Đề tài Những biện pháp cơ bản đảm bảo vốn FDI và ODA cho phát triển kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001 - 2005

- Một điểm đáng lưu ý là khi doanh nghiệp có vốn ĐTNN đi vào hoạt động, nó không chỉ bị điều chỉnh bởi hệ thống pháp luật về ĐTNN mà còn bị điều chỉnh bởi toàn bộ khung pháp luật kinh tế tại Việt Nam. Do đó, mặc dù môi trường đối với đầu tư nước ngoài đã trở nên thông thoáng hơn rất nhiều, nhưng môi trường kinh doanh chung trong nền kinh tế vẫn chứa đựng nhiều nhược điểm, gây cản trở đối với sự hình thành, hoạt động và giải thể của các doanh nghiệp nói chung. Trong thời gian gần đây, mối quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đang chuyển dần từ những chính sách áp dụng riêng cho khu vực ĐTNN sang những chính sách áp dụng chung trong toàn bộ môi trường kinh doanh. Cụ thể những tồn tại cơ bản trong chính sách thu hút vốn ĐTNN vào Việt Nam như sau: Một là, định hướng cơ cấu vốn ĐTNN. Định hướng thu hút vốn đầu tư chưa thật sự cụ thể và rõ ràng, chưa xác định rõ được những mục tiêu gọi vốn trọng tâm cho từng thời kỳ và đảm bảo tính cân đối phát triển giữa các ngành, lĩnh vực kinh tế. Ví dụ, trong giai đoạn 1996-2000, số vốn đầu tư vào ngành kinh doanh dịch vụ, khách sạn là khá lớn nên đã xảy ra hiện tượng dư thừa năng lực. Trong khi đó, đầu tư vào lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp, chế biến thực phẩm chiếm tỷ trọng quá nhỏ, không khai thác được lợi thế của thị trường Việt Nam về nguồn nguyên liệu và lao động. Hiện nay, cơ cấu ngành đã có những dấu hiệu chuyển biến tích cực nhưng cơ cấu đầu tư theo vùng lãnh thổ vẫn còn biểu hiện thiếu cân đối. Các nhà đầu tư mới chỉ tập trung vào một số vùng kinh tế trọng điểm, khiến sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các vùng kinh tế ngày càng lớn hơn. Hai là, thủ tục hành chính. Luật Đầu tư nước ngoài còn nhiều quy định chưa thực sự cụ thể và chưa theo nguyên tắc “một cửa”. Nhiều quy định tuy có thực hiện thí điểm ở một số nơi, nhưng khi triển khai trên diện rộng còn bộc lộ nhiều vướng mắc, nhất là các quy định về đất đai, về đền bù và giải toả mặt bằng, về thiết kế, xây dựng, về quản lý dự án sau khi đã cấp giấy phép.

doc39 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1124 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những biện pháp cơ bản đảm bảo vốn FDI và ODA cho phát triển kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001 - 2005, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hông hoàn lại chiếm gần 25%. Đặc biệt hội nghị các nhà tài trợ cho Việt Nam lần thứ 9 (7-8/12/2001) đã tuyên bố cộng đồng thế giới cam kết tài trợ cho Việt Nam khoản vốn vay 2,4 tỷ USD trong năm 2002 để tiếp tục thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội của mình. Trong khi nguồn vốn này trên thị trường quốc tế rất có hạn và bị cạnh tranh gay gắt giữa các nước đang phát triển thì lượng vốn vào Việt Nam như vậy là rất khả quan. Đây là sự ghi nhận của cộng đồng quốc tế đối với những thành tựu của công cuộc đổi mới và phát triển của Việt Nam. Các nhà tài trợ chính về vốn ODA cho Việt Nam là Nhật Bản, Australia, Anh, Pháp, Đức, Hà Lan, Thuỵ Điển,... Ngoài ra còn có các tổ chức quốc tế như Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển châu á (ADB), Liên minh châu Âu (EU), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF),... Với quy mô tài trợ khác nhau, hiện nay ở Việt Nam có gần 30 đối tác hợp tác phát triển song phương và 15 đối tác hợp tác phát triển đa phương; hơn 300 các tổ chức phi Chính phủ đang hoạt động tại Việt Nam. Trong đó, ba nhà tài trợ lớn nhất chiếm gần 80% tổng vốn ODA cam kết dành cho Việt Nam là Nhật Bản, ADB và WB. Nhật Bản là một trong những nước có khối lượng ODA lớn và cũng là nhà tài trợ lớn nhất cho Việt Nam. Nhật Bản bắt đầu các chương trình viện trợ cho Việt Nam từ tháng 11/1992. Tính đến nay, Nhật Bản đã cam kết tài trợ cho Việt Nam khoảng 6 tỷ USD, trong đó có các khoản vay ưu đãi đã ký khoảng 5,3 tỷ USD. Vốn vay của Nhật Bản có thời hạn 30 năm trong đó có 10 năm ân hạn. Các hình thức tài trợ chủ yếu là: vay với điều kiện ưu đãi, viện trợ không hoàn lại, hỗ trợ kỹ thuật, cung cấp hàng hoá, nhưng hình thức phổ biến nhất là tín dụng ưu đãi và viện trợ không hoàn lại. Tín dụng ưu đãi thường có mức lãi suất thấp từ 0,25% đến 2,3%. WB bắt đầu thiết lập quan hệ với Việt Nam từ tháng 10/1993 và cam kết tài trợ cho Việt Nam các khoản tín dụng trên 2,6 tỷ USD với thời hạn vay 40 năm trong đó có 10 năm ân hạn, lãi suất 0%, chi phí quản lý 0,75%/năm. Nguồn vốn của WB dùng đầu tư các dự án giao thông vận tải, thuỷ lợi, nông nghiệp và phát triển nông thôn, năng lượng, giáo dục, y tế, dân số, kế hoạch hoá gia đình, điều chỉnh cơ cấu kinh tế. ADB là tổ chức lớn thứ ba cho Việt Nam vay các khoản tín dụng ưu đãi từ Quỹ phát triển châu á (ADF). Với những nỗ lực trong công cuộc đổi mới kinh tế, Việt Nam được hưởng đặc ân, xếp trong nhóm thành viên được vay vốn vay ưu đãi của ADB. ADB đã cam kết cho Việt Nam vay 1,6 tỷ USD vốn tín dụng để đầu tư cho 19 dự án, thời hạn cho vay 40 năm, trong đó có 10 năm ân hạn, lãi suất 0%, chi phí quản lý 1%/năm. Ngoài ra còn có 70 khoản trợ giúp kỹ thuật trị giá 47 triệu USD không hoàn lại. Từ 1999, Việt Nam được chuyển từ nhóm A lên B1 nên phải vay một phần từ nguồn vốn thông thường (OCR) với lãi suất thị trường và thời gian ngắn hơn. Nguồn ADF cũng giảm bớt tính ưu đãi, thời gian vay còn 32 năm, trong đó có 8 năm ân hạn, chi phí quản lý sẽ nâng lên 1,5% cho thời kỳ sau khi hết thời gian ân hạn. Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức của ADB dùng để hỗ trợ cho việc cải tạo nâng cấp cơ sở hạ tầng kinh tế, phát triển cơ sở hạ tầng xã hội, tăng cường thể chế và đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo, hợp tác tiểu vùng và tiểu vùng Mêkông mở rộng nhằm phối hợp chung các nước trong tiểu vùng. Ngoài ra, nguồn vốn ODA của ADB còn hỗ trợ cho đầu tư tư nhân, cổ phần hoá và cải cách doanh nghiệp nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các chủ thể kinh doanh. Từ 1993 đến 2000 ta đã ký các hiệp định nhằm thực hiện các cam kết. Nguồn vốn mà ta ký được bằng 80% nguồn ODA đã cam kết, trong đó 85% là vốn vay, 15% là viện trợ không hoàn lại. Trong ba năm 1997, 1998, 1999, vốn ODA được giải ngân trung bình mỗi năm trên 1,1 tỷ USD. Theo đánh giá của các chuyên gia WB thì tốc độ giải ngân nguồn vốn ODA như vậy vẫn là chậm, do đó chương trình viện trợ của WB dành cho Việt Nam đang từ 500 triệu USD năm 1996 xuống còn 431 triệu USD vào năm 1999. Có thể thấy chương trình viện trợ của WB đang có chiều hướng thu hẹp lại. Trái ngược với quan điểm của WB, Nhật Bản lại tỏ ra lạc quan về tốc độ giải ngân nguồn vốn ODA, và ông chủ tịch Hội đồng kinh tế Nhật Bản từng tuyên bố mặc dù nền kinh tế nước này có gặp nhiều khó khăn trong giai đoạn vừa qua nhưng Nhật Bản vẫn cố gắng duy trì vốn ODA cho Việt Nam, trong khi nguồn vốn này cho nhiều nước đã bị cắt giảm. Tuy nhiên, nhìn nhận một cách khách quan thì mức giải ngân của nước ta vẫn thấp, từ đó dẫn tới một số hạn chế: Một là, không huy động được các công trình đi vào hoạt động đúng tiến độ. Hai là, các điều kiện ưu đãi của khoản vay ODA giảm sút do rút ngắn thời gian ân hạn. Ba là, uy tín về năng lực tiếp thu nguồn vốn ODA bị giảm. Năm 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 (11 tháng) Vốn giải ngân (triệu USD) 413 725 737 900 1000 1200 1350 1450 Kết quả giải ngân vốn ODA (1993-2000) Vốn ODA đã được đầu tư vào tất cả các lĩnh vực kinh tế-xã hội, các ngành kinh tế quốc dân, và vào hầu hết các địa phương, kể cả vùng núi, vùng đồng bào dân tộc. Nguồn vốn ODA thực sự đã mang lại lợi ích to lớn cho nền kinh tế nước ta, đời sống nhân dân đã được cải thiện cả về vật chất lẫn tinh thần. Cùng với vốn đầu tư phát triển khác từ Ngân sách Nhà nước, ODA tạo ra động lực cho việc khai thác và phát huy tác dụng các nguồn lực trong nước, góp phần tích cực vào công cuộc đổi mới, thúc đẩy tiến trình hội nhập của nước ta với khu vực và thế giới. Theo số liệu của Bộ kế hoạch và đầu tư, cơ cấu sư dụng vốn ODA giai đoạn 1993-2000 như sau: năng lượng điện chiếm 28%, giao thông 27%, nông lâm ngư nghiệp và thuỷ lợi 13%, giáo dục-y tế-khoa học công nghệ 13%, cấp-thoát nước 9%, hỗ trợ ngân sách và các ngành khác 10%. Về công nghiệp, vốn ODA đã góp phần tăng năng lực một số ngành, đặc biệt là ngành điện như số liệu trên đã cho thấy. Hầu hết các nguồn điện, hệ thống đường dây, trạm biến thế quan trọng đều được đầu tư hoặc hỗ trợ bằng ODA như nhà máy thuỷ điện Hoà Bình, Trị An, Phả Lại, Hàm Thuận-Đà My, nhiệt điện Phú Mỹ II. Về giao thông vận tải và bưu chính viễn thông, tỷ trọng ODA dành cho hai lĩnh vực này đã tăng lên đáng kể. Các công trình giao thông trọng điểm và cả các dự án giao thông nông thôn cũng đều được tài trợ bằng ODA. Nhiều công trình lớn được hoàn thành với sự góp mặt của ODA như quốc lộ 1, quốc lộ 5, quốc lộ 18, quốc lộ 10, cầu Mỹ Thuận,... Về nông nghiệp, một lượng vốn không nhỏ được đầu tư cho các vùng nông thôn còn nhiều khó khăn, phần lớn là vốn viện trợ không hoàn lại. Cơ sở hạ tầng của nhiều vùng nông thôn đã có những cải thiện rõ rệt (đường giao thông, hệ thống thuỷ lợi, điện, nước sạch cho sinh hoạt,...). Việc đầu tư nguồn vốn ODA vào nông nghiệp đã thúc đẩy sự gia tăng sản lượng nông nghiệp với nhịp độ phát triển tương đối cao trong thời gian qua. Về khoa học công nghệ, tuy ODA đầu tư vào khoa học công nghệ không nhiều nhưng nó đã đem lại những kết quả khả quan. Một đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật có trình độ thuộc nhiều lĩnh vực đã được đào tạo, cơ sở vật chất, thiết bị hiện đại, phòng thí nghiệm,... được nâng cấp. Nhiều công nghệ hiện đại đã được đưa vào sản xuất. Từ đó nâng cao năng lực của nền kinh tế. Nguồn ODA cho vay lại đã có hiệu quả thiết thực đối với sự phát triển của các doanh nghiệp, đáp ứng các nhu cầu bức bối về vốn để thực hiện các mục tiêu đầu tư của các doanh nghiệp, tạo tiền đề cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất nhằm nâng cao chất lượng hàng hoá và dịch vụ, giải quyết việc làm, nâng cao đời sống cho người lao động. Ngoài ra, nguồn vốn ODA còn phát huy ưu điểm ở một số ngành khác thuộc các lĩnh vực văn hoá xã hội, y tế, giáo dục,... II. Những tồn tại và khó khăn trong thu hút vốn nước ngoài. 1. Khó khăn ngoài nước. Đối với FDI. Luồng vốn đầu tư vào Việt Nam từ các nước Châu á sẽ phục hồi chậm do chính các nước này giờ đây đang cần vốn để lấy lại đà tăng trưởng kinh tế. Điều này có nghĩa là nếu phạm vi (vùng, lãnh thổ) của các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư tại Việt Nam không được mở rộng thì khả năng tăng vốn ĐTNN tại nước ta sẽ là vô cùng hạn chế. Bên cạnh đó, cạnh tranh trong thu hút vốn ĐTNN sẽ quyết liệt hơn rất nhiều trong thời gian tới. Các nước trước đây đầu tư vào Việt Nam thì nay trở thành đối thủ cạnh tranh với Việt Nam (Thái lan, Indonesia, Maylaysia ...). Chính sự mất giá đồng tiền trong cuộc khủng hoảng khu vực lại là lợi thế của các nước này trong việc thu hút đầu tư nước ngoài hiện nay. Ngoài ra, tính hấp dẫn tương đối của môi trường đầu tư nước ta đã có dấu hiệu thụt lùi so với các nước trong khu vực. Điều này cho thấy Việt Nam phải có nỗ lực lớn để dành lại khả năng cạnh tranh trong thu hút ĐTNN. Đối với ODA. Hiện nay, nguồn tài trợ của các tổ chức tài chính quốc tế, các nước giàu có giành cho các nước nghèo không phải là vô hạn mà chỉ có thời hạn nhất định và xuất hiện xu hướng giảm đi, trong khi số nước nghèo có nhu cầu viện trợ có chiều hướng tăng lên. Do đó sẽ xuất hiện khó khăn trong việc huy động nguồn tài trợ. Mặt khác, cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ trong khu vực và những tác động ngày càng lớn tới nền kinh tế thế giới thời gian qua cũng làm cho các tổ chức tài chính quốc tế và Chính phủ các nước gặp khó khăn về nguồn vốn do phải lo cứu trợ cho các nước nên việc tìm nguồn vốn tài trợ sẽ trở nên khó khăn hơn. 2. Những tồn tại và vướng mắc trong nước. a) Đối với thu hút FDI. Thị trường lớn, nhưng sức mua tương đối hạn chế. Hiện nay, gần 80% dân số nước ta sống ở khu vực nông thôn, có thu nhập thấp. Dự kiến tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam có thể đạt trung bình từ 5-7% trong 10 năm tới. Như vậy, thu nhập bình quân đầu người sẽ ở mức xấp xỷ 650 USD/đầu người vào năm 2010 (mức hiện nay khoảng 350 USD/người). Mức thu nhập này vẫn còn là rất thấp so với các nước đang phát triển trong khu vực, do vậy hạn chế sức mua của thị trường Việt Nam. Đầu tư nước ngoài vào nước ta còn mang tính tự phát, không theo quy hoạch ngành, vùng. ĐTNN đã cơ bản chiếm lĩnh tất cả các ngành và địa bàn đầu tư có lợi thế. Việc thu hút vốn đầu tư vào các ngành nông-lâm-ngư nghiệp và vào các địa bàn có điều kiện kinh tế không thuận lợi sẽ là rất khó khăn trong thời gian tới (đầu tư kém hiệu quả, rủi ro cao, thu hồi vốn lâu, đặc biệt sản xuất nông nghiệp chịu ảnh hưởng của thiên tai). Một số ngành mũi nhọn như dầu khí, ô tô, xi măng, thép ... cũng sẽ gặp khó khăn trong thu hút vốn đầu tư do trữ lượng dầu hạn chế hoặc sản xuất hiện đang vượt quá nhu cầu trong nước. Đầu tư nước ngoài vào các ngành công nghệ cao cũng chưa nhiều, nhất là đầu tư chiều sâu và chuyển giao các công nghệ gốc còn hạn chế. Khả năng tiếp nhận nguồn vốn bên ngoài còn hạn chế do khoảng cách về trình độ phát triển kinh tế giữa Việt Nam và các nước trong khu vực còn khá lớn. Điều này, một mặt làm giảm số lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thu hút được, mặt khác làm cho khả năng làm chủ nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài còn ở mức độ thấp. Một số nguyên nhân cụ thể của tình trạng trên như sau: Trình độ công nghệ sản xuất còn yếu kém, đặc biệt trong các ngành công nghiệp chế tạo và chế biến. Trình độ cán bộ quản lý cũng như công nhân chuyên nghiệp còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra của tình hình mới. Các doanh nghiệp Việt Nam đang hoạt động đều còn rất non trẻ, không những thiếu vốn, non kém về trình độ quản lý mà còn thiếu cả kinh nghiệm hoạt động. Phần lớn các doanh nghiệp mới chỉ kinh doanh trên mặt hàng rộng nhưng thiếu chuyên ngành, mạng lưới tiêu thụ còn mong manh; chưa quan tâm và ít thành công trong việc xây dựng các khối khách hàng tin cậy và lâu bền; thiếu thông tin và thiếu hiểu biết về thị trường và khách hàng cũng như thiếu các hoạt động xúc tiến thương mại dưới nhiều hình thức như thông tin thương mại, hỗ trợ triển lãm, quảng cáo... Chính vì vậy, khả năng trở thành đối tác có hiệu quả của các doanh nghiệp Việt Nam còn yếu. Môi trường đầu tư trong nước còn có rất nhiều điểm bất cập. Một điểm đáng lưu ý là khi doanh nghiệp có vốn ĐTNN đi vào hoạt động, nó không chỉ bị điều chỉnh bởi hệ thống pháp luật về ĐTNN mà còn bị điều chỉnh bởi toàn bộ khung pháp luật kinh tế tại Việt Nam. Do đó, mặc dù môi trường đối với đầu tư nước ngoài đã trở nên thông thoáng hơn rất nhiều, nhưng môi trường kinh doanh chung trong nền kinh tế vẫn chứa đựng nhiều nhược điểm, gây cản trở đối với sự hình thành, hoạt động và giải thể của các doanh nghiệp nói chung. Trong thời gian gần đây, mối quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đang chuyển dần từ những chính sách áp dụng riêng cho khu vực ĐTNN sang những chính sách áp dụng chung trong toàn bộ môi trường kinh doanh. Cụ thể những tồn tại cơ bản trong chính sách thu hút vốn ĐTNN vào Việt Nam như sau: Một là, định hướng cơ cấu vốn ĐTNN. Định hướng thu hút vốn đầu tư chưa thật sự cụ thể và rõ ràng, chưa xác định rõ được những mục tiêu gọi vốn trọng tâm cho từng thời kỳ và đảm bảo tính cân đối phát triển giữa các ngành, lĩnh vực kinh tế. Ví dụ, trong giai đoạn 1996-2000, số vốn đầu tư vào ngành kinh doanh dịch vụ, khách sạn là khá lớn nên đã xảy ra hiện tượng dư thừa năng lực. Trong khi đó, đầu tư vào lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp, chế biến thực phẩm chiếm tỷ trọng quá nhỏ, không khai thác được lợi thế của thị trường Việt Nam về nguồn nguyên liệu và lao động. Hiện nay, cơ cấu ngành đã có những dấu hiệu chuyển biến tích cực nhưng cơ cấu đầu tư theo vùng lãnh thổ vẫn còn biểu hiện thiếu cân đối. Các nhà đầu tư mới chỉ tập trung vào một số vùng kinh tế trọng điểm, khiến sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các vùng kinh tế ngày càng lớn hơn. Hai là, thủ tục hành chính. Luật Đầu tư nước ngoài còn nhiều quy định chưa thực sự cụ thể và chưa theo nguyên tắc “một cửa”. Nhiều quy định tuy có thực hiện thí điểm ở một số nơi, nhưng khi triển khai trên diện rộng còn bộc lộ nhiều vướng mắc, nhất là các quy định về đất đai, về đền bù và giải toả mặt bằng, về thiết kế, xây dựng, về quản lý dự án sau khi đã cấp giấy phép. Chế độ thẩm định và cấp giấy phép đầu tư còn được duy trì đối với phần lớn các dự án ĐTNN tại Việt Nam. Quy trình xét duyệt dự án còn liên quan đến nhiều cơ quan phê duyệt và cấp phép, thời gian kéo dài, làm gia tăng rủi ro và các chi phí cho dự án đầu tư ngay từ giai đoạn khởi động. Trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp có vốn ĐTNN tiến hành xin phê duyệt của cơ quan có thẩm quyền đối với hầu hết những thay đổi trong dự án (thay đổi cán bộ quản lý; tăng vốn; điều chỉnh lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh; tăng/giảm lao động ...). Những thủ tục này làm hạn chế đáng kể tính linh hoạt trong sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp. Hiện nay chưa có các quy định cụ thể cũng như hệ thống tổ chức hoàn chỉnh về quản lý các doanh nghiệp có vốn ĐTNN sau khi đã được cấp giấy phép. Bộ Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan chủ quản trong quản lý nhà nước về ĐTNN nhưng thực sự chưa có đủ khả năng theo dõi toàn bộ hoạt động đầu tư mà mới chỉ theo dõi được trong giai đoạn cấp giấy phép. Các cơ quan chủ quản, các ngành, các tổng công ty sau khi cho các xí nghiệp thành viên tham gia liên doanh thường không có quyền kiểm soát, quản lý điều hành vì vốn tham gia của phía Việt Nam thường nhỏ hơn đối tác nước ngoài. Do thiếu các quy định cụ thể về quản lý doanh nghiệp có vốn ĐTNN nên dẫn đến tình trạng kiểm tra, thanh tra tuỳ tiện của các cơ quan quản lý Nhà nước ở địa phương, gây nhũng nhiễu đối với các doanh nghiệp. Ba là, hình thức đầu tư. Cho tới nay, các nhà đầu tư nước ngoài vẫn bị bó buộc trong 3 hình thức đầu tư cổ điển là: doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và hợp đồng hợp tác kinh doanh. Những mô hình này là phù hợp trong giai đoạn đầu thực hiện chính sách thu hút vốn ĐTNN. Tuy nhiên, với quy mô ngày càng lớn, nhu cầu thu hút vốn đầu tư trong nước của các doanh nghiệp có vốn ĐTNN cũng gia tăng nhanh. Điều này cho thấy cần thiết phải mở rộng loại hình doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, cho phép nhà đầu tư nước ngoài được lựa chọn trong số các hình thức đầu tư được pháp luật cho phép tại Việt Nam. Bốn là, môi trường kinh doanh lành mạnh, bình đẳng. Trong thời gian gần đây, Chính phủ đã có nhiều nỗ lực trong việc xoá bỏ dần hàng rào ngăn cách giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài. Tuy nhiên, hiện còn tồn tại song song hai bộ luật khuyến khích đầu tư khác biệt nhau áp dụng cho đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Nếu xét về hình thức sở hữu doanh nghiệp thì hiện tồn tại ba “sân chơi” riêng biệt dành cho doanh nghiệp nhà nước; doanh nghiệp của khu vực kinh tế tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Sự tồn tại song song của ba hệ thống luật điều chỉnh tạo nên một môi trường pháp lý phức tạp, chồng chéo, và đặc biệt tạo ra một môi trường cạnh tranh bất bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Ngoài ra, các văn bản quy phạm pháp luật bổ trợ về các vấn đề như cạnh tranh lành mạnh, chống độc quyền, bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp và trí tuệ, bảo hộ người tiêu dùng ... đến nay vẫn chưa được ban hành hoặc đã ban hành nhưng tính hiệu lực thi hành không cao. Đây là những yếu tố quan trọng giúp tạo lập một môi trường kinh doanh lành mạnh và bình đẳng trong nước. Ta có thể thấy một ví dụ điển hình là hệ thống văn bản pháp lý về sở hữu trí tuệ của Việt Nam là tương đối đầy đủ (về bản quyền, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu thương mại...). Tuy nhiên, khi có vi phạm thì hình thức xử lý mới chỉ là nhắc nhở chứ không bị xử phạt hành chính và tài chính (qui chế xử phạt chưa rõ ràng). Chính vì vậy, các nhà đầu tư cảm thấy không yên tâm vì có thể bị xâm phạm lợi ích bất cứ lúc nào và không được bồi thường thiệt hại đầy đủ. Năm là, các vấn đề về thuế. Hiện nay khu vực doanh nghiệp có vốn ĐTNN hiện đang được áp dụng mức thuế suất thu nhập doanh nghiệp chung thấp hơn so với doanh nghiệp trong nước (25% so với mức 32% của doanh nghiệp trong nước). Tuy nhiên, các nhà ĐTNN phải nộp thuế chuyển lợi nhuận về nước ở mức từ 5-10%. Như vậy, họ phải chịu hai lần thuế và mức thuế suất thuế thu nhập thực tế đối với doanh nghiệp có vốn ĐTNN là 30-35%, tương đương với mức thuế của doanh nghiệp trong nước. Ngoài ra, Luật thuế nhu nhập doanh nghiệp hiện tại chưa cho phép doanh nghiệp được khấu trừ một số khoản chi phí chính đáng mà doanh nghiệp thực chi. Điều này càng làm thuế suất “thực tế” tăng có hơn rất nhiều so với mức thuế danh nghĩa nêu trong các sắc thuế của Nhà nước. Pháp lệnh Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao của Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành ngày 19/5/2001 tuy đã áp dụng mức thuế suất chung cho người Việt Nam và người nước ngoài thường trú trên 6 tháng, nhưng biểu thuế suất luỹ tiến với cao nhất là 50% hiện nay là quá cao so với mức trung bình ở châu á (chỉ 30%). Mức thuế thu nhập cá nhân cao trực tiếp ảnh hưởng tới chi phí thuê lao động là người nước ngoài và người Việt Nam, làm giảm đáng kể lợi thế so sánh về lao động của nước ta. Thuế suất cao cũng khuyến khích công dân Việt Nam có kỹ năng đạt tiêu chuẩn quốc tế tìm việc ở những nước có thuế thu nhập thấp hơn, đồng thời khuyến khích nạn trốn thuế và tham nhũng. Hệ thống thuế của Việt Nam tuy đã được nghiên cứu và điều chỉnh nhiều lần nhưng vẫn chưa thực sự phù hợp và ngang bằng với trình độ quản lý của các nước trong khu vực. Các quy định về thuế còn phức tạp, quá nhiều mức thuế suất, thường xuyên thay đổi nên đã gây ra nhiều khó khăn cho doanh nghiệp, khiến các doanh nghiệp không thể ổn định kế hoạch sản xuất. Cho tới nay Việt Nam chưa có các quy định về chống chuyển giá, chuyển thuế. Sáu là, tiếp cận các yếu tố sản xuất. Đây là vấn đề vướng mắc không chỉ đối với các nhà đầu tư nước ngoài mà còn đối với cả các nhà đầu tư trong nước. Những vấn đề nổi cộm chủ yếu liên quan đến chính sách quản lý đất đai, đền bù giải phóng mặt bằng; chính sách quản lý ngoại hối; các quy định về cầm cố, thế chấp trong lĩnh vực ngân hàng; các chính sách về tiếp cận các nguồn vốn trong nước với nhiều hình thức huy động vốn khác nhau (Ví dụ: hiện nay các doanh nghiệp có vốn ĐTNN không được phép phát hành cổ phiếu để huy động vốn trong nước)... b) Một số tồn tại trong thu hút ODA. Vốn đối ứng cho các dự án vay vốn luôn là vấn đề nan giải. Mọi chương trình dự án đều đòi hỏi có sự đóng góp của cả hai phía: nhà tài trợ và nước chủ nhà. Trước khi ký kết các hiệp định, điều ước quốc tế về ODA cần xác định rõ mức đóng góp của phía Việt Nam, nhưng thực tế khi điều ước quốc tế được ký kết giữa hai chính phủ thì vốn đối ứng vẫn chưa được ghi ngay mà phải chờ đến khi dự án khả thi được duyệt thì vốn đối ứng mới được ghi. Vì thế, sau khi vốn đối ứng đã được duyệt nhưng việc rút vốn gặp rất nhiều khó khăn, không phù hợp với tiến độ thực hiện dự án. Quá trình triển khai dự án và giải ngân thường chậm, không thực hiện đúng lịch trình cam kết với phía nước ngoài, làm giảm lòng tin đối với các nhà tài trợ. Giải ngân chậm làm cho các điều kiện đã được ưu đãi kém đi, thời gian ân hạn giảm, thời hạn có hiệu lực của vốn cũng giảm. Thời gian chuẩn bị dự án trước và sau khi ký điều ước quốc tế về ODA thường kéo dài từ 1,5 - 2 năm. Thủ tục xét duyệt dự án phải qua nhiều cấp, việc đấu thầu và xét duyệt kết quả đấu thầu phải qua nhiều khâu rất phiền hà. Công tác giải phóng mặt bằng còn nhiều bất cập. Chưa có khung thể chế tài chính trong nước đối với các dự án cho vay lại của ODA. Vì thế nhiều trường hợp không tính được hiệu quả tài chính của dự án, mất nhiều thời gian chuẩn bị và ký kết các hợp đồng cho vay lại. Công tác quản lý dự án thường bị buông lỏng nên không cập nhật được tình hình thực hiện dự án để khi cần có thể can thiệp kịp thời. Thiếu một hệ thống thông tin đầy đủ về các dự án, thiếu sự kết nối các cơ quan quản lý với đơn vị thụ hưởng ODA và với các nhà tài trợ để nâng cao hiệu quả quản lý các dự án ODA. Về mặt nhận thức vẫn còn những quan niệm và cách hiểu khác nhau về ODA, có người cho rằng đây là khoản cho không, quà biếu, vật tặng. Một số địa phương có quan niệm sử dụng ODA “vay là được” mà không tính đến khả năng trả nợ và hiệu quả, dẫn đến tình trạng lãng phí và tham nhũng, gây hậu quả xấu cho việc tiếp nhận ODA. Chương III Phương hướng và giải pháp thu hút vốn fdi và oda phục vụ phát triển kinh tế Việt Nam thời kỳ 2001-2005. I. Những mục tiêu cơ bản phát triển kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001-2005. 1. Các mục tiêu phát triển kinh tế và yêu cầu về nguồn vốn. Văn kiện Đại hội IX của Đảng đã xác định mục tiêu tổng quát của chiến lược phát triển kinh tế – xã hội nước ta 2001 – 2010 như sau: “Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân; tạo nền tảng để đến 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao”. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX - Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001, tr 89-90. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã thực hiện thắng lợi mục tiêu đổi mới, đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội. Với những thành tựu đạt được, đất nước ta đã chuẩn bị một tư thế sẵn sàng bước vào thế kỷ 21. Tuy nhiên, để nước ta thực sự trở thành một nước công nghiệp hiện đại, chúng ta còn phải giải quyết một loạt các vấn đề: Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp. Ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng quan hê sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường. Kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng – an ninh. Trước mắt, chúng ta cần hoàn thành một số chỉ tiêu định hướng phát triển kinh tế giai đoạn 2001-2005 như sau: Đưa GDP năm 2005 lên gấp đôi so với năm 1995. Tích luỹ nội bộ nền kinh tế 28%-30% GDP, trong đó tích luỹ từ khu vực ngân sách khoảng 6% GDP, tích luỹ từ khu vực dân cư, doanh nghiệp 22%-24% GDP. Nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm thời kỳ 2001-2005 là 7,5%, trong đó nông, lâm, ngư nghiệp tăng 4,3%, công nghiệp và xây dựng tăng 10,8%, dịch vụ tăng 6,2%. Tổng kim ngạch nhập khẩu tăng 15%/năm, tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 16%/năm. Giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp tăng 4,8%/năm. Giá trị sản xuất ngành công nghiệp tăng 13%/năm. Giá trị dịch vụ tăng 7,5%/năm. Cơ cấu ngành kinh tế GDP đến năm 2005 dự kiến: Tỷ trọng nông, lâm, ngư nghiệp 20-21%. Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng 38-39%. Tỷ trọng các ngành dịch vụ 41-42%. Cơ cấu lao động trong các ngành năm 2005 dự kiến: Tăng lao động công nghiệp và xây dựng lên 20-21%. Lao động trong các ngành dịch vụ 22-23%. Giảm lao động nông, lâm, ngư nghiệp xuống còn 56-57%. Để thực hiện thắng lợi mục tiêu trên ta cần phải có một nguồn lực rất lớn, trong đó nguồn lực từ nước ngoài đóng một vai trò không nhỏ. Chúng ta cần thu hút nguồn lực của nước ngoài và vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo sao cho phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước, đồng thời thích ứng với xu thế thời đại, nắm bắt kịp thời xu hướng phát triển của thế giới, phát hiện thời cơ, tranh thủ được những nhân tố có lợi nhất cho sự phát triển của đất nước. Nguồn ngoại lực bao gồm cả vốn và công nghệ hiện đại. Song công nghệ bao giờ cũng đi kèm theo các nguồn vốn. Vì vậy, mục tiêu chủ yếu của chúng ta là thu hút được nguồn vốn từ bên ngoài đáp ứng nhu cầu đầu tư trong nước. Dự kiến nguồn vốn từ bên ngoài mà nước ta cần cho giai đoạn 2001-2005 như sau: Tổng nguồn vốn bên ngoài cần thu hút khoảng trên 20 tỷ USD, trong đó: Vốn ODA. Khả năng thực hiện nguồn vốn ODA khoảng 10-11 tỷ USD. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nghị quyết số 09/2001/NQ-CP của Chính phủ về tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả FDI thời kỳ 2001-2005 đề ra mục tiêu phải thu hút khoảng 12 tỷ USD vốn đăng ký của các dự án cấp giấy phép mới và 11 tỷ USD vốn thực hiện. 2. Xu hướng đầu tư quốc tế. Xu hướng của dòng vốn FDI. Trong những năm tới, lượng vốn nước ngoài đổ vào khu vực châu á-Thái Bình Dương sẽ vẫn lớn nhất thế giới. Về mặt cơ cấu, dòng vốn FDI sẽ chiếm tỷ trọng ngày càng lớn hơn so với ODA. Dòng vốn này chủ yếu là từ các nước Mỹ, Nhật, Tây Âu. Việt Nam là một trong những tiêu điểm hấp dẫn mạnh dòng vốn nước ngoài do được hưởng những lợi thế khách quan đặc biệt to lớn. Vấn đề còn lại là năng lực chủ quan của chúng ta nhằm tận dụng triệt để những lợi thế tiềm năng đó. Dự báo xu hướng vận động ODA. Lượng ODA trên thế giới trong những năm tới tiếp tục gia tăng nhưng tốc độ tăng giảm dần. Cơ cấu ODA sẽ thay đổi theo hướng tăng tỷ trọng cho vay tín dụng giảm viện trợ không hoàn lại: tăng nguồn ODA song phương thì tỷ trọng cho vay của chính phủ giảm, tăng tỷ trọng của tín dụng tư nhân. Như vậy tình hình thế giới đòi hỏi các nước nhận viện trợ phải cố gắng rất nhiều nhưng đặc biệt là trong khâu hoạch định chiến lược sử dụng nguồn vốn ODA và khâu đào tạo đội ngũ cán bộ xây dựng và quản lý các dự án, chuyển hoá nguồn vốn bên ngoài thành tiềm lực nội sinh bên trong không bị lệ thuộc trong quá trình hợp tác quốc tế. II. Một số phương hướng và giải pháp thu hút vốn nước ngoài. 1. Những giải pháp nhằm thu hút vốn FDI có hiệu quả. a) Định hướng trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Giai đoạn đầu thế kỷ 21 có ý nghĩa rất quan trọng đối với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của nước ta. Mục tiêu của thời kỳ này là đưa đất nước vượt qua được những khó khăn trước mắt, nhất là tác động của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực, thực hiện được đổi mới cơ bản về cơ cấu kinh tế và hoàn thiện cơ chế thị trường. Nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển trong giai đoạn này là rất lớn, trong khi đó nguồn vốn trong nước chỉ có hạn nên nguồn vốn từ nước ngoài trong đó có FDI sẽ tiếp tục đóng vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế ở nước ta. Để đạt được những mục tiêu nêu trên, việc thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài là một trong những nhân tố quyết định. Xuất phát từ tình hình thực tế của việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài trong những năm qua, để có thể huy động có hiệu quả nguồn vốn đầu tư nước ngoài, trong thời gian tới cần phải có những giải pháp và chính sách mạnh bạo và đồng bộ. Trong giai đoạn tới, một số vấn đề quan điểm, định hướng trong chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài cần quan tâm là: Khuyến khích việc chuyển dịch cơ cấu đầu tư trong toàn bộ nền kinh tế, hạn chế đầu tư vào các lĩnh vực không có khả năng sinh lợi và hiện đang có dấu hiệu dư thừa hay bão hoà trên thị trường trong và ngoài nước. Tập trung thu hút vốn FDI vào những ngành nghề, lĩnh vực mà có thể tận dụng được lợi thế so sánh của Việt Nam về nguồn tài nguyên thiên nhiên và lao động. Ưu tiên gọi vốn vào những lĩnh vực có sử dụng công nghệ tiên tiến, các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển công nghiệp chế biến hàng xuất khẩu, công nghiệp khai thác và chế biến dầu khí, khoáng sản, xây dựng các vùng nguyên liệu gắn với công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm và nông sản khác. Thu hút vốn đầu tư nước ngoài phải gắn liền với việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của toàn bộ nền kinh tế. Hiệu quả đầu tư phải được xem là yếu tố cân nhắc hàng đầu trong quyết định thu hút vốn đầu tư. Để làm được việc này, cần nâng cao hơn nữa vai trò của thị trường trong việc phân bổ một cách có hiệu quả các nguồn vốn, đồng thời xác định lại vị trí của Nhà nước trong phân bổ nguồn lực để giảm thiểu các biện pháp quản lý hành chính không cần thiết. b) Các giải pháp. Cải thiện môi trường đầu tư tạo sức hút đối với các nhà đầu tư nước ngoài là việc làm cấp thiết, nhất là trong điều kiện cạnh tranh gay gắt về thu hút nguồn vốn như hiện nay. Thực tế Việt Nam chỉ đứng thứ 7 trong 10 nước ASEAN khi tham gia vào bảng xếp hạng về môi trường kinh doanh tốt trong khu vực, và theo đánh giá của tờ “Diễn đàn kinh tế thế giới” Việt Nam đứng thứ 53/59 về sức cạnh tranh của nền kinh tế. Thêm vào đó, sự kiện Trung Quốc gia nhập WTO càng làm cho nước ta khó khăn hơn trong cạnh tranh thu hút nguồn vốn nước ngoài. Trung Quốc vốn là một trong những nước đứng đầu thế giới về lượng vốn đầu tư thu hút được hàng năm (sau Mỹ và Anh), nay lại được hưởng những cơ chế ưu đãi của WTO thì sức cạnh tranh càng lớn. Vì vậy nước ta phải tận dụng mọi ưu thế của mình để tạo sức hấp dẫn với các nhà đầu tư. Một là, môi trường kinh tế vĩ mô, môi trường chính trị và quy hoạch ngành, vùng. Để có thể thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài thì yêu cầu đầu tiên là phải tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô, giữ vững tốc độ tăng trưởng GDP, tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ trong GDP. Việc ổn định kinh tế vĩ mô cũng đòi hỏi hiệu quả của các chính sách kinh tế vĩ mô phải cao. Nó được thể hiện ở sự phối hợp hoàn chỉnh giữa các chính sách kinh tế vĩ mô và tính nhất quán, đồng bộ trong các chính sách đã đề ra. Cùng với môi trường kinh tế vĩ mô, môi trường hoà bình, ổn định về an ninh, chính trị cũng cần phải được duy trì. Đây là một lợi thế lớn của nước ta trong tình hình an ninh thế giới đầy biến động như hiện nay. Xây dựng và nâng cao chất lượng quy hoạch các ngành, vùng lãnh thổ và cả nước, dự báo nhu cầu thị trường làm cơ sở cho việc công bố danh mục dự án gọi vốn đầu tư nước ngoài và đề ra các chính sách ưu đãi phù hợp trong từng thời kỳ. Gắn định hướng quy hoạch thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài với định hướng quy hoạch phát triển chung của cả nước, của từng ngành và vùng lãnh thổ cả trung hạn cũng như dài hạn. Hai là, môi trường pháp lý. Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính, đặc biệt trong các lĩnh vực hải quan, thuế, cấp phép đầu tư, tuyển dụng lao động, tiến tới thực hiện cơ chế “một cửa, một đầu mối”. Cải cách thủ tục hành chính phải được xem là yếu tố quan trọng hàng đầu đối với việc nâng cao sức hấp dẫn của môi trường đầu tư trong nước. Trong 2 năm qua, nhờ bắt tay thực thi Luật doanh nghiệp chúng ta đã bãi bỏ được khoảng 160 loại giấy phép kinh doanh. Nhưng sắp tới cần xúc tiến việc bãi bỏ thêm 30 loại giấy phép không cần thiết khác. Nghiên cứu và cho phép áp dụng hình thức đăng ký kinh doanh thay vì cấp phép đầu tư đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Nhà nước chỉ công bố danh mục cấm đầu tư và danh mục đầu tư có điều kiện (các lĩnh vực này có tính nhạy cảm cao; cần đảm bảo các yêu cầu về an ninh, văn hoá, môi trường ..., hoặc chỉ dành cho nhà đầu tư Việt Nam). Các nhà đầu tư nước ngoài được quyền đăng ký kinh doanh trong tất cả các lĩnh vực nằm ngoài hai danh sách này. Đồng thời tiến hành cải cách hành chính trong quản lý dự án sau khi cấp giấy phép đầu tư, tạo điều kiện để doanh nghiệp nâng cao khả năng linh hoạt trong sản xuất kinh doanh: cho phép đăng ký kinh doanh đa ngành nghề, hạn chế kiểm tra/kiểm soát, hạn chế việc doanh nghiệp phải sửa đổi giấy đăng ký/giấy phép kinh doanh ... Đa dạng hoá hình thức đầu tư, góp vốn của các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Cho phép các nhà đầu tư nước ngoài được thành lập công ty cổ phần tại Việt Nam. Tiến hành thí điểm cổ phần hoá phần vốn góp của Việt Nam tại các doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài. Xây dựng cơ sở pháp lý cụ thể cho việc thành lập doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài của khu vực tư nhân (chính sách về góp vốn liên doanh bằng giá trị quyền sử dụng đất của tư nhân, hình thức liên doanh ...). Chế độ một giá cần nhanh chóng được thực hiện. Bắt đầu từ 1/7/2002 Pháp lệnh giá chính thức có hiệu lực nhằm khuyến khích doanh nghiệp cạnh tranh lành mạnh về giá. Nhưng không phải ai, kể cả các doanh nghiệp, đã biết hoặc biết đầy đủ về pháp lệnh mới này. Vì vậy cần tiến hành phổ biến rộng rãi cho từng doanh nghiệp để các doanh nghiệp có phương án sản xuất kinh doanh thích hợp. Pháp lệnh giá này tạo một môi trường khuyến khích các doanh nghiệp cạnh tranh bình đẳng về giá, chống bán phá giá, quá giá, hoặc có dấu hiệu liên kết với nhau làm tổn hại đến thị trường, xoá bỏ những phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Pháp lệnh có hiệu lực từ 1/7 nhưng trong 40 điều chỉ có một số điều đã có tính chất cụ thể cần phải áp dụng ngay, còn lại những điều khác cần nhanh chóng có các văn bản hướng dẫn chi tiết, giúp các doanh nghiệp, cá nhân kinh doanh nhanh chóng nắm bắt và thi hành. Nghị định của Chính phủ về pháp lệnh này phải cố gắng quy định một cách chi tiết, rõ ràng để không phải sử dụng đến thông tư nữa. Tiến đến ban hành một luật khuyến khích đầu tư chung áp cho cả doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Cải cách hệ thống ưu đãi thuế đối với doanh nghiệp FDI theo hướng đơn giản và hiệu quả. Chuyển một số ưu đãi về thuế (đặc biệt thuế thu nhập doanh nghiệp) áp dụng trong giai đoạn đầu tư ban đầu sang giai đoạn trung hạn của dự án. Hạn chế tối đa việc miễn giảm các loại thuế gián thu nhằm tạo dựng một mặt bằng chi phí và cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp. Ban hành Luật thuế thu nhập cá nhân thay thế Pháp lệnh thuế nhu nhập đối với người có thu nhập cao. Luật Thuế thu nhập cá nhân được xây dựng theo hướng giảm thuế suất đồng thời mở rộng đối tượng nộp thuế. Nghiên cứu và bổ sung các loại chi phí được phép khấu trừ, đồng thời nâng cao hiệu quả làm việc của bộ máy hành thu thuế. Thực hiện các biện pháp nhằm đảm bảo cho nhà đầu tư nước ngoài có quyền tự do và dễ dàng tiếp cận nguồn ngoại tệ trong quá trình sản xuất - kinh doanh tại Việt Nam. Nghiên cứu xoá bỏ hoặc giảm tỷ lệ kết hối ngoại tệ áp dụng đối với doanh nghiệp có vốn ĐTNN được Ngân hàng Nhà nước đảm bảo cân đối ngoại tệ. Tiếp tục mở rộng thị trường ngoại hối kỳ hạn, thí điểm thành lập Trung tâm hoán đổi ngoại tệ nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp lập kế hoạch và tiếp cận nguồn ngoại tệ từ các thành viên tham gia trong thị trường. Rà soát và xem xét giảm mức tiền thuê đất cho phù hợp với định hướng thu hút đầu tư ở các địa phương, đảm bảo mức tiền cho thuê đất không cao hơn các nước trong khu vực (ở một số khu vực, có thể chỉ thu tiền thuê đất mang tính chất tượng trưng). Điều chỉnh, xắp xếp lại danh mục các đô thị khi xác định tiền cho thuê đất phù hợp với thực tế khả năng thu hút đầu tư từ nước ngoài. Tổng kết tình hình hoạt động của các khu chế xuất, khu công nghiệp, trên cơ sở đó có chính sách thích hợp để thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào các khu này. Nghiên cứu xây dựng thí điểm mô hình Khu kinh tế mở hoặc Đặc khu kinh tế ở một số địa phương có điều kiện thuận lợi. Tiếp tục có những chính sách ưu đãi có hiệu quả đối với các dự án đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu, sử dụng nhiều lao động, sử dụng công nghệ hiện đại; khuyến khích đầu tư xây dựng công trình cơ sở hạ tầng; Đối với công tác quản lý dự án sau khi cấp giấy phép và đi vào hoạt động, cần thiết phải có quy chế cụ thể trong đó nêu rõ nhiệm vụ, chức năng của doanh nghiệp, của các cơ quan nhà nước và các tổ chức kiểm toán độc lập. Xoá bỏ tình trạng quản lý, kiểm tra chồng chéo, nhũng nhiễu doanh nghiệp của cán bộ quản lý nhà nước ở cấp địa phương. Hoàn thiện chế độ quy định trách nhiệm của các đơn vị kinh tế nhà nước sử dụng vốn và tài sản có nguồn gốc từ NSNN để tham gia liên doanh với nước ngoài. Hoàn thiện chính sách, cơ chế giải giải thể, phá sản doanh nghiệp có vốn ĐTNN, trong đó đặc biệt chú trọng đến các vấn đề tài chính: thanh lý tài sản, xác định lỗ/lãi, giải quyết vướng mắc liên quan đến phần vốn góp bằng giá trị quyền sử dụng đất trong liên doanh. Nghiên cứu ban hành các chuẩn mực kế toán, kiểm toán phù hợp với thông lệ quốc tế; xây dựng Luật kế toán và Pháp lệnh về kiểm toán. Tăng cường hoạt động xúc tiến đầu tư bằng nhiều phương tiện và hình thức khác nhau ở trong nước và nước ngoài, đặc biệt tại các nước ngoài khu vực Châu á (Châu âu, Bắc Mỹ và Châu Mỹ La tinh). Việc đa dạng hoá thành phần (vùng, lãnh thổ) các đối tác tham gia đầu tư tại Việt Nam sẽ làm giảm bớt ảnh hưởng tiêu cực của sự biến động kinh tế khu vực và thế giới tới ĐTNN tại Việt Nam. Nâng cao vai trò, trách nhiệm của các Cơ quan thương vụ của Việt Nam ở nước ngoài; công tác vận động thu hút vốn đầu tư nước ngoài cần phải hết sức linh hoạt, gắn liền với đặc điểm của từng nước, từng công ty nước ngoài. Đối với danh mục các dự án đầu tư đã được phê duyệt thì cần có chương trình, kế hoạch chủ động vận động, xúc tiến đầu tư một cách cụ thể đối với từng dự án. Ba là, khả năng tiếp nhận và làm chủ nguồn vốn FDI. Về cơ bản và lâu dài, nguồn nhân lực của chúng ta dứt khoát phải được nâng cao về chất lượng. Thế giới thay đổi theo hướng đi lên. Nừu chúng ta chỉ đứng tại chỗ và tự hào rằng chúng ta có nguồn lao động rẻ thì rồi sẽ đến lúc đây không phải là lợi thế của chúng ta. Vì vậy, về nguồn lao động, nên tập trung đào tạo theo các hướng sau đây: Đối với số lao động đã tốt nghiệp đại học thì phải không ngừng nâng cao trình độ ngoại ngữ và chuyên môn để có thể tiếp thu công nghệ mới. Đào tạo công nhân lành nghề, đặc biệt là đối với số lao động từ nông thôn ra thành phố. Khuyến khích các nhà đầu tư Việt Nam tham gia xây dựng cơ sở hạ tầng theo hình thức BOT, BT, BTO thông qua các ưu đãi tài chính, tín dụng của Nhà nước. Chính phủ dành phần lớn nguồn tài chính theo chương trình viện trợ và vay ưu đãi cho dự án đầu tư vào kết cấu hạ tầng. Hiện nay, công tác đền bù giải phóng mặt bằng tiến hành rất chậm chạp. Chính vì vậy, để nâng cấp cơ sở hạ tầng, trước hết phải thực hiện khâu trên một cách nhanh chóng: có chế độ ưu tiên riêng về giải phóng mặt bằng. Việc xây dựng cơ sở hạ tầng khu chế xuất, khu công nghiệp đòi hỏi vốn rất lớn vì phải xây dựng hạ tầng cơ sở cả ở trong và ngoài khu. Chính vì vậy, hầu hết các nước đang phát triển đều gặp phải khó khăn lớn về nguồn tài chính khi thiết lập khu chế xuất, khu công nghiệp. Việt Nam đã rất mạnh dạn trong chiến lược gọi vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài để xây dựng hạ tầng khu chế xuất, khu công nghiệp nhằm thiết lập môi trường đầu tư hấp dẫn đầu tư. Điều này rất có lợi vì chúng ta vừa có được nguồn tài chính cần thiết, vừa có thể học tập kinh nghiệm xây dựng, kinh doanh và quản lý khu chế xuất, khu công nghiệp, đồng thời còn chia sẻ rủi ro với nhà đầu tư, buộc họ tích cực thu hút đầu tư nước ngoài vào các khu này. Tuy nhiên, việc xây dựng cơ sở hạ tầng khu chế xuất, khu công nghiệp theo hình thức liên doanh với nước ngoài cũng có nhiều mặt hạn chế: Do vốn đầu tư không nhiều nên các nhà đầu tư thường dùng một số tiền ban đầu làm vốn khởi động, sau đó lấy tiền cho thuê đất trong khu để xây dựng tiếp do đó gây ảnh hưởng đến hoạt động của toàn khu. Do tự bỏ vốn xây dựng nên nhà đầu tư nước ngoài không quan tâm đến ngành nghề, chất lượng thiết bị, công nghệ đưa vào các khu này do đó, mục tiêu kinh tế - xã hội đã đặt ra không được thực hiện. Do được phép ấn định giá thuê đất và phí sử dụng tiện ích công cộng do doanh nghiệp xây dựng nên các nhà đầu tư thường đẩy giá, phí lên cao để nhanh chóng thu hồi vốn và tăng lợi nhuận. Chính vì vậy, về lâu dài, Nhà nước nên chủ động mua lại nguồn vốn nước ngoài trong các doanh nghiệp liên doanh hoặc tự đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng để có thể vừa đảm bảo thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội đã đề ra, vừa có nhiều lãi. Việc duy tu bảo dưỡng các công trình kết cấu hạ tầng khu chế xuất, khu công nghiệp nên để cho doanh nghiệp trong nước hoặc bên Việt Nam trong liên doanh xây dựng kết cấu hạ tầng đảm nhận vì đây là bộ phận gắn bó với khu từ khi hình thành cho đến khi hết thời hạn hoạt động. Một lần nữa cần khẳng định nâng cao năng lực nguồn lao động và cải thiện cơ sở hạ tầng của Việt Nam là những điều kiện hết sức quan trọng để tăng khả năng tiếp nhận và phát huy tác dụng của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. 2. Những giải pháp trong thu hút và vận động vốn ODA. Từ kinh nghiệm huy động và tiếp nhận nguồn ODA của các nước và ở nước ta trong 10 năm qua có thể thấy rằng việc nâng cao năng lực của nước tiếp nhận viện trợ có ý nghĩa quyết định. Để nâng cao năng lực cần tập trung vào một số công việc trọng điểm. a) ổn định kinh tế vĩ mô. ổn định kinh tế vĩ mô là điều kiện tiền đề cơ bản cho mọi sự tăng trưởng do đó cho việc huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn nước ngoài nói chung và nguồn vốn ODA nói riêng. Cũng như đối với giải pháp thu hút FDI, nếu không có môi trường kinh tế vĩ mô ổn định thì cộng đồng tài chính quốc tế không thể tin tưởng và tiếp tục thực hiện tài trợ. Kinh nghiệm quốc tế cũng như Việt Nam những năm qua chỉ rõ: để ổn định vĩ mô trong môi trường phát triển đầy biến động hiện nay, chính phủ phải có năng lực điều chỉnh chính sách sao cho các chính sách luôn luôn có độ phù hợp cao nhất với các điều kiện phát triển thường xuyên thay đổi. b) Nâng cao hiệu quả của việc quản lý vốn ODA. Điều kiện tiên quyết để đảm bảo thu hút nguồn vốn nước ngoài theo đúng định hướng và có hiệu quả là phải nâng cao chất lượng quy hoạch đầu tư, lựa chọn các dự án để gọi vốn. Quy hoạch này phải là một bộ phận trong quy hoạch tổng thể các nguồn vốn đầu tư, phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển ngành, lãnh thổ, lĩnh vực ưu tiên đầu tư, sản xuất mặt hàng đảm bảo tính cạnh tranh cao trong chiến lược hội nhập kinh tế quốc tế, đảm bảo về mặt quốc phòng an ninh... Trên cơ sở quy hoạch tổng thể phát triển từng ngành, lĩnh vực nói trên, cần đưa ra danh mục các dự án ưu tiên sử dụng vốn ODA để huy động vốn. Công tác huy động vốn cần được đổi mới cơ bản về nội dung và phương pháp thực hiện. Phải xuất phát từ lợi ích của đất nước mình, tính hiệu quả của công việc, nâng cao tính chủ động của bên Việt Nam với nước ngoài, cần từ chối các nguồn vốn không đáp ứng được yêu cầu, định hướng và hiệu quả đầu tư của Nhà nước. Nâng cao thẩm quyền, trách nhiệm và xây dựng quy chế phối hợp chặt chẽ giữa các Bộ, các ngành trong việc quản lý các hoạt động thu hút vốn ODA; kịp thời xử lý các vấn đề phát sinh; bổ sung và điều chỉnh các chính sách, cơ chế tạo thuận lợi thực hiện các dự án đầu tư; làm tốt chức năng kiểm tra giám sát và đánh giá tình hình thực hiện; đơn giản hoá và nâng cao chất lượng thẩm định dự án; tổ chức công tác đấu thầu, xét chọn thầu, đàm phán các hợp đồng vay vốn và hợp đồng thương mại đảm bảo tuân thủ đúng pháp luật trong nước và thông lệ quốc tế; hạn chế việc hình sự hoá các quan hệ quốc tế; công khai hoá các quy trình nghiệp vụ; thực hiện tốt công tác kế toán thống kê, kiểm toán các báo cáo tài chính. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác quản lý vay và trả nợ nước ngoài. c) Chủ động tiếp nhận ODA. Cần chủ động đưa ra các danh mục chương trình, dự án ưu tiên đầu tư trong từng giai đoạn phù hợp với yêu cầu đòi hỏi của kinh tế-xã hội. Danh mục này cần được trao đổi nhất trí trong các cơ quan trung ương và địa phương theo nguyên tắc công khai, minh bạch. Trong quá trình tổ chức vận động và sử dụng vốn cần phải xuất phát từ lợi ích quốc gia và hiệu quả đầu tư cho các chương trình, dự án. Chủ động trong việc chuẩn bị nguồn vốn đối ứng trong nước của từng dự án, vì bất cứ dự án nào phía nhà tài trợ cũng yêu cầu nguồn vốn đối ứng trong nước. Thông thường khi cho vay, các nhà tài trợ thường yêu cầu vốn đối ứng trong nước cần có từ 15% - 30% so với tổng chi phí của dự án. Công tác này đòi hỏi ngay từ khâu ban đầu khi xây dựng dự an phải mang tính khả thi, tránh vướng mắc gây ách tắc cho các khâu khác. Đối với các dự án đã ký kết Hiệp định cần đẩy nhanh việc giải ngân để tạo được lòng tin đối với các nhà tài trợ về năng lực của Việt Nam. Trong giai đoạn này, tìm kiếm được nguồn tài trợ đã khó, nhưng việc giải ngân, sử dụng vốn vay có hiệu quả, trả nợ được nước ngoài còn khó khăn hơn nhiều. d) Các giải pháp khác. Đặc biệt quan tâm nâng cao năng lực, trình độ cả về kinh tế, ngoại ngữ, pháp lý... và phẩm chất cán bộ làm công tác quản lý dự án ở tất cả các khâu: xây dựng dự án tiền khả thi, khả thi, đàm phán, ký kết hiệp định và triển khai dự án. Hệ thống thông tin, báo cáo phải nhanh nhậy, chính xác và thường xuyên có sự tổng kết, đánh giá và rút kinh nghiệm kịp thời cho từng dự án trong từng giai đoạn. Trên đây là những giải pháp cơ bản cho việc thu hút vốn ODA. Nhưng việc ký kết, thu hút các khoản vốn vay ODA phải được tính toán chặt chẽ và trong khuôn khổ của việc quản lý vay nợ nước ngoài. Nừu tình hình vay nợ quốc gia đã ở mức báo động thì cần kiên quyết hạn chế hoặc có thể tạm dừng việc vay nước ngoài ngay cả vay ODA. Kết luận Việc thu hút nguồn vốn nước ngoài (chủ yếu là vốn FDI và ODA) cho đầu tư phát triển trong nước là một xu thế tất yếu trong hoạt động của nền kinh tế thế giới. Trong bối cảnh quốc tế hoá đời sống kinh tế, khoa học công nghệ phát triển mạnh, phân công lao động quốc tế ngày càng tăng như hiện nay, vốn đầu tư là một yếu tố không thể thiếu, đặc biệt đối với các nước đang phát triển. Việt Nam mới đi được những bước đầu của quá trình phát triển kinh tế, những mục tiêu trung và dài hạn còn rất nhiều. Vì vậy, việc thu hút và sử dụng nguồn vốn như thế nào để đạt hiệu quả cao nhất là một vấn đề cần được xem xét kỹ lưỡng. Trong điều kiện kinh tế thế giới hiện nay, nhu cầu đầu tư thì rất lớn nhưng dòng vốn đầu tư của thế giới thì không đủ để đáp ứng, dẫn đến sự cạnh tranh trong việc tranh thủ nguồn vốn nước ngoài ngày càng quyết liệt. Quốc gia nào có môi trường đầu tư thông thoáng, ổn định và thuận lợi hơn, có khả năng sử dụng hiệu quả nguồn vốn đầu tư thì quốc gia đó sẽ giành được lợi thế trong cuộc cạnh tranh về nguồn đầu tư. Vì vậy, ta cần coi trọng việc tổng kết, đúc rút kinh nghiệm trong phát triển kinh tế của chính mình và của các nước trên thế giới, từ đó xác định phương hướng và giải pháp đúng đắn nhằm sử dụng các nguồn vốn sẵn có cho phù hợp, đồng thời thu hút mạnh mẽ những nguồn vốn bên ngoài. Nhưng cần chú ý phải sử dụng có hiệu quả thì việc thu hút đầu tư mới đạt được hiệu quả thiết thực. Tóm lại, trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay, chúng ta phải chủ động nắm bắt thời cơ, tận dụng ưu thế của đất nước, tranh thủ bên ngoài, vươn lên phát triển vững chắc, tạo ra thế và lực mới. ---â--- Mục lục Trang Mở đầu 1 Chương I: Một số lý luận chung về FDI và ODA 2 I. Về nguồn vốn FDI 2 1. Khái niệm 2 2. Tầm quan trọng của FDI 2 II. Tổng quan về nguồn vốn ODA 4 1. Khái niệm 4 2. Vai trò của ODA trong phát triển kinh tế 5 3. Vai trò của nguồn vốn ODA trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài-kinh nghiệm từ các nước Đông Nam á 7 III. Sự cần thiết huy động vốn FDI và ODA ở Việt Nam 9 Chương II: Thực trạng vốn FDI và ODA tại Việt Nam trong những năm vừa qua 10 I. Tình hình huy động vốn nước ngoài 10 1. FDI trong phát triển kinh tế Việt Nam 10 2. Thực trạng thu hút ODA 15 II. Những tồn tại và khó khăn trong thu hút vốn nước ngoài 19 1. Khó khăn ngoài nước 19 2. Những tồn tại và vướng mắc trong nước 19 Chương III: Phương hướng và giải pháp thu hút vốn FDI và ODA phục vụ phát triển kinh tế Việt Nam thời kỳ 2001-2005 26 I. Những mục tiêu cơ bản phát triển kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001-2005 26 1. Các mục tiêu phát triển kinh tế và yêu cầu về nguồn vốn 26 2. Xu hướng đầu tư quốc tế 28 II. Một số phương hướng và giải pháp thu hút vốn nước ngoài 28 1. Những giải pháp nhằm thu hút vốn FDI có hiệu quả 28 2. Những giải pháp trong thu hút và vận động vốn ODA 34 Kết luận 37 Tài liệu tham khảo 1. Giáo trình Kinh tế phát triển - Tập I, II. Trường Đại học Kinh tế quốc dân. 2. Giáo trình Kinh tế học quốc tế. 3. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX - Nxb Chính trị quốc gia. 4. Tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng - Nxb Chính trị quốc gia. 5. Michael Todaro - Kinh tế học cho thế giới thứ ba - Nxb Giáo dục 1998. 6. Vốn nước ngoài và chiến lược phát triển kinh tế ở Việt Nam. 7. Hướng dẫn thực hiện quy chế quản lý và sử dụng ODA. 8. Những giải pháp chính trị, kinh tế nhằm thu hút có hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. 9. Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới. Năm 1997; 2000; 2001. 10. Thời báo kinh tế Việt Nam. Năm 2000. 11. Thời báo tài chính Việt Nam. Năm 2002. 12. Tạp chí Kinh tế và dự báo. Năm 2000, 2001. 13. Tạp chí Ngân hàng. Tháng 12/1999. 14. Tạp chí Kinh tế và phát triển. Số 37/2000 15. Tạp chí Phát triển kinh tế. Số 130/2001. 16. Tạp chí Con số & sự kiện. Số 4/2001; 5/2001. 17. Các văn bản luật.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docC0213.doc