Đề tài Nguồn vốn đầu tư phát triển trong doanh nghiệp. Thực trạng huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển trong doanh nghiệp nhà nước

Ngày nay, khi đã chuyển sang nền kinh tế thị trường, Nhà nước đã có hàng loạt những chính sách mới nhằm xóa bỏ cơ chế quan liêu bao cấp, xác lập một cơ chế quản lý năng động cởi mở trong khuôn khổ của pháp luật. Trong điều kiện đó, vai trò của việc huy động và sử dụng vốn ngày càng trở nên quan trọng đối với các doanh nghiệp. Doanh nghiệp Nhà nước cũng phải tự tìm nguồn trang trải cho hoạt động của mình. Nhà nước lúc này đóng vai trò như một nhà đầu tư và được hưởng quyền lợi và nghĩa vụ như một nhà đầu tư khác trên thị trường. Doanh nghiệp Nhà nước tiến hành hạch toán theo nguyên tắc lấy thu bù chi và đảm bảo làm ăn có lãi, sử dụng vốn tiết kiệm, có hiệu quả, nắm bắt nhu cầu thị trường, tự chịu trách nhiệm về hiệu quả kinh doanh. Do đó, việc nâng cao hiệu quả của việc huy động và sử dụng vốn của doanh nghiệp Nhà nước ngày càng trở nên cấp bách. Đòi hỏi phải có những biện pháp nhanh chóng và hợp lý về vốn, giúp các doanh nghiệp Nhà nước ngày càng phát triển.

doc70 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1521 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nguồn vốn đầu tư phát triển trong doanh nghiệp. Thực trạng huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển trong doanh nghiệp nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bộ quản lý cũ. Theo điều tra của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, sau khi CPH có tới 81,5% giám đốc, 78% phó giám đốc và kế toán trường DN vẫn giữ nguyên chức vụ; không có DN nào sau khi CPH sử dụng cơ chế thuê giám đốc điều hành.Trong doanh nghiệp nhà nước, lĩnh vực xảy ra lãng phí trước hết là lãng phí sử dụng nguồn nhân lực. Tình trạng dư thừa lao động so với yêu cầu hoạt động sản xuất kinh doanh xảy ra khá phổ biến ở khá nhiều DN. Ví dụ, trong quá trình sắp xếp lại, cổ phần hoá 3.221 DNNN đã có 179.955 LĐ dôi dư (bình quân 1 DN dôi dư 56 LĐ), Nhà nước đã bỏ ra hơn 6.000 tỉ đồng để giải quyết chính sách. LĐ dư thừa đã làm tăng chi phí sản xuất, từ đó làm giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh và khả năng cạnh tranh của DN. 2.2.4.Tài sản vô hình Trước xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, đặc biệt là Việt Nam cam kết cắt giảm thuế quan xuống còn mức 0-5% thì vấn đề cạnh tranh đang đặt ra một thách thức to lớn đối với các doanh nghiệp Việt Nam không chỉ ở thị trường quốc tế mà cả thị trường trong nước. Chính vì vậy, để có thể thâm nhập và đứng vững trên thị trường, song hành cùng chiến lược cạnh tranh và phát triển bền vững, mỗi doanh nghiệp, đặc biệt là người chủ thương hiệu, cần phải có tư duy đúng về thương hiệu để từ đó đầu tư xây dựng, bảo vệ và phát triển nó phù hợp với chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp trong từng giai đoạn Tại hội thảo về định giá tài sản trí tuệ - tài sản vô hình trong doanh nghiệp mới đây, nhiều đại biểu nêu ý kiến cần ban hành các chuẩn mực để định giá tài sản trí tuệ, đặc biệt là thương hiệu, một cách đáng tin cậy. Từ đó tạo điều kiện để các doanh nghiệp góp vốn, hợp tác, kinh doanh, chuyển nhượng các tài sản trí tuệ một cách thuận lợi như các tài sản khác Thống kê của Interbrand về tỷ lệ giá trị tài sản trong tổng tài sản doanh nghiệp cho thấy tài sản vô hình, trong đó có thương hiệu rất quan trọng. Thương hiệu chiếm ít nhất 1/3 giá trị cổ phiếu, có những trường hợp rất cao như McDonald’s (71%), Disney (68%), Coca-Cola và Nokia (51%). Còn tại Việt Nam, thương hiệu kem đánh răng P/S đã được mua lại với giá 5,3 triệu USD. Một số DNNN lớn, hoạt động tốt như Vinamilk, Bảo Minh, Vietcombank trong quá trình cổ phần hoá thì thương hiệu và tên tuổi nổi tiếng, tài sản vô hình có thể có giá trị không kém tài sản hữu hình Tuy nhiên ở VN hiện nay thương hiệu cũng chưa được đánh giá một cách thật chính xác . Bộ Tài chính có công không cho phép Tổng công ty Bưu chính viễn thông Việt Nam và Công ty TNHH xây dựng và chế biến thực phẩm Kinh Đô về việc góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng thương hiệu để thành lập công ty cổ phần. Theo các chuyên gia, đây là một thiệt thòi cho các công ty có thương hiệu mạnh tại Việt Nam, làm nản lòng việc đầu tư cho thương hiệu. Hiện nay, các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) lớn như Vietcombank, Bảo Minh đều gặp khó khăn trong cổ phần hoá vì không định giá được tài sản vô hình , trong đó có thương hiệu. Mặc dù Bộ Tài chính đã có quy định công thức tính giá trị lợi thế kinh doanh của DNNN (dựa vào giá trị tài sản trên sổ sách, tỷ lệ lợi nhuận bình quân của doanh nghiệp), các công ty này vẫn cảm thấy không hợp lý và khó áp dụng. Vấn đề này đặc biệt nghiêm trọng đối với các DNNN lớn trong các ngành dịch vụ như bảo hiểm, ngân hàng, tư vấn- ngành mà yếu tố thương hiệu phụ thuộc vào uy tín, sự cam kết và lòng tin của khách hàng Để xác định giá trị doanh nghiệp Vinaconex tại thời điểm 1/1/2004, Bộ Xây dựng đã thống nhất thuê 2 công ty kiểm toán độc lập vào kiểm toán trước. Theo đó, Vinaconex có tổng giá trị tài sản gần 3.700 tỉ nhưng giá trị tài sản vô hình chỉ 6,6 tỉ, bao gồm “giá trị lợi thế kinh doanh” 3,1 tỉ và “giá trị thương hiệu” 3,5 tỉ Mặc dù Bộ Tài chính đã quy định công thức tính giá trị lợi thế kinh doanh của các DNNN (dựa trên giá trị tài sản trên sổ sách và tỷ lệ lợi nhuận bình quân của doanh nghiệp), các công thức này khó áp dụng trên thực tế. Vấn đề này đặc biệt nghiêm trọng đối với các DNNN lớn trong các ngành dịch vụ như bảo hiểm, ngân hàng, tư vấn. Nhiều quan điểm cho rằng phương pháp định giá tốt nhất trong những trường hợp này là đấu giá công khai. Song một số DNNN lo ngại rằng đấu giá công khai sẽ chỉ thu hút các nhà đầu tư cá nhân nhỏ lẻ chứ không giúp họ đạt được mục tiêu chính khi cổ phần hoá là đem lại những định chế đầu tư chiến lược để đóng góp kinh nghiệm quản lý và chiến lược kinh doanh cho doanh nghiệp. Thông tin mới nhất cho thấy, nếu tính cả cộng đồng doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực, ngành hàng thì cho tới nay số doanh nghiệp đã đăng ký thương hiệu, nhãn mác, xuất xứ hàng hoá mới chiếm khoảng 25%. Bình quân mỗi tháng chỉ có trên dưới 1.300 thương hiệu xin đăng ký bảo hộ. Nếu doanh nghiệp không chịu bỏ ra một khoản chi phí nhỏ ban đầu để đăng ký bảo hộ thương hiệu bản quyền sáng chế hàng hoá của mình thì sẽ bị doanh nghiệp nước ngoài "chiếm đoạt" phải tốn chi phí đi kiện tụng gấp tới hàng chục lần. Võng xếp Vĩnh Lợi, Cà phê Trung Nguyên... là những ví dụ rõ nhất. Trong quá trình chuyển đổi của nền kinh tế VN tuy đã diễn ra hơn 20 năm nhưng việc cạnh tranh và hội nhập mới diễn ra trong vài năm gần đây, nên cần phải có thời gian mới xây dựng nên những thương hiệu là biểu tượng cho VN được. Ví dụ như Hàng không VN chẳng hạn có thể đầu tư xây dựng thành thương hiệu biểu tượng của quốc gia, như Kinh đô, như ngân hàng ACB, Vinamilk.v.v. đều đang là những thương hiệu tốt, nhưng cần nỗ lực, cần thời gian, đầu tư để trở thành thương hiệu biểu tượng của quốc gia Bài học rõ ràng nhất là công cuộc đầu tư cho ngành dầu khí quốc gia. Việt Nam và Malaysia cùng một xuất phát điểm khi đầu tư cho nền công nghiệp khí từ những năm 1974-1975, nhưng đến nay, Petronas đã được biết đến như một tập đoàn dầu khí quốc tế, có hoạt động kinh doanh với 31 quốc gia khác trên thế giới, có nhiều công trình thăm dò khai thác dầu khí ở nước ngoài, trở thành thương hiệu biểu tượng cho Malaysia đối với các quốc gia khác. Còn Petro VN mặc dù cũng đã có những cố gắng nhưng vẫn nhỏ bé và thương hiệu vẫn không vượt ra được ngoài vùng lãnh thổ Một số doanh nghiệp NN đã bắt đầu có cái nhìn đúng đắn về vai trò và tầm quan trọng của thương hiệu trong việc phát triển và từng bước vươn ra thị trường thế giới. Năng lực cạnh tranh là yếu tố quyết định sự phồn vinh hay suy thoái, phát triển hay tụt hậu của một doanh nghiệp nói riêng và của cả đất nước nói chung. Trong thực tế, Nhà nước ta đã tạo mọi điều kiện, doanh nghiệp cũng đã có nhiều cố gắng phát huy mọi lợi thế và khả năng để tăng sức cạnh tranh hàng hoá, dịch vụ trên thương trường, chuẩn bị tốt cho hành trang hội nhập. Tập đoàn dệt may VN đang tập trung xây dựng từ 10 đến 20 thương hiệu sản phẩm quốc gia để quảng bá ra nước ngoài, đồng thời mua bản quyền và liên kết sản xuất từ 2 đến 4 thương hiệu nổi tiếng thế giới để bán trong nước Việt Nam hiện nay chưa có thương hiệu nào nằm trong top 1000 thương hiệu mạnh của thế giới cũng như 1000 thương hiệu mạnh của khu vực châu Á Thái Bình Dương. Cái đó là vì các DN của chúng ta sống trong một thời gian dài không việc gì phải cạnh tranh. 2.2.5. Đầu tư xây dựng cơ bản và mua tài sản cố định Đầu tư xây dựng cơ bản là hoạt động góp phần quan trọng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tăng đáng kể năng lực sản xuất mới. Trong những năm qua, công tác xây dựng cơ bản đã tập trung vào những mục tiêu quan trọng về phát triển kinh tế - xã hội. Các nguồn vốn đầu tư từ các DNNN chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực giao thông, thủy lợi, điện, bưu chính - viễn thông, nông nghiệp, nông thôn, khoa học, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng dần tỷ trọng ngành công nghiệp, xây dựng; tăng dần và cơ cấu lại ngành dịch vụ; giảm dần tỷ trọng ngành nông, lâm, thủy sản. Dầu khí, điện lực, bưu chính viễn thông... đã trở thành những ngành công nghiệp, dịch vụ mũi nhọn của đất nước. Nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ DNNN cũng như nguồn vốn từ Ngân sách thực sự có vai trò chủ đạo, dẫn dắt, thu hút và làm cho các nguồn vốn của xã hội được huy động cho đầu tư phát triển không ngừng tăng nhanh hằng năm và ngày càng đa dạng. Tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản của DNNN (t ỷ đ ồng) N ăm Vốn xây dựng cơ bản của doanh nghiệp nhà nước 1985 817.6(giá so sánh 1989) 1986 772.8(giá so sánh 1989) 1987 631.5(giá so sánh 1989) 1988 784.8(giá so sánh 1989) 1989 631.7(giá so sánh 1989) 1990 924.8(giá so sánh 1989) 1991 1060.6(giá so sánh 1989) 1992 787.8(giá so sánh 1989) 1993 1410.4(giá so sánh 1989) 1994 2140.8(giá so sánh 1989) 1995 2279.4(giá so sánh 1994) 1996 8400.7(giá so sánh 1994) 1997 9413.3(giá so sánh 1994) 1998 10874.5(giá so sánh 1994) 1999 115616.9(giá so sánh 1994) Nguồn:tổng cục thống kê Thành Phố Hồ Chí Minh Trong khi vốn đầu tư của DN Nhà nước tiếp tục là nguồn chủ lực tuy nhiên bên cạnh những kết quả đạt được, công tác xây dựng cơ bản còn nhiều hạn chế, yếu kém, làm ảnh hưởng tới sự phát triển nhanh, có chất lượng và bền vững của nền kinh tế, xã hội. Việc triển khai thực hiện dự án, công trình kéo dài, không theo kế hoạch, khối lượng đầu tư dở dang nhiều.thậm chí là khi đã xây dựng xong lại không sử dụng. Tình trạng thất thoát, lãng phí vốn đầu tư xây dựng cơ bản diễn ra trong các dự án đầu tư trong tất cả các giai đoạn của quá trình đầu tư, thậm chí một số dự án, công trình bị thất thoát lớn do tham nhũng, vụ việc phải khởi tố hình sự; cán bộ quản lý bị xử lý kỷ luật, truy tố trước pháp luật. III. Đánh giá về tình hình huy động và sử dụng vốn. Cùng với quá trình đổi mới các DNNN, tình hình huy động và sử dụng vốn của các DNNN đã có nhiều chuyển biến tích cực, đồng thời cũng gặp nhiều khó khăn vướng mắc, xuất phát từ cả phía doanh nghiệp cũng như những điều kiện bên ngoài. Từ thực trạng trên, ta rút ra một số những kết quả đạt được cũng như các hạn chế và nguyên nhân trong việc huy động và sử dụng vốn của các doanh nghiệp hiện nay. 2.3.1.Những mặt tích cực 2.3.1.1. Quá trình cổ phần hoá giúp doanh nghiệp thu hút vốn được từ nhiều nguồn hơn tạo tiền đề nâng cao sức cạnh tranh cho doanh nghiệp. Mục đích chính của cổ phần hoá là huy động vốn kinh nghiệm quản lý từ bên ngoài. Hầu hết các doanh nghiệp cổ phần hoá đều xác định được giá trị và thực hiện bán đấu giá cổ phần lần đầu thông qua sở giao dịch chứng khoán, trung tâm giao dịch chứng khoán và các tổ chức tài chính trung gian. Thông qua việc bán cổ phần ra bên ngoài, doanh nghiệp cổ phần hoá đã chủ động lựa chọn được nhà đầu tư chiến lược trong và ngoài nước. Tạo ra năng lực mới mở rộng thị trường, tăng nguồn lực tài chính để mở rộng sản xuất kinh doanh. Kết quả điều tra trên 850 doanh nghiệp sau cổ phần hoá cho thấy vốn điều lệ tăng 44%, doanh thu tăng 23,6%, lợi nhuận tăng 139,7% đóng góp vào ngân sách nhà nước tăng 24,9% thu nhập trung bình tăng 12% và mức cổ tức trung bình chia cho các cổ đông cũng tăng 17,12%. Cổ phần hoá tạo ra loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, bao gồm nhà nước, người lao động, cổ đông ngoài doanh nghiệp. Bình quân nhà nước đang nắm giữ 46,3%, người lao động trong doanh nghiệp nắm giữ 29, 6%. Cổ đông ngoài doanh nghiệp nắm giữ 24,1% vốn điều lệ. Đây là nhân tố quan trọng giúp cho việc sử dụng vốn có hiệu quả hơn. Là động lực thúc đẩy người lao động làm việc cống hiến hết mình cho doanh nghiệp vì quyền lợi của chính mình. Nợ xấu của DNNN là một vấn đề rất khó giải quyết nhưng chỉ sau một thời gian cổ phần hoá nợ xấu của DNNN cũng được xử lý một bước căn bản tạo điều kiện cho doanh nghiệp thật sự lành mạnh về tài chính khi hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần.Trong hơn 2000 doanh nghiệp nhà nước đã giải quyết được tổng nợ 2000 – 3000 tỷ đồng mà không ảnh hưởng đến giá trị doanh nghiệp. 2.3.1.2. Quy mô vốn tăng, chi phí vốn thấp, khả năng sản xuất kinh doanh được nâng cao Quy mô vốn tăng thể hiện qua cả vốn vay và vốn chủ sở hữu đều gia tăng qua các năm, nhiều nhất là vốn vay ngân hàng. Tốc độ tăng trưởng hàng năm là 12,7% năm. Trong đó vốn vay ngân hàng tăng 15%, vốn chủ sở hữu tăng 6,5%. Có được điều này là nhờ tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp đã được cải thiện đáng kể, có nhiều dự án đầu tư mới hoặc mở rộng sản xuất. Do vậy tạo được uy tín để các ngân hàng cho vay vốn. Và hiện nay các ngân hàng là người tài trợ vốn vay chủ yếu cho các doanh nghiệp. Mặc dù vốn vay ngắn hạn vẫn chiếm tỷ lệ lớn 30 đến 40% trong tổng vốn vay dài hạn và trung hạn cũng đã đáp ứng được phần nào nhu cầu đầu tư của doanh nghiệp. Bên cạnh hình thức huy động vốn từ vay ngân hàng như trên thì dịch vụ cho thuê tài sản của các ngân hàng cũng được áp dụng và đây được xem như một phương thức tài trợ, hiệu quả cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Vốn chủ sở hữu tăng mặc dù tốc độ chưa cao nhưng chứng tỏ nhà nước với tư cách là chủ sở hữu vẫn thực hiện chính sách hỗ trợ thuận lợi cho các doanh nghiệp. Chi phí vốn của các DNNN là thấp so với lãi suất thị trường. Điều này góp phần nâng cao tính tự chủ và năng lực cạnh tranh cho DNNN. 2.3.1.3. Mạnh dạn đầu tư đổi mới khoa học công nghệ nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm. Qua cổ phần hoá đã thu hút được thêm 21000 tỷ đồng đầu tư đổi mới công nghệ mở rộng sản xuất kinh doanh nâng cao đời sống người lao động. Doanh thu, lợi nhuận tăng lên, doanh nghiệp có điều kiện đầu tư theo chiều sâu, đổi mới thiết bị nâng cao công suất chất lượng sản phẩm và mở mang thêm cơ sở sản xuất kinh doanh. Nhiều doanh nghiệp đổi mới máy móc thiết bị, hiện đại hoá công nghệ để doanh nghiệp trong nước dần dần bắt kịp tiến bộ khoa học kỹ thuật khu vực và trên thế giới. Một số DNNN đã tập trung nguồn vốn thích đáng để  đầu tư cho nghiên cứu cơ bản, phát triển một số lĩnh vực khoa học công nghệ mũi nhọn như điện, giao thông, bưu chính viễn thông, vật liệu xây dựng, điện tử, tin học, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới ... Từ đó nâng cao sức cạnh tranh và uy tín thương hiệu cho sản phẩm từng bước vươn ra thị trường quốc tế. 2. Hạn chế 2.1.Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp thấp, chi phí sản xuất, giá thành cao. Thứ nhất, khả năng cạnh tranh về chất lượng sản phẩm. Đến nay, các DNNN chưa tạo ra được các sản phẩm có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Khả năng thiết kế của các DNNN còn thấp. Vì khả năng thiết kế thấp nên kể cả các ngành xuất khẩu chủ lực như dệt may, da giày vẫn còn tiến hành theo phương thức gia công đặt hàng từ bên ngoài. Chất lượng sản phẩm không cao không đủ sức cạnh tranh trong điều kiện hội nhập của nền kinh tế. Thứ hai, khả năng cạnh tranh về giá cả. Đầu tư đổi mới công nghệ chậm , trình độ công nghệ lạc hậu, không đồng bộ nên hiệu quả đầu tư kém. Chi phí đầu tư xây dựng cơ bản lớn làm cho doanh nghiệp đi vào hoạt động rất khó khăn, không trả được nợ. Chi phí khấu hao thiết bị quá lớn do thiết bị lạc hậu, công suất thấp. Nhiều sản phẩm có định mức chi phí tiêu hao nguyên vật liệu cao. Chi phí tiền lương trong giá thành sản phẩm cao nhưng mức lương bình quân thấp do năng suất thấp. Năng suất của khu vực DNNN thấp nhất trong 4 khu vực : DNNN, doanh nghiệp cổ phần hoá, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) Phần trăm (%) Tăng năng suất hàng năm Trình độ quản lý, trình độ chuyên môn của người lao động còn hạn chế, số lao động dôi dư nhiều. Năng suất lao động không cao, tốc độ tăng năng suất thậm chí còn thấp hơn cả doanh nghiệp tư nhân. Bộ máy quản lý các DNNN cồng kềnh, kém năng động, kém hiệu lực. Hầu hết các sản phẩm của DNNN đều có mức giá cao hơn giá các mặt hàng cùng loại trong khu vực. Ví dụ như giá xi măng, giá giấy, dịch vụ viễn thông... đều cao hơn hoặc cao hơn nhiều so với giá cả trong khu vực. Bên cạnh đó có rất ít sản phẩm có chi phí sản xuất thấp hơn nước ngoài nhưng do không am hiểu tính quy luật cũng như các luật lệ giá cả thị trường nên các nhà quản trị đã tự đẩy các doanh nghiệp xuất khẩu của ta vào thế bị kiện vì vi phạm luật chống phá giá. 2.3.2.2. Cơ cấu vốn bất hợp lý Vốn đầu tư cho các DDNN do các ngân hàng thương mại nhà nước chiếm xấp xỉ 50%. Bên cạnh đó do các DNNN thường trông chờ ỷ lại vào nhà nước nên nguồn vốn không được bảo toàn và không có khả năng tự phát triển. Trong trường hợp làm ăn thua lỗ không thu hồi được vốn. Nguồn vốn chủ sở hữu quan trọng nhất lại là từ ngân sách. Khi nguồn ngân sách eo hep, hoặc ngưng không cấp vốn tiếp, các doanh nghiệp chuyển sang tăng cường huy động vốn vay có sự bảo lãnh của nhà nước. Quy mô vốn tự có của doanh nghiệp đều rất nhỏ, không đủ sức tài trợ cho các hoạt động sản xuất kinh doanh có chất lượng hiệu quả cao đặc biệt đối với những doanh nghiệp muốn mở rộng, phát triển quy mô hoạt động vừa đổi mới nâng cao thiết bị công nghệ. Các DNNN chủ yếu hoạt động bằng nợ ngắn hạn, trong khi đó đầu tư dài hạn chiếm tỷ trọng lớn. Đây là biểu hiện trong mất cân đối giữa cơ cấu vốn và cơ cấu đầu tư. Các khoản nợ từ tín dụng thương mại cũng tiềm ẩn nhiều vấn đề về khả năng thanh toán. Các khoản nợ này mang tính chất lịch sử, hoặc do doanh nghiệp quá mở rộng việc cho mua chịu để gia tăng doanh số hay chiếm lĩnh thị trường dẫn đến cho nợ tràn lan. Hậu quả là các khoản phải thu dần trở thành những khoản phải thu khó đòi, đối với doanh nghiệp mua chịu trở thành vốn ngắn hạn không có khả năng thanh toán hoặc cố tình nợ nần dây dưa. 2.3.2.3. Hiện tượng ăn vào vốn vẫn còn tồn tại Theo đánh giá của các chuyên gia: “tốc độ tăng trưởng của DNNN, hiệu quả sử dụng vốn và sức cạnh tranh của DNNN còn thấp, chưa tưng xứng với tiềm lực và lợi thế sẵn có. Nhiều doanh nghiệp chưa thực hiện được bảo toàn vốn và sức cạnh tranh của doanh nghiệp còn thấp. Nhiều doanh nghiệp chưa thực hiện tốt việc thực hiện tốt việc bảo toàn và phát triển vốn, tình trạng ăn vào vốn, mất vốn vẫn còn. Nhiều nhà lãnh đạo của DDNN đã lợi dụng kẽ hở của chính sách để chiếm dụng vốn nhà nước và ăn vào vốn của công ty chiếm dụng. Nhiều giám đốc DDNN đã lấy vốn mà nhà nước cho vay ưu đãi đi mua kỳ phiếu để hưởng lãi suất chênh lệch thay vì đầu tư vào sản xuất. Khi doanh nghiệp thiếu vốn kinh doanh lại huy động vôn cá nhân từ một số người có chức quyền trong công ty. Hành vi này đã làm lợi cho một số cá nhân hàng trăm triệu đồng và đồng nghĩa là vốn nhà nước bị mất dần. Đời sống của người lao động lâm vào cảnh khó khăn, thiếu thốn. 2.3.2.4. Đầu tư không hiệu quả tràn lan Hiện nay, việc sử dụng vốn của doanh nghiệp còn nhiều yếu kém. Các doanh nghiệp chưa biết tập trung vào những ngành then chốt hoặc những ngành mà những doanh nghiệp khác không làm được. Việc đầu tư còn dàn trải, chưa hướng tới nhu cầu thực sự của thị trường, không dám mạnh dạn từ bỏ lĩnh vực cũ để đầu tư sang lĩnh vực mới dẫn đến tình trạng thua lỗ liên miên. Nguyên nhân của tình trạng trên là do chi phí sử dụng vốn của DNNN thấp. Khi nhà nước cấp vốn cho doanh nghiệp với tư cách là chủ sở hữu, không đòi hỏi bất kỳ một chi phí nào, căn cứ để nhà nước đầu tư vốn cho doanh nghiệp hầu như không dựa vào tỷ suất lợi nhuận và chi phí đủ vốn để bù đắp rủi ro mà dựa trên cơ chế cấp phát. DNNN sử dụng vốn không mất chi phí khi đó sẽ dẫn đến việc quản lý, sử dụng vốn không hiệu quả, thậm chí chấp nhận những dự án có tỷ lệ sinh lời thấp hơn chi phí vốn. Một ví dụ điển hình trong giai đoạn hiện nay là ngành mía đường. Cả nước hiện có trên 40 nhà máy đường với tổng công suất thiết kế khoảng 82 ngàn tấn mía một ngày nhưng tổng sản lượng thì liên tục giảm. Có tới 16 nhà máy đường chỉ sử dụng dưới 80% công suất, có tới 5 nhà máy chỉ sử dụng hết 50% công suất. Đầu tư không đồng bộ giữa vùng nguyên liệu mía và xây dựng, không đầu tư theo chiều sâu, máy móc quá lạc hậu so với các nước tiên tiến là nguyên nhân dẫn đến tình trạng đường không cạnh tranh được với đường “nhập lậu”. Tình hình tài chính của các nhà máy đường trên toàn quốc là hết sức thê thảm với số dư nợ khoảng 5000 nghìn tỷ đồng và đa số không có khả năng chi trả (32 doanh nghiệp làm ăn thua lỗ). Bài học từ ngành mía đường cho các doanh nghiệp nhà nước là phải biết sử dụng nguồn vốn có hiệu quả trên cơ sở xuất phát từ tình hình thực tế của thị trường và điều kiện riêng của từng vùng không nên chạy đua theo chính sách nhằm hưởng sự ưu ái của nhà nước, không sớm thì muộn cũng thất bại. 2.3.3. Nguyên nhân 2.3.3.1. Tồn tại tư tưởng cấp phát, cơ chế mệnh lệnh của cơ chế cũ. Sau cổ phần hóa 81,5% giám đôc, 78% chức danh phó giám đốc không thay đổi. Rõ ràng các doanh nghiệp vẫn hoạt dộng như trước về tài chính, tư duy quản lý triết lý kinh doanh vẫn mang dáng dấp của DNNN. Việc thuê giám đốc điều hành đối với các doanh nghiệp vẫn còn rất mới mẻ. Các DNNN ít quan tâm đến lợi nhuận. Ngoài việc thăng tiến của lãnh đạo, doanh nghiệp không có động cơ rõ ràng đối với lợi nhuận. Các doanh nghiệp làm ăn có lãi thường tìm cách chia phần cho cán bộ công nhân viên (tăng lương, ăn giữa ca, thưởng,… ) Giảm lợi nhuận tới mức tối đa. Việc huy động vốn từ lợi nhuận để lại là rất ít. 2.3.3.2. Không nắm bắt được những cơ hội của cơ chế thị trường Do có một thời gian dài các DNNN sản xuất kinh doanh theo cơ chế bao cấp nên việc am hiểu về kinh tế hàng hoá, nắm bắt cơ hội thị trường của các DDNN là chưa nhậy bén. Trong cơ chế mới mỗi doanh nghiệp phải tìm ra cho mình những hướng đi riêng dựa trên nhu cầu của thị trường và năng lực cụ thể của doanh nghiệp mình trong điều kiện nền kinh tế nước ta đang bước vào hội nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới. Đây là một thách thức to lớn đối với các doanh nghiệp đặc biệt là những DNNN vốn quen với bao cấp của nhà nước, nay phải đổi mới để có thể cạnh tranh được với các doanh nghiệp ngoài một cách bình đẳng không có sự bảo trợ của nhà nước theo đúng lộ trình cam kết gia nhập WTO. Nhưng như một con sông ra biển lớn, các DNNN còn rất nhiều bỡ ngỡ chưa tận dụng được những thuận lợi khi nhập WTO. Hầu hết các doanh nghiệp hiện nay vẫn chưa chú trọng đến việc xây dựng thương hiệu cho sản phẩm của mình, việc am hiểu luật pháp quốc tế, cũng như tập quán tiêu dùng, thị hiếu của người tiêu dùng là rất hạn chế khó mà có chỗ đứng ở thị trường nước ngoài. 2.3.3.3. Chủ trương cổ phần hoá chưa thực hiện triệt để Có nhiều doanh nghiệp cổ phần hoá vẫn còn khép kín, chưa thu hút được các nhà đầu tư chiến lược. Các cổ đông bên ngoài chỉ có tỷ lệ vốn nhỏ do vậy không dám mạnh dạn đề xuất và áp dụng phương pháp quản lý, quản trị doanh nghiệp, phương án kinh doanh mới. Việc mua cổ phần doanh nghiệp mà các cổ đông bên ngoài thực ra chỉ có quyền nhận cổ tức, các quyền khác khó có thể thực hiện đầy đủ bởi cổ đông nhà nước với số cổ phần nắm giữ lớn hơn tất cả các cổ đông khác cộng lại, hầu như có quyền định đoạt mọi vấn đề trong đại hội cổ đông và hội đồng quản trị. Hiện nay việc thu hút cổ đông ngoài doanh nghiệp mới đạt 24,1% vốn điều lệ mới có trên 20 công ty có cổ đông là nhà đầu tư nước ngoài. Mặt khác quá trình cổ phần hoá diễn ra hết sức chậm chạp. Nhiều cán bộ cơ quan chủ quản do dự sợ mất quyền lợi, sợ mất đi bao cấp của nhà nước. Với trình độ và năng lực hạn chế họ lo sợ sẽ không được tín nhiệm để được bầu vào hội đồng quản trị. Nhiều lãnh đạo sắp về hưu lại muốn thúc đẩy nhanh cổ phần hoá để mua được nhiều cổ phần và có chân trong hội đồng quản trị. Các văn bản hướng dẫn thi hành nghị định 64/2002/ND – CP về cổ phần hoá còn chậm, bộc lộ nhiều hạn chế như chưa có những hướng dẫn cụ thể để tháo gỡ những khó khăn trong việc xác định giá trị tài sản chưa phù hợp với cơ chế thị trường nhất là việc xác định giá trị đất đai đưa vào giá trị doanh nghiệp đang gặp khó khăn lúng túng chưa có quy định rõ ràng cụ thể, quy chế hỗ trợ vốn tín dụng cho các doanh nghiệp sau cổ phần hoá, thiếu đồng bộ giữa các ngành, các địa phương. Việc xử lý những tồn tại về tài chính của tổng công ty; việc định giá xác định giá trị thực tế toàn Tổng công ty và giá trị phần vốn nhà nước tại Tổng công ty; việc quản lý và đại diện chủ sở hữu phần vốn nhà nước tại Tổng công ty sau khi chuyển đổi; Chi phí thuê tư vấn nước ngoài định giá; việc cổ phần hóa gắn với niêm yết vẫn còn nhiều bất cập và khó khăn; chính sách để tạo điều kiện cho các nhà đầu tư chiến lược chưa được quan tâm đúng mức. Việc giám sát của cổ đông nhà nước là chưa rõ ràng một số khâu trong cổ phần hoá đặc biệt là khâu niêm yết và không niêm yết khi bán ra thị trường chứng khoán còn nhiều lỗ hổng để phát sinh tiêu cực. Gây mất tin cho người lao đông, nhà đầu tư. 2.3.3.4. Huy động vốn qua thị trường chứng khoán còn gặp nhiều khó khăn và nhiều DNNN chưa muốn niêm yết trên thị trường chứng khoán. Hiện nay trong bối cảnh hệ thống ngân hàng chủ động kiềm chế việc cho vay trung và dài hạn để đảm bảo an toàn hoạt động, thì việc phát hành trái phiếu công ty, đặc biệt là qua kênh thị trường chứng khoán sẽ dần trở thành xu hướng mới đáp ứng nhu cầu phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nghị định 52/2006/NĐ-CP của chính phủ cho phép tất cả các doanh nghiệp đều có thể huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu để phục vụ cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Chỉ trong vòng 6 tháng sau khi Nghị định 52 ra đời, các doanh nghiệp đã huy động được khoảng gần 6.000 tỷ đồng trong đó có những doanh nghiệp như Tập đoàn Điện lực Việt Nam huy động được 5.000 tỷ đồng, Tập đoàn Công nghiệp và Tàu thuỷ huy động được 800 tỷ đồng. Đến nay, một số ngân hàng thương mại cũng đang dự kiến và đã phát hành trái phiếu tăng vốn cấp 2 thông qua huy động trái phiếu trên thị trường trong nước như Ngân hàng NN&PTNT (Agribank). Tuy nhiên thị trường trái phiếu doanh nghiệp nước ta so với thế giới vẫn chưa thực sự phát triển. Tổ chức phát thành chủ yếu mới chỉ là các ngân hàng thương mại, các công ty, tổng công ty lớn. Cơ cấu trái phiếu doanh nghiệp trong thị trường trái phiếu Việt Nam còn rất khiêm tốn(chỉ chừng 10%) trong khi trái phiếu chính phủ chiếm đa số (80-83%). Các nhà đầu tư chủ yếu mua và giữ trái phiếu tới khi đáo hạn, các dịch vụ liên quan hầu như chưa có…Việc phát hành trái phiếu ra nước ngoài gặp rất nhiều khó khăn. Nguyên nhân của việc phát hành trái phiếu công ty chưa được triển khai ở nước ta là: thông tin về các tổ chức phát hành còn quá thiếu và độ tin cậy thấp, chưa thực sự chứng tỏ năng lực cũng như hiệu quả kinh doanh; các tầng lớp dân cư chưa quen với trái phiếu công ty; tính hấp dẫn của trái phiếu kém; doanh nghiệp quen huy động vốn bằng hình thức vay vốn tín dụng từ ngân hàng; khuôn khổ pháp lý chưa khuyến khích doanh nghiệp phát hành trái phiếu công ty. Mặt khác, các doanh nghiệp có tâm lý không muốn công bố thông tin khi niêm yết trên thị trường chứng khoán. Đây là một rào cản không chỉ ảnh hưởng đến khả năng huy động vốn của các doanh nghiệp mà còn hạn chế sự phát triển của thị trường chứng khoán, hạn chế của toàn bộ nền kinh tế. Vì chỉ có niêm yết trên thị trường chưng khoán thì doanh nghiệp mới có được kênh huy động vốn lâu dài, thuận lợi và có áp lực buộc phải chuẩn hoá đội ngũ lãnh đạo, nhân viên, trình độ quản lý và kĩ năng tác nghiệp. Từ đó, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.. 2.3.3.5. Công tác ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin trong các DNNN còn nhiều hạn chế. Tốc độ triển khai công nghệ mới trong các doanh nghiệp khá chậm. Mức độ đầu tư cho đổi mới công nghệ của doanh nghiệp còn rất thấp. Hầu hết các doanh nghiệp tiến hành đổi mới công nghệ một cách thụ động, mang tính tình huống, do nhu cầu khách quan nảy sinh trong quá trình sản xuất mà không có kế hoạch dài hạn về đổi mới công nghệ. Phần lớn các doanh nghiệp nước ta đang sử dụng công nghệ tụt hậu so với 2 – 3 mức trung bình của thế giới, 80% -90% công nghệ nước ta là công nghệ ngoại nhập, 76% máy móc, dây chuyền công nghệ nhập thuộc thế hệ 60- 70; 75% số thiết bị máy móc là đồ tân trang. Đổi mới công nghệ của Việt nam ở mức thấp, tính ra chi phí khoảng 0,2- 0,3% doanh thu (Ấn Độ 5%, Hàn Quốc 10%).Do nền tảng khoa học kỹ thuật của nước ta là thấp và yếu kém. Nên việc đổi mới công nghệ của ta chủ yếu phải nhập từ nước ngoài. Mà các công nghệ này chủ yếu là cũ, nhiều doanh nghiệp nhập về mới biết là sản phẩm sản xuất ra không thể cạnh tranh nổi trên thị trường. Mặt khác về yếu tố con người thì trình độ khoa học công nghệ của ta chưa cao nên khả năng hấp thụ công nghệ nhập là rất thấp. Đa số các doanh nghiệp nhà nước còn nhỏ lẻ, nguồn vốn còn hạn hẹp không dám mơ tới những công nghệ hiện đại, buộc phải nhập công nghệ cũ khiến cho hiệu quả sản xuất kinh doanh đạt được là không cao. Sản phẩm làm ra không cạnh tranh được với hàng nhập ngoại về mẫu mã, chất lượng buộc phải bán với giá thấp hơn, dẫn đến doanh thu giảm, lợi nhuận thấp không có khả năng tích luỹ vốn mở rộng sản xuất, đầu tư vào máy móc công nghệ và mãi không bứt phá lên để tìm chỗ đứng vững chắc trên thị trường. CH Ư ƠNG 3 GIẢI PHÁP CHO VIỆC HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG HIỆU QUÂ VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CỦA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC. Ngày nay, khi đã chuyển sang nền kinh tế thị trường, Nhà nước đã có hàng loạt những chính sách mới nhằm xóa bỏ cơ chế quan liêu bao cấp, xác lập một cơ chế quản lý năng động cởi mở trong khuôn khổ của pháp luật. Trong điều kiện đó, vai trò của việc huy động và sử dụng vốn ngày càng trở nên quan trọng đối với các doanh nghiệp. Doanh nghiệp Nhà nước cũng phải tự tìm nguồn trang trải cho hoạt động của mình. Nhà nước lúc này đóng vai trò như một nhà đầu tư và được hưởng quyền lợi và nghĩa vụ như một nhà đầu tư khác trên thị trường. Doanh nghiệp Nhà nước tiến hành hạch toán theo nguyên tắc lấy thu bù chi và đảm bảo làm ăn có lãi, sử dụng vốn tiết kiệm, có hiệu quả, nắm bắt nhu cầu thị trường, tự chịu trách nhiệm về hiệu quả kinh doanh. Do đó, việc nâng cao hiệu quả của việc huy động và sử dụng vốn của doanh nghiệp Nhà nước ngày càng trở nên cấp bách. Đòi hỏi phải có những biện pháp nhanh chóng và hợp lý về vốn, giúp các doanh nghiệp Nhà nước ngày càng phát triển. I. Giải pháp cho việc huy động vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước. 3.1.1. Đẩy mạnh quá trình cổ phần hoá , đa dạng hoá sở hữư doanh nghiệp nhà nước Cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước ngay nay được áp dụng hết sức rộng rãi . Tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước thực sự có bước chuyển biến mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng .Mục đích của chương trình này là tạo ra loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, trong đó có chủ sở hữu là người lao động, để quản lý và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn, tạo cơ chế quản lý năng động cho doanh nghiệp, đồng thời giúp doanh nghiệp có thể huy động vốn trong toàn xã hội để đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao sức cạnh tranh, thúc đẩy sự phát triển doanh nghiệp. Việc chuyển đổi doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần không chỉ giúp Nhà nước bảo tồn nguồn vốn mà còn tăng đáng kể tỉ suất lợi nhuận trên đồng vốn. Các doanh nghiệp hoạt động năng động, nhạy bén và tự chủ hơn trong kinh doanh. Quá trình cổ phần hoá đã thu hút rộng rãi các nguồn vốn của người lao động cả trong doanh nghiệp và ngoài xã hội, nhờ đó doanh nghiệp có vốn đầu tư đổi mới công nghệ, phát triển sản xuất kinh doanh theo chiều sâu. Để có thể thực hiện cổ phần hoá một cách hiệu quả nhất ph ải: - Rà soát lại các tiêu chí phân loại DNNN cần duy trì 100% sở hữu nhà nước, những doanh nghiệp có cổ phần chi phối và những doanh nghiệp trong đó nhà nước sẽ bán phần lớn cổ phần hoặc toàn bộ cổ phần, giảm bớt ngành nghề, lĩnh vực nhà nước nắm cổ phần chi phối. - Đối với những doanh nghiệp nhà nước cần nắm 100% sở hữu: + Từng bước tạo lập khuân khổ pháp lý để tiến hành công ty hoá DNNN (chuyển DNNN 100% vốn Nhà nước sang hoạt động theo mô hình công ty và luật doanh nghiệp). Đối với các doanh nghiệp loại này: · Cần tiến hành tách quyền sở hữu các DNNN kinh doanh ra khỏi các cơ quan của Chính phủ; xác định cơ quan duy nhất thực hiện quyền sở hữu và kiểm soát đối với doanh nghiệp. Cơ quan này thay mặt nhà nước thực hiện quyền sở hữu đối với doanh nghiệp. · Chuyển giao những trách nhiệm tài trợ và thực hiện các chức năng xã hội của doanh nghiệp sang cho chính quyền địa phương thực hiện, thực hiện quỹ luận ngân sách nghiêm ngặt. · Nâng cấp hệ thống thông tin tài chính và công bố những báo cáo về kiểm toán, tài chính; nâng cáo năng lực quản lý và kế toán. · Đưa ra hệ thống đòn bẩy khuyến khích các nhà quản lý và công nhận nâng cao kết quả, các cán bộ quản lý phải có các hợp đồng quy định những điều khoản trả lương theo kết quả công nghiệp. + Xây dựng hệ thống chỉ tiêu giám sát có hiệu quả đối với các DNNN còn giữ 100% sở hữu Nhà nước, trong đó có các DNNN đã chuyển sang công ty hoá. - Đối với DNNN thuộc diện cổ phần hoá: +Làm rõ những vấn đề còn tồn tại về cổ phần hoá như đánh giá lại tài sản, các thủ tục, phương thức cổ phần hoá. + Đổi mới chế độ chính sách đối với nhà đầu tư, người mua cổ phần. +Thiết lập quỹ hỗ trợ thất nghiệp cho những người bị mất việc làm do cổ phần hoá. - Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giải thích động viên các thành viên trong xã hội tham gia mua cổ phần. - Đối với các DNNN quy mô chỉ thua lỗ kéo dài hoặc nhà nước không cần nắm giữ cổ phần: + Đẩy nhanh việc ban hành nghị định giao, bán khoán kinh doanh cho thuê DNNN để đẩy mạnh đa dạng hoá sở hữu, phương thức quản lý doanh nghiệp, giảm bớt doanh nghiệp quy mô nhỏ Nhà nước không giữ 100% vốn sở hữu. + Ưu tiên về chính sách đối với các trường hợp tiếp nhận nhiều lao động của các doanh nghiệp này. + Ban hành chính sách giải quyết nợ cho các doanh nghiệp chuyển sang áp dụng giao, bán, khoán kinh doanh và cho thuê. 3.1.2. Thực hiện sát nhập các doanh nghiệp: tích tụ và tập trung vốn. Trong nên kinh tế thị trường, khi nước ta ra nhập VVTO doanh nghiệp vừa và nhỏ đồng nghĩa với việc đơn điệu về sản phẩm, chất lượng thấp, giá thành cao, không đủ lợi thế so với những doanh nghiệp có quy mô lớn, trang bị hiện đại chi phí sản xuất thấp.... Để đạt được mục tiêu đề ra về đổi mới, sắp xếp lại, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước, đến năm 2005 các doanh nghiệp nhà nước phải có quy mô vừa và lớn, với mức vốn bình quân doanh nghiệp 100% vốn nhà nước đạt trên 71 tỷ đồng.Do vậy cần phải xúc tiến thành lập các tập đoàn kinh tế, các Tổng công ty hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con,... trên cơ sở các doanh nghiệp có sản phẩm, thương hiệu có sức cạnh tranh trên thị trường khu vực và quốc tế là rất cần thiết. Hiện nay ở nước ta đang tồn tại nhiều hình thức hợp tác, liên kết giữa các doanh nghiệp, trong đó, nổi bật là những hình thức: hợp tác giữa hai doanh nghiệp hoặc nhiều doanh nghiệp trong mô hình tổng công ty nhà nước; hợp tác giữa một doanh nghiệp và một ngân hàng trong nước; hợp tác giữa một doanh nghiệp trong nước với đối tác nước ngoài để xuất khẩu sản phẩm và tìm được sự hỗ trợ về vốn, công nghệ. Quan hệ giữa các công ty thành viên và với tổng công ty là quan hệ phối thuộc tương hỗ lẫn nhau, chứ không phải quan hệ phụ thuộc, do đó tránh được tình trạng ỷ lại, dựa dẫm vào Tổng Công ty mà không tự phát triển bản thân mình. Liên kết, hình thành các tập đoàn doanh nghiệp mạnh đủ năng lực cạnh tranh và giảm thiểu khả năng rủi ro nhờ chia xẻ với nhiều nhà đầu tư khác là hướng đi hiệu quả để các doanh nghiệp mở rộng quy mô, tăng cường tích tụ, tập trung vốn. Quá trình tập trung, tích tụ và huy động vốn có thể thông qua mô hình các tập đoàn kinh tế, mô hình Công ty mẹ, công ty con hay qua hình thức Hiệp hội,... dưới hình thức nào, mô hình nào cũng phải đi vào thực chất, bảo đảm hiệu quả và sự phát triển của doanh nghiệp. 3.1.3. Tạo lập vốn chủ sở hữu Muốn tạo lập dược vốn chủ sở hữu các doanh nghiệp phải làm ăn có lãi. Nếu sản xuất kinh doanh khá, sản phẩm cạnh tranh được với thị trường thì không những có lợi nhuận mà vốn cũng được quay vòng nhanh, ngược lại nếu sản xuất kinh doanh kém hiệu quả thì vốn sẽ bị ứ đọng. Để từng bước nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong các DNNN cần tiếp tục đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa DN, kinh nghiệm cho thấy chỉ có cổ phần hóa thì vốn mới được quản lý chặt chẽ hơn. Thực tế cho thấy cũng có rất nhiều doanh nghiêp làm ăn có lãi, lợi nhuận đạt dược rất cao .Đây là nguồn vốn quan trọng dể bổ sung vào nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Để tao lập vốn được nguồn vốn này các DN cần thực hiện những giải pháp sau: - Thứ nhất là, ưu tiên sản xuất các sản phẩm có khả năng cạnh tranh cao và có thể xuất khẩu. Giữ vững thị trường trong nước và phát triển thêm thị trường ngoài nước, cải tiến mẫu mã sản phẩm phù hợp với yêu cầu của người tiêu dùng. - Thứ hai là, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn , nắm bắt được những cơ hội đầu tư một cách nhanh chóng - Thứ ba là, thực hiện đầu tư có hiệu quả và có những thiết bị mang tính “vượt trội”, áp d ụng mh ững ti ến b ộ khoa h ọc k ĩ thu ật hi ện đ ại v ào s ản xu ất kinh doanh , trên cơ sở tổ chức hợp tác sâu rộng trong và ngoài nước. - Thứ tư là, tăng cường đào tạo và thu hút đội ngũ cán bộ kỹ thuật và công nhân có chuyên môn và tay nghề cao. - Thứ năm là, làm tốt công tác tài chính kinh doanh để tái sản xuất mở rộng Tcty và các doanh nghiệp thành viên. - Thứ sáu là , tổ chức hợp tác sâu rộng, liên doanh, liên kết trong và ngoài nước. 3.1.4. Đổi mới, phát triển,nâng cao hiệu quả hoạt động của các DNNN Trong nền kinh tế thị trường đang hội nhập, doanh nghiệp nhà nước ngày càng bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém. Hoạt động của doanh nghiệp chưa đạt hiệu quả, khả năng tạo ra lợi nhuận kém, hàng tồn kho tiêu thụ chậm, công nợ chưa thanh toán được... cộng thêm các cơ chế, quy chế quản lý của doanh nghiệp nhà nước cũng ngày càng trở nên bất cập với thực tiễn... khiến các ngân hàng e ngại khi xem xét cho vay đối với các doanh nghiệp nhà nước.Do vậy để có thể tìm nguồn vốn huy động từ bên ngoai mà chủ yếu là từ các NHTM DNNN phải nâng cao độ tín nhiệm đối với ngân hàng. Để đạt dược điều này các DNNN phải đẩy mạnh hơn nữa việc sắp xếp, tổ chức lại,đổi mới, phát trển và nâng cao hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước: * Đổi mới DNNN: Từng bước tạo lập môi trường sản xuất kinh doanh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế; tách bạch rõ chức năng quản lý nhà nước, quản lý của chủ sở hữu với chức năng quản trị kinh doanh của doanh nghiệp; xóa bỏ cơ chế chủ quản; phân định rõ quyền của các cơ quan nhà nước thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu đối với DNNN; cơ cấu lại vốn và tài sản theo hướng tích cực và có hiệu quả, giảm các khoản nợ xấu và tài sản tồn đọng; kiên quyết và khẩn trương xóa bỏ tình trạng bao cấp, bảo hộ bất hợp lý, đặc quyền và độc quyền trong kinh doanh của các DNNN.  * Đẩy mạnh cải cách, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp: +) Đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý về đổi mới doanh nghiệp Nhà nước, trong đó phân định rõ chức năng quản lý của Nhà nước và doanh nghiệp, nhất là các quyền của chủ sở hữu nhà nước đối với doanh nghiệp +) Ban hành chế độ phân phối cổ phần hợp lý; +) Đổi mới phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp, giám sát hoạt động kinh doanh và việc chấp hành quy định của Nhà nước tại doanh nghiệp. II. Giải pháp cho việc sử dụng vốn đầu tư phát triển DNNN 3.2.1. Tăng cường giám sát , quản lý phần vốn được dầu tư Về cơ cấu vốn trong doanh nghiệp bao gồm nhiều nguồn như nguồn vốn chủ sở hữu, vốn được bổ sung từ lợi nhuận hàng năm, các quỹ của xí nghiệp, vốn đi vay của các tổ chức tín dụng; vốn đi chiếm dụng của khách hàng. Mỗi loại vốn phản ánh tính chất và nguồn hình thành khác nhau. Thực tế hiện nay cần đi sâu xem xét công tác quản lý vốn của DN chủ yếu là các loại vốn trong thanh toán như công nợ phải thu; các khoản nợ phải trả trong đó có nợ vay ngân hàng. Bởi lẽ những khoản nợ này chiếm tỷ trọng lớn và ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình sản xuất kinh doanh. Nếu công tác quản lý tốt thì khả năng phát sinh những khoản nợ này chỉ tồn tại trong thời gian nhất định và ngược lại nếu công tác quản lý yếu kém (nợ từ các năm trước chuyển sang) thì công nợ sẽ tăng lên. Vấn đề đặt ra là không cho phép DN để khách hàng chiếm dụng vốn lâu ngày, chỉ được phép chiếm dụng trong thời hạn cho phép khoảng trong vòng 1 tháng (khoảng 30 ngày). - Nâng cao tính chuyên nghiệp của đội ngũ các bộ quản ký điều hành - Sửa đổi bổ sung cơ chế chính sách phù hợp với quá trình sắp xếp đổi mới doanh nghiệp nhà nước - Khuyến khích hình thức thuê người quản lý điều hành, đồng thời gắn hiệu quả sử dụng đồng vốn với quyền hạn và nhiệm vụ thông qua hưpi đồng kinh tế. -Tăng cường quản lý ,giám sát, phàn vốn được đầu tư: ban hành các cơ chế giám sát, thực hiện rà soát một cách nghiêm ngặt, có hiệu qủa - Dung quyền của cổ đông đưa các doanh nghiệp có đủ điều kiện tham gia thị trường chính khoán tạo ra một kênh minh bạch thông tin, tạo sự giám sát mạh mẽ của xã hội đối với các doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về chính khoán - Rà soát, kiểm soát và có phương án cơ cấu lại vốn đang đầu tư tại các DNNN - Thực hiện công khai minh bạch và tuân thủ nghuyên tắc thị trường trong quá trình hoạt động đầu tư - Nhà nước cần sớm nghiên cứu sửa đổi, bổ sung cơ chính trong việc quản lý vốn đầu tư tại các DNNN 3.2.2. Khai thác triệt để nguồn vốn bên trong doanh nghiệp. Để nâng cao hiệu quả quản lý sử dụng vốn, cần tìm nghuồn vốn tập trung vốn cho cho DNNN.Trong đó , cần khai thác triệt để nguồn vốn bên trong doanh nghiệp: từ lợi nhuận dể lại , từ các quỹ. Để có dược điều này cần thiết nhất các DNNN phải hoạt động kinh doanh có lãi, có hiệu quả , lợi nhuận đạt dược phải cao đặc biệt trong những ngành lĩnh vực có tích chất quan trọn. Và từ đó có sự quản lý doanh thu, chi phi và phân phối lợi nhuận một cách hợp lý: * Quản lý doanh thu ,chi phí - Cơ chế quản lý chi phí của doanh nghiêp theo hướng mở rộng quyền của người quản lý và điều hành doanh nghiêp trong việc quyết định các khoản chi phí, trên cơ sở trách nhiệm rõ ràng, cụ thể.  - Xây dựng và ban hành cơ chế kiểm soát chi phí của các doanh nghiệp trong các ngành có lợi thế hoặc độc quyền, chống việc lợi dụng những lợi thế, độc quyền để tạo nên những đặc quyền, đặc lợi.  * Phân phối lợi nhuận   - Cần khẳng định lợi nhuận sau thuế là của Nhà nước, Nhà nước có toàn quyền quyết định việc sử dụng các khoản lợi nhuận này. Nhà nước dành một phần khoản lợi nhuận sau thuế để khen thưởng và đảm bảo phúc lợi cho người lao động trong doanh nghiệp, song không tạo thành một đặc quyền của họ so với những người lao động ở các doanh nghiệp khác tạo nên sức ì khi chuyển đổi hình thức sở hữu.   - Xác định lại hệ thống quỹ của doanh nghiệp. Lợi nhuận sau thuế sau khi dành một phần để trích quỹ khen thưởng, phúc lợi, còn lại dùng để đầu tư đổi mới công nghệ, thay thế thiết bị, bổ sung vào vốn cho doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp không có các nhu cầu này hoặc nhà nước thấy không cần thiết phải đầu tư lại cho doanh nghiệp thì nhà nước sẽ thu hồi lại để đầu tư cho những doanh nghiệp có nhu cầu hoặc cần thiết phải đầu tư.  - Cải cách chế độ tiền lương: Thực hiện chế độ tiền lương theo chức danh tiêu chuẩn, tiền lương phải thực sự là thu nhập chủ yếu của người lao động đủ sức nuôi sống bản thân người lao động và gia đình (thậm chí còn có tích luỹ), còn tiền thưởng chỉ là thứ yếu nhằm kích thích người lao động hoàn thành tốt công việc được giao.  3.2.3. Tìm nguồn huy động vốn bên ngoài hợp lý, hiệu quả -Trước hết, DNNN cần kiên quyết xóa bỏ các loại bảo hộ bất hợp lý như khoanh nợ, giãn nợ, xóa nợ cấp vốn tín dụng ưu đãi tràn lan đối với các hoạt động kinh doanh của DNNN. Thực hiện đầu tư vốn thông qua các Công ty đầu tư tài chính của Nhà nước. Hiện nay, vẫn còn nhiều vướng mắc về cơ chế chính sách trong quá trình thực hiện chưa được tháo gỡ, tiến độ thực hiện chậm, hiệu quả hoạt động của nhiều DNNN còn thấp, tình trạng thất thoát, lãng phí và tham nhũng chưa được khắc phục. -Trong điều kiện vốn ngân sách Nhà nước còn nhiều khó khăn phải giải quyết nhu cầu chi tiêu lớn cho an ninh quốc phòng và các nhu cầu phát triển kinh tế, văn hóa xã hội khác nên việc trợ giúp cho các DN cũng rất hạn hẹp. Bản thân các ngân hàng thương mại cũng là DN nên nguồn vốn cho vay cũng là nguồn vốn huy động. Nếu DN không trả được nợ thì ngân hàng cũng sẽ không có vốn để quay vòng và ngược lại. Nên DN phải nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh là chính, tận dụng mọi nguồn thu và huy động vốn từ nhiều nguồn để giảm bớt những áp lực khó khăn nói chung. -Đối với các DNNN đã, đang và sẽ sắp xếp lại để cổ phần hóa, các ngân hàng thương mại chủ động tham gia xây dựng và quyết định phương án sắp xếp lại DNNN với vai trò là chủ nợ, phù hợp với chính sách và giải pháp tiếp tục đổi mới DNNN. Đồng thời, tiếp tục mở rộng đầu tư vốn tín dụng để giúp cho các DN đổi mới công nghệ bằng nguồn vốn trung dài hạn để mua sắm các loại máy móc thiết bị, dây chuyền sản xuất và xây dựng nhà xưởng để DN có đủ sức cạnh tranh cao, phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững trong quá trình hội nhập quốc tế. -Đối với tín dụng ngân hàng cần tập trung đầu tư vốn vào các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả, có dự án khả thi và có khả năng trả nợ. -Tăng cường đôn đốc thu hồi nhanh vốn nhanh, thực hiện phương thức "tiền vào hàng ra, tiền trao cháo múc" hạn chế tối đa nhất các khoản vốn đi chiếm dụng và vốn bị chiếm dụng trong thanh toán. Tiếp tục đầu tư đổi mới công nghệ nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm. Trên cơ sở đó tạo ra lợi nhuận trong DN, nâng cao đời sống của người lao động. -Phát triển mạnh các DN vừa và nhỏ, khuyến khích đầu tư cho các DN tư nhân, Công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, cần phát triển mạnh mẽ các mô hình DN tư nhân, mô hình này rất thích hợp với nền kinh tế thị trường ở nước ta. 3.2. 4. Xây dựng chiến lược đầu tư đúng hướng, sử dụng vốn tiết kiệm có hiệu quả. Hiệu quả sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường phụ thuộc rất lớn vào hoạt động tài chính, hoạt động đầu tư của doanh nghiệp. Do đó: - Doanh nghiệp cần xây dựng một kết cấu tài sản hợp lý: kết cấu tài sản tùy thuộc vào đặc thù kinh doanh của từng doanh nghiệp. Do đó, doanh nghiệp cần xây dựng một cơ cấu tài sản tối ưu, phù hợp với đặc thù ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp. - Tăng tốc độ chu chuyển vốn, nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản. + Thường xuyên cập nhật khoa học kỹ thuật, chú trọng đổi mới trang thiết bị, tận dụng tối đa công suất máy móc, thiết bị, hợp lý hóa môi trường công nghệ. + Kịp thời thanh lý các tài sản cố định không cần dùng hoặc đã hư hỏng. + Không dự trữ quá mức các tài sản cố định chưa cần dùng, linh hoạt sử dụng quỹ khấu hao vào việc đầu tư kinh doanh sinh lòi, mua bảo hiểm tài sản để phòng ngừa rủi ro. + Sử dụng đúng các chức năng của quỹ dự phòng tài chính, trích trước chi phí dự phòng, giảm giá các khoản đầu tư tài chính. + Cân nhắc thận trọng khi đầu tư đổi mới tài sản cố định, thực hiện biện pháp đánh giá đúng giá trị tài sản cố định, lựa chọn phương pháp khấu hao thích hợp, mức khấu hao thích hợp không để mất vốn, hạn chế tối đa ảnh hưởng của hao mòn vô hình. + Sau mõi kỳ kinh doanh doanh nghiệp cần tiến hành phân tích đánh giá tình hình sử dụng tài sản cố định vào vốn, kiểm kê tài sản cố định, mọi trường hợp phát hiện thừa, thiếu đều phải lập biên bản tìm nguyên nhân và có biện pháp xử lý. + Nhà nước công bố hệ số trượt giá thì vốn doanh nghiệp phải tăng theo cùng hệ số để trích khấu hao cho đủ. + Doanh nghiệp có thể áp dụng các biện pháp tăng tốc độ vốn lưu động như: áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật để rút ngắn chu kỳ sản xuất sản phẩm, sớm đưa nguyên vật liệu và chế biến. Như vậy vấn đề sử dụng vốn tiết kiệm có hiệu quả vốn kinh doanh được coi là giải pháp nóng, nhằm khắc phục tình trạng thất thoát vốn trong đầu tư xây dựng cơ bản do lãng phí, tham ô tham nhũng và hiệu quả sử dụng vố thấp. Việc tiết kiệm và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn có tầm quan trọng và tính khả thi hơn là biện pháp tăng vốn. Vì vậy các DNNN cần phải tich cực thực hiện các giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển. 3.2.5. Xây dựng một cơ cấu nguồn vốn hợp lý, tối đa hóa giá trị doanh nghiệp Cơ cấu nguồn vốn phản ánh thành phần, tỷ trọng từng nguồn chiếm trong tổng nguồn vốn doanh nghiệp tại một thời điểm. Doanh nghiệp tài trợ vốn từ hai nguồn là nợ phải trả và nguồn vốn chủ sở hữu. Cơ cấu nguồn vốn tối ưu sẽ đáp ứng được các mục tiêu quan trọng như: tối thiểu hóa chi phí sử dụng, tối đa hóa giá trị doanh nghiệp, kết hợp hài hòa giữa các nguồn vốn và đảm bảo an toàn tài chính doanh nghiệp. Thực tế nhiều doanh nghiệp Nhà nước có tỷ suất lợi nhuận/vốn chủ sở hữu quá thấp cho thấy doanh nghiệp đã sử dụng không hiểu quả nguồn vốn chủ sở hữu. Do vậy, khi xây dựng cơ cấu nguồn vốn doanh nghiệp cần căn cứ vào tỷ suất sinh lời của tổng tài sản so với lãi suất tiền vay. Nếu tỷ suất sinh lời/tổng tài sản lớn hơn lãi suất tiền vay, doanh nghiệp nên cho vay và ngược lại. Và khi vay nợ, doanh nghiệp cần phải cân nhắc đến rủi ro có thể gặp phải: vỡ nợ, không đảm bảo an ninh tài chính, giảm uy tín... KẾT LUẬN Qua nghiên cứu nguồn vốn đầu tư phát triển trong doanh nghiệp ta thấy rõ vai trò quan trọng của nguồn vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nguồn vốn bên trong đóng vai trò chủ yếu, nhưng nguồn vốn bên ngoài lại rất quan trọng đối với sự sống còn của doanh nghiệp. Để làm rõ vai trò của nguồn vốn đầu tư phát triển chúng em đi phân tích thực trạng huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển của một số doanh nghiệp nhà nước. Bên cạnh những mặt tích cực đã đạt được thì còn rất nhiều hạn chế, bất cập trong việc huy động đặc biệt là sử dụng vốn. Nguyên nhân khách quan là yếu tố kinh tế vĩ mô nhưng chủ yếu do nguyên nhân chủ quan dẫn đến sự kém hiệu quả của việc sử dụng đồng vốn, đó là: năng lực quản lý việc sử dụng vốn kém, tâm lý ỷ lại không năng động do vốn đa phần của Nhà nước cấp. Nhưng từ khi đi vào cổ phần hoá nhiều doanh nghiệp nhà nước đặc biệt là các tổng công ty lớn đã phần nào khắc phục được hiện tượng này, bằng chứng là những dấu hiệu đáng mừng trong kết quả hoạt động kinh doanh của công ty. Để tránh tình trạng lãng phí nguồn lực lớn do sử dụng không hiệu quả vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước, chúng em đã kiến nghị một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đã huy động được. Tuy số liệu phân tích trong bài chưa thật đầy đủ nhưng có thể cung cấp được cái nhìn tổng quan về tình hình huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển của DNNN nước ta trong thời gian gần đây, chỉ khi nào các DNNN thực sự bắt tay vào cải cách theo đúng nghĩa thì nguồn vốn đầu tư phát triển mới được sử dụng hết công suất và đóng góp vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc24700.doc
Tài liệu liên quan