Đề tài Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn

LỜI NÓI ĐẦU Với nguyên tắc: "Tự do, tự nguyện cam kết thỏa thuận", pháp luật nước ta bảo đảm quyền tự do lập di chúc của người để lại di sản và theo đó thì người để lại di sản có quyền truất quyền hưởng di sản của những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật. Tuy nhiên, "tự do" đó phải phải phù hợp với quy định của pháp luật. Nên để bảo vệ lợi ích của một số người trong diện những người thừa kế theo pháp luật, phù hợp với phong tục, tập quán, truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta, pháp luật đã hạn chế quyền định đoạt của người lập di chúc. Chính vì điều này, nên em xin được lựa chọn đề tài: "Về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn". Kết cấu bài của em gồm 3 phần: Lời mở đầu, nội dung và kết luận. Trong đó phần nội dung em chia làm các phần nhỏ như sau: I. Một số vấn đề lý luận về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc 1. Khái quát về thừa kế, quyền thừa kế. 2. Cơ sở và ý nghĩa của việc pháp luật quy định về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc. 3. Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc. a. Những người thừa kế không phụ vào nội dung của di chúc theo Điều 669LDS 2005 b. Cách tính hai phần ba của một suất thừa kế theo pháp luật. II. Một số vấn đề thực tiễn về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc

doc16 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2495 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Với nguyên tắc: "Tự do, tự nguyện cam kết thỏa thuận", pháp luật nước ta bảo đảm quyền tự do lập di chúc của người để lại di sản và theo đó thì người để lại di sản có quyền truất quyền hưởng di sản của những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật. Tuy nhiên, "tự do" đó phải phải phù hợp với quy định của pháp luật. Nên để bảo vệ lợi ích của một số người trong diện những người thừa kế theo pháp luật, phù hợp với phong tục, tập quán, truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta, pháp luật đã hạn chế quyền định đoạt của người lập di chúc. Chính vì điều này, nên em xin được lựa chọn đề tài: "Về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn". Sau đây là những phân tích, tìm hiểu về đề tài này. NỘI DUNG I. Một số vấn đề lý luận về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc. Khái quát về thừa kế, quyền thừa kế. Khi nhà nước ra đời, mỗi nhà nước đều sử dụng một công cụ hữu ích để quản lý xã hội là pháp luật. Là một quan hệ ra đời và tồn tại từ rất lâu trong đời sống xã hội, thừa kế đã được điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật dân sự, một ngành luật điều chỉnh mối quan hệ về tài sản mang tính chất ngang giá và giữa các chủ thể bình đẳng về địa vị pháp lý. Từ một phạm trù kinh tế mang tính khách quan, khi được điều chỉnh bởi pháp luật quyền thừa kế đã trở thành một phạm trù pháp lý mang tính chủ quan và bị ảnh hưởng bởi những điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi quốc gia. Theo nghĩa rộng, quyền thừa kế được hiểu là một chế định pháp luật bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh mối quan hệ về dịch chuyển tài sản của người chết cho những người còn sống khác theo ý chí của họ được thể hiện trong di chúc hoặc theo ý chí của nhà nước được thể hiện trong các quy phạm pháp luật. Thừa kế là một chế định pháp luật dân sự, là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh việc dịch chuyển tài sản của người chết cho người khác theo di chúc hoặc theo một trình tự nhất định, đồng thời quy phạm pháp luật về quyền, nghĩa vụ và phương thức bảo vệ các quyền và nghĩa vụ của người thừa kế. Theo nghĩa hẹp, quyền thừa kế được hiểu là một quyền năng dân sự chủ quan của chủ thể có quyền để lại di sản thừa kế hoặc có quyền hưởng di sản thừa kế của người chết để lại theo ý chí của người đó hoặc theo quy định của pháp luật. Thừa kế với tư cách là một quan hệ pháp luật dân sự trong đó các chủ thể có nhưng quyền và nghĩa vụ nhất định. Trong quan hệ này, người có tài sản, trước khi chết có quyền định đoạt tài sản của mình cho người khác. Những người có quyền nhận di sản họ có thể nhận hoặc không nhận di sản (trừ trường hợp pháp luật có quy định khác). Đối tượng của thừa kế là các tài sản, quyền tài sản thuộc quyền của người đã chết để lại (trong một số trường hợp người để lại tài sản có thể chỉ để lại hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản). Tuy nhiên, một số quyền tài sản gắn liền với nhân thân người đã chết không thể chuyển cho những người thừa kế (tiền cấp dưỡng...) vì pháp luật quy định chỉ người đó mới có quyền được hưởng. Quan hệ pháp luật dân sự về thừa kế là quan hệ thừa kế được các quy phạm pháp luật dân sự điều chỉnh. Quan hệ này cũng bao gồm chủ thể, khách thể và nội dung. Quan hệ thừa kế là quan hệ là quan hệ tài sản do luật dân sự điều chỉnh được xác định là một quan hệ tuyệt đối giống quan hệ sở hữu giống quan hệ sở hữu, trong đó chỉ xác định được một bên chủ thể mang quyền là người để lại di sản hoặc những người thừa kế còn các chủ thể khác là những người phải có nghĩa vụ tôn trọng quyền để lại di sản thừa kế hoặc những người thừa kế còn các chủ thể khác là những người phải có nghĩa vụ tôn trọng quyền để lại di sản thừa kế của họ. Cơ sở và ý nghĩa của việc pháp luật quy định về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc. Phần di sản dành cho người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc lần đầu tiên được quy định trong Thông tư 81 ngày 24/7/1981 của Tòa án nhân dân tối cao. Theo Thông tư này, nếu bằng di chúc người có di sản định đoạt, vì lợi ích của người khác, một phần tài sản lớn hơn giá trị của di sản trừ đi giá trị các “phần tài sản cho những người thừa kế bắt buộc” thì các phần di sản được hưởng theo di chúc sẽ bị cắt giảm theo yêu cầu của những người này. Những người “thừa kế bắt buộc” bao gồm vợ, chồng; con chưa thành niên, con đã thành niên nhưng không có khả năng lao động, bố mẹ già yếu và túng thiếu. Phần này được ấn định bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật. Kế thừa các quy định tại Thông tư 81, Pháp lệnh Thừa kế năm 1990 bổ sung: 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật được tính bằng cách giả định toàn bộ di sản được chia theo pháp luật (Điều 20). Pháp lệnh cũng thay cụm từ “phần tài sản cho những người thừa kế bắt buộc” thành “những người được hưởng di sản không phụ thuộc vào nội dung di chúc”. Sau Pháp lệnh Thừa kế, Bộ luật Dân sự (BLDS) 1995 và 2005 tiếp tục quy định về vấn đề này. Có thể thấy, pháp luật tôn trọng quyền của người lập di chúc trong việc định đoạt tài sản cho những người còn sống. Người lập di chúc có thể lựa chọn bất cứ chủ thể nào đó để cho hưởng di sản theo di chúc; có thể là cá nhân, có thể là cơ quan, tổ chức; nếu là cá nhân có thể là những người không thuộc các hàng thừa kế của người chết. Pháp luật về thừa kế bao giờ cũng đặt trên hai phương diện: phương diện diện kinh tế và phương diện đạo đức. Dựa trên phương diện kinh tế, pháp luật về thừa kế hoàn toàn phụ thuộc vào pháp luật về sở hữu. Quyền sở hữu về tài sản của một người không chỉ là những quyền năng của người đó lúc còn sống đối với tài sản, mà còn là quyền chuyển dịch sự sở hữu về tài sản của một người từ đời này đến đời khác. Với tính chất ấy, pháp luật về thừa kế là một yếu tố để đảm bảo tuyệt đối quyền sở hữu đối với tài sản của một người nhất định. Theo phương diện này, một người là chủ sở hữu đối với tài sản của mình thì người đó có toàn quyền định đoạt di sản theo ý muốn của mình mà không phải chịu sự hạn chế nào của pháp luật. Tuy nhiên, về phương diện đạo đức thì pháp luật về thừa kế là một phương tiện pháp lý để dịch chuyển của cải từ người chết sang những người còn sống khác qua đó để người quá cố làm tròn bổn phận của mình đối với gia đình của họ. Bổn phận ấy không chỉ được thực hiện khi người để lại di sản còn sống, mà ngay cả khi họ chết đi thì bổn phận ấy sẽ vẫn tiếp tục được thực hiện. Nếu những người này, vì một lý do nào đó mà không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ bổn phận của mình thì pháp luật – bằng những quy định của mình – sẽ ấn định cho những người có quan hệ gần gũi với người này luôn được hưởng một phần di sản từ khối di sản của người đó để lại. Cho nên, để bảo vệ lợi ích của một số người trong diện những người thừa kế theo pháp luật, phù hợp với phong tục, tập quán, truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta, pháp luật đã hạn chế quyền lập di chúc được thể hiện ở Điều 669 BLDS 2005 như sau: "Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật, nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó, trừ khi họ là những người từ chối nhân di sản theo quy định tại điều 642 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1, Điều 643 của Bộ luật này: Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng; Con đã thành niên mà không có khả năng lao động." Theo truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta, trong gia đình các con phải kính trọng, nuôi dưỡng cha mẹ. Ngược lại, cha mẹ phải nuôi dưỡng các con chưa thành niên hoặc con bị tàn phế không thể tự nuôi sống bản thân; vợ, chồng phải thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống; giữa những người này ngoài nghĩa vụ pháp lý họ còn có nghĩa vụ về đạo đức đối với nhau. Do đó pháp luật quy định trong trường hợp họ phải được hưởng một kỷ phần nhất định từ di sản của người đã chết. Điều này phù hợp với phong tục tập quán của nhân dân ta. Như vậy, qua Điều 669 BLDS 2005, có thể thấy: Một phần pháp luật tôn trọng ý chí của người để lại di sản, nhưng mặt khác, chính pháp luật lại hạn chế quyền định đoạt ấy nếu người để lại di sản còn có những người mà khi họ còn sống họ có nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm sóc. Hay nói cách khác, điều luật trên quy định một số người thừa kế luôn có quyền hưởng một phần di sản nhất định mà không phụ thuộc vào việc người lập di chúc có cho họ hưởng hay không. Vì thế, có thể nói rằng sự quy định trên của pháp luật là sự dung hòa giữa phương diện kinh tế và phương diện đạo đức. Nghĩa là pháp luật vẫn can thiệp đến sự định đoạt của người lập di chúc để hạn chế quyền định đoạt của họ nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng, thiết thực với những người có quan hệ gần gũi với người đó. Trái lại, nếu sự chuyển dịch di sản được coi là bổn phận của người đã chết đối với gia đình họ thì pháp luật vẫn cho phép người đó được tự do một phần nào trong việc định đoạt tài sản trong việc định đoạt tài sản, miễn là phải làm tròn bổn phận tối thiểu đối với gia đình. 3. Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc. a. Những người thừa kế không phụ vào nội dung của di chúc theo Điều 669 BLDS 2005. Dựa vào hình thức dịch chuyển tài sản từ người chết sang cho người còn sống, pháp luật thừa kế chia di sản thành hai loại: di sản thừa kế theo di chúc và di sản thừa kế theo pháp luật. Nếu việc dịch chuyển tài sản theo ý chí của người để lại di sản được thể hiện trong một bản di chúc có hiệu lực pháp luật thì phần di sản được dịch chuyển đó được gọi là di sản thừa kế theo di chúc. Phần di sản thừa kế theo di chúc sẽ được phân cho những người thừa kế theo di chúc và theo ý chí của người lập di chúc. Đối chiếu với đặc điểm này, di sản không phụ thuộc vào nội dung di chúc không thể là di sản thừa kế theo di chúc bởi lẽ, phần di sản này hoàn toàn nằm ngoài ý chí của người lập di chúc. Người lập di chúc đã không chỉ định cho những người này được hưởng di sản trong di chúc của mình. Điều này thể hiện ngay tại tên gọi của điều luật “người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc”. Những người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc là những người thừa kế cần thiết, không thể bị người lập di chúc truất quyền, phần của mỗi người trong số họ được hưởng được đảm bảo tối thiểu bằng hai phần ba của một suất thừa kế nếu toàn bộ di sản được chia theo pháp luật. Điều 669 BLDS 2005 quy định bảo vệ quyền hưởng di sản của những người có quan hệ huyết thống trực hệ, quan hệ hôn nhân và quan hệ nuôi dưỡng đối với người để lại di sản khi còn sống. Như vậy, người được thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc là những người thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người để lại di sản. Tuy nhiên, không phải tất cả những người ở hàng thừa kế thứ nhất của người để lại di sản đều là người được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc; để được nhận phần di sản thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc thì những người này phải là những người mà người lập di chúc không cho họ hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật (2/3 một suất theo luật được xác định bằng cách giả định toàn bộ di sản chia theo pháp luật). Trong đó, những người được thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc vô điều kiện gồm cha mẹ, vợ hoặc chồng của người để lại di sản và con dưới mười tám tuổi của người đó, bao gồm con đẻ và con nuôi, con trong giá thú, con ngoài giá thú. Người được thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc có điều kiện là con đã thành niên (từ đủ 18 tuổi) của người để lại di sản nhưng không có khả năng lao động. Tuy nhiên, những người được hưởng thừa kế theo quy định tạo Điều 669 BLDS 2005 có thể không được hưởng di sản do từ chối, sự từ chối phù hợp với quy định tại Điều 642 BLDS 2005hoặc họ là người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 643 BLDS 2005 (do bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó; do vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng của người để lại di sản; do bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế có quyền hưởng; do có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc; sửa chữa di chúc, hủy di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản). b. Cách tính hai phần ba của một suất thừa kế theo pháp luật. Trong thực tế khi áp dụng Điều 669 BLDS 2005 để đảm bảo cho quyền lợi của những người thừa kế được quy định trong đó, vấn đề đầu tiên là phương pháp xác định "hai phần ba của một suất thừa kế theo pháp luật". Đây là một vấn đề hết sức khó khăn trong quá trình giải quyết vụ tranh chấp về thừa kế. Như vậy, 2/3 suất của một suất thừa kế theo pháp luật được tính trên cơ sở nào? Trên toàn bộ khối di sản thừa kế của người chết để lại hay trên phần di sản sau khi đã thanh toán toàn bộ nghĩa vụ về về tài sản và các khoản chi phí liên quan đến thừa kế theo thứ tự ưu tiên thanh toán được quy định tại Điều 683 BLDS 2005? Người được thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc sẽ được hưởng phần di sản này trong những trường hợp nào? Để giải đáp những vấn đề nêu trên thì xét những khía cạnh cụ thể như sau: Thứ nhất, Phần di sản dành cho người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc là một phần di sản nằm trong khối tài sản của người chết để lại. Vì vậy, cũng giống như di sản thừa kế theo di chúc ta chỉ có thể xác định phần di sản dành cho người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc sau khi đã thanh toán các nghĩa vụ về tài sản và các khoản chi phí liên quan đến thừa kế theo thứ tự ưu tiên thanh toán được quy định tại Điều 683 BLDS 2005 gồm: chi phí hợp lý theo tập quán cho việc mai táng; tiền cấp dưỡng còn thiếu; tiền trợ cấp cho người sống nương nhờ; tiền công lao động; tiền bồi thường thiệt hại; thuế và các khoản nợ khác đối với Nhà nước; tiền phạt; các khoản nợ khác đối với cá nhân, pháp nhân hoặc chủ thể khác; chi phí cho việc bảo quản di sản; các chi phí khác… Nếu nghĩa vụ tài sản và các khoản chi phí liên quan đến thừa kế lớn hơn hoặc bằng tổng giá trị di sản thừa kế của người chết để lại thì sẽ không còn di sản để chia thừa kế cũng như di sản dành cho người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc. Thứ hai, Điều 669 BLDS 2005 quy định thì người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc sẽ được hưởng 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật “được xác định bằng cách giả định toàn bộ di sản chia theo pháp luật”. Cho nên, bảo đảm được quyền lợi của những người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc thì khối di sản dùng làm căn cứ cho việc tính 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật sẽ bao gồm cả di sản thờ cúng và di tặng. Thứ ba, Người thừa kế theo Điều 669 BLDS 2005 có được hưởng di sản khi bị người để lại di chúc truất quyền hưởng di sản hay không? Để trả lời vấn đề này ta thấy: Người bị truất quyền bao giờ cũng là người thừa kế theo pháp luật (người có quyền hưởng di sản thừa kế theo luật) và vì thế, khi họ bị truất quyền đó thì đương nhiên họ không phải là người thừa kế theo pháp luật của người lập di chúc nữa. Nói cách khác, người thừa kế đã bị truất quyền hưởng di sản sẽ mất tư cách người thừa kế mà họ có được do luật định. Cho nên, người đã bị truất quyền sẽ không được hưởng di sản thừa kế kể cả khi di sản chia theo pháp luật. Tuy nhiên, Để bảo vệ quyền lợi chính đáng, thiết thực với những người có quan hệ gần gũi với người để lại di sản thì những người thừa kế theo Điều 669 BLDS 2005 vẫn được hưởng hai phần ba của một suất thừa kế theo pháp luật kể cả khi bị người để lại di chúc truất quyền hưởng di sản. Thứ tư, một vấn đề nữa đặt ra là: Như thế nào thì được coi là một nhân suất để tính một suất thừa kế theo pháp luật? Trong thực tế, việc xác định một suất thừa kế để từ đó xác định hai phần ba của nó không đơn giản. Vì vậy khi xác định một suất thừa kế theo pháp luật cần lưu ý những trường hợp sau đây: Những người không có quyền hưởng di sản: Hiến pháp 1992 và BLDS 2005 đều ghi nhận quyền hưởng thừa kế của cá nhân. Tuy nhiên, trong đời sống xã hội, có một số trường hợp cá biệt người thừa kế vi phạm nghiêm trọng pháp luật hoặc đạo đức xã hội bị pháp luật tước đi quyền hường di sản kể cả theo di chúc và theo pháp luật. Điều 643 BLDS 2005 quy định những người không được quyền hưởng di sản vì họ không còn xứng đáng được quyền thừa kế. Đó là những trường hợp: a) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó; b) Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản; c) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng; d) Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản. Như vậy, những người này có được coi là nhân suất khi xác định một suất theo pháp luật hay không? Để được coi là một nhân suất để tính một suất theo pháp luật thì ta chỉ xem xét nếu họ là người thừa kế theo pháp luật của người lập di chúc. Có thể thấy, họ là người đáng lẽ được hưởng di sản nhưng do có những hành vi trái đạo đức, trái pháp luật nên họ bị pháp luật tước đi quyền hưởng di sản. Vì vậy, họ không còn là người thừa kế theo pháp luật của người để lại di sản. Mặt khác, cách tính 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật là giả định di sản được chia theo pháp luật. Nếu di sản được chia theo pháp luật thì đương nhiên sẽ không thể chia cho những người bị tước quyền hưởng di sản. Vì vậy, những người này không được coi là một nhân suất để tính 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật. Người thừa kế theo Điều 669 BLDS 2005 bị người để lại di chúc truất quyền hưởng di sản. Có thể thấy, những người được quy định trong Điều 669 BLDS 2005 luôn được hưởng hai phần ba của một suất thừa kế theo pháp luật kể cả trường hợp người lập di chúc truất quyền hưởng di sản. Vì vậy, họ luôn là người thừa kế theo pháp luật của người để lại di sản dù rằng họ bị truất quyền đó. Do vậy, họ vẫn là một nhân suất để tính 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật. Người thừa kế bị người lập di chúc truất quyền hưởng di sản (trừ những trường hợp ở Điều 669 BLDS 2005) sẽ không được hưởng di sản thừa kế kể cả khi di sản chia theo pháp luật. Do vậy, họ không phải là người thừa kế theo luật của người để lại di sản . Cho nên, họ không phải là một nhân suất để tính 2/3 suất của người thừa kế theo pháp luật. Khác với trường hợp vừa nêu trên, nếu người bị truất quyền là người thuộc Điều 669 BLDS 2005 thì họ vẫn được hưởng một kỷ phần theo luật định nên họ vẫn là người thừa kế theo luật của người đã truất quyền hưởng di sản của họ. Vì thế, họ vẫn là một nhân suất khi tính một suất thừa kế theo luật. Người từ chối nhận di sản. Về nguyên tắc, người đã từ chối nhận di sản thì họ không được hưởng di sản nữa kể cả chia theo pháp luật. Tuy nhiên, nguyên tắc này cần được xác định cụ thể theo các trường hợp sau đây: Nếu người từ chối nhận di sản chỉ là người thừa kế theo di chúc (họ không có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng với người để lại di sản) thì đương nhiên họ không phải là một nhân suất khi xác định một suất thừa kế theo pháp luật. Nếu người từ chối nhận di sản là người thừa kế theo di chúc đồng thời cũng là người thừa kế theo luật của người để lại di sản và họ đã từ chối hưởng di sản cả theo di chúc, cả theo luật thì họ không phải là nhân suất khi xác định một suất thừa kế theo luật. Nếu họ chỉ từ chối nhận di sản theo di chúc thì họ vẫn là người thừa kế theo luật của người để lại di sản. Vì vậy họ là nhân suất khi xác định một suất thừa kế. Người thừa kế chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di sản. Trường hợp khi có người thừa kế theo pháp luật chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di sản nhưng người này có con hoặc cháu được thừa kế thế vị theo Điều 677 BLDS 2005 thì theo chúng tôi, người này vẫn được coi là nhân suất khi xác định suất của một người thừa kế theo pháp luật. Còn nếu người thừa kế chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di sản nhưng người này không có con hoặc cháu được thừa kế thế vị. Trong trường hợp này, nếu di sản được chia theo pháp luật, pháp luật cũng không chia di sản cho những người này. Do đó, họ sẽ không được coi là nhân suất khi xác định suất của một người thừa kế theo pháp luật. Từ những phân tích trên thì hai phần ba của một suất thừa kế theo pháp luật được tính như sau: Lấy tổng giá trị di sản thừa kế chia cho tổng số nhân suất (trừ người bị tước, người bị truất là người thuộc Điều 669 BLDS 2005, người thừa kế theo luật đã từ chối toàn bộ, người chết trước hoặc chết cùng thời điểm nhưng có người thừa kế thế vị). Sau khi áp dụng cách tính trên và tính được cụ thể hai phần ba của một suất thừa kế theo pháp luật thì phần di sản mà người thừa kế theo Điều 669 BLDS 2005 được hưởng chỉ trích từ phần di sản mà người thừa kế được hưởng theo di chúc và tương ứng với phần vượt trội so với suất thừa kế theo luật mà họ được hưởng. Thứ năm, Giả thiết có người thừa kế là đối tượng được hưởng di sản không phụ thuộc vào nội dung của di chúc nhưng họ vi phạm Khoản 1 Điều 643 BLDS 2005. Tuy nhiên, người lập di chúc vẫn thể hiện ý chí (thông qua di chúc) cho người này hưởng di sản (khoản 2, Điều 643) nhưng phần di sản họ được hưởng theo di chúc lại nhỏ hơn 2/3 của một suất thừa kế thì họ có được hưởng đủ 2/3 suất hay không? Ở đây, thấy rằng nếu người lập di chúc không cho người thừa kế hưởng di sản khi họ không được quyền hưởng di sản thì người này luôn luôn không được hưởng. Do đó, nếu người lập di chúc cho họ hưởng bao nhiêu thì họ cũng chỉ được hưởng bấy nhiêu. II. Một số vấn đề thực tiễn về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc. Trước đây, khi quy định về những người được hưởng di sản không phụ thuộc vào nôi dung của di chúc, do sắp xếp ngôn từ không hợp lý, Điều 20 của pháp lệnh Thừa kế đã làm xuất hiện nhiều cách hiểu khác nhau về cùng một điều luật và gây ra sự tranh cãi giữa các quan điểm về việc hiểu điều kiện: "không đủ khả năng lao động và túng thiếu" là chỉ đối với con đã thành niên hay đối với cả bố, mẹ, vợ, chồng. Tuy nhiên, có thể thấy Điều 669 BLDS 2005 đã tránh được thực tế trên đây là một sự tiến bộ, thành công của các nhà lập pháp. Theo quy định của điều luật nói trên thì bất luận trong mọi trường hợp bố, mẹ, vợ, chồng của người chết đều hưởng một phần di sản ít nhất bằng hai phần ba của một suất thừa kế theo pháp luật. Việc quy định của pháp luật thừa kế được xác định trên nguyên tắc bình đẳng giữa các cá nhân nên việc được hưởng thừa kế không bị phân biệt giữa con trong hay ngoài giá thú, thậm chí không phân biệt giữa con đẻ và con nuôi. Chính vì vậy, Điều 669 BLDS 2005 khi áp dụng vào thực tế có nhiều thuận lợi, một mặt bảo vệ bảo vệ quyền lợi cho một số người trong diện những người thừa kế theo pháp luật, phù hợp với phong tục, tập quán, truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta. Mặt khác thể hiện được sự bình đẳng giữa các cá nhân trong việc hưởng thừa kế. Tuy nhiên, theo Hiến pháp 1992: "Nhà nước và xã hội không thừa nhận sự phân biệt, đối xử với các con" (Điều 64). Và đó cũng là một nguyên tắc cơ bản trong Luật hôn nhân và gia đình 2000. Cho nên, để thể hiện sự bình đẳng quyền và nghĩa vụ của các con thì theo em có thể phần di sản không chỉ dành riêng cho con chưa thành niên hay con đã thành niên không có khả năng lao động mà tất cả các con, không phân biệt con trong và ngoài giá thú, con nuôi, con đẻ đều được hưởng di sản không phụ thuộc vào nội dung của di chúc. Có thể thấy, nếu so sánh các bộ cổ luật đã từng tồn tại trong lịch sử pháp luật Việt Nam, chúng ta thấy rằng: thời nhà Lê, Bộ quốc triều hình luật có quy định về tội bất hiếu nhưng phần dân sự không hề có quy định con phải để lại cho bố mẹ phần di sản theo bổn phận tối thiếu. Trong bộ Dân luật Bắc và Bộ Dân luật Trung cũng không hề có quy định này. Tuy nhiên, pháp luật về thừa kế nói chung hiện nay, cha mẹ được quy định là người thuộc hàng thừa kế đầu tiên của con. Và đối với quy định về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc trong Bộ luật dân sự nói riêng thì cha mẹ sẽ luôn luôn được hưởng một phần di sản tối thiểu trong tổng số di sản mà con để lại. Và phần di sản tối thiểu đó bằng 2/3 một suất thừa kế theo pháp luật. Như vậy, có thể thấy pháp luật về thừa kế nói chung và người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc đã nhiều điểm tiến bộ vượt bậc hơn so với những quy định về thừa kế trước đây. Do vậy khi áp dụng vào thực tế, thể hiện được truyền thống "uống nước nhớ nguồn", phù hợp với phong tục tập quán của người dân Việt Nam. Không chỉ vậy, đó còn là sự dung hòa giữa hai phương diện là phương diện kinh tế và phương diện đạo đức. Trong thực tế rất ít trường hợp một người ông (bố của người chết) đứng ra tranh chấp với cháu nội, cháu ngoại của mình trong việc hưởng di sản của người đã chết (mặc dù việc cha mẹ luôn được hưởng một kỷ phần bắt buộc đối với di sản do con để lại đã được pháp luật của nhà nước ta quy định từ những năm đầu của thập niên 1980 bằng thông tư 81-TATC của tòa án nhân dân tối cao, đồng thời được quy định lại trong Điều 25 Pháp lệnh thừa kế ngày 30/8/1990). Khi người chết không để lại di chúc, bản thân ông bố của người đó không tranh chấp gì với cháu của ông ta thì có lẽ khi người chết có lập di chúc cho con của họ hưởng hết di sản càng không có tranh chấp gì xảy ra. Tuy nhiên, đó là việc người ta tự nguyện không hưởng quyền mà pháp luật đã cho họ được hưởng. Pháp luật quy định cho họ được hưởng di sản trong mọi trường hợp nhưng nếu họ sợ chạm đến tục lệ, tập quán từ xa xưa mà không tranh chấp gì thì pháp luật vẫn thừa nhận sự tự nguyện đó. Nghĩa là một mặt pháp luật bảo vệ quyền lợi thiết thực của một số người thừa kế, mặt khác luôn tôn trọng truyền thống đạo đức của dân tộc. Ở nước ta việc quy định của pháp luật thừa kế được xác định trên nguyên tắc bình đẳng giữa các cá nhân nên việc được hưởng thừa kế không bị phân biệt giữa con trong hay ngoài dã thú, thậm chí không phân biệt giữa con đẻ và con nuôi, mặt khác, luật còn xác định bố, mẹ, vợ, chồng của người chết đều đứng trong một hàng thừa kế để hưởng di sản của người đó. Có thể thấy, vấn đề người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc là một vấn để hết sức phức tạp. Và trong nhiều trường hợp khi áp dụng vào thực tế thì tòa án xác định phần di sản mà người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc được hưởng là không chính xác và như vậy là không đảm bảo quyền và lợi ích của một số người trong diện những người thừa kế theo pháp luật. Sau đây, là một số ví dụ cụ thể: Ông K có khối di sản trị giá 120 triệu đồng. Người thừa kế của ông là bà A (vợ của ông K), con trai ông là P, con gái ông là chị Q. Trước khi qua đời, ông K lập di chúc truất quyền hưởng di sản của P (P không thuộc người thừa kế theo Điều 669 BLDS 2005) và toàn bộ di sản cho Q hưởng. Sau đó, bà A khởi kiện ra tòa yêu cầu chia di sản? Như vậy, tòa án phải chia như thế nào là hợp lý? Theo như phần trên đã phân tích thì nếu người bị truất quyền là người không thuộc Điều 669 BLDS 2005 thì họ không phải là người thừa kế theo luật nữa, nếu di sản có chia theo pháp luật thì họ cũng không được hưởng. Vì vậy, không được coi họ là một nhân suất khi tính một suất thừa kế theo pháp luật. Do đó, trong ví dụ trên sẽ tiến hành chia như sau: Do P là người bị truất quyền ( P không thuộc người thừa kế theo Điều 669), cho nên P không được coi là một nhân suất khi tính một suất thừa kế. Vì vậy, một suất thừa kế theo pháp luật là 120 triệu đồng : 2 nhân suất (bà A, con Q). Bà A thuộc trường hợp Điều 669 BLDS 2005 nên bà A sẽ được hưởng hai phần ba của một suất thừa kế là 60 triệu đồng x 2/3 = 40 triệu đồng. Người con Q được hưởng là 120 triệu - 40 triệu = 80 triệu đồng. Qua tình huống cụ thể trên, có thể thấy vấn đề người thừa kế là một vấn đề hết sức phức tạp và đặc biệt việc xác định được "hai phần ba của một suất thừa kế theo pháp luật" cũng là vấn đề khó khăn trong quá trình giải quyết các vụ tranh chấp về thừa kế. KẾT LUẬN Qua những phân tích và tìm hiểu trên. Chúng ta cũng phần nào hiểu hơn về thừa kế nói chung và về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc nói riêng. Hơn nữa góp phần hoàn thiện pháp luật Dân sự Việt Nam hiện nay. Trên đây là những phân tích của em, rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô để bài làm được hoàn thiện hơn. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật dân sự Việt Nam, Nxb CAND, Hà Nội, 2009. 2. Lê Đình Nghị (chủ biên), Giáo trình luật dân sự Việt Nam, tập 1, Nxb Giáo dục, Hà nội, 2009. 3. Phùng Trung Tập, Luật thừa kế việt Nam, Nxb Hà Nội, 2008 4. Phạm Văn Tuyết - Thừa kế - Quy định cụ thể của pháp luật và thực tiễn áp dụng (Phần 1 và phần 2), Nxb. CTQG, Hà Nội, 2007. 5. Nguyễn Minh Tuấn, Pháp luật về thừa kế của Việt Nam - Những vấn đề lí luận và thực tiễn, Nxb. Lao động - xã hội, Hà Nội, 2009. 6. Bộ luật Dân sự 2005. 7. Hiến pháp năm 1992.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docng4327901i th7915a k7871 khng ph7909 thu7897c vo n7897i dung camp.doc