Đề tài Những biện pháp nhằm phát triển thị trường hàng hóa trong doanh nghiệp thương mại nước ta trong thời gian tới

Sự chuyển đổi nền kinh tế từ chế độ tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần phát triển theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước hướng theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã tạo nên những đặc trưng cơ bản của thị trường hàng hóa của doanh nghiệp thương mại nước ta. Thị trường hàng hóa của doanh nghiệp thương mại bao gồm thị trường hàng, thị trường bán hàng có vai trò quan trọng quyết định sự sống còn đối với doanh nghiệp thương mại. Thị trường hàng hóa của doanh nghiệp thương mại nước ta trong những năm vừa qua đã rất phát triển và đạt được những thành tựu to lớn cả về quy mô và hiệu quả của cả thị trường trong nước và cả thị trường ngoài nước. Những thành tựu đó là: tăng tổng mức lưu chuyển hàng hóa, các loại hình dịch vụ gắn với lưu thông hàng hóa phát triển, thị trường xuất nhập khẩu được mở rộng theo hương đa phương hóa, đa dạng hóa. Những thành tựu đó góp phần vào sự phát triển của thương mại nước ta, tạo thế và lực để thương mại nước ta bước vào thế kỷ 21.

doc80 trang | Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 953 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những biện pháp nhằm phát triển thị trường hàng hóa trong doanh nghiệp thương mại nước ta trong thời gian tới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
keting, đặc biệt là marketing-mix để tăng doanh thu, phát triển thị phần, tạo điều kiện để thu lợi nhuận trong tương lai. - Phát triển loại hình kinh doanh mới: cơ hội phát triển kinh doanh bao gồm cung cấp loại hình kinh doanh mới cho khách hàng hiện tại. Doanh nghiệp có thể phát triển thêm loại hình kinh doanh bán lẻ mới như: siêu thị, chuyên doanh, hoặc bán lẻ không qua cửa hàng (như bán theo đơn đặt hàng qua điện thoại hoặc mạng máy vi tính). - Mở rộng thị trường: cơ hội mở rộng thị trường sử dụng loại hình kinh doanh hiện tại trên những đoạn thị trường mới. Tình thế này xuất hiện khi doanh nghiệp có đủ năng lực tài chính cần tìm kiếm thị trường mới để đầu tư. Chẳng hạn, doanh nghiệp bán lẻ vẫn đang kinh doanh ở một quận của thành phố, quyết định xây dựng thêm một cửa hàng để kinh doanh trên một quận khác mà doanh nghiệp chưa hề kinh doanh. - Đa dạng hóa: cơ hội đa dạng hóa bao gồm phát triển loại hình kinh doanh hoàn toàn mới định hướng đoạn thị trường chưa được phục vụ (thị trường mới). Đa dạng hóa có thể bao gồm: đa dạng hóa có quan hệ và không có quan hệ. Đa dạng hóa có quan hệ có nghĩa là loại hình kinh doanh mới trên thị trường mới vẫn trên cơ sở mặt hàng hoặc phương pháp bán hàng mà doanh nghiệp vẫn quen áp dụng. Đa dạng hóa không có quan hệ khi doanh nghiệp triển khai loại hình kinh doanh mới trên thị trường mới mà không có liên quan đến kinh doanh hiện tại của doanh nghiệp như mặt hàng, phương pháp bán hàng... Về cơ bản, doanh nghiệp có lợi thế cạnh tranh lớn nhất nằm trong những cơ hội rất giống với chiến lược kinh doanh hiện tại của họ. Do vậy, các doanh nghiệp thương mại sẽ đảm bảo thành công trong các cơ hội thâm nhập thị trường, không phải xâm nhập vào thị trường mới và lạ lẫm, không phải triển khai hình thức kinh doanh mới và không quen theo đuổi cơ hội mở rộng thị trường. Khi doanh nghiệp thương mại có thể xây dựng sức mạnh của mình trong việc triển khai loại hình kinh doanh hiện tại và sử dụng lợi thế cạnh tranh này trên thị trường mới. Khả năng thành công trong cơ hội mở rộng thị trường có liên quan đến sự giống nhau giữa thị trường hiện tại và thị trường mới. Nếu như khách hàng ở trên 2 thị trường có nhu cầu về hành vi mua khác nhau, thì loại hình kinh doanh hiện tại của doanh nghiệp thương mại bán lẻ có thể không hấp dẫn khác hàng trên thị trường mới. Khi nghiên cứu cơ hội mở rộng loại hình kinh doanh, các doanh nghiệp thương mại xây dựng danh tiếng và thành công của mình với khách hàng hiện tại. Thậm chí mặc dù doanh nghiệp không có lợi thế khi áp dụng loại hình kinh doanh mới, thì họ cũng hy vọng hấp dẫn khách hàng trung thành đến với loại hình mới này. Các doanh nghiệp thương mại thành công nhiều nhất trong cơ hội này khi loại hình kinh doanh mới và hiện tại là giống nhau. Các doanh nghiệp thương mại bán lẻ ít có lợi thế cạnh tranh hơn khi tìm kiếm những cơ hội bao gồm thị trường mới hoặc hình thức kinh doanh mới. Tuy nhiên, các doanh nghiệp thương mại bán lẻ phải thường xuyên nghiên cứu các cơ hội mở rộng thị trường hoặc hình thức kinh doanh nhằm tìm kiếm các cơ hội tăng trưởng. + Đánh giá và lựa chọn phương án chiến lược thị trường. Có hai cách để đánh giá phương án chiến lược là phân tích tài chính và ma trận hấp dẫn thị trường cạnh tranh. - Phân tích tài chính. Phương pháp phổ biến đánh giá và so sánh các cơ hội đầu tư chiến lược là tính toán khả năng lợi nhuận trên vốn đầu tư hoặc lợi nhuận trên cổ phần cho từng cơ hội. - Ma trận hấp dẫn thị trường (vị thế cạnh tranh). Đây là phương pháp phân tích cơ hội cân nhắc một cách rõ ràng cả khả năng của doanh nghiệp thương mại và sự hấp dẫn của thị trường kinh doanh thương mại. Dựa vào phân tích ma trận có thể rút ra rằng, phải tự đầu tư nhiều nhất cho cơ hội thị trường kinh doanh hấp dẫn trong đó doanh nghiệp có vị thế cạnh tranh. + Xác định mục tiêu và bố trí nguồn lực. Sau khi đánh giá các cơ hội đầu tư chiến lược, bước tiếp theo trong quá trình kế hoạch hóa chiến lược là thiết lập mục tiêu cho từng cơ hội. Các mục tiêu phải bao gồm các thành tố sau: (1) Kết quả thực hiện, bao gồm chỉ số số lượng có thể đo lường sự phát triển; (2) Phạm vi thời gian đạt được mục tiêu; và (3) Mức đầu tư cần thiết để đạt được mục tiêu. Về cơ bản, trình độ thực hiện là các tiêu chuẩn tài chính như mức lợi nhuận trên vốn đầu tư, doanh số, hoặc thị phần. Tuy nhiên, thị phần là mục tiêu hay sử dụng nhất do nó dễ đo lường và thường có tính toán và có thể chịu ảnh hưởng bởi những nguyên tắc hạch toán. Nghiên cứu chỉ ra rằng, thị phần là chỉ tiêu khả năng lợi nhuận dài hạn trong nhiều hoạt động kinh doanh. Trên cơ sở mục tiêu đã xác định, doanh nghiệp bán lẻ cần thiết lập kế hoạch phân bổ nguồn lực tài chính và các nguồn lực khác để khai thác có hiệu quả các cơ hội chiến lược thị trường. Phát triển loại hình kinh doanh Đa dạng hóa - Không quan hệ - Có quan hệ Thâm nhập thị trường Mở rộng thị trường Thị trường Hiện tại Mới Loại hình kinh doanh Hiện tại Mới Tiềm năng loại hình kinh doanh Tiềm năng khách hàng 3.2.6. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách cho hoạt động thương mại. Hệ thống pháp luật cho hoạt động thương mại như Luật Thương mại, Luật Doanh nghiệp và các chính sách kinh tế như chính sách thương mại nội địa, chính sách xuất nhập khẩu cần được hoàn thiện ổn định đảm bảo tính minh bạch, phù hợp với khung khổ pháp lý của khu vực và thế giới để các doanh nghiệp thương mại có cơ sở định hướng hoạt động của mình và tiếp cận với thương mại thế giới. Hoàn thiện môi trường pháp lý là tạo được môi trường kinh doanh ổn định cho các DNTM, hạn chế, ngăn chặn tình hình buôn lậu, gian lận thương mại. Có những hình phạt thích đáng đối với những đối tượng vị phạm pháp luật như buôn lậu, trốn thuế, làm hàng giả để tạo công bằng cho giá kinh doanh. Cải cách hành chính mạnh mẽ hơn nữa về quản lý nhà nước trong lĩnh vực thị trường, hoạt động thương mại mà trước hết phải xây dựng được bộ máy công quyền trong sạch, không kỳ thị, hướng vào phục vụ doanh nghiệp để phát huy được sức mạnh tổng hợp và lợi thế so sánh của mỗi thành phần kinh tế trong cơ chế thị trường mở. Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, phát huy những yếu tố tích cực của cơ chế thị trường, triệt để xóa bỏ bao cấp trong kinh doanh, tăng cường vai trò quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Cải thiện điều kiện hoạt động kinh doanh cho doanh nghiệp thương mại phát triển như tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp thương mại trong việc thành lập, đăng ký kinh doanh, xuất nhập khẩu. Cần có những chính sách thương mại đúng đắn, phù hợp với điều kiện từng giai đoạn, đặc biệt khi Việt Nam thực hiện các cam kết xóa bỏ hàng rào phi thuế quan với các nước trong AFTA. Cụ thể là xác định thị trường trọng điểm, quy hoạch mặt hàng xuất nhập khẩu, thực hiện chính sách đầu tư thích hợp, tổ chức mạng lưới phân phối hàng xuất khẩu hữu hiệu. 3.2.7. Phát triển các trung tâm thương mại ở Việt Nam. Trung tâm thương mại là một trong những kết cấu hạ tầng thương mại. Cho phép thuận lợi hóa và giảm chi phí cho các doanh nghiệp, các nhà đầu tư khi khám phá và tiếp cận thị trường. ở các quốc gia đạt được thành công trong tăng trưởng kinh tế nhờ lợi ích từ thương mại thường có xu hướng tham gia hoặc hình thành các loại hình trung tâm thương mại nhằm tạo điều kiện thuận lợi và hỗ trợ cho các doanh nghiệp tiếp cận và thâm nhập vào thị trường, đặc biệt là thị trường quốc tế, nơi luôn có nhiều yếu tố rủi ro không thể lường trước. Tổ chức và phương thức hoạt động của các loại hình trung tâm thương mại của các nước trên thế giới rất đa dạng song về thực chất thì đều là các tổ chức hoạt động nhằm hỗ trợ phát triển thương mại, thường được xây dựng ở những nơi là đầu mối hội tụ thương mại, trong đó vừa có tác dụng mua - bán hàng hóa, vừa thực hiện cung ứng các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh; như cung cấp thông tin thị trường, tư vấn về thương mại và đầu tư, văn phòng đại diện, mối giới và ký kết hợp đồng, nghiên cứu thị trường, quảng cáo giới thiệu hàng hóa, ngân hàng, bảo hiểm, hội thảo, đào tạo. Do vậy xây dựng và phát triển các trung tâm thương mại là cần thiết đối với hoạt động thương mại nước ta. ở nước ta, các quy hoạch phát triển thương mại đến năm 2010 của Bộ Thương mại và các tỉnh đã xác định phương hướng dài hạn phát triển trung tâm thương mại cấp quốc gia, vùng, tỉnh - thành phố và quận, huyện, trong đó đã thống nhất: Trung tâm thương mại là một tổ hợp các siêu thị hoặc cửa hàng lớn bán buôn - bán lẻ hàng hóa. Các văn phòng đại diện, khu triển lãm - giới thiệu hàng hóa, khu cung ứng các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh, phòng hội thảo và hội nghị, được kết cấu hợp lý trong một hoặc một số tòa nhà liền kề nhau ở một đầu mối thương mại. Mục đích quản lý hoạt động của Trung tâm thương mại nhằm tạo môi trường kinh doanh thuận lợi để các doanh nghiệp thương mại được sử dụng các công trình sẵn có, phù hợp với mục đích kinh doanh. Hiện nay sự phát triển của các Trung tâm thương mại nước ta hiện nay đang bộc lộ nhiều mâu thuẫn như xây dựng các Trung tâm thương mại không phù hợp, không đáp ứng được yêu cầu đặt ra, lãng phí, không hấp dẫn các doanh nghiệp thương mại và các nhà đầu tư, tình trạng các cửa hàng, ki ốt của tư nhân bọc kín xung quanh các trung tâm thương mại gây cản trở cho hoạt động của Trung tâm, thiếu đội ngũ nhân lực có trình độ và kỹ năng quản lý trung tâm thương mại, thiếu hụt về chính sách khuyến khích phát triển các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh. Để nâng cao vai trò của các trung tâm thương mại với sự hình thành và mở rộng thị trường ở nước ta trong thời gian tới, cần khắc phục những nguyên nhân cản trở hiệu quả hoạt động và phát triển của Trung tâm thương mại với các biện pháp sau: Thứ nhất, xây dựng và ban hành tiêu chuẩn hoặc thiết kế mẫu cho các loại hình trung tâm thương mại ở từng cấp, có quy mô, kết cấu công trình thích hợp với đặc thù của thị trường khu vực. Thứ hai, hướng dẫn xây dựng và thực hiện quy chế quản lý trung tâm thương mại phù hợp với mục đích hoạt động. Thứ ba, cần có sự thống nhất trong chỉ đạo để các cơ quan quản lý chức năng về thương mại ở Trung ương và địa phương là chủ đầu tư của các Trung tâm thương mại đảm bảo cho hiệu quả hoạt động của các Trung tâm thương mại. Thứ tư, nghiên cứu và xây dựng, áp dụng chính sách đầu tư của Nhà nước cho kết cấu hạ tầng thương mại, đảm bảo hỗ trợ nâng cao sức cạnh tranh cho thương nhân nước ta, góp phần thu hút đầu tư trong nước và ngoài nước vào sản xuất và thương mại. Thứ năm, xây dựng và thực hiện chính sách phát triển các hoạt động dịch vụ hỗ trợ kinh doanh. Đồng thời có kế hoạch đào tạo cho đội ngũ quản lý trung tâm thương mại. Nếu phát triển Trung tâm thương mại theo các hướng trên thì sẽ đáp ứng được đòi hỏi của các doanh nghiệp thương mại. 3.2.8. Thâm nhập sâu, hiệu quả vào từng thị trường nước ngoài. 3.2.8.1. Thị trường ASEAN. Tiến trình hội nhập khu vực ASEAN, cũng như hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu là bước đi rất yếu đối với Việt Nam. Tuy nhiên, do ở cùng một vị trí địa lý với các thành viên ASEAN, mặt hàng của Việt Nam vừa mang tính cạnh tranh lẫn nhau vừa mang tính bổ sung cho nhau, đồng thời Việt Nam lại đang ở xuất phát điểm của một nền kinh tế còn thấp kém so với các nước trong ASEAN. Vì vậy, hội nhập khu vực cũng như trong phát triển kinh tế môi trường, là thách thức lớn đối với Việt Nam. Đứng trước tình hình này đòi hỏi Việt Nam phải có những quyết định táo bạo trong chiến lược lựa chọn mặt hàng có tính cạnh tranh cao và không ngừng nâng cao khả năng cạnh tranh để tham gia xuất khẩu trong vùng là việc làm cấp bách. Việc nâng cao khả năng cạnh tranh của các mặt hàng Việt Nam có thế mạnh, đòi hỏi các nhà sản xuất kinh doanh và quản lý nước ta phải bám chắc vào những điều kiện hợp tác thương mại trong ASEAN, đó là: - Các nước thành viên phải có nghĩa vụ thực hiện các thỏa thuận ưu đãi thương mại. - Các nước thành viên phải có nghĩa vụ thực hiện Hiệp định về ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung đã được ký kết giữa các nước ASEAN năm 1992 để tiến tới thành lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN vào năm 2003. Như vậy bên cạnh công cụ chính để thực hiện AFTA là cắt giảm thuế quan trong nội bộ ASEAN xuống trung bình từ 0 - 5%, loại bỏ các rào cản thương mại và hợp tác trong lĩnh vực hải quan đóng vai trò quan trọng không thể tách rời khi xây dựng một khu vực thương mại tự do. Khi đề ra các chính sách trong kinh tế đối ngoại, Việt Nam luôn phải nắm chắc mục tiêu, kinh tế hình thành tạo nên AFTA. Tăng cường trao đổi buôn bán trong nội bộ khối thông qua việc loại bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế quan trong các nước ASEAN. Thực tế cho thấy thương mại giữa Việt Nam và ASEAN chiếm trên dưới 30% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam, trao đổi buôn bán hai chiều trong hai năm gần đây có chiều hướng giảm xuống, đặc biệt trong lĩnh vực nhập khẩu. Kết quả này, ngoài nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tiền tệ châu á vừa qua, còn phản ánh việc hầu hết nguồn sản phẩm chế tạo nằm ngoài ASEAN, nên kim ngạch thương mại chịu ảnh hưởng của AFTA không lớn. Các nước ASEAN hiện đang là các nước đang phát triển, trong một chừng mực nào đó có phụ thuộc rất nhiều vào đầu tư, công nghệ, bí quyết quản lý cua các nước phát triển và Việt Nam không nằm ngoài xu thế này. Thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào khu vực thông qua việc hình thành một khối thị trường chung thống nhất. Lợi ích quan trọng nhất của việc tham gia AFTA cũng như việc mở rộng không gian ASEAN là biến ASEAN thành một nền kinh tế lớn, liên kết chặt chẽ và giúp ASEAN khắc phục khủng hoảng và thu hút đầu tư nước ngoài. Thu hút đầu tư nước ngoài là mục tiêu trọng tâm của AFTA, lịch sử phát triển của Hiệp hội này cho thấy, ASEAN từng là khu vực đầu tư hấp dẫn nhất châu á đối với các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là đối với Nhật Bản vào cuối những năm 80. Những luồng vốn dồi dào này, đã góp một phần quyết định cho sự thành công của chiến lược hướng về xuất khẩu của các nước ASEAN. Nhưng sang thập kỷ 90, ASEAN không còn hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài như trước, nguồn vốn đầu tư nước ngoài giảm nhanh chóng, mặc dù chính sách mở cửa và ưu đãi các nhà đầu tư được đề ra trong ASEAN. Do vậy việc hình thành khu mậu dịch tự do ASEAN để tạo ra một cơ sở thống nhất cho ASEAN, từ đó cho phép hợp lý hóa sản xuất, chuyên môn hóa trong nội bộ khu vực, khai thác thế mạnh của các nền kinh tế khác nhau. Song song với việc thành lập khu vực thương mại tự do, ASEAN đã không ngừng mở rộng thị trường nội bộ (từ ASEAN 6 nay đã là ASEAN10, quy mô thị trường lên đến hơn 500 triệu dân). Để khu vực ASEAN hấp dẫn hơn, Việt Nam trong tiến trình hội nhập với khu vực cần có bước đi phù hợp với tinh thần của khu vực kinh tế này, tăng cường quy chế giám sát các nguồn vốn, đặc biệt là nguồn vốn ngắn hạn, khuyến khích sử dụng rộng rãi hơn các đồng tiền của các nước ASEAN trên cơ sở thanh toán tay đôi và tự nguyện, thúc đẩy hợp tác giữa Việt Nam với các nước, các tổ chức quốc tế, đẩy mạnh đầu tư và thương mại, đưa ra các biện pháp ngắn hạn, dài hạn nhằm cải thiện hơn nữa môi trường đầu tư và thương mại của Việt Nam. 3.2.8.2. Thị trường EU. Mặc dù quan hệ thương mại Việt Nam - EU đang phát triển nhanh và có triển vọng to lớn, nhưng thực trạng thương mại hiện nay gặp nhiều khó khăn, trở ngại và chưa tương xứng với tiềm năng kinh tế của hai bên. Trị giá thương mại Việt Nam - EU mới chiếm 0,12% tổng kim ngạch ngoại thương của EU và chiếm 13,48% tổng kim ngạch ngoại thương của Việt Nam. Nhìn chung, hàng xuất khẩu của Việt Nam vào EU còn nghèo nàn về chủng loại, chất lượng chưa cao, mẫu mã đơn sơ, còn tập trung vào một số mặt hàng như dệt may, giày dép, cà phê... So với các nước đang phát triển và mới phát triển ở châu á, hàng hóa Việt Nam xuất khẩu vào EU có lợi thế do đang được hưởng GSP, song khả năng cạnh tranh lại kém so với các nước Châu Phi, Thái Bình Dương và Caribê, cũng như một số nước Đông Âu, do các nước này được hưởng các ưu đãi thương mại riêng theo Công ước Lomé hoặc theo các hiệp định liên kết. Về phía chủ quan, nhìn chung các doanh nghiệp Việt Nam còn thiếu kinh nghiệm thương trường, kiến thức hiểu biết về luật lệ, văn hóa kinh doanh của thị trường EU còn hạn hẹp, việc tiếp thị nắm thông tin về kinh tế thị trường EU còn nhiều hạn chế. Các doanh nghiệp của ta vẫn làm ăn theo phong cách tùy tiện, manh mún, chưa phù hợp với truyền thống và tập quán kinh doanh châu Âu, ngay cả việc khai thác các lợi thế như: chế độ thuế GSP mà EU dành cho Việt Nam cũng chưa biết tận dụng một cách hiệu quả. Nhìn chung các doanh nghiệp của ta còn có ý thủ thế, chưa mạnh dạn khai thác các thế mạnh để tìm thế chủ động, thể hiện tính tiến công trong việc chinh phục, chiếm lĩnh thị trường EU. Mặt khác, Nhà nước cũng chưa có chính sách hỗ trợ một cách tích cực, hiệu quả trong việc giúp doanh nghiệp về thông tin kinh tế, xúc tiến thương mại, tìm kiếm thị trường, tiến hành cải cách hành chính cần thiết để giảm chi phí kinh doanh cho các doanh nghiệp, nghiên cứu giảm thuế các mặt hàng là nguyên liệu đầu vào để doanh nghiệp hạ giá thành sản xuất, đồng thời với việc hỗ trợ xuất khẩu, chính sách khuyến khích xuất khẩu... Bên cạnh đó, mặc dù Việt Nam đã có chính sách hội nhập kinh tế quốc tế tầm chiến lược, song chính sách trong ngắn hạn thường xuyên thay đổi, nhiều khi không nhất quán nên chưa tạo cho bạn hàng EU một lòng tin ổn định, yên tâm quan hệ làm ăn lâu dài với các doanh nghiệp Việt Nam. Triển vọng trong thời gian tới, từ nay đến năm 2004, xuất khẩu của Việt Nam sang EU vẫn có chiều hướng tốt do đây là khu vực kinh tế ổn định, ít biến động và EU vẫn đang dành cho Việt Nam chế độ ưu đãi thuế quan GSP (chỉ có hàng dệt may là quản lý bằng hạn ngạch). Tuy nhiên, căn cứ vào khả năng của Việt Nam thì tốc độ tăng xuất khẩu vào thị trường này vẫn chưa tương xứng (khoảng 15%/năm) và nhập khẩu từ EU cũng chỉ đạt mức 10%/năm. Do vậy trong thời gian tới, để có thể mở rộng khả năng xâm nhập thị trường EU, tranh thủ công nghệ nguồn vật tư, nguyên liệu, thiết bị, máy móc phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chúng ta cần phải tiến hành đồng bộ nhiều biện pháp ở tầm vĩ mô và vi mô. Đặc biệt cần nghiên cứu đề xuất chính sách thị trường thích hợp cho khu vực EU, nhằm mở rộng đẩy mạnh xuất khẩu của Việt Nam với EU, chủ động tiếp cận, thâm nhập thị trường, kết hợp giữa việc thu hút đầu tư của EU vào Việt Nam với việc phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam và EU nhằm nâng cao khả năng năng cạnh tranh của nguồn hàng xuất khẩu và của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế hoạt động thương mại trên thị trường này. Đối với các doanh nghiệp, Nhà nước cần hỗ trợ đẩy mạnh xúc tiến thương mại, cung cấp thông tin thị trường, giới thiệu luật lệ kinh doanh của EU và của từng nước trong khối, đồng thời thực hiện nhiều biện pháp hỗ trợ, khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh, xuất nhập khẩu với thị trường EU (hỗ trợ giá, quỹ khuyến khích xuất khẩu, thưởng xuất khẩu...) nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp Việt Nam có điều kiện xâm nhập đứng vững và phát triển tại thị trường này. 3.2.8.3. Thị trường Trung Quốc. + Những khó khăn còn ảnh hưởng tới buôn bán qua biên giới hai nước trong thời gian sắp tới. Thứ nhất, về các mặt tư tưởng, tâm lý và mức độ tín nhiệm trong buôn bán qua biên giới của cả hai bên chưa cao. Đôi bên còn sự chênh lệch lớn về chính sách buôn bán qua biên giới nên cũng tạo nên những ảnh hưởng bất lợi cho buôn bán qua biên giới cả đôi bên. Thứ hai, cho tới nay vẫn chưa ký được Hiệp định chính thức mà vẫn còn thi hành "Hiệp định tạm thời về việc xử lý những việc ở biên giới hai nước". Nên đã ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển buôn bán qua biên giới giữa hai nước Việt - Trung. Thứ ba, hiện nay hai bên tuy có "Ghi nhận hội đàm" chống buôn lậu, hay hiệp định hợp tác đảm bảo và chứng nhận lẫn nhau về hàng hóa xuất nhập khẩu nhưng vẫn không ngăn chặn nổi làn sóng: hàng giả, hàng rởm, hàng kém chất lượng vào Việt Nam, hoặc những mặt hàng quý hiếm, hàng cấm của Việt Nam vẫn xuất sang Trung Quốc. Thứ tư, cả hai bên đều có tình trạng thiếu hợp đồng giữa các xí nghiệp trong nước, gây nên tình trạng tranh mua, tranh bán với đối phương, tạo nên sự thiệt thòi cho phía mình. Thứ năm, mặc dù ngày 26/5/1993 Ngân hàng Trung ương của Việt Nam và Trung Quốc đã ký Hiệp định hợp tác thanh toán, theo đó mọi khoản thanh toán phải thông qua ngân hàng thương mại hai nước theo thông lệ quốc tế bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi. Nhưng thực tế từ mười năm nay buôn bán qua biên giới Việt - Trung, mặc dù thanh toán xuất nhập có sự chuyển biến, từ chỗ hoàn toàn tự phát theo phương thức "hàng đổi hàng", buôn bán trao tay, tiến tới ký hợp đồng, thanh toán qua ngân hàng, nhưng cho đến nay lượng thanh toán qua ngân hàng còn rất nhỏ, chỉ chiếm chưa đầy 5% tổng kim ngạch trao đổi hàng hóa của hai bên. Ngân hàng chưa làm được chức năng kiểm soát và kinh doanh tiền tệ. Thị trường chợ đen buôn bán tiền công khai ở các cửa khẩu biên giới hai nước vẫn hoành hành, hiện tượng lựa đảo, chiếm dụng vốn, lưu hành tiền giả ở các tỉnh biên giới diễn ra thường xuyên. Điều này đã ảnh hưởng xấu tới quan hệ buôn bán qua biên giới Việt Nam - Trung Quốc. Thứ sáu, quan hệ buôn bán Việt - Trung trong những năm gần đây tốc độ tăng trưởng giảm dần, và cứ đà giảm như vậy khó có thể thực hiện mục tiêu 2 tỷ USD buôn bán hai nước vào năm 2000 như các nhà lãnh đạo hai nước đề ra. Thứ bảy, trong buôn bán với Trung Quốc, phía Việt Nam luôn bị nhập siêu ở mức lớn, như: năm 1991 (10 triệu đô la), năm 1992 (40 triệu đô la), năm 1993 (160 triệu đô la), năm 1994 (150 triệu đô la), năm 1995 (390 triệu đô la), năm 1996 (530 triệu đô la), năm 1997 (720 triệu đô la). Thứ tám, trình độ khoa học kỹ thuật và phát triển kinh tế của Trung Quốc cao hơn Việt Nam, khiến cho tính bổ sung giữa hai bên tăng lên, nhưng mặt khác cũng gây nên ảnh hưởng bất lợi đối với hàng hóa Việt Nam muốn thâm nhập vào thị trường Trung Quốc. + Những điều kiện thuận lợi đối với buôn bán qua biên giới Việt Nam và Trung Quốc trong thời gian sắp tới. Thứ nhất, Việt Nam và Trung Quốc, núi liền núi, sông liền sông, có đường biên giới chung trên đất liền dài chừng 1350km chạy qua 6 tỉnh (31 huyện) của Việt Nam và hai tỉnh gồm 6 thành phố, địa khu, châu (14 huyện) của Trung Quốc. Trên biên giới chung của hai nước có 15 cửa khẩu (5 cửa khẩu quốc gia và 10 cửa khẩu cấp tỉnh). Số km biên giới chung của hai nước, cũng như số cửa khẩu các cấp đều nhiều hơn so với các nước Đông Nam á khác (Myanmar và Lào). Gần đây nhiều cửa khẩu như Đông Hưng - Móng Cái - Tân Thanh, Hà Khẩu - Lào Cai, đã có ý tưởng xây dựng thành những khu vực buôn bán tự do, đây là điều kiện hết sức thuận lợi cho buôn bán qua biên giới hai nước. Thứ hai, phát triển buôn bán qua biên giới Việt Nam và Trung Quốc không thể tách rời bối cảnh chung về quan hệ của hai nước, tháng 2/1999, Tổng bí thư hai nước, đã xác lập khuôn khổ mới cho hai nước Việt Nam và Trung Quốc theo phương châm 16 chữ: "láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai", phương châm này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho quan hệ hợp tác kinh tế hai nước trong tương lai, trong đó có buôn bán qua biên giới hai nước. Thứ ba, Trung Quốc và Việt Nam đều có trên 50 thành phần dân tộc khác nhau, trong đó có hơn một chục dân tộc sống ở cả hai bờ biên giới, đáng lưu ý là gần 1 triệu người Hoa đang sinh sống ở Việt Nam, sẽ là chiếc cầu nối tốt cho sự hợp tác kinh tế hai bên và sẽ góp phần không nhỏ vào việc thúc đẩy sự phát triển buôn bán qua biên giới hai nước trong thời gian tới. Thứ tư, Trung Quốc đất rộng (thứ ba thế giới), người đông (chiếm 1/5 nhân loại) và Việt Nam một nước vào cỡ lớn ở Đông Nam á, đây là hai thị trường còn tiềm tàng mà chưa khai thác hết, nó sẽ góp phần thúc đẩy hơn nữa vào việc buôn bán qua biên giới hai nước. Thứ năm, cả hai nước đều chú trọng xây dựng cơ sở hạ tầng ở vùng biên giới của hai bên, chú ý xây dựng môi trường phần cứng (đường, điện nước...), rà phá mìn, xây dựng các thành phố cửa khẩu biên giới. Đồng thời chú ý xây dựng môi trường phần mềm, hai nước đã ký kết 19 Hiệp định hợp tác kinh tế thương mại (trong tổng số 30 hiệp định và thỏa thuận đã được ký kết), đáng lưu ý là Hiệp định kinh tế buôn bán; Hiệp định tạm thời về việc xử lý những sự việc ở biên giới hai nước; Hiệp định hợp tác đảm bảo và chứng nhận lẫn nhau về hàng hóa xuất nhập khẩu; Ghi nhận hội đàm chống buôn lậu, Hiệp định về mua bán hàng hóa ở vùng biên giới giữa Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam và nước CHND Trung Hoa (năm 1998); Hiệp ước biên giới đất liền giữa nước vừa ký kết (30/12/1999). Những hiệp định trên đây là cơ sở hạ tầng được nâng cấp của hai bên sẽ góp phần tích cực vào việc thúc đẩy buôn bán qua biên giới giữa hai nước. Thứ sáu, theo dự kiến của một số nhà hoạch định chính sách, buôn bán hai chiều của Việt Nam - Trung Quốc dự kiến từ năm 2000 đến 2010 sẽ đạt mức tăng từ 8 - 15%. Nếu đạt được mức này thì mục tiêu năm 2000 đạt 2 tỷ USD là có khả năng đạt được, và mức buôn bán đôi bên còn tiếp tục phát triển hơn nữa. Thứ bảy, theo xu thế toàn cầu hóa và khu vực hóa ngày càng phát triển, với việc Việt Nam trở thành thành viên của khu vực buôn bán tự do ASEAN, AFTA, việc Trung Quốc sắp trở thành thành viên của Tổ chức mậu dịch thế giới (WTO); cả Việt Nam và Trung Quốc hiện là thành viên của tổ chức hợp tác kinh tế Châu á - Thái Bình Dương (APEC). Việc các cảng của Việt Nam (đặc biệt là Hải Phòng) trở thành cửa khẩu thông ra biển rất gần của khu vực Đại Tây Nam Trung Quốc, với việc khu mậu dịch tự do (Đông Hưng - Móng Cái, Bằng Tường - Đồng Đăng v.v...) thì mức buôn bán qua biên giới Việt - Trung có nhiều khả năng phát triển hơn nữa. Thứ tám, việc phát triển buôn bán qua biên giới hai nước trong lịch sử, 50 năm qua và đặc biệt là 10 năm sau khi bình thường hóa không ngừng tăng sẽ là cơ sở để buôn bán hai bên còn có khả năng phát triển hơn nữa. Thứ chín, dù cho buôn bán qua biên giới hai nước còn những khó khăn trở ngại, nhưng những điều kiện thuận lợi là cơ bản, với sự cố gắng của hai bên, tin rằng trong thế kỷ tới - thế kỷ châu á - Thái Bình Dương, tiềm năng buôn bán qua biên giới Việt - Trung còn phát triển hơn nữa. 3.2.8.4. Thị trường Mỹ. Tiếp tục củng cố mối quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ. Đây là điều kiện tiên quyết để hàng hóa Việt Nam có thể xâm nhập được vào Mỹ và thị trường thế giới. Trong điều kiện hiện nay, chính trị và kinh tế là vấn đề không thể tách biệt, vì vậy việc Việt Nam tiếp tục phát triển quan hệ như thế nào với Mỹ có ảnh hưởng trực tiếp và rõ nét đến hoạt động xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Mỹ. Hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận nhiều hơn và sâu hơn vào thị trường Mỹ. ở Mỹ, chỉ cần 300 USD là có thể thành lập được doanh nghiệp nên việc chọn được đối tác tin cậy là điều hết sức quan trọng đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Trong thời gian qua, do sự hiểu biết quá ít và thiếu thông tin về thị trường Mỹ, hoạt động xuất khẩu trực tiếp của các doanh nghiệp Việt Nam gặp nhiều khó khăn, trở ngại. Để thúc đẩy xuất khẩu sang Mỹ, Nhà nước phải có trách nhiệm cung cấp các thông tin và tổ chức hoạt động xúc tiến thương mại ở tầm vi mô. Một mặt, cần phải tổ chức nghiên cứu một cách nghiêm túc về thị trường Mỹ thông qua thành lập các viện nghiên cứu, thực hiện các chương trình tham quan để các doanh nghiệp hai nước có điều kiện tiếp xúc, trao đổi thông tin về khả năng hợp tác Chính phủ cần kết hợp với các công ty Mỹ hoặc Việt Kiều tổ chức các hệ thống trung tâm thương mại ở các thành phố lớn thuộc các bang khác nhau của Mỹ nhằm tạo cầu nối giảm chi phí giao dịch cho các công ty trong nước. Mặt khác, Chính phủ cần phối hợp với phía Hoa Kỳ tiếp tục tổ chức các cuộc tọa đàm, phổ biến chính sách, luật lệ thương mại của Mỹ, tổ chức triển lãm hàng hóa Việt Nam tại Mỹ, mở dịch vụ thông tin thương mại và lập hồ sơ về các công ty xuất nhập khẩu của Việt Nam và Mỹ, mở Websife giới thiệu hàng Việt Nam trên mạng Internet. Cải thiện môi trường đầu tư nhằm tăng cường thu hút FDI từ Mỹ. Khi các dự án FDI là của Mỹ thì chủ đầu tư nước ngoài sẽ là người Mỹ, hoặc ít nhất cũng có một chủ đầu là người Mỹ. Đó là người am hiểu thị trường Mỹ, luật pháp Mỹ và thông lệ kinh doanh ở Mỹ và do đó khi họ là đối tác xuất khẩu sang Mỹ, thì sẽ rất thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam. Từ phía các doanh nghiệp. - Chuẩn bị tốt về chiến lược mặt hàng xuất khẩu sang thị trường Mỹ. Các doanh nghiệp Việt Nam cần chuẩn bị cho Hiệp định thương mại Việt - Mỹ được thông qua và quy chế MFN có thể được áp dụng nhanh chóng. Mỗi doanh nghiệp cần sớm xây dựng một kế hoạch và chương trình xuất khẩu vào thị trường Mỹ. Nếu tỷ trọng xuất khẩu của Việt Nam chiếm được 1% thị trường nhập khẩu của Mỹ thì kim ngạch xuất khẩu sẽ tăng lên đến 10 tỷ USD/năm. Các mặt hàng giày dép, thủy sản, cà phê và rau quả là những mặt hàng xuất khẩu đầy triển vọng của Việt Nam. Bên cạnh đó, các mặt hàng như công nghệ phẩm, may mặc... đã vào được thị trường Mỹ qua gia công cũng có thể vào được thị trường Mỹ với kim ngạch lớn hơn rất nhiều khi nhận được MFN của Mỹ vì đây là những mặt hàng mà Việt Nam có nhiều nguồn lực nhưng đang vướng phải rào cản thuế quan phi MFN của Mỹ. - Tích cực tìm hiểu về thị trường Mỹ, thu nhập và xử lý tốt các thông tin để có các quyết định đúng khi thâm nhập vào thị trường Mỹ. Một trong những nguyên nhân hạn chế hàng hóa Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Mỹ là do thiếu thông tin và thiếu hiểu biết về thị trường này. Do đó, các doanh nghiệp Việt Nam nếu muốn xuất khẩu hàng hóa của mình vào thị trường Mỹ thì trước hết phải tìm hiểu thị hiếu của người Mỹ, thậm chí thị hiếu ở từng bang tìm hiểu môi trường pháp lý, tập quán buôn bán kiểu Mỹ để lựa chọn những mặt hàng mà Việt Nam có khả năng sản xuất để đáp ứng nhu cầu của thị trường Mỹ cả về số lượng, kiểu cách mẫu mã. Để có được các thông tin và hiểu biết về thị trường Mỹ, các doanh nghiệp phải có nhiều biện pháp khác nhau như sách báo, tham gia các cuộc hội thảo, hội chợ triển lãm, thuê chuyên gia tư vấn hoặc qua các tổ chức tư vấn đặc biệt qua Internet... - Nâng cao chất lượng sản phẩm và tăng cường quản lý chất lượng sản phẩm xuất khẩu. Do Hoa kỳ là một thị trường có nhu cầu nhiều hơn về sản phẩm chất lượng cao, vì vậy, các doanh nghiệp cần phải đầu tư đổi mới công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm thì hàng hóa Việt Nam mới có thể xâm nhập được vào thị trường Mỹ. Mặt khác, để xây dựng hình ảnh tốt của hàng hóa Việt Nam trên thị trường Mỹ, các doanh nghiệp cần tăng cường quản lý chất lượng sản phẩm theo các tiêu chuẩn ISO, 9000, 9001,14000... Có thể nói ISO là giấy thông hành để các doanh nghiệp Việt Nam có thể xuất khẩu hàng hóa vào thị trường Mỹ và để cạnh tranh thắng lợi trên đất Mỹ. - Tăng cường tham gia liên doanh liên kết vào các hiệp hội ngành hàng để hạn chế tình trạng hàng hóa Việt Nam bị ép giá trên thị trường Mỹ. - Nâng cao kỹ năng đàm phán với các doanh nhân Mỹ và nên mua bảo hiểm rủi ro khi xuất khẩu sang thị trường Mỹ. Đặc điểm nổi bật trong phong cách đàm phán của người Mỹ là đi thẳng vào vấn đề, bỏ qua các lời lẽ rườm rà để nhanh chóng định đoạt thương vụ. Vì vậy, khi đàm phán với các doanh nhân Mỹ, các doanh nghiệp Việt Nam cần chú ý những điểm sau: + Các doanh nghiệp Mỹ đều có bộ phận thu thập thông tin riêng và hoạt động quảng cáo bao giờ cũng đi trước khi định xâm nhập một thị trường mới. Vì vậy, doanh nghiệp Việt Nam phải chuẩn bị chu đáo, đầy đủ thông tin và kèm theo sản phẩm tốt của hãng mình khi đàm phán với Mỹ. + Doanh nghiệp nào ở Mỹ cũng có luật sư riêng vì hệ thống pháp luật của họ rất phức tạp, thậm chí mỗi bang lại có luật lệ riêng. + Người Mỹ thích thẳng thắn, nên khi thương lượng phải bằng mọi cách khai thông ngay vấn đề lợi nhuận. + Người Mỹ làm việc rất đúng giờ, đặc biệt rất chính xác trong các cuộc hẹn, nên vì bất cứ lý do gì phải chậm trễ, phải tìm mọi cách thông báo cho phía đối tác biết. + Khi đàm phán nên nói bằng tiếng Anh và tốt nhất là bằng tiếng Mỹ. + Người tiêu dùng Mỹ rất hay kiện cáo. Vì vậy, một trong những vấn đề cần quan tâm của luật pháp là bảo vệ người tiêu dùng Mỹ. Hầu hết các vụ kiện này có thể làm cho các doanh nghiệp tốn nhiều triệu USD. Để tránh những phiền thức và tốn kém các nhà xuất khẩu nên mua bảo hiểm rủi ro khi xuất khẩu hàng hóa vào thị trường này. 3.3. DỰ BÁO CUNG CẦU VÀ GIÁ CẢ MỘT SỐ MẶT HÀNG CHỦ YẾU ĐẾN 2010. Việc nghiên cứu cung cầu và giá cả của các mặt hàng sẽ giúp cho các doanh nghiệp thương mại đề ra những chiến lược kinh doanh đúng đắn để đạt hiệu quả cao trong kinh doanh. Quan hệ cung cầu và giá cả của các mặt hàng xuất nhập khẩu chủ lực chịu sự chi phối của nhiều yếu tố như tốc độ tăng trưởng kinh tế, tốc độ tăng trưởng thương mại và tăng thu nhập bình quân đầu người. Sau đây là một số dự báo về tình hình xuất nhập khẩu và biến động giá cả của một số hàng chủ yếu đến 2010. 3.3.1. Hàng nông sản. Trong những năm gần đây, tác động của cuộc khủng hoảng tài chính châu á đã gây ra suy thoái kinh tế ở Đông Nam á, khiến nhu cầu nông sản giảm sút khá mạnh, đặc biệt là các mặt hàng lương thực và thực phẩm. Tuy vậy, nhu cầu tăng nhẹ ở một số khu vực như châu Mỹ La Tinh, Bắc Phi và Trung Đông sẽ hạn chế phần nào xu hướng giảm giá này. Về mặt dài hạn, theo dự báo của tổ chức Lương - Nông thế giới (FAO), trong những năm đầu thập kỷ này, tiến bộ khoa học kỹ thuật sẽ tiếp tục được ứng dụng rộng rãi hơn thúc đẩy sản lượng nông nghiệp tăng, nhanh chóng đáp ứng được nhu cầu, do đó không gây sức ép làm tăng giá các mặt hàng nông sản. Trong thời kỳ 1994-2005, mức tăng sản lượng hoàn toàn phù hợp với mức tăng nhu cầu 2% năm, nhỉnh hơn đôi chút so với 1,7%/ năm thời kỳ 1984 - 1994. Cũng theo tổ chức FAO dự đoán, mức độ tăng buôn bán hàng nông nghiệp sẽ giảm nhẹ từ 2,5% giai đoạn 1984 - 1994 xuống còn 2,2%, giai đoạn 1994 - 2005 và xuống 2,0% giai đoạn 2006 - 2010. Tuy vậy, tình hình buôn bán nông sản thế giới có thể sáng sủa hơn ở các nước đang phát triển như Trung Quốc, Đông Nam á, Nam á, châu Mỹ La Tinh, Bắc Phi và Trung Đông do các khu vực này sẽ tăng trưởng mạnh mẽ hơn. Hơn nữa, thu nhập bình quân đầu người tăng nhanh khiến nhu cầu tăng thanh theo. Do đó các nước đang phát triển sẽ tiếp tục đóng vai trò quan trọng về mức tăng trưởng của nhu cầu các sản phẩm nông nghiệp. ở các nước công nghiệp phát triển, mức tiêu dùng cao hơn và có thể bão hòa đi đôi với tỷ lệ tăng dân số thấp sẽ làm giảm nhu cầu. Dự báo nhu cầu nông nghiệp của các nước đang phát triển sẽ đạt 162 tỷ USD vào 2005, chiếm 49% toàn thế giới so với 113,2 tỷ USD và 43% thời kỳ 1993 - 1995, và có thể sẽ vượt quá con số 200 tỷ USD vào 2010. 3.3.1.1. Mặt hàng gạo. Theo Bộ Nông nghiệp Mỹ, nhu cầu gạo bình quân đầu người sẽ có xu hướng giảm ở một số nước châu á có thu nhập tăng nhanh, khả năng cung cấp gạo chất lượng cao sẽ giảm, do đó cầu sẽ lớn hơn cung trên thị trường gạo phẩm chất cao, nên giá loại gạo này sẽ tăng mạnh. Dự báo nhu cầu nhập gạo của Nhật Bản vào 2009 sẽ là 729 nghìn tấn; của Hàn Quốc là 205 nghìn tấn. Trái lại, nhu cầu gạo phẩm chất thấp sẽ giảm nếu không có những đột biến về thiên tai hoặc khủng hoảng kinh tế. Tuy vậy, chiều hướng này cũng có thể được cải thiện đôi chút khi nhu cầu gạo phẩm chất thấp cho chăn nuôi tăng lên. Cũng theo dự báo của Bộ Nông nghiệp Mỹ, các nước xuất khẩu gạo chính trên thế giới vẫn là Thái Lan, Việt Nam, Mỹ và ấn Độ. Thái Lan sẽ vẫn tiếp tục dẫn đầu, song sẽ phải nhường bớt thị phần xuất khẩu gạo cho Việt Nam. Một số nước và khu vực như Pakitstan, Myanma; Campuchia và các nước Mỹ La Tinh sẽ tăng xuất khẩu gạo, trái lại Mỹ và ấn Độ sẽ giảm xuất khẩu gạo, Trung Quốc sẽ tiếp tục xuất khẩu song khối lượng giảm. 3.3.1.2. Mặt hàng dừa. Giá mặt hàng này được dự đoán là sẽ tăng khoảng 22% vào năm 2002 so với mức của nam 2000; đến 2005 giá thực tế của dừa được dự đoán tăng 45% so với mức năm 2000 và sẽ không thay đổi cho tới tận 2010. 3.3.1.3. Mặt hàng cà phê. Theo dự báo của FAO, sản lượng cà phê sẽ tăng mạnh nhất ở châu á với tốc độ bình quân 3,34%/năm giai đoạn 1999 - 2009. Dự kiến vào năm 2005, sản lượng cà phê châu á đạt 1,36 triệu tấn và khoảng 1,9 triệu tấn vào năm 2009, trong đó tốc độ tăng sản lượng của Việt Nam là 8%/năm, ấn Độ 9%/năm và Inđônexia 1%/năm... Đồng thời FAO cũng cho rằng, thị trường cà phê giới có xu hướng cung cao hơn cầu, do vậy giá cà phê khó có thể tăng lên. Ngân hàng thế giới dự báo, giá cà phê chè sẽ là khoảng 2540 USD/tấn và cà phê vối khoảng 1860 USD/tấn vào năm 2009. 3.3.1.4. Mặt hàng chè. Mức tiêu thụ chè của thế giới được dự báo về tăng cũng khoảng 2,8%/năm, đạt 2,67 triệu tấn vào 2005 và khoảng 3 triệu tấn vào 2009. Nhu cầu chè của các nước đang phát triển được dự báo tăng 3%/năm; tiêu thụ chè tại ấn Độ tăng 3,2%/năm; các nước như Paskitan, I ran, Ai Cập tiêu thụ chè tăng tương ứng là 160, 122 và 90 ngàn tấn/năm. Tiêu thụ chè tại các nước công nghiệp phát triển tăng khoảng 2,2%/năm, song Anh lại giảm; nhu cầu chè của Mỹ sẽ tăng dưới 1%/năm. Trong khi đó nhu cầu tiêu thụ chè ở các nước thuộc Liên Xô cũ sẽ tăng khá cao, 4,5%/năm. 3.3.1.5. Mặt hàng gỗ. Buôn bán gỗ ván toàn cầu sẽ tăng bình quân 0,96%/năm trong giai đoạn 1992 - 2010, đạt 29,35 triệu m3 và 2010. Indonexia - nước xuất khẩu gỗ ván lớn nhất thế giới hiện nay, được dự báo sẽ tiếp tục tăng xuất khẩu và đạt 10,2 triệu m3; Canada cũng tăng mạnh xuất khẩu lên 4,85 triệu m3; trong khi Malaixia và Mỹ sẽ giảm xuất khẩu. Các nước châu Âu sẽ giảm mạnh nhập khẩu còn 2,86 triệu m3 do sản xuất tăng; Nhật Bản giảm nhập khẩu 1,5 lần; trong khi Mỹ sẽ tăng mạnh nhập khẩu lên 7,08 triệu m3 vào 2010. Trung Quốc sẽ tăng mạnh nhập khẩu gỗ ván và thay thế vị trí nước nhập khẩu lớn nhất Châu á của Nhật Bản. Theo dự báo của FAO, Trung Quốc sẽ nhập khẩu 6,37 triệu m3 vào năm 2010. 3.3.2. Nhóm hàng nguyên liệu thô. Theo đánh giá chung của WB, IMF và một số tổ chức khác thì nhìn chung giá nguyên liệu thô có xu hướng vững lên trong thời kỳ 2001 - 2010 do trữ lượng của các nguyên liệu thô, năng lượng giảm; hơn nữa sự phát triển của ngành khoa học vật liệu mới cũng chưa tạo ra nhiều nguyên liệu, nhiên liệu và phụ gia thay thế... Về các con số cụ thể về sản lượng, khối lượng và tốc độ tăng xuất nhập khẩu hàng năm cho tới 2010 không có, nên chúng tôi không thể đưa ra được một con số cụ thể về giá của nhóm hàng này. Chúng tôi sẽ chỉ tập trung vào hai mặt hàng quan trọng mà hiện cũng đang chiếm tỷ trọng lớn trong kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam là than và dầu mỏ. 3.3.3 Nhóm hàng năng lượng. 3.3.3.1. Mặt hàng dầu mỏ. Theo dự báo của Ngân hàng Thế giới (WB), nhu cầu dầu mỏ được dự đoán sẽ tăng lên tới 88 triệu thùng/ngày vào năm 2010, tăng hơn 20 triệu thùng/ngày hay 1,6% so với năm 1994, so với mức tăng chỉ có 4 triệu thùng/ngày hay 0,4% 16 năm trước. Nhu cầu dầu mỏ ở các nước thuộc Liên Xô và Đông Âu cũ tăng vừa phải; với phần còn lại của thế giới, nhu cầu dầu mỏ tăng 2,5%/năm. Có nhiều nhân tố đóng vai trò quan trọng duy trì tốc độ tăng nhu cầu dầu mỏ ở mức vừa phải như các kỹ thuật mới. Hiệu quả được nâng cao, trợ cấp đối với khí ga, các nhiên liệu vận tải thay thế, trợ cấp được hủy bỏ, và các vấn đề về môi trường như chất lượng không khí, khí thải CO2... Khoảng 80% nhu cầu dầu mỏ của các nước không phải thành viên OECD tăng được dự báo là ở châu á. Nhu cầu dầu mỏ tăng chủ yếu do nhu cầu nhiên liệu cho vận tải tăng... Tốc độ tăng nhu cầu dầu mỏ ở một số khu vực như sau: Bắc Mỹ tăng 0,5%/năm từ 2001 - 2010, châu Âu tăng dưới 0,5%/năm, các nước OECD khu vực Thái Bình Dương tăng dưới 1%; các nước đang phát triển tăng khoảng 4%/năm trong đó Trung Quốc sẽ tăng 5%/năm; các khu vực còn lại như Mỹ La Tinh, Châu Phi, Trung Đông, Liên Xô cũ... được dự báo sẽ tăng từ 2-2,5% trong cùng thời kỳ này. 3.3.3.2. Mặt hàng than. Theo dự báo đến 2010, nhu cầu tiêu thụ than của thế giới sẽ tăng 48% so với năm 1995, đạt tới 6,9 tỷ tấn. Trong thời kỳ này, nhu cầu tiêu thụ than sẽ có thay đổi đáng kể ở một số khu vực: ở châu Âu giảm 30%; trái lại ở các châu lực khác lại tăng lên, đặc biệt ở các nước đang phát triển sẽ tăng kỷ lục 2,1 lần, đạt 6,865 tỷ tấn vào 2030, châu á được dự báo sẽ là khu vực tiêu thụ than lớn nhất thế giới, chủ yếu là than năng lượng cho sản xuất điện. Trong vòng hai thập kỷ tới Nhật Bản cũng vẫn còn phụ thuộc khá nhiều vào than do mức tiêu thụ sẽ tăng 13%/năm từ 131 triệu tấn năm 1996 lên 156 triệu tấn năm 2020. Trong giai đoạn này, Nhật Bản dự kiến sẽ xây dựng thêm các nhà máy điện thế hệ mới với công suất 20 - 24GW. Tiêu thụ than của Hàn Quốc sẽ tăng gần 55%, từ 53 triệu tấn 1995 lên 82 triệu tấn năm 2020. Nhu cầu tiêu thụ than của Trung Quốc, ấn Độ được dự báo sẽ tăng mạnh để đáp ứng nhu cầu điện năng phục vụ phát triển kinh tế. Dự báo tới 2020, Trung Quốc sẽ xây dựng thêm các nhà máy điện chạy bằng than với công suất 220GW, còn ấn Độ là 60GW. 3.3.4. Hàng thủy sản. Đây là ngành hàng xuất khẩu mà Việt Nam có tiềm năng phát triển cả về tăng sản lượng đánh bắt và nuôi trồng. Ngành này luôn duy trì được tốc độ tăng xuất khẩu khá cao, khoảng 22-23%/năm và đã đạt kim ngạch 982 triệu USD năm 1999 và đã vượt qua ngưỡng 1 tỷ USD năm 2000. Trong thời gian từ 2001 - 2010, buôn bán thủy sản thế giới sẽ tiếp tục tăng lên do nhu cầu về thủy sản tăng nên phạm vi toàn cầu. Các nước và khu vực tiêu thụ thủy sản lớn nhất đóng vai trò chi phối thị trường thủy sản thế giới được dự báo sẽ tiếp tục là Nhật Bản, Mỹ và EU. Một số nước tiêu thụ lớn trong khu vực gồm Trung Quốc, Hàn Quốc, Hồng Kông, Singapore, Đài Loan, Malaixia. Riêng Trung Quốc sẽ nhập khẩu bình quân hơn 1 tỷ USD thủy sản mỗi năm trong những năm tới. 3.3.5. Hàng dệt may và giày dép. Đây là một trong những ngành hàng có đóng góp lớn vào kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Ngành hàng này lại còn tận dụng được lợi thế lao động nhiều và rẻ của Việt Nam. Chẳng hạn năm 1999, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đạt 1,682 tỷ USD chiếm 16% tổng kim ngạch xuất khẩu; mặt hàng giày dép đạt 1,406 tỷ USD. Vì đây là những nhóm ngành hàng chúng ta có lợi thế, do vậy cần thúc đẩy mạnh mẽ hai ngành này phát triển. Các mặt hàng này trong vòng 10 năm tới sẽ có xu hướng giảm nhẹ giá do việc Trung Quốc sẽ tham gia vào WTO và được hưởng thuế suất ưu đãi, do đó xuất khẩu của Trung Quốc sẽ tăng mạnh. Bên cạnh đó nhiều quốc gia đang phát triển có lợi thế lao động rẻ cũng sẽ tham gia vào việc sản xuất, gia công và cung ứng các mặt hàng này. Nhu cầu đối với mặt hàng dệt may và giày da bình dân thì tăng tương đối nhẹ, song đối với các mặt hàng mẫu mốt, chất lượng cao sẽ tăng do thu nhập bình quân đầu người tăng. Và tất nhiên giá cả hàng cao cấp cũng sẽ tăng cao nhằm phục vụ cho tầng lớp trung lưu và người có thu nhập cao ở các nước phát triển. 3.3.6. Các mặt hàng đã qua chế biến. Mục tiêu và quan điểm phát triển cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam trong những năm tới là tăng tỷ trọng hàng chế biến xuất khẩu, giảm tỷ trọng nguyên liệu, nhiên liệu, hàng sơ chế trong xuất khẩu. Bởi vì, các giá cả, các mặt hàng thô, sơ chế thường hay biến động trên thị trường thế giới, do đó thu từ xuất khẩu các mặt hàng này cũng không ổn định. Hơn nữa, giá của các mặt hàng sơ chế, chưa qua chế biến có xu hướng giảm. Các mặt hàng chế biến sẽ có xu hướng tăng giá. Tất nhiên, giá cao bao nhiêu còn tùy thuộc vào hàm lượng vốn, công nghệ và tri thức chiếm trong hàng hóa đó. Do đó, giảm tỷ trọng sản phẩm thô và sơ chế phải đi liền với đa đạng hóa các mặt hàng chế biến xuất khẩu, chú ý xây dựng và phát triển một số ngành hàng mà chúng ta có tiềm năng thành các ngành hàng mũi nhọn xuất khẩu như điện tử và linh kiện máy tính, phần mềm, thủ công mỹ nghệ, rau quả v.v... Đây là những mặt hàng mà nhu cầu sẽ rất lớn, và do đó giá cả sẽ có chiều hướng tăng trong giai đoạn 2001 - 2010. 3.3.7. Mặt hàng phân bón. Giá cả mỗi loại hàng phân bón biến động rất khác nhau trong mấy năm vừa qua. Giá phân bón hóa học Nitơ giảm từ mức hơn 200 USD/tân xuống còn gần 60USD/tấn, trong khi đó phân bón phốt phát chỉ giảm 20%, còn phân bón kali lại tăng giá. Giá phân bón Nitơ đã phục hồi và tăng gần 45% vào năm 2000 so với năm 1999, do các nhà sản xuất ở châu Âu và Mỹ cắt giảm sản xuất. Tuy nhiên sự phục hồi của giá cả còn rất mỏng manh khi mà ngành công nghiệp này đang phải đối mặt với sự dư thừa công suất và cạnh tranh xuất khẩu gay gắt. Giá gạo thấp đã khiến cho cầu giảm và cản trở quá trình phục hồi, vì hơn 50% phân bón nitơ được dùng để sản xuất lúa gạo. Theo dự báo của WB giá phân bón u-rê sẽ tăng khoảng 55% vào năm 2010 so với năm 1999, song vẫn thấp hơn 30% mức cao của năm 1996. Dự báo giá phân bón phốt phát sẽ tăng 7% vào năm 2000. Giá danh nghĩa sẽ tăng khoảng hơn 7% vào năm 2005 do giá lúa gạo trên thế giới tăng sẽ kích cầu phân bón phốt phát. Vào năm 2010, giá cả thực tế của phân bón phốt phát sẽ giảm khoảng 5% so với mức năm 2000 do năng lực sản xuất mới đã bắt đầu phát huy tác dụng. Giá danh nghĩa phân bón kali được dự báo là sẽ tăng 1% vào năm 2005 và sau đó tương đối ổn định cho tới tận cuối thập kỷ. Tuy vậy, giá cả thực tế được dự báo là sẽ giảm vào năm 2010 khoảng 19% so với mức của năm 2000. 3.3.8. Kim loại. Chỉ số giá danh nghĩa kimloại và khoáng sản của WB đã tăng khoảng 27% so với mức thấp hồi đầu năm 1999, do sản xuất bị cắt giảm trong khi nhu cầu tăng nhanh. Tuy vậy chỉ số giá danh nghĩa tăng chỉ tập trung vào một số hàng hóa như giá Niken tăng gấp đôi, giá nhôm tăng 30% và đồng tăng 40%, trong khi giá các kim loại khác lại không tăng do cung dư thừa và cầu yếu kém. Giá thiếc tăng nhẹ, trong khi đó giá vàng và bạc hầu như không thay đổi kể từ đầu năm 1998. Giá chì giảm do cầu yếu. Tuy nhiên giá của nhiều kim loại sẽ tăng khi quá trình phục hồi kinh tế mạnh mẽ diễn ra. 3.3.9. Các mặt hàng có hàm lượng vốn và công nghệ cao. Tỷ trọng của các ngành công nghệ cao trong tổng giá trị công nghiệp chế biến và giá trị xuất khẩu của các ngành công nghệ cao đang tăng. Thí dụ mức tăng tỷ trọng của công nghệ cao trong tổng giá trị của công nghiệp chế biến nếu xét trong thời kỳ 1970 - 1994 của Hoa Kỳ đã tăng từ 18,2% lên 24,2%, của Nhật Bản là 16,4% lên 22,2%, của Đức là 15,3% lên 20,1%. Cùng với nó mức tăng xuất khẩu trong các ngành công nghiệp cao cũng tăng nhanh. Của Hoa Kỳ tăng từ 25,9% lên 37,3%, của Nhật Bản từ 20,2% lên 36,7%, của Đức và Anh tăng từ 17,1% lên 36,2%. Trong khi thương mại hàng hóa đang có xu hướng giảm xuống thì thương mại dịch vụ tăng nhanh. Xuất khẩu thương mại dịch vụ năm 1996 đạt 1200 tỷ USD vào năm 1996, chiếm tỷ trọng 205 thương mại toàn cầu. Mức tăng trưởng hàng năm thời kỳ 1985 - 1996 là 12,5% so với mức tăng xuất khẩu hàng hóa năm chỉ là 9,5%. Trong thập kỷ tới, dịch vụ viễn thông, và thương mại điện tử sẽ có mức tăng trưởng cao nhờ ba yếu tố: tiến bộ của công nghệ thông tin và truyền thông, sự cạnh tranh gay gắt về cung cấp các dịch vụ, sự tự do hóa thương mại trong khuôn khổ Hiệp định chung về Thương mại và dịch vụ. Theo dự báo của công ty nghiên cứu thị trường Forrester của Mỹ, thương mại điện tử toàn cầu năm 2001 sẽ đạt 6900 tỷ USD, trong đó, Hoa Kỳ chiếm một nửa, Tây Âu chiếm 1600 tỷ USD và khu vực châu á - Thái Bình Dương chiếm 1500 tỷ USD. KẾT LUẬN Sự chuyển đổi nền kinh tế từ chế độ tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần phát triển theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước hướng theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã tạo nên những đặc trưng cơ bản của thị trường hàng hóa của doanh nghiệp thương mại nước ta. Thị trường hàng hóa của doanh nghiệp thương mại bao gồm thị trường hàng, thị trường bán hàng có vai trò quan trọng quyết định sự sống còn đối với doanh nghiệp thương mại. Thị trường hàng hóa của doanh nghiệp thương mại nước ta trong những năm vừa qua đã rất phát triển và đạt được những thành tựu to lớn cả về quy mô và hiệu quả của cả thị trường trong nước và cả thị trường ngoài nước. Những thành tựu đó là: tăng tổng mức lưu chuyển hàng hóa, các loại hình dịch vụ gắn với lưu thông hàng hóa phát triển, thị trường xuất nhập khẩu được mở rộng theo hương đa phương hóa, đa dạng hóa... Những thành tựu đó góp phần vào sự phát triển của thương mại nước ta, tạo thế và lực để thương mại nước ta bước vào thế kỷ 21. Tuy nhiên phát triển thị trường hàng hóa của doanh nghiệp thương mại nước ta trong những năm qua còn có một số hạn chế cần khắc phục như: khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam còn thấp, các doanh nghiệp thương mại chưa làm tốt hướng dẫn tiêu dùng và tổ chức thông tin thị trường để định hướng cho sản xuất, thị trường nước ngoài mới phát triển được bề rộng, chưa phát triển được bề sâu, tình hình buôn lậu, gian lận thương mại gia tăng, khung pháp lý chưa phù hợp... Để phát triển thị trường hàng hóa của doanh nghiệp thương mại nước ta trong thời gian tới với mục tiêu thúc đẩy thương mại Việt Nam phát triển, nâng cao hiệu quả kinh doanh cho các doanh nghiệp thương mại, tăng mức hưởng thụ của người dân... thì cần phải thực hiện những biện pháp như nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam, tổ chức mạng lưới thu mua hợp lý, đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường và xúc tiến thương mại, hạn chế rủi ro trong kinh doanh, hoàn thiện hệ thống pháp luật, phát triển các trung tâm thương mại... Nếu thực hiện tốt các biện pháp đó thì sẽ hạn chế, khắc phục được những mặt còn tồn tại, thúc đẩy sự phát triển thị trường hàng hóa của doanh nghiệp thương mại Việt Nam trong những năm tới. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình Kinh tế thương mại - PGS.TS Đặng Đình Đào - NXB Thống kê năm 2001. 2. Giáo trình Quản trị doanh nghiệp thương mại - PGS.TS Hoàng Minh Đường - NXB Giáo dục năm 1998. 3. Kinh tế đối ngoại - Võ Thanh Thu - NXB Thống kê. 4. Luật thương mại - NXB Chính trị quốc gia năm 1997. 5. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. 6. Niên giám thống kê 2000 - NXB Thống kê. 7. Tạp chí Kinh tế và phát triển số 51 tháng 9/2001. 8. Tạp chí Kinh tế và phát triển số 52 tháng 10/2001. 9. Tạp chí Kinh tế và phát triển số 57 năm 2002. 10. Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc số 1/2000. 11. Tạp chí Những vấn đề Kinh tế thế giới số 2 (70) 2001. 12. Tạp chí Những vấn đề Kinh tế thế giới số 5 (73) 2001. 13. Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu số 42 tháng 6/2001. 14. Tạp chí Thương mại số 11 năm 2001. 15. Tạp chí Thương mại số 17 năm 2001. 16. Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 126/2000. 17. Tạp chí thị trường giá cả số 10 năm 2000. 18. Tạp chí Thương nghiệp - thị trường số tháng 5/2002. Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc8310.doc
Tài liệu liên quan