Đề tài Nhập khẩu linh kiện lắp ráp xe gắn máy của công ty Quan hệ quốc tế đầu tư sản xuất - Thực trạng và giải pháp

Hiện nay, do nhà nước có những chính sách khuyến khích nội địa hoá xe gắn máy, chúng ta đã nội địa hoá được phần lớn các chi tiết trong xe gắn máy những vẫn có những chi tiết mà ta phải nhập khẩu. Đó là những chi tiết trong máy, đĩa phanh, chế hoà khí v.v. Ngành công nghiệp xe gắn máy Việt Nam phát triển làm cho giá thành của một chiếc xe máy giảm xuống nhanh chóng. Điều này rất có lợi cho người tiêu dùng. Không những thế ngành công nghiệp xe máy của Việt Nam còn đóng góp vào ngân sách của nhà nước ta một khoản không nhỏ. Đây cũng là một thành công của nền kinh tế Việt Nam trong tiến trình hội nhập với nền kinh tế trong khu vực và trên thế giới. Qua phân tích ta thấy việc nhập khẩu linh kiện xe gắn máy là một tất yếu khách quan của Việt Nam. Nó phù hợp với điều kiện của nền kinh tế nước ta hiện nay. Tuy nhiên mục tiêu của nhà nước ta là nội địa hoá hoàn toàn xe gắn máy, và các doanh nghiệp cũng đang khẩn trương triển khai thực hiện chính sách đó.

doc73 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1387 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nhập khẩu linh kiện lắp ráp xe gắn máy của công ty Quan hệ quốc tế đầu tư sản xuất - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng. Việc ký kết hợp đồng của Công ty được tiến hành dưới hình thức văn bản vì nó là hình thức được pháp luật công nhận. Nội dung và hình thức hợp đồng luôn tuân thủ theo pháp luật và được sự đồng ý thống nhất của cả hai bên. Trong hợp đồng Công ty luôn chú ý đến các điều khoản như: + Loại hàng hoá Công ty cần nhập khẩu cụ thể ở đây là loại linh kiện xe gắn máy nào Công ty cần nhập, để từ đó bên xuất khẩu có thể cung cấp đúng loại linh kiện mà Công ty yêu cầu. + Giá cả của linh kiện mà Công ty nhập Thực hiện hợp đồng: Sau khi ký hợp đồng Công ty thường tiến hành đặt cọc khoảng 20% giá trị hợp đồng để bảo đảm thực hiện hợp đồng (nếu như phía đối tác có yêu cầu). Cũng giống như tất cả các doanh nghiệp nhập khẩu khác Công ty chỉ nhận hàng sau khi thực hiện một số thủ tục sau: Khi hợp đồng yêu cầu thanh toán bằng L/C thì Công ty tiến hành mở L/C tại ngân hàng của mình theo yêu cầu của hợp đồng, thường thì Công ty ký quỹ với ngân hàng từ 30% - 60% giá trị hợp đồng. Nếu thanh toán bằng phươn thức chuyển tiền thì Công ty tiến hành chuyển tiền cho ngân hàng để ngân hàng chuyển cho người bán. Khi nhận được thông báo hàng đến, Công ty tiến hành nhận bộ chứng từ giao hàng ở ngân hàng và tiến hành kiểm tra nếu thấy đầy đủ và hợp lệ thì chuyển tiền cho ngân hàng và được ngân hàng ký xác nhận để đi lấy hàng. Các thủ tục Hải quan thường được Công ty trực tiếp đứng ra làm. Công ty tiến hành mở tờ khai Hải quan, khai báo đúng về các yêu cầu hải quan, mời cơ quan Hải quan đến làm việc... Bộ chứng từ cơ quan cần chuẩn bị gồm có hợp đồng nhập khẩu, tờ khai Hải quan, bảng kê khai chi tiết, hóa đơn, vận đơn, lệnh giao hàng, giấy chứng nhận xuất xứ, phiếu đóng gói v.v... Khi có thông báo về thuế Công ty phải xác nhận nộp thuế. Điều này nghĩa là Công ty đã hoàn thành thủ tục hải quan và việc nộp thuế sẽ được thực hiện trong 30 ngày tiếp. Tiến hành nhận hàng và kiểm tra hàng về số lượng và chất lượng đồng thời làm thủ tục thanh toán cho phía xuất khẩu. Tổ chức việc bán hàng . Đây là khâu quan trọng nhất của hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hóa. Với mục tiêu là thu lợi nhuận thì Công ty cần phải tiến hành bán được nhiều hàng. Tuy nhiên với đặc thù kinh doanh xuất nhập khẩu của mình khi nhập linh kiện về Công ty tiến hành lắp ráp hoàn chỉnh và bán ra thị trường,. việc bán hàng của Công ty thực hiện theo các hình thức: Bán buôn: Công ty tiến hành bán với số lượng lớn cho các Công ty khác, các cửa hàng bán lẻ Bán lẻ: Là việc xe máy sau khi đã được lắp ráp xong thì được bán lẻ từng chiếc ở các cửa hàng của Công ty, để giúp bán hàng có hiệu quả Công ty tiến hành các hoạt động xúc tiến bán như thăm dò, tiếp cận khách, cung cấp các dịch vụ, hướng dẫn sử dụng v.v... Nói tóm lại để tiến hành kinh doanh nhập khẩu hàng hóa Công ty cần tiến hành các bước nghiệp vụ về nghiên cứu thị trường, đặt hàng, lựa chọn đối tác, đàm phán ký kết hợp đồng, thực hiện hợp đồng và tiêu thụ sản phẩm nhập khẩu. Thực trạng nhập khẩu linh kiện xe gắn máy của công ty. a. Kết quả hoạt động nhập khẩu và lắp ráp xe gắn máy của Công ty CIRI. Xe gắn máy là mặt hàng chủ lực của Công ty CIRI. Ngay từ khi mới thành lập việc kinh doanh nhập khẩu xe máy và linh kiện lắp ráp xe máy đã có những kết quả khả quan và là nhân tố chính đưa tổng doanh thu của Công ty tăng nhanh trong các năm qua. Bảng 3 .Tình hình nhập khẩu linh kiện xe máy của Công ty CIRI. Đơn vị: Triệu USD. Năm Chỉ tiêu 1999 2000 2001 Trị giá % Trị giá % Trị giá % Kim ngạch NK linh kiện xe gắn máy 5.54 62,1 43.87 96.8 9.81 84.6 Tổng kim ngạch nhập khẩu 6.397 100 45.32 100 11.6 100 (Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của Công ty CIRI) Ta có thể thấy nhập khẩu linh kiện xe máy luôn chiếm tỉ trọng cao trong những năm vừa qua. Năm 1999, do thương hiệu của công ty mới xuất hiện trên thị trường nên sức tiêu thu còn hạn chế do vậy kim ngạch nhập khẩu linh kiện của công ty ở mức thấp. Sang năm 2000, đây là một năm nổi bật về kim ngạch nhập khẩu linh kiện xe gắn máy của công ty. Kim ngạch nhập khẩu linh kiện lên tới 43.87 triệu USD tăng 691.87% so với năm 1999. Đây là kết quả của chiến lược đúng đắn do ban lãnh đạo công ty đã đề ra. Sản phẩm xe gắn máy mang thương hiệu của công ty đã dành được uy tín từ người tiêu dùng trong nước. Năm 2001 do nhiều nguyên nhân làm cho kim ngạch nhập khẩu linh kiện xe gắn máy của công ty sụt giảm đáng kể. Lý do thứ nhất là do thị trường người tiêu dùng đã bị thu hẹp lại. Nguyên nhân thứ hai là do công ty đã đầu tư công nghệ sản xuất các linh kiện trong nước mức tỷ trọng tương đối cao. Đây là một kết quả thiết yếu khi thực hiện chính sách nội địa hoá xe máy của nhà nước. Tình hình hoạt động nhập khẩu linh kiện lắp ráp xe gắn máy của Công ty. Để phù hợp với chính sách của Nhà nước, đồng thời để nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu Công ty đã nghiên cứu thị trường trong nước và thị trường nước ngoài để nhập khẩu linh kiện xe gắn máy dưới nhiều dạng khác nhau, số lượng và chủng loại xe cũng rất khác nhau qua từng năm mà cụ thể là: Bảng 4. Tình hình nhập khẩu theo dạng linh kiện xe gắn máy. Đơn vị: Triệu USD. Năm Chỉ tiêu 1999 2000 2001 Linh kiện dạng CKD 2.84 - - Linh kiện dạng IKD 2.7 43.87 9.81 Tổng số 5.54 43.87 9.81 (Nguồn: Báo cáo hoạt động nhập khẩu của Công ty CIRI) Nhập khẩu linh kiện dạng CKD ( complate knock down) là hình thức nhập khẩu linh kiện đồng bộ. Theo hình thức này doanh nghiệp sẽ nhập khẩu gần như toàn bộ chiếc xe máy, được chia làm ba phần chính là: Phần khung xe, phần máy và phần nhựa của xe. Nhập khẩu linh kiện theo hình thức IKD ( item knock down) là hình thức nhập khẩu không mang tính đồng bộ, là hình thức nhập khẩu một phần linh kiện rời từ nước ngoài. Người ta dựa vào tỷ lệ linh kiện nhập khẩu của chiếc xe mà chia nó thành dạng IKD1 và IKD2. Hiện nay, đây là hình thức nhập khẩu phổ biến của các doanh nghiệp nhập khẩu linh kiện xe gắn máy của nước ta. Ta thấy, năm 1999, khi nhà nước vẫn cho phép nhập khẩu xe gắn máy dạng CKD thì tỷ trọng kim ngạch nhập khẩu dạng này tương đối lớn chiếm hơn 50% tổng kim ngạch nhập khẩu linh kiện trong năm. Với điều kiện về nguồn lực của công ty lúc bấy giờ thì nhập khẩu linh kiện dạng CKD có ưu thế hơn. Sang năm 2000, chính phủ cấp nhập khẩu linh kiện xe gắn máy dạng CKD thì công ty hoàn toàn nhập khẩu linh kiện dạng IKD. Tuy nhiên do đã dự tính từ trước , công ty đã mạnh dạn đầu tư công nghệ thích ứng với sự thay đổi này. không những thế năm 2000 công ty đã đạt được thành công to lớn. Để có được điều này, ban lãnh đạo của công ty đã hết sức năng động và quyết đoán. Công ty đã liên doanh với tập đoàn CHONGQING ZONGSHEN MOTORCYCLE để nhập khẩu linh kiện xe gắn máy dạng IKD có chất lượng cao và giá cả cạnh tranh. Ngoài ra, công ty còn nhập khẩu linh kiện xe gắn máy từ nhiều nhà cung ứng khác tuy nhiên công ty vẫn chú trọng vào chất lượng của linh kiện nhập về. Công ty không những nhập khẩu linh kiện xe gắn máy từ Trung Quốc mà còn từ nhiều quốc gia khác trong khu vực có nền công nghiệp xe gắn máy phát triển hơn nước ta. Tình hình nhập khẩu linh kiện lắp ráp xe gắn máy của Công ty theo thị trường cung ứng. Việc chọn mặt hàng và thị trường nhập khẩu của Công ty luôn dựa vào nhu cầu thị trường trong và ngoài nước cũng như chính sách nhập khẩu của Nhà nước. Một số thị trường cung ứng linh kiện xe cho Công ty trong thời gian gần đây là thị trường các nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Lào, Thái Lan. Giá trị nhập khẩu từ các nước này qua các năm được thể hiện ở bảng sau: Bảng 5: Tình hình nhập khẩu linh kiện xe gắn máy theo thị trường. Đơn vị:Triệu USD. Năm Tên nước 1999 2000 2001 giá trị % giá trị % Giá trị % Trung Quốc 5.08 91.8 41.85 95.4 9.58 97.7 Thái Lan 0.31 5.6 1.05 2.4 0.18 1.8 Lào 0.15 2.6 0.97 2.2 0.05 0.5 Tổng số 5.54 100 43.87 100 9.81 100 ( Nguồn: Báo cáo tình hình nhập khẩu linh kiện xe gắn máy của Công ty) Ta có thể dễ dàng nhận thấy nguồn nhập khẩu linh kiện xe gắn máy chủ yếu của công ty là từ Trung Quốc, chiếm tỷ lệ trên 90%. Nguyên nhân chính là do linh kiện xe gắn máy của Trung Quốc giá rất rẻ và chất lượng cũng được người tiêu dùng của Việt Nam chấp nhận. Nền công nghiệp xe gắn máy của Trung quốc mới phát triển nhưng đã đạt được những thành tựu to lớn. Hơn nữa thủ tục xuất khẩu của Trung Quốc cũng dễ dàng và thuận lợi cho các doanh nghiệp nhập khâủ của Việt Nam. Ngoài ra, các sản phẩm của các tập đoàn xe gắn máy lớn của Trung Quốc đã tạo được niềm tin từ số đông người tiêu dùng Viêt Nam. Các linh kiện nhập khẩu từ Thái Lan có chất lượng cao nhưng giá lại đắt do vậy làm sẽ làm tăng giá thành sản phẩm của công ty do vậy chỉ chiến tỷ trọng rất nhỏ. Linh kiện nhập khẩu từ Thái Lan chủ yếu là bộ chế hoà khí, đây là một linh kiện quan trọng mà sản này của Trung Quốc lại có chất lượng chưa đảm bảo. Những linh kiện nhập từ Lào chỉ chiếm tỷ trọng rất nhỏ và chủ yếu là những linh kiện phụ. III. Đánh giá thành tựu và hạn chế trong hoạt động nhập khẩu linh kiện của công ty thời gian qua. Những thành tựu đã đạt được. Trong thời gian vừa qua, hoạt động nhập khẩu của công ty đã đạt được những thành tựu đáng kể. Công ty đã đặt quan hệ với nhiều tập đoàn xe máy có uy tín nhất của Trung Quốc cụ thể là các tập đoàn: chongqing zongshen motorcycle group. guangdong ceramics copany. chongqing lifan & hongdo industry imp & exp co. Ltd. guangzhou yue xiu enterprise corporation. Chongqing shunduoli motor- vehicle Co. Ltd. Các sản phẩm linh kiện xe gắn máy của các tập đoàn này đã khẳng định được vị trí của mình trên thị trường Việt Nam trong những năm vừa qua. Công ty CIRI đã nhập nhiều chủng loại và số lượng linh kiện của các tập đoàn này nhất là trong năm 2000 ( với một con số kim ngạch nhập khẩu tương đối lớn 43.87 triệu USD). Công ty đã đạt trụ sở kiểm tra chất lượng ở nước bạn hàng để kiểm tra chất lượng trước khi nhập về. Các linh kiện nhập khẩu của công ty do đều là các sản phẩm đặt hàng riêng với các chỉ số kỹ thuật cao.Điều này giúp cho Sản phẩm xe gắn máy của công ty cũng dành được niềm tin từ người tiêu dùng trong nước. Đây là một điểm khác biệt của công ty CIRI với các công ty nhập khẩu linh kiện đại trà khác và là một điểm mạnh của công ty. Công ty đã tiến hành nội địa háo linh kiện xe gắn máy trong nước với tỷ lệ cao và đã dành được sự ưu đãi về thuế nhập khẩu từ phía chính phủ. Do vậy giá linh kiện nhập khẩu linh kiện xe gắn máy của công ty thấp hơn nhiều công ty nhập khẩu linh kiện xe gắn máy khác trong nước. Những hạn chế. Bên cạnh nhưng thành tựu đã đạt được công ty vẫn tồn tại một số hạn chế cần khắc phục. Việc nhập khẩu linh kiện của công ty CIRI nhiều khi không thực hiện đúng như theo kế hoạch bởi vì Công ty chưa lường hết những biến động thị trường, rủi ro gặp phải cũng như khoảng thời gian chuyển tải và lưu kho bãi. .... Thị trường xe gắn máy của Việt Nam biến đổi nhanh chóng do vậy chỉ cần một quyết định sai hoặc chậm đều để lại hậu quả nhất định. Lấy ví dụ về thất bại trong chiến lược nhập khẩu của công ty là công ty đã nhập khẩu quá nhiều linh kiện kiểu xe Best. Đến nay công ty vẫn còn tồn kho gần một nghìn bộ linh kiện xe Best trong khi đó loại xe này đã bị lỗi thời không còn tiêu thụ được như cách đây mấy tháng. Đây là một bài học đáng kể cho ban lãnh đạo công ty. Ngoài ra trong tình hình mới công ty cần có những giải pháp làm giảm thiểu các chi phí nhập khẩu linh kiện xe gắn máy. chương III. những giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện hoạt động nhập khẩu linh kiện xe gắn máy ở Công ty QUAN Hệ QUốC Tế ĐầU TƯ SảN XUấT ( cIRI). I. Định hướng hoạt động trong những năm tới của Công ty Ngành kinh doanh chủ yếu của Công ty là mặt hàng xe gắn máy, nhu cầu mặt hàng này không thể hiện giới hạn bão hoà về lượng, mà chỉ có sự thay đổi về chất, từ trình độ thấp đến trình độ cao hơn. Khi mức sống còn thấp, nhu cầu mua sắm còn bị ràng buộc chặt chẽ bởi thu nhập, nhưng khi nó đã tách ra và vượt quá một giới hạn nhất định về thu nhập thì nhu cầu mua sắm không còn bị lệ thuộc, nó tách ly khỏi tương quan với thu nhập và trở thành độc lập. Một số mặt hàng có sự cộng hưởng của tiến bộ khoa học và văn minh nhân loại, nhu cầu sẽ có những bước nhảy về trình độ, đồng thời xu hướng đó làm bình thường hoá cách nhìn chuyển tiếp diện hàng cao cấp thành hàng hoá thông thường. Thị trường xe gắn máy ở nước ta có quá trình hình thành và phát triển vừa tuân theo quy luật vận động khách quan, vừa chịu sự chi phối của các điều kiện chủ quan về kinh tế xã hội trong qúa trình đổi mới cơ chế và chính sách kinh tế. Mặt hàng xe gắn máy là mặt hàng thuộc nhu cầu cần thiết và quan trọng. Đối với những quốc gia có trình độ kinh tế phát triển, cơ sở hạ tầng và giao thông công cộng có thể đáp ứng được phần lớn đi lại của người dân, thì phần lớn nhu cầu đi lại cá nhân có thể xếp ở loại thứ yếu trình độ cơ sở. Trình độ cơ sở hạ tầng của nước ta còn thấp hơn nhiều hơn so với các nước khác trên thế giới, với khối lượng nhu cầu đi lại của người dân thực tế, thì khả năngvận chuyển hành khách công cộng còn rất thấp. Điều này đòi hỏi dân cư phải tự mua sắm phương tiện cá nhân để thoả mãn nhu cầu. Thu nhập quốc nội bình quân đầu người của nước ta tuy thấp nhưng bắt đầu có sự phân hoá mạnh. Sự đa dạng hoá về thu nhập cũng kéo theo sự đa dạng hoá về cơ cấu mua sắm. Bên cạnh xu hướng mua sắm mặt hàng có chất lượng cao, như xe gắn máy với giá cao từ 4000 -7000 USD với tầng lớp có thu nhập cao, còn đa số dân số chỉ có nhu cầu mua sắm các mặt hàng có chất lượng trung bình, giá rẻ. Vì vậy tạo ra việc xuất hiện các mặt hàng lưu thông giá rẻ, chất lượng trung bình, kiểu dáng phù hợp từ Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc... vào Việt Nam. Nước ta hiện nay điều kiện tiêu dùng hàng xe gắn máy luôn bị ảnh hưởng bởi điều kiện giao thông, điều kiện địa lý, một số vùng nông thôn và miền núi có hạn chế lớn về hệ thống giao thông, dó đó ảnh hưởng về sử dụng phương tiện đi lại, nhất là xe gắn máy. Những vùng có địa hình dốc, hệ thống giao thông kém thì nhu cầu các loại xe phân khối lớn giá thấp như: MINSK, MZ, ETZ... được sử dụng phổ biến, còn ở những thành phố lớn thì những loại xe có kiểu dáng đẹp như: DREAM, SPACY, SUZUKY... đang được thịnh hành. Mặt hàng xe gắn máy thuộc mặt hàng đòi hỏi có yêu cầu cao về kỹ thuật, công nghệ và giá trị cao, nên không phải bất kỳ cá nhân nào hay một tổ chức nào cũng có thể kinh doanh và sản xuất được. Vì vậy trong những năm tới cần phải có những chính sách và định hướng cụ thể trong việc sản xuất và kinh doanh mặt hàng xe gắn máy sao cho đạt được hiệu quả kinh tế cao nhất. Kinh doanh trong cơ chế thị trường, Công ty phải chịu sự cạnh tranh lành mạnh cũng như không lành mạnh của nhiều Công ty khác, muốn tồn tại và phát triển, cũng như bất kỳ Công ty kinh doanh nào mục tiêu chính của Công ty là tối đa hoá lợi nhuận. Chỉ khi có lợi nhuận mới đảm bảo cho Công ty tồn tại, mở rộng và phát triển quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Từ thực tiễn của thị trường và xu hướng biến động của thị trường trong tương lai Công ty CIRI cũng đề ra cho mình mục tiêu và phương hướng hoạt động trong những năm tới. Bên cạnh đó Công ty tiếp tục dổi mới kinh doanh theo cơ chế thị trường, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước, bảo toàn và phát triển nguồn vốn kinh, không ngừng nâng cao đời sống cho cán bộ công nhân viên trong toàn Công ty. Để đạt được những mục tiêu trên, trong phướng hướng chung của Công ty, mặt hàng kinh doanh linh kiện xe gắn máy vẫn là mặt hàng kinh doanh chủ đạo và cũng là động cơ thúc đẩy nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của Công ty. Theo hướng hoàn thiện, Công ty CIRI lựa chọn mặt hàng linh kiện xe gắn máy, kinh doanh theo hai hướng: Một là phát triển kinh doanh các mặt hàng truyền thống, người đân quen dùng và có nhu cầu cao, như xe DREAM, WAVE, SPACY... Hai là từng bước nghiên cứu và mở rộng thị trường kinh doanh với các bạn hàng từ các nước khác để phát triển các mặt hàng mới, với cơ cấu mới, phục vụ nhu cầu tiêu dùng với nhiều chủng loại xe khác nhau. Để phù hợp với chính sách của nhà nước, công ty không ngừng tăng cường số lượng linh kiện nội địa hoá và nâng cao chất lượng các linh kiện đã nội địa hoá. Để mục tiêu của Công ty đạt được tốt hơn, CIRI mở rộng quy mô bán hàng và dịch vụ sau bán hàng bằng việc đầu tư thêm cơ sở vật chất cho các cửa hàng và nâng cấp hệ thống nhà xưởng đồng thời Công ty duy trì và phát triển mối quan hệ tốt với các bạn hàng như Hàn Quốc, Đài Loan,Trung Quốc, Thái Lan... đồng thời tìm kiếm được các đối tác có uy tín sản xuất được các mặt hàng có lợi thế cạnh tranh hơn. Đối với khách hàng, Công ty cố gắng thoả mãn nhu cầu đa dạng của các đối tượng khách hàng khác nhau, tuy nhiên vẫn tìm các thị trường khách hàng tiềm năng cùng với duy trì khách hàng truyền thống kinh doanh những mặt hàng có chất lượng đảm bảo, giá cả hợp lý để thu hút khách hàng . Từ tình hình thực tế hoạt động của những năm trước và dự đoán trong tương lai, Công ty đầu tư xuất nhập khẩu CIRI đã xây dựng kế hoạch kinh doanh nhập khẩu năm 2002 với những chỉ tiêu cụ thể: Bảng 6. Dự tính kim ngạch nhập khẩu năm 2002. Các chỉ tiêu Số lượng (bộ) Đơn giá (USD/bộ) Linh kiện xe Spacy 1000 1500 Linh kiện xe Wave 5000 900 Linh kiện xe Dream 5000 1.000 Nhìn vào bảng biểu ta thấy, bên cạnh những mặt hàng truyền thống chất lượng cao mà người dân quen tiêu dùng như xe Wave, Dream. Công ty nhập khẩu với số lượng vừa phải, sang năm 2002 Công ty đã chú trọng nhập khẩu linh kiện xe của Trung Quốc với kiểu dáng và nhãn hiệu mới chất lượng đảm bảo, phù hợp với thu nhập trung bình của người dân Việt Nam. II. Những giải pháp hoàn thiện hoạt động nhập khẩu linh kiện xe gắn máy ở Công ty CIRI . Trong nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, Công ty đã ý thức được những khó khăn và thách thức đối với mình trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế ngày càng trở nên gay gắt, trong nước Nhà nước cho phép tất cả các thành phần kinh tế đều có quyền tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu. Trước những áp lực đó, đòi hỏi Công ty CIRI phải có chiến lược kinh doanh phù hợp, chấp nhận cạnh tranh để tồn tại. Để khắc phục những khó khăn và giải quyết những tồn tại của Công ty trong hoạt động kinh doanh nhập khẩu linh kiện xe gắn máy, Công ty có thể xem xét một số giải pháp sau: 1. Hoàn thiện các hoạt động nghiệp vụ nhập khẩu linh kiện xe gắn máy. Để hoạt động kinh doanh có hiệu quả, Công ty đầu tư phát triển xuất nhập khẩu CIRI cần phải hoàn thiện các nghiệp vụ nhập khẩu của mình. Muốn vậy Công ty cần phải nâng cao hiệu quả tất cả hoạt động nghiệp vụ trong quá trình kinh doanh xuất nhập khẩu. a. Tính toán giá . Giá của một sản phẩm được xác định bởi chi phí làm ra sản phẩm đó và các yếu tố về thị trường. Giá là một trong những nhân tố ảnh hưởng đến sức mạnh cạnh tranh cũng như hiệu quả kinh doanh của Công ty. Mức giá đưa ra đòi hỏi phải đủ cao để thu hồi vốn và có lãi, song lại đủ thấp để thị trường có thể chấp nhận được. Để đưa ra một mức giá cũng như chính sách giá hợp lý, Công ty QUAN Hệ QUốC Tế ĐầU TƯ SảN XUấT ( CIRI) cần phải hạch toán và tính chính xác mọi chi phí bỏ ra như chi phí nhập khẩu, chi phí lưu kho lưu bãi, chi phí gia công lắp ráp. Phải nghiên cứu được tình hình thực tiễn hoạt động sản xuất kinh doanh của mình đồng thời Công ty phải xác định đưọc sản phẩm hàng hoá của mình đang ở giai đoạn nào của chu kỳ sống của sản phẩm, nhu cầu tiêu dùng của người dân như thế nào. Công ty phải nhận thấy rằng cùng với kinh doanh mặt hàng xe gắn máy còn có rất nhiều Công ty, doanh nghiệp khác nữa mà nhất là sự cạnh tranh của các Liên doanh sản xuất và lắp ráp xe gắn máy nổi tiếng tại Việt Nam như Honda, Suzuki, Yamaha, Vmep... Do vậy Công ty không thể đưa mức giá quá cao như vậy khách hàng sẽ không thể chấp nhận. Ngược lại nếu mức giá đưa ra quá thấp sẽ không đảm bảo được mục tiêu kinh doanh đó là lợi nhuận. Công ty nên coi mức giá thị trường là cơ sở quan trọng trong việc định giá cho sản phẩm . Ngoài ra phương châm của bất kỳ Công ty nào cũng như CIRI là phấn đấu giảm mọi chi phí, để từ đó có thể giảm được giá cả, dẫn đến tăng nhu cầu tức là tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường. Công ty nên sử dụng giá phân biệt và giá mềm dẻo đối với từng loại xe khác nhau. Nội địa hoá các chi linh kiện có thể sản xuất trong nước cũng là một biện pháp làm giảm giá thành của một chiếc xe xuất xưởng. Tóm lại, công ty cần phải tìm hiểu nắm bắt những biến động của thị trường để có thể đề ra được mức giá hợp lý nhất, phù hợp với thị trường và đảm bảo lợi nhuận của công ty. b. Ký kết hợp đồng. Trong kinh doanh nhập khẩu hàng hoá nói chung và nhập khẩu linh kiện xe gắn máy của Công ty nói riêng. Người tham gia kinh doanh phải là người có kiến thức tổng hợp về các lĩnh vực như kiến thức nghiệp vụ ngoại thương, kiến thức về kỹ thuật và kiến thức về văn hoá xã hội, có kinh nghiệm qua thực tiễn hoạt động và rút ra từ đối thủ cạnh trranh. Nếu không có kinh nghiệm, không đánh giá đúng về đối tác có thể dẫn đến những quyết định sai lầm. Nhập khẩu linh kiện xe gắn máy là việc Công ty mua linh kiện xe gắn máy từ đối tác nước ngoài. Do đó việc đàm phán và ký kết hợp đồng rất quan trọng, phải thận trọng và khôn khéo trong đàm phán là chìa khoá đảm bảo an toàn và thành công. Thông thường trong quá trình đàm phán đều có sự giảm giá tuỳ thuộc vào tài thương lượng và khối lượng mua các điều kiện khác . Khi ký kết hợp đồng Công ty phải xem xét kỹ các điều khoản để tránh rắc rối về sau. Đàm phán có một vai rò quan trọng trong ký kết hợp đồng, do đó cần được chú ý trong quá trình tìm hiểu bạn hàng, ta cũng nên lưu ý với bạn hàng nhập khẩu có tầm cỡ quốc tế và có tiếng trong khu vực, hay đã từng có quan hệ tốt trên thị trường Việt Nam . Nếu không nắm được yếu tố này bạn hàng có thể cảm thấy không hài lòng cho rằng ta chưa có quan hệ rộng rãi trên thị trường. Với sự hiểu biết ban đầu này cuộc gặp gỡ có thể đem lại hiệu quả rất cao. Trong đàm phán cách lược đàm phán nên biến hoá theo thời gian và địa điểm, môi trường đàm phán. Tuy nhiên vẫn có những sách lược cơ bản nhất định: Đó là tạo ra sự cạnh tranh bằng cách cần thiết cho bạn hàng biết rằng họ không phải là bạn hàng duy nhất, Công ty có thể chia nhỏ mục tiêu của mình và từng bước thực hiện, người đàm phán có thể gây áp lực cho đối phương, tuỳ cơ ứng biến thích hợp nêu ra yêu cầu cao hơn dự định để có thể thoả hiệp. Công ty cũng nên tránh việc thoả hiệp nhanh chóng . Việc thoả thuận sớm sẽ không đủ thời gian để nắm toàn bộ những vấn đề. Sau đó tuỳ theo mức độ thoả thuận, có thể là phải ghi nhớ lại những điểm quan trọng mà hai bên đã đồng ý để tiếp tục bàn bạc sâu hơn cho đến khi ký kết hợp đồng . Nhà nước ta quy định phải có hợp đồng, có đủ các điều khoản thể hiện trách nhiệm và quyền lợi của mỗi bên theo từng giai đoạn. Hợp đồng phải được lập thành văn bản và hai bên phải ký vào hợp đồng, thực hiện đúng hợp đồng là trách nhiệm của hai bên. Công ty phải luôn thực hiện đúng hợp đồng và thúc đối tác để giảm bớt tranh chấp khi ký hợp đồng. c. Tiếp nhận hàng hoá. Trước khi tàu đến đại điểm nhận hàng hoá, đại lý tàu sẽ báo cho Công ty biết và đến nhận lệnh giao hàng (D/O). Người nhận D/O cần mang theo chứng từ gốc và giấy giới thiệu của Công ty . Đại lý giữ lại chững từ gốc và trao lại bản D/O cho chủ hàng. Khi có D/O Công ty cần nhanh chóng làm thủ tục để nhận lô hàng của mình, bởi nếu nhận chậm sẽ phát sinh chí phí lưu kho, lưu bãi và chịu sự rủi ro, tổn thất phát sinh. Nếu gặp trường hợp hàng đến những chứng từ chưa đến , Công ty cần lựa chọn một trong hai giải pháp: Một là tiếp tục chờ chứng từ đến, hai là đến ngân hàng mở L/C xin giấy cam kết của ngân hàng khi chưa có chứng từ gốc. Khi nhận được chứng từ nhận hàng, Công ty phải kiểm tra chi tiết, đối chiếu với yêu cầu chứng từ mua hàng. Trong quá trình nhận hàng việc giao nhận phải thường xuyên bám sát hiện trường, cập nhật số liệu, kịp thời phát hiện sai sót để có biện pháp xử lý thích hợp . Cần đề nghị cơ quan giám định hàng lấy mẫu phân tích kết quả chất lượng, số lượng hàng có phù hợp với hợp đồng hay không. Nếu có hàng hư hỏng, đổ vỡ do tàu gây nên thì bên bảo hiểm phải xác định mức độ thiệt hại và lập biên bản xác nhận. Ngoài ra cảng còn lập biên bản kết toán nhập hàng với tàu và bản kê khai hàng thừa, thiếu so với lượng khai của tàu. Cuối cùng khi giao hàng xong cần ký biên bản tổng kết giao nhậnhàng. d. Thanh toán trong ngoại thương. Hiện nay phương thức thanh toán chủ yếu của Công ty CIRI là mở thư tín dụng không huỷ ngang. Đây là phương thức thanh toán đảm bảo an toàn nhất , trong L/C quy định điều khoản chặt chẽ và cụ thể. L/C có thể là L/C trả ngay, hoặc L/C trả chậm sau bao nhiêu ngày ký hợp đồng ngoại thương .Thời hạn trả chậm thông thường là sau 60 ngày hoặc hơn 60 ngày. Do hoạt động kinh doanh đã có uy tín nên Công ty nên thoả thuận với đối tác quen thuộc, nhất là phía Trung Quốc để thanh toán theo hình thức L/C trả chậm. Công ty cũng nên thoả thuận với các ngân hàng như ngân hàng ngoại thương Việt Nam để có mức ký quỹ thấp hơn. 2. Lựa chọn mặt hàng và đối tác nhập khẩu . Lựa chọn mặt hàng kinh doanh là hết sức cần thiết và quan trọng.Lợi thế của Công ty trong những năm đầu mà nhất là 2 năm 2000 Và 2001 vẫn là những loại xe chất lượng tốt như xe Dream, Wave, Spacy, ... Xuất phát từ mục đích tăng hiệu quả nhập khẩu, mà điều cốt yếu là thông qua doanh thu bán hàng,do vậy Công ty không những phải duy trì những mặt hàng truyền thống mà phải có những mặt hang mới, mở rộng chủng loại sản phẩm để thu hút khách hàng. Những mặt hàng mới cần phải thích hợp với thị hiếu và khả năng kinh tế của người tiếu dùng trong nước. Khi lựa chọn nước để nhập khẩu ,Công ty đã phải nghiên cứu tình hình sản xuất , chất lượng sản phẩm , điều kiện địa lý, chính sách thương mại , phong tục tập quán của nước đó xem có phù hợp với điều kiện của Công ty hay không . Việc nghiên cứu cụ thể về hãng cung cấp cũng rất quan trọng, Công ty phải nghiên cứu tình hình sản xuất kinh doanh của hãng đó, lĩnh vực và phạm vi kinh doanh để thấy được khả năng cung cấp lâu dài, ổn định và thường xuyên. Với thực tế hiện nay, Công ty quan hệ quốc tế đầu tư sản xuất nên duy trì liên kết với Tập đoàn chongqing zongshen motorcycle group và chongqing lifan & hongda industry imp & exp co. ltd. Công ty cố gắng liên hệ trực tiếp với người sản xuất ,hạn chế hình thức liên hệ qua các tổ chức trung gian để giảm bớt chi phí và nâng cao hệ số an toàn. 3. Xây dựng kế hoạch nhập khẩu chi tiết. Để đáp ứng một phần nhu cầu về xe gắn máy của người dân, đảm bảo hoạt động kinh doanh được tiến hành tốt, Công ty cần phải lên kế hoạch nhập hàng trong mỗi thời gian cụ thể. Việc làm này là hết sức cần thiết, muốn thực hiện được tốt Công ty phải đề ra những nội dung cụ thể sau: Mua cái gì? Là người mua hàng Công ty mong muốn mua được những hàng hoá có chất lượng tốt và khả năng tiêu thụ trên thị trường nội địa. Do đó, Công ty phải nghiên cứu kỹ nhu cầu trong nước, xác định được thị trường trong nước đang cần mặt hàng xe gắn máy gì và sẽ cần gì? Từ đó Công ty có định hướng về mặt hàng kinh doanh. Công ty nên duy trì mặt hàng truyền thống như xe Dream, Wave để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng có thu nhập cao. Mặt khác ,để đáp ứng nhu cầu của những người có thu nhập trung bình còn thấp, người dân nông thôn,Công ty nên mở rộng hơn mặt hàng xe với nhiều màu sắc khác nhau. Mua bao nhiêu? Khi trả lời câu hỏi này Công ty cần phải dựa trên cơ sở như lượng xe tiêu thụ trong thời gian trước, và dự tính số lượng xe sẽ tiêu thụ trong thời gian tới, thị phần của Công ty trên thị trường .. từ đó Công ty xác định tương đối số linh kiện xe theo chủng loại cần nhập khẩu . Mua khi nào? Đây cũng là câu hỏi mà Công ty cần xem xét. Chúng ta đều biết trong kinh doanh, tính thời điểm là hết sức quan trọng để không bỏ lỡ thời cơ kinh doanh, cần phải biết chọn thời điểm thích hợp để tham gia thị trường . Công ty phải tìm hiểu hoạt động kinh doanh của những Công ty khác tránh tình trạng nhiều Công ty cùng tham gia nhập khẩu quá nhiều một loại linh kiện , đẩy giá nhập khẩu lên cao, giá bán trong nước lại giảm. 4. Lựa chọn chiến lược tiêu thụ sản phẩm thích hợp. Xe gắn máy là sản phẩm để thoả mãn trực tiếp nhu cầu cá nhân của khách hàng. Trên thực tế các hãng cạnh tranh khác cũng như Công ty đã thoả mãn được nhu cầu này của khách hàng. Nhưng để nâng cao được lợi thế cạnh tranh của mình, thu hút được khách hàng hơn thì Công ty nên có chế độ bảo hành và dịch vụ sau bán một cách hợp lý, cụ thể Công ty đã lập ra được một trung tâm bảo dưỡng và sửa chữa cho những khách hàng mua xe của Công ty. Công ty nên xây dựng chế độ bảo hành, có tính đến rủi ro và lợi ích của hai bên. Công ty cũng nên có những cam kết với khách hàng, chẳng hạn nếu xe bị hỏng trong thời gian bảo hành cụ thể là một năm hoặc 12.000 km đầu sẽ được sưả chữa lại, hoặc Công ty có thời gian bảo hành dài hơn so với thời gian bảo hành của các đối thủ khác. Dịch vụ sau bán hàng là công cụ, là vũ khí cạnh tranh nhạy bén và mang lại hiệu quả cao nhất, Công ty có thể nắm giữ và sử dụng yếu tố này để nâng cao lợi thế cạnh tranh của mình. Công ty có thể cung cấp dịch vụ về sửa chữa, bảo dưỡng ngoài thời gian bảo hành nếu khách hàng yêu cầu. Do nhiều linh kiện phụ tùng có đặc thù riêng nên nếu sửa chữa, bảo dưỡng ở nơi khác sẽ không đảm bảo an toàn tuyệt đối. Vì vậy việc sửa chữa và bảo dưỡng ở tại xưởng lắp ráp xe của Công ty sẽ rất thuận tiện. Làm được như vậy Công ty sẽ gây được tín nhiệm vì đã làm hài lòng khách hàng. Đây là vấn đề vừa mang tính cáp bách vừa mang tính chiến lược lâu dài mà Công ty cần xem xét. Công ty cũng nên tiếp tục nghiên cứu để mở rộng chủng loại sản phẩm . Nghiên cứu danh mục xe gắn máy của Công ty, có thể thấy sang năm 2001 loại xe của Trung Quốc được lắp ráp ít hơn năm 2000 tuy nhiên công ty có thể tiếp tục phát triển mặt hàng này hơn để bán về thị trường nông thôn và khu vực ngoại thành với những mẫu mã mới và giá thành phù hợp với khả năng tiêu dùng của người dân. 5. Chương trình nội địa hoá linh kiện lắp ráp xe gắn máy một cách phù hợp. Từ tháng 4/1997 Nhà nước đã ban hành chính sách cấm nhập khẩu xe gắn máy nguyên chiếc, tất cả các Công ty phải chuyển sang dạng CKD. Bước đầu, Công ty ciri cũng chỉ nhập khẩu xe dạng CKD về để lắp ráp. Sau đó, Công ty đã tìm hiểu và khai thác được nguồn hàng trong nước có thể đáp ứng được một số phụ tùng, linh kiện của các loại xe gắn máy như: giỏ xe, vành xe, để chân, hộp xích, săm lốp... Công ty đã chuyển sang nhập khẩu xe dạng IKD1, Công ty nên vận dụng thế mạnh này để tuỳ từng loại xe mà có chương trình nội địa hoá cho phù hợp. Chẳng hạn như xe có chất lượng cao như Dream, Wave... Việc nội địa hóa còn nhiều khó khăn thì Công ty nhập khẩu theo dạng IKD1, còn với xe chất lượng vừa phải như xe của Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan ... Công ty nghiên cứu và nhập xe dưới dạng IKD2 (Khoảng 30-40% phụ tùng linh kiện sản xuất trong nước). Nội địa hoá linh kiện có thể tiết kiệm được một lượng ngoại tệ đáng kể, ổn định được giá thành xe trong hoàn cảnh tỷ giá giữa VNĐ/USD tương đối yếu so với các loại ngoại tệ khác, như vậy Công ty có thể giảm chi phí nâng cao lợi nhuận. Bên cạnh đó, Công ty có thể đầu tư, bổ sung thêm cơ sở vật chất, hoặc liên doanh với các hãng sản xuất xe gắn máy ở nước ngoài để nhập khẩu công nghệ về sản xuất phụ tùng linh kiện xe gắn máy ngay tại xưởng lắp ráp xe. Phấn đấu mỗi năm Công ty tăng 10% tỉ lệ nội địa hoá sao cho đến năm 2005 đạt được 70% tỉ lệ nội địa hoá. Tự sản xuất được linh kiện, điều này phục vụ tốt hơn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty, hơn nữa nếu có thời cơ thuận lợi Công ty sẽ bán linh kiện ra thị trường trong và ngoài nước. 6. Tăng cường biện pháp tổ chức quản lý. Để tồn tại và phát triển trong điều kiện nền kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt, Công ty nên xem xét lại cơ cấu bộ máy tổ chức quản lý của mình. Do mới thành lập nên các phòng ban trong Công ty còn ít, số người của mỗi phòng ban có khi phải làm các công việc chồng chéo, không đúng chuyên môn. Để tránh hiện tượng này Công ty nên thành lập thêm phòng Marketing thì mọi hoạt động như quảng cáo, bán hàng , xúc tiến bán hàng sẽ được thực hiện một cách hợp lý, vì từ trước đến nay hoạt động này hầu như chưa thể hiện rõ vai trò của mình. Công ty nên tăng cường công tác quảng cáo, trước hết là quảng cáo về sản phẩm cuả mình, sau đó là quảng cáo về Công ty để nâng cao uy tín đối với khách hàng. Quảng cáo là phương tiện hữu hiệu nhất để khuếch trương sản phẩm của mình, đẩy mạnh công tác quảng cáo sẽ làm tăng doanh thu và tăng lợi nhuận. Quảng cáo để thu hút khách hàng mới, mở rộng thị trường và thâm nhập thị trường mới, quảng cáo về sản phẩm sẽ gợi mở được nhu cầu tiềm ẩn về sản phẩm của Công ty nhất là các sản phẩm như xe mới ra đời , nhiều người chưa biết thì việc quảng cáo về các loại xe này là rất cần thiết. Hơn nữa, quảng cáo sẽ nhắc nhở những khách hàng hiện tại để duy trì mối quan hệ với họ, đồng thời khôi phục lại những khách hàng đã mất do những lôi kéo khác. Do vừa mới thành lập, vì thế quảng cáo về Công ty là việc làm rất quan trọng bởi vì nó có thể nâng cao uy tín của Công ty trên thị trường. Để nâng cao uy tín, cần phải tiến hành đồng bộ các biện pháp về giá cả, chất lượng sản phẩm, dịch vụ..., song bên cạnh các biện pháp đó cần phải sử dụng một biện pháp nữa đó là sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng để quảng cáo, giới thiệu về Công ty. Tuy nhiên cũng cần phải nhấn mạnh rằng quảng cáo ở đây là nhấn mạnh những tiềm lực, điểm mạnh, khả năng của Công ty cho mọi đối tượng là khách hàng tiềm năng của Công ty biết chứ kkông phải là khuếch trương phóng đại nói sai sự thật. Công ty có thể sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng để quảng cáo nâng cao uy tín của mình như: các tạp chí chuyên đề Thương mại, thông qua thư gửi trực tiếp thông qua đối tượng khách hàng tuy nhiên khi quảng cáo, Công ty cần thu thập thông tin và đánh giá hiệu quả để rút kinh nghiệm cho những lần quảng cáo sau. Bán hàng trực tiếp cũng là phương tiện quảng cáo hữu hiệu nhất, đây là cách thức để nắm bắt được phản ứng trực tiếp của khàch đối với sản phẩm xe gắn máy của Công ty. Hoạt động này có mang lại hiệu quả cao hay không là phụ thuộc vào nhân viên bán hàng. Ngoài ra phòng Marketing cũng nên lập ra chương trình để thu thập các thông tin phản hồi từ khách hàng, từ đó điều chỉnh lại chiến lược kinh doanh, hoàn thiện chúng để thoả mãn tốt hơn nhu cầu của khách hàng ,ví dụ: thu thập thông tin về màu sắc của xe, từ đó nhập các linh kiện có màu sắc phù hợp với nhu cầu của khách hàng. Một vấn đề nữa đó là đã đến lúc Công ty cùng với phòng kế hoạch thị trường phải đưa ra cơ chế quản lý mới nhằm khai thác và sử dụng hết năng lực của từng cá nhân, phục vụ cho mục đích kinh doanh của toàn Công ty Cụ thể là Công ty cần tiến hành các biện pháp khai thác và sử dụng nhân công như sau: Tạo động cơ làm việc : đây là công việc hết sưc quan trọng đòi hỏi lãnh đạo Công ty phải có nghệ thuật trong quản trị nhân lực. Công ty phải nắm vững những nguyên nhân, mục đích làm việc của từng cá nhân. Hướng động cơ của cán bộ công nhân viên theo mục đích của Công ty trên cơ sở thoả mãn mục đích riêng của từng cá nhân. Một chính sách tiền lương và tiền thưởng hợp lý, lương trả theo đúng công sức lao động bỏ ra, đó là động cơ thúc đẩy cán bộ công nhân viên làm việc. Tạo môi trường làm việc tốt: Công ty nên cung cấp các điều kiện làm việc cần thiết cho hoạt động kinh doanh của các phòng ban trong toàn Công ty như thiết bị văn phòng, phương tiện thông tin liên lạc tạo bầu không khí làm việc cởi mở, mọi người quan tâm và giúp đỡ lẫn nhau. 7. Các biện pháp hỗ trợ khác: a. Đào tạo cán bộ, công nhân trong Công ty . Trong thời đại ngày nay, khoa học kỹ thuật phát triển từng ngày, từng giờ. Việc cập nhật các kiến thức kinh tế, kỹ thuật , xã hội đối với một cán bộ kinh doanh xuất nhập khẩu là rất cần thiết. Bên cạnh đó nền kinh tế thế giới đang phát triển theo xu hướng toàn cầu hoá khu vực hoá, việc kinh doanh xuất nhập khẩu lại phải giao dịch với bạn hàng nước ngoài, đòi hỏi cán bộ kinh doanh phải giỏi toàn diện trên tất cả các lĩnh vực. Có như vậy mới có thể đàm phán thành công mang lại hiệu quả kinh doanh cao. Chính vì vậy, việc nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ kinh doanh trong Công ty trong thời gian tới là có chính sách cử cán bộ đi đào tạo để nâng có trình độ. Việc tham gia các lớp, các khoá đào tạo sẽ giúp đội ngũ cán bộ của Công ty nâng cao trình độ nghiệp vụ và kỹ năng kinh doanh, đảm bảo kinh doanh thành công và nâng cao hiệu qủa kinh doanh của toàn Công ty . Công ty có thể tuyển thêm cán bộ kỹ thuật chuyên về xe gắn máy, có trình độ ngoại ngữ để có thể dễ dàng dịch các linh kiện, phụ tùng mà Công ty nhập sang tiếng Việt được chính xác. Làm được điều này Công ty sẽ giảm được sai sót trong quá trình nhập khẩu linh kiện, tránh sự hiểu lầm về loại linh kiện xe gắn máy cần nhập giữa Công ty với các nhà cung cấp. Về đội ngũ công nhân tại xưởng lắp ráp xe gắn máy cũng cần được quan tâm. Công ty nên tuyển chọn công nhân có tay nghề vững, có năng lực làm việc tốt, có như vậy thì quá trình lắp ráp xe mới được tiến hành liên tục, tạo ra những sản phẩm với chất lượng đảm bảo, hài lòng khách hàng . Công ty có thể thuê luôn chuyên gia kỹ thuật tại nơi mà Công ty nhập khẩu linh kiện xe gắn máy để hướng dẫn quy trình lắp ráp xe, như vậy việc lắp ráp sẽ được đảm bảo hơn. Huy động vốn và sử dụng vốn có hiệu quả. b. khắc phục khó khăn về vốn. Công ty quan hệ quốc tế đầu tư sản xuất CIRI cũng như hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam khác đang ở trong tình trạng thiếu vốn kinh doanh. Để khắc phục phần nào khó khăn này, Công ty có thể huy động vốn bằng nhiều cách khác nhau. Hiện nay một phần vốn của Công ty do nhà nước cấp, một phần vốn huy động từ nội bộ Công ty.Trong trường hợp nếu khai thác hết nguồn vốn bên trong mà nhu cầu về vốn vẫn chưa đáp ứng đủ, thì Công ty phải huy động vốn từ bên ngoài. Do cơ cấu của Công ty còn nhỏ nên việc huy động vốn và phát hành cổ phiếu là rất khó khăn. Giả pháp tốt nhất là Công ty có thể đi vay vốn từ ngân hàng, có thể vay dài hạn hoặc vay ngắn hạn. Khi Công ty có nhu cầu vay vốn thì ngân hàng sẽ đánh giá tỷ lệ tự tài trợ, tỷ suất thanh toán hiện hành, tỷ suất thanh toán tức thời...của Công ty và quyết định cho Công ty vay vốn hay không. Tuy nhiên trước khi có quyết định vay vốn ngân hàng , Công ty nên tính toán, cân nhắc, so sánh giữa lãi suất tiền vay với tỷ suất lợi nhuận hoạt động kinh doanh có thể mang lại để đảm bảo hiệu quả của hoạt động vay vốn. Công ty có thể đàm phán với nhà cung ứng để được hưởng tín dụng từ nhà cung ứng, đây là loại tín dụng hữu dụng. Tham gia hình thức này Công ty được phép thanh toán nợ trong thời gian 30-90 ngày. Ngoài ra còn hình thức huy động vốn nữa, đó là Công ty có thể đi thuê một số máy móc, thiết bị của doanh nghiệp khác. Hình thức này cho phép Công ty có thể sử dụng máy móc không thuộc quyền sở hữu của mình mà lại có quyền sử dụng, nó giúp Công ty không phải bỏ vốn để mua sắm những tài sản lớn, tiền vốn không bị ứ đọng ở tài sản cố định. Như trên đã nói, Công ty cũng như nhiều doanh nghiệp khác đang gặp những khó khăn trong việc huy động vốn, thiếu vốn Công ty có thể huy động từ các nguồn trên song việc sử dụng các biện pháp huy động vốn không phải là không có mặt trái của nó và trong nhiều trường hợp Công ty gặp rất nhiều trở ngại. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để sử dụng nguồn vốn hiện có của Công ty một cách có hiệu quả nhất. Về vấn đề này Công ty cần thực hiện một số biện pháp sau: Chấp hành nghiêm chỉnh chế độ quản lý tài chính, tín dụng, hối đoái của Nhà nước, mà trước tiên là Công ty phải hoàn thành các loại thuế phải nộp như : Thuế doanh thu, thuế nhập khẩu, thuế lợi tức... Tính toán khả năng lỗ lãi, thu hồi vốn trong kinh doanh, cũng như dự tính trước những rủi ro có thể xảy ra để có biện pháp phòng ngừa. Công ty phải kết hợp chặt chẽ của vốn và hàng hoá lưu thông. Vốn trong kinh doanh gồm vốn lưu động và vốn cố định. Để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn bao gồm cả việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động và hiệu quả vốn cố định. ở công ty quan hệ quốc tế đầu tư sản xuất trong tổng vốn kinh doanh thì vốn lưu động chiếm tỷ trọng tương đối lớn. Đối với loại vốn này, để sử dụng có hiệu quả. Công ty cần tăng nhanh tốc độ lưu chuyển hàng hoá. Lựa chọn phương thức thanh toán thuận lợi nhất, an toàn nhất, tránh tình trạng ứ đọng vốn. Công ty cũng cần đẩy mạnh hơn hoạt động xuất khẩu để tăng nhanh lượng vốn lưu động, phục vụ nhập khẩu. Nên phát huy hình thức nhập khẩu hàng đổi hàng, từ đó lượng ngoại tệ của Công ty sẽ không phải trả nhiều. Hơn nữa, thu được lợi nhuận từ cả hai hoạt động nhập khẩu và xuất khẩu. Ngoài ra, Công ty cần phải quản lý tốt lượng hàng hoá dự trữ, thanh lý kịp thời hàng hoá ứ đọng, hàng tồn kho để thu hồi vốn nhanh chóng. Vốn cố định là vốn đầu tư vào tài sản cố định của Công ty được đầu tư vào hệ thống nhà xưởng lắp ráp xe gắn máy và sản xuất linh kiện nội địa hoá. Để sử dụng nguồn vốn này được tốt, Công ty phải tăng mức lưu chuyển hàng hoá xuất nhập khẩu vì như vậy sẽ khai thác được hết công suất của tài sản cố định, giảm chi phí về tài sản cố định trên một đơn vị kinh doanh. Đẩy mạnh công suất lắp ráp xe gắn máy, ngoài việc lắp ráp xe gắn máy từ những phụ tùng linh kiện của Công ty nhập khẩu và tự sản xuất, Công ty có thể tận dụng hệ thống nhà xưởng này để liên doanh với các đơn vị khác, cụ thể là nhận lắp ráp gia công cho các hãng xe gắn máy khác như SUZUKI, YAMAHA... Song song với việc thực hiện các giải pháp trên, Công ty còn phải thường xuyên phân tích, đánh giá hiệu quả sử dụng vốn, nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả của việc sử dụng vốn để từ đó kịp thời đề ra các phương án kinh doanh thích hợp. Những vấn đề liên quan đến cấp quản lý vĩ mô. Trong thời gian qua, các bộ ngành đã tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển sản xuất. Chủ trương của chính phủ về nội địa háo hết sức đúng đăn. ở Thái Lan, chính phủ đã đề nghị các công ty Nhật Bản tăng cường đầu tư, chuyển giao công nghệ để sản xuất xe máy với giá thành thấp, có khả năng cạnh tranh vì giá xe Thai Lan không còn phù hợp với điều kiện thị trường hiện nay nhưng không thực hiện được. Thực tế thời gian thực hiện chủ trương nội địa hoá xe máy ở Việt Nam tuy chưa lâu xong đã đạt được một số kết quả: + Các doanh nghiệp trong nước đã tạo ra sự đối trọng trong cạnh tranh trên thị trường đối với các công ty liên doanh sản xuất xe máy taị Việt Nam. Công ty Honda Việt Nam đã giảm giá 30% (từ 28500000/chiếc xuống còn 1990090000/chiếc). + Đã hình thành các nhà sản xuất phụ tùng xe máy, các sản phẩm có chất lượng tốt và giá cả tương đối cạnh tranh so với Thái Lan. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì công tác quản lý của nhà nước còn có nhưng mặt chưa ổn thoả. Do vậy, nhà nước cần nghiên cứu để hoàn thiện các chính sách. Theo văn bản số 162/TB-VPCP ngày 27-11-2000, phó thủ tướng Nguyễn Mạnh Cầm chỉ đạo (cho phép sản xuất, lắp ráp xe gắn máy với khối lượng tối đa bằng công suất đã đăng ký) nhưng tại văn bản ngày 10-10-2001 lại quy định (cho phép sản xuất, lắp ráp xe máy với số lượng tối đa băng công suất do bộ công nghiệp xác nhận). Trên thực tế, các chỉ tiêu quản lý nêu trên hoàn toàn không chính xác. kết quả kiểm tra của 7 bộ ngành do bộ công nghiệp làm trưởng đoàn đối với các doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp xe máy mới là kết quả chính xác để xác đinh năng lực sản xuất, lắp ráp của doanh nghiệp. Nếu việc xác định công suất sản xuất lắp ráp cao hơn năng lực của doanh nghiệp sẽ dẫn đến hiện tượng bán chỉ tiêu, ngược lại nếu thấp hơn năng lực sản xuất lắp ráp thực tế của doanh nghiệp sẽ dẫn đến tình trạng đị mua chỉ tiêu. Đó là hiện tượng tiêu cực nảy sinh do hệ thống quản lý chỉ tiêu không nhất quán. Vì vậy việc xác định công suất sản xuất, lắp ráp của đơn vị là 40000 xe/năm quá thấp so với năng lực thực tế và kết quả kiểm tra, điều này đã bóp chết sản xuất và không tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong quá trình tái đầu tư sản xuất. Căn cứ vào kết quả kiểm tra việc thực hiện chính sách thuế theo tỷ lệ nội địa hoá năm 2001, báo cáo của các cơ quan Công an, Hải quan, Quản lý thị trường, Đăng kiểm, phát hiện của báo chí và nhân dân về các sai phạm của các doanh nghiệp sản xuất, bộ công nghiệp xem xét để có các hình thức sử lý thích đáng. Bộ thương mại chỉ đạo cơ quan Quản lý thị trường phối hợp chặt chẽ với lực lượng công an, Hải quan và các lực lượng khác đẩy mạnh công tác chống buôn lậu, gian lận thương mại, làm hàng giả trong lĩnh vực sản xuất, nhập khẩu, lưu thông phụ tùng, linh kiện xe gắn máy và sử lý nghiêm những hành vi vi phạm các quy định của pháp luật. Điều này sẽ tạo sự công bằng cho các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh nghiêm chỉnh. Chính phủ cần có những chính sách hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp có những dự án đầu tư có hiệu qủa nhàm phát triển ngành công nghiệp xe gắn máy của Việt Nam trong thời gian tới. Trên thực tế có nhiều doanh nghiệp Việt Nam có chiến lược kinh doanh tốt và có tâm huyết với ngành công nghiệp xe máy của Việt Nam nhưng lại thiếu vốn. Kết luận Có thể nói những năm 2000, 2001 là những năm có nhiều thuận lợi nhưng cũng không ít những tồn tại đối với sự phát triển của kinh tế Việt Nam. Sau một thời gian khủng hoảng kinh tế, các nước Châu á bắt đầu phục hồi và phát triển kinh tế. Do vậy triển vọng hợp tác đầu tư vào Việt Nam đang tăng lên. Đây cũng là năm có những chuyển biến trong quá trình hội nhập thương mại thế giới. Về chính sách, cơ chế đã được tháo gỡ và hoàn thiện trên nhiều mặt, tạo điều kiện thông thoáng và phù hợp cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế kinh doanh có hiệu quả. Bên cạnh đó còn nhiều những tồn tại về năng suất, chất lượng cũng như hiệu quả sản xuất kinh doanh còn thấp, cơ sở hạ tầng kinh tế yếu kém, khả năng tài chính và ngân sách Nhà nớc hạn hẹp, thị trường xuất nhập khẩu vẫn còn là vấn đề bức xúc... Trên tinh thần khai thác thuận lợi Công ty quan hệ quốc tế đầu t sản xuất CIRI và khắc phục những tồn tại nói trên, tư tưởng chỉ đạo của thủ tướng Chính phủ về mục tiêu, nhiệm vụ chủ yếu của phát triển kinh tế xã hội năm 2002 là khai thác triệt để các tiềm năng bên trong, nâng cao hiệu quả kinh tế và sức cạnh tranh, tiếp tục thực hiện mục tiêu ổn định và phát triển bền vững, tiếp tục đổi mới cơ cấu đầu tư theo hướng phát huy lợi thế của từng ngành, từng sản phẩm, từng địa phương. Việc thực hiện tốt kế hoạch năm 2000 đã tạo thuận lợi cho việc triển khai thực hiện kế hoạch năm 2001-2005 và chiến lược phát triển kinh tế xã hội những năm tiếp theo. Để làm được điều này, quả thật là khó khăn, đòi hỏi sự nỗ lực của toàn bộ xã hội, điều đó cũng đòi hỏi các doanh nghiệp, Nhà nước, các cơ quan cùng cố gắng, nỗ lực hơn nữa để thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hoá đa nền kinh tế đất nước tiến lên công nghiệp hoá hiện đại hoá. Trong những năm qua Công ty Quan hệ quốc tế đầu t sản xuất-CIRI cũng đã đạt được kết quả cao trong hoạt động kinh doanh, đóng góp một phần không nhỏ vào kết quả chung của ngành thương mại và trong lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu. Tuy nhiên so với yêu cầu đòi hỏi lớn trong thời kỳ đổi mới và phát triển kinh tế thì Công ty cần phải cố gắng khắc phục những bất hợp lý còn tồn tại để đạt hiệu quả cao nhất trong kinh doanh nhập khẩu của mình. Mục lục Lời mở đầu 1 Chương I: Hoạt động nhập khẩu linh kiện xe gắn máy của doanh nghiệp kinh doanh xe gắn máy 3 I. Vai trò nhập khẩu Linh kiện trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp kinh doanh xe gắn máy 3 1. Linh kiện và vai trò của linh kiện trong hoạt động lắp ráp xe gắn máy 3 2. Sự cần thiết phải nhập khẩu xe linh kiện xe gắn máy 4 II. Nội dung của hoạt động nhập khẩu linh kiện xe gắn máy 7 1. Nghiên cứu tiếp cận thị trường 7 2. Xây dựng phương án nhập khẩu 10 3. Tiến hành giao dịch và đàm phán kí kết hợp đồng nhập khẩu linh kiện 4. Thực hiện hợp đồng nhập khẩu linh kiện xe gắn máy 15 5. Nhận hàng 6. Hoàn thành giấy tờ pháp lý của hàng hoá 16 7. Làm thủ tục thanh toán 17 III. Những nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động nhập khẩu linh kiện xe gắn máy của các doanh nghiệp Việt Nam 17 Chương II: Phân tích hoạt động nhập khẩu linh kiện lắp ráp xe gắn máy của Công ty Quan hệ quốc tế đầu tư sản xuất 24 I. Khái quát về Công ty 24 1. Quá trình thành lập và phát triển của Công ty 24 2. Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Công ty 26 3. Cơ cấu tổ chức của Công ty 27 4. Tình hình hoạt động kinh doanh của Công ty Quan hệ quốc tế đầu tư sản xuất 36 a. Hoạt động kinh doanh của Công ty 36 b. Vốn và khả năng huy động, sử dụng vốn của Công ty 38 c. Mối quan hệ trong kinh doanh của Công ty 39 d. Một số kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty 40 II. Phân tích thực trạng hoạt động nhập khẩu linh kiện xe gắn máy của Công ty 41 1. Nghiệp vụ nhập khẩu linh kiện xe gắn máy của Công ty 41 2. Thực trạng nhập khẩu linh kiện xe gắn máy của Công ty 45 III. Đánh giá thành tựu và hạn chế của Công ty trong thời gian qua 49 Chương III: Những giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện hoạt động nhập khẩu xe gắn máy ở Công ty Quan hệ quốc tế đầu tư sản xuất 51 I. Định hướng hoạt động trong thời gian tới của Công ty 51 II. Những giải pháp hoàn thiện hoạt động nhập khẩu linh kiện xe gắn máy ở Công ty quan hệ quốc tế đầu tư sản xuất 54 1. Hoàn thiện các hoạt động nghiệp vụ nhập khẩu linh kiện xe gắn máy 54 2. Lựa chọn mặt hàng và đối tác nhập khẩu 58 3. Xây dựng kế hoạch nhập khẩu chi tiết 59 4. Lựa chọn chiến lược tiêu thụ sản phẩm thích hợp 60 5. Chơng trình nội địa hoá linh kiện xe gắn máy một cách phù hợp 60 6. Tăng cường biện pháp tổ chức, quản lý 62 7. Các biện pháp hỗ trợ khác 64 III. Những vấn đề liên quan đến cấp quản lý vĩ mô ………………….68 Kết luận 72 Tài liệu tham khảo Tài liệu tham khảo. Các loại báo: Báo doanh nghiệp. Boá đầu tư. Kinh tế Việt Nam và thế giới. Thời báo kinh tế Việt Nam. Các báo cáo: Báo cáo về tình hình kinh doanh của công ty quan hệ quốc tế đầu tư sản xuất những năm 1999, 2000, 2001. Báo cáo về tình hình nhập khẩu linh kiện xe gắn máy những năm 1999, 2000, 2001. Các loại sách: Giáo trình thương mại quốc tế. Giáo trình quản lý kinh doanh thương mại quốc tế. Tạp chí: Con số và sự kiện. Hoạt động khoa học. Tia sáng Các văn bản luật: 1. Văn bản 162/TB- VPCP ngày 27-11-2000.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0502.doc
Tài liệu liên quan