo đảm tiêu chuẩn kỹ thuật, quá lạc hậu hay là công nghệ cũ trong tương lai. Cái khó là ta còn thiếu kỹ thuật viên giỏi nên nhiều khi máy móc phải qua thời gian sử dụng mới phát hiện được. Việc nhập khẩu máy mọc, tư liệu sản xuất không đòi hỏi là phải đạt đến trình độ kỹ thuật tiên tiến, hiện đại, nhưng nhất thiết là phải đảm bảo phù họp với yêu cầu và khả năng của Việt Nam và hướng được vào công nghệ nguồn. Thời gian tới, công tác quản lý hoạt động nhập khẩu cần chú trọng hơn nữa tới khâu này, tránh vì tư lợi mà nhập khẩu máy móc thiết bị không phù hợp, đem lại những hậu quả, tổn thất khó có thể lường hết được, đặc biệt là cần đào tạo được một đội ngũ kỹ thuật viên giỏi, trình độ cao, đủ khả năng tiếp cận được với khoa học-công nghệ tiên tiến của thế giới. 2.2. Hiện tượng hàng nhập lậu, trốn thuế vẫn còn phổ biến. Một vấn đề nhức nhối với công tác nhập khẩu của ta hiện nay là hiện tượng nhập lậu, trốn thuế. Vài năm trở lại đây, ngoài việc trốn thuế hàng nhập khẩu gây ra thất thu cho ngân sách nhà nước, các loại hàng nhập lậu bằng nhiều con đường, nhiều biện pháp cách thức khác nhau đã tràn vào Việt Nam gây ra những hậu quả không nhỏ cho nền kinh tế, đặc biệt là sóng gió cho các nhà sản xuất trong nước. Thường hàng nhập lậu là những mặt hàng quốc cấm, hàng không khuyến khích nhập khẩu và bị đánh thuế rất cao. Nhưng thị trường càng khan hiếm thì lại càng hấp dẫn cho bọn tư thương tư lợi. Nếu cứ tiếp tục để cho loại hàng này tràn vào trong nước sẽ gây ra những đảo lộn cho thị trường, bóp chết các nhà xản xuất trong nước và nhiều hậu quả xấu khác. Thời gian tới, để quản lý chặt nhập khẩu trên tuyến này, chúng ta cần làm tốt các mặt sau: - Quản lý, giám sát chặt các con đường, đầu mối mà hàng nhập lậu có thể đi qua. - Kiên quyết phạt nặng những kẻ vi phạm - Sử dụng các biện pháp hỗ trợ khác như dán tem, thông báo rộng rẫi cho người tiêu dùng... Trên đây là một số giải pháp cụ thể đưa ra nhằm tháo gỡ những yếu kém trong công tác xuất nhập khẩu của ta hiện nay. Làm được tốt những điều này sẽ góp phần hỗ trợ để có thể thực thi được đúng và tốt các chính sách đã nêu ra. Kết luận Như vậy xuyên suốt bài viết này, chúng ta đã đi nghiên cứu khá chi tiết, đầy đủ các vấn đề từ cơ sở lý luận của việc hình thành và phát triển ngoại thương, các chiến lược đúc rút ra từ kinh nghiệm của các nước, thực trạng thăng tầm của hoạt động ngoại thương Việt Nam, và đặc biệt là đưa được ra những chính sách, giải pháp cụ thể với mục đích nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động ngoại thương nước ta trong thời gian tới. Tuy nhiên do những hạn chế nhất định, bài viết không thể đưa ra hết mọi vấn đề, nhưng mong rằng với những đóng góp nhỏ bé qua các chính sách và giải pháp đã nêu sẽ góp ích phần nào cho hướng đi của ngoại thương Việt Nam giai đoạn tới đây. Theo tin mới nhất từ Tổng cục thống kê, dự kiến năm 1999 này tổng KNXNK sẽ đạt con số 22,7 tỷ USD, tốc độ tăng trưởng KNXNK là 20%, trong đó nhập khẩu siêu chỉ khoảng 200USD con số thấp nhất từ trước tới nay. Đây là một tín hiệu đáng mừng cho ngoại thương Việt Nam để vững bước vào một thiên niên kỷ mới.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docR0102.doc
Tài liệu liên quan